Lời mởi đầu
Trong quá khứ, trên dãi đất Việt Nam này, có sự tồn tại một nền văn minh champa: Vương quốc Champa, thuộc miền trung ngày nay.Hiện tại tuy nó đã bị sát nhập vào nước Việt Nam, nhưng chúng ta không thể phủ nhận sự ảnh hưởng của nền văn hóa champa , trong quá khứ, cũng như hiện tại, đối với tổng thể văn hóa 54 dân tộc anh em việt nam. Nhất là văn hóa tộc người Champa có ảnh hưởng rất lớn.Văn hóa champa đã phát triển một nền văn minh rực rở, bật nhất đông nam á suốt gần 15 thế kỷ . Bởi quá trình tồn tại, định hình lịch sử và văn hóa phát triển, có bề dày đáng kể trên 5000 năm(Từ người champa cổ Bàu trá thời đại đá cho đến sa huỳnh thời đại kim khí,cho đến ngày hôm nay). Vì muốn thảo thêm vài nét vẽ cho bức tranh lịch sử, văn hóa nền văn minh champa còn bỏ ngỏ, nên tôi một người con trong dòng tộc champa mạo muội đặt vấn đề cho đề tài này.Tôi không muốn phê phán hiện tại và quá khứ, tôi chỉ muốn người và người nhìn thực chất về bản sắc và văn hóa của nền văn minh champa, giờ đã chôn chặc vào lòng đất khô cằn, bão lũ miền trung, đầy nhân bản và nhân văn.Trải dài hàng ngàn năm lịch sử, thăng trầm trong vinh quang, khổ đau, tủi hờn rồi thất bại. Thế là họ bắt đầu hình thành sự khác biệt dù rằng họ cùng một nguồn cội và có chung dòng máu.Thời gian thấm thoát trôi , đã qua rồi cái thời ghánh con vượt dãi Trường Sơn, cái thời gong buồm thách thức con sóng dữ của biển cả, để đi tránh cơn binh đao.Giờ đây họ đã được yên vui sống trên mảnh đất được gọi nôm na là quê hương thứ hai mặc dù có những nơi họ sống trước kia từng là làng quê, đất tổ, là đất nước của họ.Còn gì sót lại ở họ ngoài dòng máu đỏ và chút ít ngữ vựng trong ngôn từ.Tại sao con người không quan tâm đến nó để kéo lại gần sau hàng thế kỉ xa cách ,xin đừng đổi thừa tôn giáo,tính phân biệt luôn không chấp nhận những gì hơi xa lạ đối với mình. Một cộng đồng tan rã, bị dẫm nát qua thời gian, theo dòng lịch sử đau buồn,cần lắm những bàn tay xoa diệu để chữa lành vết thương…
Từ nhỏ, nhìn chung quanh là những tháp chăm u sầu, lở lói với thời gian, lòng tôi luôn hiếu kì về vương quốc Champa, hay là bản thể là con cháu họ trà champa.??? Sự hiếu kì pha lẫn lãng mạng và nuối tiếc một nền văn minh đã tàn lụi, có lẽ một phần bị ảnh hưởng từ tập thơ “Điêu tàn” của Chế Lan Viên.Vì đây là vấn đề lớn trong khoa học,tôi không đủ khả năng xây dựng lại diện mạo của nó, nên chỉ cố gắng phát họa vài nét mà thôi .Tôi nghĩ rằng đề tài này sẽ góp thêm một hạt cát vào bễ cát tri thức mênh mông của loài người hiện tại trong quá trình tìm hiểu, phân tích, phát thảo bức tranh nền văn hóa, văn minh tộc người Champa Malayo Polynésien, trong tổng thể văn hóa dân tộc việt nam, một cách khoa học và nhân văn. Đặc biệt, việc nghiên cứu giá trị của một nền văn minh bị bỏ ngỏ, mai một rất nhiều trong hệ thống văn hóa, thì việc tìm hiểu dân tộc người Champa chính là điều cần yếu, có ý nghĩa cấp thiết, góp phần làm rõ hơn bản sắc văn hóa Việt Nam, đông nam á Malayo Polynésien ,để chúng ta có phương pháp bảo tồn, phát huy giá trị của nó, trong công cuộc xây dựng nền văn hóa Việt Nam và đông nam á ngày nay.Qui luật của lịch sử nhân loại là sự sinh tồn và biến đổi một cách biến chuyển liên tục. Sự sụp đổ hoàn toàn của Vương Quốc Champa vào năm 1832, cho dù bất cứ nguyên