Cham Blogs
0
Rating
164
views
0
Likes
14
Comments
Vì bài viết quá dài nên chúng tôi trích gửi đến trang nhà Nguoicham để cho độc giả tham khảo và thảo luận. Minh định lại thành quả chuẩn hóa của 19 vị tiền bối trong Ban Biên Soạn Sách Chữ Cham tỉnh Thuận Hải, trong vòng 12 năm trường thí điểm, bàn bạc hội thảo và biểu quyết của đồng bào (1978-1990), và đã ổn định cho đến năm 2006. Chương trình Chuẩn hóa đó hiện vẫn đang dạy cho trên 10 ngàn học sinh tiểu học hằng năm tại hai tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận. Thông qua việc đánh giá sự ngộ nhận của Hội thảo Kuala Lumpur cùng định hướng thái độ của cộng đồng trong việc bảo tồn và phát triển tiếng Cham. Xin xem trong attach file. Đua phôl biak ralô, Can Quang,2 Sự Thật Về Hội Thảo Kuala Lumpur và Akhar Thrah Cham TS Quang Can Để góp phần làm sáng tỏ vấn đề gây nhiều tranh cải không cần thiết về Akhar Thrah (AT) Cham sau 2006. Xin được chia sẻ thông tin liên quan mà lẽ ra đã đến bạn đọc ngay sau Hội Thảo Kuala Lumpur (HTKL). Sự thật cần được phơi bày cho công chúng và giới quan tâm chứ không thể giử cho riêng mình vì muốn tránh tranh cải hay làm đau một hai người nào đó liên quan đến vụ việc. Đã đến lúc cần phải hiểu rõ và khép lại câu chuyện ngộ nhận về Chuẩn Hóa Chính Tả AT Cham lần đầu tiên trong lịch sử ngôn ngữ chữ viết Cham của Ban Biên Soạn Sách Chữ Chăm tỉnh Thuận Hải (BBSSCC).
Hiểu rõ sự thật về HTKL, một hội thảo quốc tế đầu tiên quy tụ hầu hết các trí thức hàng đầu của Cham bàn về Tiếng Cham, chữ Cham rất hoành tráng, quy mô và long trọng. Thế nhưng lợi ích đem lại như thế nào thì chúng ta đã thấy. Chính phủ Việt Nam cũng như cộng đồng không thể làm theo kết luận của HTKL được. Tại sao như vậy, bằng kiến thức và kinh nghiệm trong nghiên cứu ngôn ngữ và hồi sinh các ngôn ngữ có nguy cơ bị tiêu vong, xin được vào thẳng vấn đề. Dù sao đi nữa cũng xin bày tỏ lòng biết ơn tiền nhân Cham đã cố làm theo khả năng của mình vì tiếng Cham, cả các vị trong BBSSCC và HTKL.
Cũng là bài học lớn cho hậu thế suy gẫm và bước tiếp, những bước phát triển an hoà và bền vững hơn. I. Nguyên nhân của sự ngộ nhận: 1. Tư liệu nghiên cứu không đầy đủ: Po Dharma và HTKL ngộ nhận rằng mẫu mực cho Akhar Tharh chỉ có trong tư liệu Hoàng Gia Champa (1702- 1850). Gồm những bản ghi chép công việc hành chánh của triều đình Champa-Panduranga và chưa được công bố (Kỉ yếu HTKL, 2007). Trong khi phần lớn AT đang sử dụng trong dân, và các từ điển Cham trước 1978, nhất là từ điển Cham Francais của AC 1906 bao trùm hầu hết các kiểu viết AT của Champa (Campuchia và Việt Nam) không được HTKL xem xét.
Ngôn ngữ là dòng chảy liên tục của phương tiện giao tiếp luôn tiếp biến và kế thừa cho phù hợp với sự phát triển văn hóa và kinh tế của một cộng đồng, dân tộc (Nguyễn, T. G., 1998). 2. Hạn chế về cơ sở lý luận: Ưu điểm: HTKL đã nhìn ra vấn đề ngắn, dài là cơ bản và “rất quan trọng”. Cách dùng baluw theo Po Dharma: “KHÔNG BALUW DÀNH CHO ÂM TRẮC [NGẮN], CÓ BALUW DÀNH CHO ÂM TRẦM [DÀI].” (Po D., 2007b, tr. 13) Ông cho rằng nhiều âm dài được viết không có baluw là “cách viết không nghiêm túc… người học phải chú ý phân biệt cách phát âm” (Sđd, tr. 13).