nhân nào, cũng đều nằm trong qui luật tất yếu của lịch sử.Tuy nhiên, nếu một dân tộc đã có một lịch sử, cho dù quốc gia đó không còn nữa, lịch sử dân tộc đó vẫn luôn luôn còn hiện diện, trong tiến trình của lịch sử nhân loại, và ít ra vẫn còn trong ký ức của dân tộc đó, lưu truyền từ đời này sang đời khác và mãi mãi cho đến tận cùng…của lịch sử nhân loại.Nếu một dân tộc đã có một lịch sử,một nền văn minh đặt thù, đương nhiên đã có một cội nguồn.Nói đến cội nguồn là nói đến những gì rất xa và cũng rất gần.Rất xa vì cội nguồn đã có từ chốn hồng hoang, từ trong mịt mờ của tiền sử.Rất gần vì cội nguồn luôn luôn có trong tâm tưởng của bất cứ ai còn biết nhớ đến tổ tiên, biết yêu thương những người, cùng chung huyết thống của chủng tộc. Nói huyết thống vì người ta có thể thay đổi tư duy, có thể thay đổi hoàn cảnh, có thể thay đổi đức tin, nhưng không thể thay đổi được dòng máu đồng chủng ,đang luân lưu trong khắp châu thân của mỗi một con người.Đề tài này chắc chắn rằng sẽ còn nhiều sai xót và cũng không ít người không đồng ý, vì lịch sử đã qua là “bất di, bất dịch”, trong khi sử liệu về vương quốc champa quá ít và đang dần chôn vùi theo thời gian Tôi mong rằng nhiều người sẽ cùng đóng góp và xây dựng thêm.Nếu có gì sai xót trong bài sưu tầm này tôi rất mong mọi người rộng lòng tha thứ và đóng góp thêm cho hoàng chỉnh.
THỦY TỔ DÂN TỘC CHAMPA:
Từ trong mịt mờ của tiền sử, khi những thành tựu tiên tiến khoa học hôm nay, chưa giúp được nhân loại vén lên bức màng tiến hóa của vũ trụ, chưa giúp nhân loại hiểu biết hết về xuất xứ của mình, từ đâu mà ra, từ đâu mà đến. Con người thường nêu lên sự hiện hữu của mình trên hành tinh này bằng những truyền thuyết. Mà truyền thuyết là cái bóng của sự thật, được dân gian tưởng tượng và thêu dệt bằng những chi tiết ly kỳ, làm cho truyền thuyết trở nên hoang đường. Do đó trong truyền thuyết có sự hoang đường và cũng có “bóng dáng” của sự thật. Nói đến truyền thuyết của giai thoại, của lịch sử, là nói đến bóng dáng của giai thoại, đến bóng dáng của lịch sử. Giữa lịch sử và truyền thuyết vẫn có liên quan mật thiết với nhau như hình với bóng, và hình nào thì bóng đó. Ví dụ như: dân tộc champa theo chế độ mẫu hệ từ xã hội nguyên thủy cho đến ngày nay vẫn còn. Trong khi đó theo truyền thuyết, người mẹ của xứ sở là Nữ Thần Po Nưgar.
THỦY TỔ DÂN TỘC CHAMPA:
Từ trong mịt mờ của tiền sử, khi những thành tựu tiên tiến khoa học hôm nay, chưa giúp được nhân loại vén lên bức màng tiến hóa của vũ trụ, chưa giúp nhân loại hiểu biết hết về xuất xứ của mình, từ đâu mà ra, từ đâu mà đến. Con người thường nêu lên sự hiện hữu của mình trên hành tinh này bằng những truyền thuyết. Mà truyền thuyết là cái bóng của sự thật, được dân gian tưởng tượng và thêu dệt bằng những chi tiết ly kỳ, làm cho truyền thuyết trở nên hoang đường. Do đó trong truyền thuyết có sự hoang đường và cũng có “bóng dáng” của sự thật. Nói đến truyền thuyết của giai thoại, của lịch sử, là nói đến bóng dáng của giai thoại, đến bóng dáng của lịch sử. Giữa lịch sử và truyền thuyết vẫn có liên quan mật thiết với nhau như hình với bóng, và hình nào thì bóng đó. Ví dụ như: dân tộc champa theo chế độ mẫu hệ từ xã hội nguyên thủy cho đến ngày nay vẫn còn. Trong khi đó theo truyền thuyết, người mẹ của xứ sở là Nữ Thần Po Nưgar.
Do đó cái hình là chế độ mẫu hệ, còn cái bóng là Nữ Thần Po Inư Nưgar theo truyền thuyết.Ðể trình bày câu hỏi: Ai sanh ra tổ tiên Champa và họ từ đâu đến? Thật là vấn đề nan giải, ngoài sự hiểu biết và cách nghĩ của chính hậu duệ người Champa??? Vì tâm có hướng về cội nguồn, thì nguồn sẽ có trong tâm.Người Champa quan niệm do trời và đất là Thủy tổ đã sinh ra tổ tiên của họ. Trời (Dyaus) ở ngôi Cha, mang dương tính Ðất (Dyaus) ở ngôi Mẹ mang âm tính. Sự tác hợp giữa Trời và Ðất là sự giao hòa khí dương và khí âm đã tạo thành vạn vật và sản sinh ra thủy tổ của dân tộc Champa. Do đó dân tộc Champa chấp nhận thuyết âm dương; sự kiện này cũng phù hợp với biểu tượng Linga (dương tính),Yoni (âm tính)Thần Shiva được thờ tại các đền Tháp Champa. Đây là quang niệm chung cho các chủng tộc trên thế giới.
Nguồn gốc tổ tiên champa:Từ kết quả sự khai quật của các nhà khảo cổ đã khám phá nền văn hóa Sa huỳnh trên phần đất Vương Quốc Champa cổ cũng đã xác định được tổ tiên Champa là cư dân địa phương trên vùng đất này ngay từ thời tiền sử. Công trình khai quật này được diễn tiến như sau:Từ năm 1909 Vinet một viên chức người Pháp tình cờ phát hiện được (tại Ðức Phổ – Quảng Ngãi), tiếp theo đó từ 1923-1951 như Labarre, Henry Parmentier và nhà Nữ Tiền Sử học tất cả là người Pháp lần lượt đến Sa Huỳnh và những địa điểm khác nhau thuộc lãnh địa Vương Quốc Champa cổ trước đây, từ Quảng Bình đến Bình Thuận, để khai quật khám phá được nhiều mộ Chum khác. Mộ chum hay là kho chum cao chừng 0m,80 làm bằng đất nung, trong kho Chum chứa những dụng cụ cần thiết để làm vườn, phá rẩy, chặt cây, nấu nướng như: nồi đất, rựa v.v..và những vật dụng khác. Sau năm 1951 vì chiến tranh Việt Nam, nên công việc khảo cổ bị khựng lại cho đến sau năm 1975, công tác khảo cổ được tiếp tục với người Tây Phương ,cùng với các nhà khảo cổ Việt Nam trở lại Sa Huỳnh, tiếp tục đào bới lớp đất cũ của vùng cư trú Champa cổ và đào ra nhiều kho Chum mới dọc theo ven biển miền Trung, với những đồi cát trắng phao nối tiếp nhau trong gió lộng của miền biển cả. Những kho Chum được đào lên chứa nhiều di tích văn hóa Sa Huỳnh, với trình độ phát triển khác nhau, được các nhà nghiên cứu khoa cổ học chia thành hai nhóm , vào 2 giai đoạn khác nhau:Thời kỳ Tiền Sa Huỳnh hay là Tiền Champa:Di tích văn hóa cư ngụ sớm nhất của văn hóa tiền Sa Huỳnh là thời đại đồ đá, đồng thau có niên đại cách ngày nay khoản hơn 4 ngàn năm.