Hạn chế: Vài nhầm lẫn trong HTKL quy vào các điểm sau: (a) Nhầm lẫn thuật ngữ, âm tố, hậu tố, và “không biết đọc”; (b) Nhầm lẫn thuật ngữ trắc, trầm, cao; (c) Nhầm lẫn các hiện tượng ngôn ngữ, ngắn dài; (d) Nhầm lẫn biến âm gây khu biệt nghĩa và biến thể tự do. (a) Nhầm lẫn thuật ngữ âm tố, hậu tố, và “không biết đọc”: Âm tố (sound, phoneme): là đơn vị ngữ âm nhỏ nhất, yếu tố cụ thể của một âm vị. Thế nhưng ông thường viết: “âm tố (phonème) «[aok]» chứa đựng ba âm…” (Po D., 2007b, tr. 16) “…biến âm tố (phoneme) “[ak], [uk]” từ âm trắc[ngắn] ra âm trầm [dài],” (Sđd, tr. 9), “…âm tố (phoneme) [ak], [uk], [ek] trong Akhar Thrah Cham,” (Sđd, tr. 12), “âm tố “[aong]” … “[aik]”…này luôn chứa đựng… âm trắc [ngắn] và trầm [dài]…” (Sđd, tr. 16). Lẽ ra ông nên dùng ÂM TIẾT (syllable) hay vần để mô tả tổ hợp (nhiều hơn một âm vị) đó thì ổn hơn. Hậu tố (suffix): là phụ tố (hình vị phụ thuộc) có nghĩa đi liền sau một căn tố, ví dụ như hậu tố tiếng Anh “er”, có nghĩa là “tác nhân”, nếu đi với work, thì thành worker “công nhân”, đi với read thì thành reader “người đọc”.
Tiếng Pháp “able”, nghĩa là “qui peut être” trong từ “administrable, secourable”. Ông viết: “Tiếng Chăm cổ có qui luật rất rõ ràng về cách dùng baluw trên âm tố (phonème) (a) và (u) + phụ âm k tức là ak, uk ở hậu tố” (Sđd, tr. 9) và: “Chế biến paoh gak ở hậu tố.” (Sđd, tr. 23). Vậy hậu tố Cham, mà Po Dharma đề cập, là gì, mang nghĩa gì, và xin cho vài ví dụ về hậu tố Cham? Không biết đọc như thế nào: Ông cũng viết: “Vì âm tố [ao] trong craoh aw phát xuất từ ký hiệu dar tha = «ô» mà ra. Nếu bỏ craoh aw thì còn lại là dar tha đọc là «ô». Nhưng nếu bỏ dar tha tức là «ô», thì craoh aw không có giá trị nữa và không biết đọc như thế nào.” (Sđd, tr. 9). Croh aw không darsa có trong hơn 100 mục từ trong từ điển Cham Francais AC 1906, và nếu có trong Hoàng Gia Champa, hay văn bản cổ sẽ cho là viết sai vì Po Dharma “không biết đọc như thế nào” (Sđd, tr. 9). (b) Nhầm lẫn thuật ngữ trắc, trầm, cao: Âm trầm (thấp) đối nghịch với phù (cao) là hai khái niệm liên quan tới âm vực. Âm trắc (sắc, hỏi ngã, nặng) đối nghịch với bằng (bình) (ngang, huyền) liên quan đến âm điệu, là “điệu vị” yếu tố âm vị siêu đoạn tính (suprasegmental phoneme) không liên quan gì đến khu biệt nghĩa ngắn, dài của nguyên âm- âm vị đoạn tính (segmental phoneme) của Cham (Đoàn T. T., 1977; Nguyễn T. C., 1995). Po Dharma (2007b) “tạm gọi” tên âm mới /cōk/ “tên thôn Hiếu Lễ” âm (trầm) dài, /cok/ “khóc” âm (trắc) ngắn, /cog/ “bóc” âm cao, vần có phụ âm tắc thanh hầu (glottal stops) Po Dharma cho là âm cao. Thế thì xin hỏi Po Dharma, cũng vần “ok” trong /kanjōg/, âm /ōg/ gọi là âm gì? Và nhiều nữa như (1) vần “ak” có /ak/: âm ngắn, /āk/: âm dài, /ag/ âm cao, còn /āg/ trong /katāg/ là âm gì? (2) Vần “ap” đọc là /ap/, /āp/, /ơp/ và /ơơp/ là âm gì? Ông mô tả là âm cao /og/ trong /cog/ “bóc” của vần “ok” có phụ âm tắc thanh hầu (glottal stop), thật ra đó chính là âm ngắn, và /ōg/ trong /kanjōg/ “[gà] gáy” mới là âm dài (đọc khác nhau do sự dài gấp đôi của nguyên âm giữa). Một cặp ngắn dài tạo ra do phụ âm cuối tắc ngạt cứng “k” biến thành tắc thanh hầu “g”. Ông cũng không hiểu được tại sao có poh gak như ông thú nhận: “người ta không cần chế biến paoh gak để chỉ định cho «âm trắc [ngắn]» cho một số từ như /jag/ «khôn ngoan», /luk/ «tha tẩm», /cơk/ «núi», v.v. mà Ban Biên Soạn tiếng Chăm đã đề nghị.” (Sđd, tr. 13). Tại điểm này ông đánh giá các âm đó là ngắn là đúng, nhưng cho rằng BBSSCC đề nghị có poh gak thì chỉ đúng cho /jag/ (đúng 1/3 điểm). Hai trường hợp sau, vì từ /luk/ và /cơk/ chỉ có âm tố cuối là tắc ngạt cứng (palatal stop) /k/. Poh gak là âm tố tắc thanh hầu (glottal stops) /g/ có ở các từ sau: /xug/ “thứ Sáu”, /lag/ “rượu”, /cagag/ “cây sà gạt”, /kalug/ “lõm”, /katōg/ “châu chấu/, /preg kateg/ “chi li”, và /patig/ “bình trà”. Chỉ có “trắc, trầm [ngắn, dài]” chứ không bao giờ là âm “cao”. (c) Nhầm lẫn các hiện tượng ngôn ngữ, ngắn dài: Những biểu hiện của sự không nắm vững hiện tượng “trắc trầm [ngắn dài]” do tự ông đưa ra trong hai ví dụ ở trang 9 và trang 12: trang 9 các âm dài ông viết có baluw, và đọc CÓ dấu biểu thị âm dài bằng gạch ngang trên đầu âm chính rất hay và dễ hiểu. Âm dài còn được mô tả trong phần tiếng Cham cổ điển và AT phổ thông trong trang 6, 7 và 8 đều có dấu ngang trên đầu âm vị. Tuy nhiên trong ví dụ trang 12 ông tự mâu thuẩn và KHÔNG gạch ngang trên đầu âm chính của từ có âm dài, dù các từ đó đều viết có baluw. Để thể hiện sự khác biệt về phát âm âm ngắn, và dài, trong các ví dụ (BẮC BUỘC PHẢI CÓ ÂM VỊ THỂ HIỆN SỰ KHU BIỆT ĐÓ). Viết kok nhưng đọc là /kok/, /kōk/, /kog/, và /kōg/ có nghĩa khác nhau, kiểu “jal gak pôc lak”. Thay phụ âm đầu, nguyên âm giữa ta cũng có những cặp, hay bộ ba, bộ bốn tương tự tạo thành hệ thống. Đã là hệ thống thì không còn là ngoại lệ: chính là hệ thống khu biệt nghĩa ngắn dài, mà tổ tiên Cham đã có cách viết phân biệt. Trong thực tế (từ điển và trong các bản chép tay) âm dài được viết không nhất quán, lúc không, lúc có baluw. Một số ít âm dài viết có baluw (khoảng vài trăm trong từ điển AC 1906 và GM 1971) (Quảng, Đ. C. 2007). Vậy thì ngoại lệ là vài trăm từ chứa âm dài viết có baluw hay hàng ngàn từ chứa âm dài nhưng có cách viết không có baluw? Chưa thấy HTKL đề cập? (d) Biến âm gây khu biệt nghĩa: HTKL luôn lập đi lập lại “nói sao viết vậy” chứng tỏ không hiểu rõ bản chất vấn đề chuẩn hóa của BBSSCC là gì? Chúng chỉ liên quan đến “trắc trầm [ngắn dài]” là hiện tượng viết giống hoặc khác nhau, phát âm khác nhau và có nghĩa khác nhau. Hiện tượng biến âm phương ngữ (biến thể tự do) rất phổ biến trong Từ Điển Cham Francais AC 1906, một mục từ có nhiều cách viết (do chưa được CHUẨN CHÍNH TẢ).
Vì chúng không gây khu biệt nghĩa, nên BBSSCC chọn một cách viết đơn giản, phổ thông đã có và những cách viết khác đều được chấp nhận (phụ lục trong SGK tiếng Cham của NXB Giáo Dục). Về biến âm gây khu biệt nghĩa, dù BBSSCC đã áp dụng triệt để phát hiện của Po Dharma và HTKL: “BALUW DÀNH CHO ÂM TRẦM [DÀI]” có phát âm là /ā/, /ū/, /ưư/, /ơơ/, và /ē/, nhưng ông không nhận ra điều này do đó đã đánh giá cách dùng baluw của BBSSCC là “tùy tiện” (Sđd, tr. 23).
3. Quy trình hội thảo không bình thường: Quy trình của hội thảo khoa học là tôn trọng tất cả các kết quả của tham luận, dù có tỷ lệ nhỏ khác biệt cũng được ghi nhận để nghiên cứu thêm cho những lần hội thảo tiếp. Hội Thảo Quốc Tế Kuala Lumpur rất khác và lạ. Ý kiến khác biệt từ phía BBSSCC không được lắng nghe. Và biên bản tổng kết hội thảo được “…đa số đại biểu đều nhất trí đưa ra kết luận…” (Kỉ yếu HTKL, 2007, tr. 23) và ký biên bản theo số đông. Kiểu kết luận này giống nghị quyết của kỳ họp một hội đoàn, hay đảng phái hơn là một hội thảo khoa học.
4. Các ý kiến khác biệt không được lắng nghe: Không lắng nghe cách tiếp cận khác về AT, nguyên nhân AT cần phải chuẩn [CHÍNH TẢ] là do: “bí chữ này đọc chữ khác”, “phần ai nấy viết, chữ ai nấy đọc”. Chuẩn là chọn lọc ra từ cách viết [TỰ DO] trong các văn bản cổ của ba vùng Cham Phan Rang, Phan Rí, và Ma Lâm (Lộ Minh Trại, 2007). Chuẩn hóa là do các trí thức Cham chủ trương, với sự hướng dẫn của chuyên viên ngôn ngữ của Bộ Giáo Dục, và đồng thuận của đồng bào (Nguyễn Văn Tỷ, 2007). “Sự cải tiến là một quy luật tất yếu của quá trình phát triển của sự vật, kể cả ngôn ngữ chữ viết để phù hợp với thực tế xã hội ngày một phong phú, đa dạng. Cải biến không có nghĩa là phá bỏ, …mà là… làm cho vấn đề được sáng tỏ hơn, chuẩn xác hơn” (Thuận Ngọc Liêm, 2007, tr. 4).