Thời kỳ Sa Huỳnh sắt:Ðây là thời kỳ các dụng cụ mưu sinh được làm bằng sắt như: lưỡi dao, kiếm ngắn, dao quắm, lao, rựa thuổng, xà beng, liều hái, đục v.v những đồ sắt này là dụng cụ khai phá, chặt,tìm kế sinh nhai và có loại dùng làm vũ khí như:lao, kiếm, dao
Văn hóa Sa Huỳnh sắt là văn hóa nối liền với thời kỳ tiền Sa Huỳnh (không sắt), gắn liền với vùng đất mà cư dân đó chính là thần dân của nước Lâm Ấp và chính là cộng đồng dân cư của đất Nhật Nam, nơi Khu Liên đã dấy binh lập quốc đầu tiên, với danh xưng Lâm Ấp như đã nói trên.Cư dân vùng Văn hóa Sa Huỳnh vào thời đó thường dùng khoan, tai hai đầu thú (hình hai đầu con dê), là biểu tượng của văn hóa Sa Huỳnh. Trên địa bàn sinh cư của vùng văn hóa Sa Huỳnh trước đây (tức vùng miền Trung nước Việt bây giờ) đều có nuôi nhiều đàn dê và cho đến ngày nay ta thấy ở các làng Champa tại tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuân có nuôi Dê, các lễ cúng giỗ, cúng Yang có dùng thịt Dê để cúng.
Trong các di tích văn hóa Sa Huỳnh, ngoài những kỹ thuật chế tác đồ trang sức bằng thủy tinh hai đầu thú (Dê); những cư dân thuộc vùng Vương Quốc Cổ Champa còn sở trường về công nghệ đồ gốm, mà các nhà khảo cổ học khai quật được trong những mộ Chum ở dưới lòng đất miền Trung VN ngày nay, đều có hình loại làm bằng chất liệu đất sét pha cát, hoặc pha tạp với những chất khác thường gọi là Gấu thô màu đỏ nâu, xám đen, có khi vàng nhạt, đỏ nhạt giống như những loại đồ gốm các làng champa ở Hựu An, Phan Lý Chăm Bình Thuận và làng Bàn Trúc, An Phước, Ninh Thuận ngày nay. Champa đã biến mất cách đây gần 3 thế kỷ, nay chỉ còn để lại các di tích Chăm, rải rác ở các tỉnh Trung phần Việt Nam, như Trà Kiệu, Mỹ Sơn, Đồng Dương, Khương Mỹ, Tháp Mẫm.. Viện bảo tàng Champa, do nhà nghiên cứu Pháp Parmentier thành lập năm 1919, đã thu thập các bảo vật, như tượng, bệ, công trình kiến trúc, điêu khắc của các đền, cung điện.. từ nhiều nơi để tồn giữ. Nhưng tại đây, trãi qua nhiều biến cố lịch sử, các di sản đặc sắc của văn minh Champa cũng không thoát qua nhiều sự mất mát, lưu lạc. Ngày 9 tháng 12 năm 1946, trong những ngày đầu của chiến tranh Việt-Pháp, giữa sự hổn loạn và thiếu an ninh ở Đà Nẵng, viện bảo tàng đã bị xâm nhập. Rất nhiều bảo vật cũng như tư liệu trong thư viện đã bi đánh cắp. Hơn một năm sau, vào năm 1948, Trường Viễn Đông bác cổ đã gởi ông Manukus đến để hồi phục lại viện bảo tàng. Hơn 150 bảo vật này đã được tìm lại từ nhà dân, trại lính, phi trường và tận ở Lào (Savanakhet). Năm 1954, Viện bảo tàng là nơi trú ngụ của khoảng 300 người dân di tản chiến tranh. Năm Mậu Thân 1968, trong trận đánh chiếm lại Huế, Viện bảo tàng này đã trở thành trại tập trung và là nơi ăn ở của quân đội Nam Việt Nam. Giửa những sự sô bồ, hỗn độn, va chạm và không có sự bảo vệ và bảo trì như vậy, thì sự hư hại, hay mất mác các tượng đá, các công trình điêu khắc tất nhiên đã xảy ra. Gần đây trong năm 1996, các nhân viên viện bảo tàng đã tình cờ tìm ra được 157 mảnh cổ vật đã được chôn dưới lòng đất trong khuôn viên của viện bảo tàng.
Champa đã biến mất qua những cơn bảo lịch sử, nhưng di sản của nền văn minh này cũng đã chịu đựng nhiều sự cố không may mắn. Một số phận hẫm hiêu của nền văn minh Champa ? Trải qua nhiều thế kỷ, các ngôi tháp Champa ở nhiều nơi bị hư hại và đổ nát bởi thời gian và do thiên nhiên tác động. Theo Lê Quí Đôn,, Ngô Thế Lân, vào thế kỷ 18, đã để lại bài thơ, Chà bàn cố thành hoài cổ, cho thấy tình trạng sơ sát, bỏ hoang của các tháp, điện đài của vương quốc Champa cách đây hơn 200 năm.
Bóng tà dừng ngựa đứng
Man mác nỗi hư vong
Lăng uyển làm chùa Phật;
Cung đình thành ruộng cày
Núi tàn trơ tháp cổ;
Nước cũ hiện thành hoang
Thần đạo nguyên vô cứ;
Cửa tây tràn khắc bia(bản dịch)
Không khác chi tình trạng hiện nay của nhiều tháp cổ khắp miền trung Việt Nam.Trong cuộc chiến vừa qua, di tích Đồng Dương hầu như bị huỷ hoại hoàn toàn do bom đạn . Một mất mác to lớn đối với những thế hệ về sau.
Hầu như tất cả những gì ta biết về văn minh Champa là đứng từ góc độ của người không phải dân tôc Champa. Ngày nay, trong sách giáo khoa Đại học của giáo sư D. Hall về lịch sử Đông Nam Á , ta có thể biết tổng quát về lịch sử đất nước Champa. Tuy vậy phần lớn dữ kiện từ sách của Hall là dựa vào những công trình nghiên cứu tiên phong của các học giả Pháp như G. Coedes, H. Parmentier và H. Maspero ở đầu thế kỷ 20.
Nói chung về khảo cổ và sử của các nước Champa, Cam Bốt và một số nước khác ở Đông Nam Á thì chỉ vào đầu thế kỷ 20 người ta mới biết được nhiều mà thôi. Trước đó không mấy ai biết nhiều về Cambodia có một nền văn minh Angkor rực rỡ, cả sử của Nam Dương cũng mù tịt cho đến khi Coedes khám phá ra vương quốc SriVijaya ở Sumatra, còn sử của Champa thì mù mờ, chỉ biết qua tư liệu của các nước láng giềng như Việt Nam (Đại Việt sử ký toàn thư) hay của Trung quốc (Tống sử, Minh sử..) đến khi Finot, Parmentier, Majumdar và Maspero khám phá ra bằng phương pháp có hệ thống. cả trong sử của Ấn độ, trước đây hoàng đế Ashoka chả ai biết nhiều, chỉ nghe tên trong vài kinh điển Phật giáo, đến khi Princep khám phá ra qua bia ký là có thật, một nhà vua hiền triết chuộng đạo Phật với một vương quốc rộng lớn.
Hiện nay nghiên cứu về nền minh và văn hóa Champa đã được quan tâm và đã có một số công trình nghiên cứu có giá trị được xuất bản gần đây ở Việt Nam. Đây là một dấu hiệu đáng mừng cho sự nghiên cứu Champa học ở Việt nam. Trước đây, trong các thập niên 1970 và sau 1975, có sự dè dặt trong sự nghiên cứu Champa học, vì ngành này đa số là do các nhà nghiên cứu nước ngoài, chủ yếu là Pháp, khai phá và phát triển với sự cộng tác của một số cộng tác viên Champa và Việt. Sự dè dặt nghi kỵ của người Việt về mục đích chính trị đối với các công trình nghiên cứu Champa học không phải là không có lý do. Vì đã có nhiều thế lực chính trị lợi dụng để chia rẽ, hay muốn tách rời địa phận để độc lập làm khó khăn cho Việt Nam trong những năm chiến tranh chống thực dân, giảm đi tiềm năng và bước tiến của lịch sử. Nhưng sự dè dặt và nghi ngờ này nếu đi quá cũng có hệ quả là trong lãnh vực Chăm học, “sân chơi” chỉ dành cho lực lượng người nước ngoài nghiên cứu mà Việt Nam thì chỉ có lưa thưa vài người.
Khi tôi đề cấp đến sở thích về nghiên cứu văn minh Champa thì mọi người đổi thái độ và hơi dè dặt lo âu, anh trưởng ban chuyển qua đề tài về các lực lượng chống chính quyền ở Tây Nguyên và sau đó không còn bàn về đề tài Chăm học nữa. Chỉ có bác quản gia già ở thư viện sau đó nói chuyện với tôi vui vẽ về các sách về Chăm học mà bác biết rất nhiều từ khi bác làm việc ở đây từ trước năm 1945. Khoảng cuối thập niên 1990, tổ chức Toyota Foundation đã tài trợ cho Gs Trần Kỳ Phương xuất bản bộ sách tổng hợp về sự hiểu biết hiện nay về văn minh Champa ở Việt Nam như trước đây họ đã tài trợ cho bộ sách về văn minh Đông Sơn do Gs Hà Văn Tấn xuất bản. Không may là sự việc đã không thành.