Quy luật chuẩn hóa được đại diện BBSSCC mô tả rất chi tiết cách viết ngắn dài các âm /a, u, ư, ơ, e, i và o/, đơn giản, dễ hiểu, nhưng đều không được lắng nghe và đưa vào kết luận. II. Ngộ nhận của HTKL: Từ những hạn chế trên khiến cho kết luận của Po Dharma và HTKL đầy tính chủ quan, sai lạc. Ông viết: “độc giả có cảm giác rằng BBSSCC đang đóng vai trò «bà bóng lên đồng»: Chỉ cần một đêm suy nghĩ, BBSSCC đã đưa ra bao quyết định cải tiến qui luật chữ viết Chăm,…” (Po D., 2007b, tr. 27). “ … đa số là thành viên của BBSSCC không chuyên về chữ viết Cham,… đã biến chữ Chăm thành một chữ viết «lai căng»… phủ nhận hoàn toàn giá trị tinh hoa của akhar thrah Chăm truyền thống …học tiếng Chăm để họ đọc được chữ viết … của kho tàng văn học akhar thrah Chăm còn lưu trữ lại. Đó mới là mục tiêu quan trọng hàng đầu” (Sđd, Tr. 28). Sai lầm được vô tư và hoành tráng lập lại: “cách viết … biến dạng,.. đa số bô lão và trí thức Cham không đồng tình…” (Po D., 2007a, tr. 4). (1) Chế biến, chế tạo, hay không bao giờ có poh gak, (2) croh aw của chữ Cham luôn có dar sa, (3) baluw tùy tiện không theo quy luật nhất định, (4) chữ Cham không thể áp dụng quy luật “nói sao viết vậy” (Po D., 2007a, tr.3, 6, 9, 10, 15, 17, 21).
Chính vì hạn chế nêu trên kéo theo kết luận sai lầm về AT. khiến cho bản thân tác giả và HTKL không định nghĩa được AT truyền thống là gì, không thấy được điểm tương đồng và dị biệt của AT truyền thống và AT “chế biến” của BBSSCC. Lúc cho là không phân biệt ngắn dài, lúc phải học thuộc các trường hợp có âm “trầm [dài]” ngoại lệ, lúc “không biết đọc thế nào”. III. Hậu quả: Phủ định những giải thích của BBSSCC, HTKL phủ định luôn những việc làm của BBSSCC dù đó là sự thật hiển nhiên, là chân lý tuyệt đối có thể thấy và kiểm tra được. Trong đó có 3 sự thật quyết định sự phá sản của HTKL 2006:
1. HTKL kết luận sai về ba vần: HTKL kết luận là: “Akhar Thrah Cham không bao giờ có paoh gak, craoh aw luôn luôn phải có dar tha và không bao giờ có baluw trên dar tha-dar dua, [trước khi BBSSCC ra đời (1978)]” Sự thật đó là những vần từ các văn bản cổ và có trong từ điển Cham Francaise AC 1906 được chọn làm vần chuẩn. Chính điều này đã giúp Thứ trưởng Đặng Huỳnh Mai đánh giá dễ dàng kết luận của HTKL là sai sự thật (vì chúng có mặt trong ấn phẩm Cham trước 1978).
2.Ngộ nhận Ông Tỷ và Trại là người chỉnh lý chữ Cham AT: Trong “30 năm khủng hoảng ngôn ngữ và chữ viết Chăm” trang 127 có khẳng định “Nguyễn Văn Tỷ lại chủ trương cho BBSSCC cải biến trường hợp bất qui tắc trong Akhar Thrah Chăm.” Thật ra ông Tỷ và ông Trại chỉ là người kế thừa thành quả đã xong hơn 16 năm trước HTKL. Là thành quả của 19 thầy giáo hàng đầu của Cham thuộc thế hệ đầu tiên của BBSSCC trong 12 năm trời (1978-1990 thời điểm Cham chưa ai có học vị cử nhân Ngôn Ngữ). Đa số họ đã qua đời. Nay chỉ còn vài cụ như: Lâm Gia Tịnh, Châu Văn Kên, Châu Văn Đỉnh…
3. Sự chuẩn hóa AT phải đúng quy trình: BBSSCC đã theo đúng quy trình chuẩn hóa ngôn ngữ do Bộ Giáo Dục quy định và được Hội đồng thẩm định phê duyệt năm 1990. HTKL muốn điều chỉnh AT Cham thì phải trình bày “sự thay đổi” cho Hội Đồng Thẩm Định gồm chuyên gia của Bộ Giáo Dục, UBND Tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận, và nhân sĩ trí thức Cham và được họ phê duyệt. Ông Tỷ, Trại, Liêm… ký biên bản HTKL rồi vẫn không thay đổi gì được vì không đúng quy trình.
4. Trên một vạn học sinh Cham học tiếng Cham hằng năm: Cộng đồng và trên 20 ngàn phụ huynh Cham đã biết sự phản đối và lên án của HTKL đối với BBSSCC và công trình Chuẩn Chính Tả. Họ có quyền yêu cầu sửa đổi chương trình Tiếng Cham với AT chuẩn. Thế nhưng họ vẫn tiếp sức, ủng hộ, và còn yêu cầu đưa AT chuẩn hóa này lên cấp trung học và đại học. Trên một vạn học sinh (bằng tổng dân số Cham tại Malay) hằng năm tham gia 100% các lớp tiếng Cham suốt từ năm 2003 đến nay. Mặ dù đó là môn học tự chọn và học sinh Cham có quyền thôi học bất cứ lúc nào. Thái độ đó chính là thông điệp: Chúng tôi tin, yêu và quý AT Cham chuẩn hóa. Chân lí và thông tin là tài sản của mọi người. Hiểu đúng để cho chúng ta hành động đúng đắn và mạnh lên. Rất cần khép lại những ngộ nhận và bất đồng, tha thứ và yêu thương nhau để cùng chung lo cho sự phát triển lâu dài của tiếng Cham chữ Cham đang bị mai một. Can Quang sẵn sàng trao đổi tương kính với mọi người riêng hay chung trong facebook, qua email hay điện thoại hầu làm sáng tỏ vấn đề.
Vì mỗi người Cham chúng ta đều quan trọng và có tính quyết định ngang nhau cho sự tồn tại và phát triển của Cham ngữ. Aymonier E. & Cabaton A. (1906). Dictionaire Cam – Francais, L’ecole Francaise D’exttreme-Orient, Volume VII. Đoàn, T. T. (1977). Ngữ âm tiếng Việt (Nhà xuất bản Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội, Quảng, Đ. C. (2007). Khái quát về sự chỉnh lý chữ Cham Akhar Thrah. Tập San Ngoại ngữ - Tin học và Giáo dục số 9, tr. 126- 138, Trường Đại Học Huflit. Trong http://sapcham.blogspot.com/2008/07/khi-qut-v-s-chnh-l-ch-chm-akhar-thrah.html Harak Champaka 28. (2008). 30 năm khủng hoảng ngôn ngữ và chữ viết Chăm. Moussay G., Nại T. B., Thiên S. C., Lưu N. H., Đàng, N. P., Lưu, Q. S., Lâm, G. T., & Trượng, V. T. (1971). Từ Điển Chăm - Việt – Pháp, Phanrang. Nguyễn, T. C. (1995), Giáo trình lịch sử ngữ âm tiếng Việt, Nxb Giáo dục. Po, D. (2007a). Giới Thiệu đại hội ngôn ngữ và chữ viết Chăm 2006. Kỉ yếu Hội Thảo Kuala Lumpur. Kuala Lumpur. Po, D. (2007b). Ngôn ngữ và chữ viết Chăm trong quá trình lịch sử. Kỉ yếu Hội Thảo Kuala Lumpur 2006
Total votes: 0
Thạch Ngọc Xuân
User not write anything about he.
Be the first person to like this.
Thông tin để tìm hiểu và thảo luận . Mong các bạn đừng đi quá xa Làm ảnh hưởng đọc giả đang quan tâm. Trong chúng ta ai cũng lớn và hiểu mọi vấn đề bức xúc xã hội ngày nay. Hãy cùng nhau trao đổi một cách thân thiện.
Nói ra cũng ra dân sài gòn như sao nhận thức kém thế Nha trang.Tôi tưởng bạn ở trên núi làm bạn với khỉ chứ? Tôi định mời bạn qua sở thú để diễn trò chơi. nếu muôn bán nhà chắc chắn nói giá đi sẽ có ngươi tới xem. Q1 rất dc giá đó em
Xin lỗi chú Xuân.
Tôi quan tâm là việc thảo luận chữ viết Chăm hiện tại để tôi còn biết học tiếng Chăm nào. Chứ những người vô văn hoá cứ vung tục chữi thề thì tôi chẳng sợ. Trước lời lẽ không mấy lịch sử của họ tôi cũng chẵng ngại
Dù sao đi nữa cũng cảm ơn chú Xuân để tôi khẳng định được những ngư... View More
các bạn thảo luận đã đi quá xa vấn đề rồi, hãy tôn trọng và đi vào vấn đề chính thì hay hơn đó.