Ngày nay Việt nam đã khác nhiều và tự tin hơn về đất nước mình qua sự chuyển mình về kinh tế và tìm năng trong tương lai. Tư duy cũng đã thay đổi từ thời chiến qua thời bình mặc dầu có những khó khăn trong những năm chuyển tiếp. Sự vững tin này cũng thể hiện trong lãnh vực văn hóa, văn học và nghiên cứu trong những năm gần đây. Viện Nghiên cứu Đông Nam Á đã thành lập. Việt Nam ngày nay là thành viên của tổ chức ASEAN. Cộng đồng Champa ở Việt Nam là gạch nối với các thành viên Indonesia, Mã Lai cùng tôn giáo và liên hệ ngôn ngữ. Các nước này đã có những chương trình hoạt động văn hóa, nghiên cứu chung với cộng đồng Champa. Sợi dây liên hệ giữa Việt Nam và Đông Nam Á sẽ càng đan kết và thắt chặc.
Lần đầu tiên sau nhiều năm qua đã có một hội nghị Champa học vào tháng 8/2004 ở Singapore qui tụ một số học giả từ nhiều nước như Việt Nam, Singapore, Nhật, Anh, Mỹ, Pháp. Nhiều báo cáo, khám phá mới có giá trị đã được thông báo: những hiểu biết về văn minh Sa Huỳnh và Champa qua địa điểm khảo cổ Trà Kiệu, liên hệ giữa ngôn ngữ Champa và các ngôn ngữ dân tộc ở Tây Nguyên. Một điểm đáng chú ý trong các bản báo cáo là các tài liệu Trung quốc trước kia chưa được quan tâm đến nay đã được một số học giả nghiên cứu: Minh sử, Tống hội yếu tập cao và Cửu Phiên Chí. “Tổng hội yếu tập cao” có nhiều thông tin về Champa từ 960-1180 như sự liên hệ của Champa với triều đình Tống, Chân Lạp, Srivijaya, Đại Việt (thuộc Giao Châu thời bị Trung quốc đô hộ và sau khi độc lập năm 960), phong tục Chăm, nông nghiệp, thương mại hàng hải...
Tiếp nối công trình bỏ dở của Boisselier khi ông này mất, Emmanuel Guillon năm 2002 đã xuất bản tác phẩm về nghệ thuật Champa qua những bảo vật ở viện bảo tàng Đà Nẵng. Sách có giá trị tham khảo, tổng hợp sự hiểu biết từ trước đến nay kể cả những khám phá các di vật khảo cổ mới thu thập được.
Ở Việt Nam, các sách về văn hóa, văn học, nghệ thuật Champa của Ngô Văn Doanh, Insara, Trần Kỳ Phương... với những hiểu biết mới cũng đã được xuất bản. Lãnh vực Chăm học như có luồng sinh khí mới mở đầu cho thời kỳ Phục hưng trong nghiên cứu mà trước đây đã bị bỏ quên, ít được quan tâm trong một thời gian dài, sau những công trình khám phá tiên phong của các học giả Pháp trong giai đoạn nữa đầu thế kỷ 20.
Nguồn gốc tổ tiên champa:Từ kết quả sự khai quật của các nhà khảo cổ đã khám phá nền văn hóa Sa huỳnh trên phần đất Vương Quốc Champa cổ cũng đã xác định được tổ tiên Champa là cư dân địa phương trên vùng đất này ngay từ thời tiền sử. Công trình khai quật này được diễn tiến như sau:Từ năm 1909 Vinet một viên chức người Pháp tình cờ phát hiện được (tại Ðức Phổ – Quảng Ngãi), tiếp theo đó từ 1923-1951 như Labarre, Henry Parmentier và nhà Nữ Tiền Sử học tất cả là người Pháp lần lượt đến Sa Huỳnh và những địa điểm khác nhau thuộc lãnh địa Vương Quốc Champa cổ trước đây, từ Quảng Bình đến Bình Thuận, để khai quật khám phá được nhiều mộ Chum khác. Mộ chum hay là kho chum cao chừng 0m,80 làm bằng đất nung, trong kho Chum chứa những dụng cụ cần thiết để làm vườn, phá rẩy, chặt cây, nấu nướng như: nồi đất, rựa v.v..và những vật dụng khác. Sau năm 1951 vì chiến tranh Việt Nam, nên công việc khảo cổ bị khựng lại cho đến sau năm 1975, công tác khảo cổ được tiếp tục với người Tây Phương ,cùng với các nhà khảo cổ Việt Nam trở lại Sa Huỳnh, tiếp tục đào bới lớp đất cũ của vùng cư trú Champa cổ và đào ra nhiều kho Chum mới dọc theo ven biển miền Trung, với những đồi cát trắng phao nối tiếp nhau trong gió lộng của miền biển cả. Những kho Chum được đào lên chứa nhiều di tích văn hóa Sa Huỳnh, với trình độ phát triển khác nhau, được các nhà nghiên cứu khoa cổ học chia thành hai nhóm , vào 2 giai đoạn khác nhau:Thời kỳ Tiền Sa Huỳnh hay là Tiền Champa:Di tích văn hóa cư ngụ sớm nhất của văn hóa tiền Sa Huỳnh là thời đại đồ đá, đồng thau có niên đại cách ngày nay khoản hơn 4 ngàn năm.
Thời kỳ Sa Huỳnh sắt:Ðây là thời kỳ các dụng cụ mưu sinh được làm bằng sắt như: lưỡi dao, kiếm ngắn, dao quắm, lao, rựa thuổng, xà beng, liều hái, đục v.v những đồ sắt này là dụng cụ khai phá, chặt,tìm kế sinh nhai và có loại dùng làm vũ khí như:lao, kiếm, dao
Văn hóa Sa Huỳnh sắt là văn hóa nối liền với thời kỳ tiền Sa Huỳnh (không sắt), gắn liền với vùng đất mà cư dân đó chính là thần dân của nước Lâm Ấp và chính là cộng đồng dân cư của đất Nhật Nam, nơi Khu Liên đã dấy binh lập quốc đầu tiên, với danh xưng Lâm Ấp như đã nói trên.Cư dân vùng Văn hóa Sa Huỳnh vào thời đó thường dùng khoan, tai hai đầu thú (hình hai đầu con dê), là biểu tượng của văn hóa Sa Huỳnh. Trên địa bàn sinh cư của vùng văn hóa Sa Huỳnh trước đây (tức vùng miền Trung nước Việt bây giờ) đều có nuôi nhiều đàn dê và cho đến ngày nay ta thấy ở các làng Champa tại tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuân có nuôi Dê, các lễ cúng giỗ, cúng Yang có dùng thịt Dê để cúng.
Trong các di tích văn hóa Sa Huỳnh, ngoài những kỹ thuật chế tác đồ trang sức bằng thủy tinh hai đầu thú (Dê); những cư dân thuộc vùng Vương Quốc Cổ Champa còn sở trường về công nghệ đồ gốm, mà các nhà khảo cổ học khai quật được trong những mộ Chum ở dưới lòng đất miền Trung VN ngày nay, đều có hình loại làm bằng chất liệu đất sét pha cát, hoặc pha tạp với những chất khác thường gọi là Gấu thô màu đỏ nâu, xám đen, có khi vàng nhạt, đỏ nhạt giống như những loại đồ gốm các làng champa ở Hựu An, Phan Lý Chăm Bình Thuận và làng Bàn Trúc, An Phước, Ninh Thuận ngày nay. Champa đã biến mất cách đây gần 3 thế kỷ, nay chỉ còn để lại các di tích Chăm, rải rác ở các tỉnh Trung phần Việt Nam, như Trà Kiệu, Mỹ Sơn, Đồng Dương, Khương Mỹ, Tháp Mẫm.. Viện bảo tàng Champa, do nhà nghiên cứu Pháp Parmentier thành lập năm 1919, đã thu thập các bảo vật, như tượng, bệ, công trình kiến trúc, điêu khắc của các đền, cung điện.. từ nhiều nơi để tồn giữ. Nhưng tại đây, trãi qua nhiều biến cố lịch sử, các di sản đặc sắc của văn minh Champa cũng không thoát qua nhiều sự mất mát, lưu lạc. Ngày 9 tháng 12 năm 1946, trong những ngày đầu của chiến tranh Việt-Pháp, giữa sự hổn loạn và thiếu an ninh ở Đà Nẵng, viện bảo tàng đã bị xâm nhập. Rất nhiều bảo vật cũng như tư liệu trong thư viện đã bi đánh cắp. Hơn một năm sau, vào năm 1948, Trường Viễn Đông bác cổ đã gởi ông Manukus đến để hồi phục lại viện bảo tàng. Hơn 150 bảo vật này đã được tìm lại từ nhà dân, trại lính, phi trường và tận ở Lào (Savanakhet). Năm 1954, Viện bảo tàng là nơi trú ngụ của khoảng 300 người dân di tản chiến tranh. Năm Mậu Thân 1968, trong trận đánh chiếm lại Huế, Viện bảo tàng này đã trở thành trại tập trung và là nơi ăn ở của quân đội Nam Việt Nam. Giửa những sự sô bồ, hỗn độn, va chạm và không có sự bảo vệ và bảo trì như vậy, thì sự hư hại, hay mất mác các tượng đá, các công trình điêu khắc tất nhiên đã xảy ra. Gần đây trong năm 1996, các nhân viên viện bảo tàng đã tình cờ tìm ra được 157 mảnh cổ vật đã được chôn dưới lòng đất trong khuôn viên của viện bảo tàng.
Champa đã biến mất qua những cơn bảo lịch sử, nhưng di sản của nền văn minh này cũng đã chịu đựng nhiều sự cố không may mắn. Một số phận hẫm hiêu của nền văn minh Champa ? Trải qua nhiều thế kỷ, các ngôi tháp Champa ở nhiều nơi bị hư hại và đổ nát bởi thời gian và do thiên nhiên tác động. Theo Lê Quí Đôn,, Ngô Thế Lân, vào thế kỷ 18, đã để lại bài thơ, Chà bàn cố thành hoài cổ, cho thấy tình trạng sơ sát, bỏ hoang của các tháp, điện đài của vương quốc Champa cách đây hơn 200 năm.
Bóng tà dừng ngựa đứng
Man mác nỗi hư vong
Lăng uyển làm chùa Phật;
Cung đình thành ruộng cày
Núi tàn trơ tháp cổ;
Nước cũ hiện thành hoang
Thần đạo nguyên vô cứ;
Cửa tây tràn khắc bia(bản dịch)
Không khác chi tình trạng hiện nay của nhiều tháp cổ khắp miền trung Việt Nam.Trong cuộc chiến vừa qua, di tích Đồng Dương hầu như bị huỷ hoại hoàn toàn do bom đạn . Một mất mác to lớn đối với những thế hệ về sau.
Hầu như tất cả những gì ta biết về văn minh Champa là đứng từ góc độ của người không phải dân tôc Champa. Ngày nay, trong sách giáo khoa Đại học của giáo sư D. Hall về lịch sử Đông Nam Á , ta có thể biết tổng quát về lịch sử đất nước Champa. Tuy vậy phần lớn dữ kiện từ sách của Hall là dựa vào những công trình nghiên cứu tiên phong của các học giả Pháp như G. Coedes, H. Parmentier và H. Maspero ở đầu thế kỷ 20.
Nói chung về khảo cổ và sử của các nước Champa, Cam Bốt và một số nước khác ở Đông Nam Á thì chỉ vào đầu thế kỷ 20 người ta mới biết được nhiều mà thôi. Trước đó không mấy ai biết nhiều về Cambodia có một nền văn minh Angkor rực rỡ, cả sử của Nam Dương cũng mù tịt cho đến khi Coedes khám phá ra vương quốc SriVijaya ở Sumatra, còn sử của Champa thì mù mờ, chỉ biết qua tư liệu của các nước láng giềng như Việt Nam (Đại Việt sử ký toàn thư) hay của Trung quốc (Tống sử, Minh sử..) đến khi Finot, Parmentier, Majumdar và Maspero khám phá ra bằng phương pháp có hệ thống. cả trong sử của Ấn độ, trước đây hoàng đế Ashoka chả ai biết nhiều, chỉ nghe tên trong vài kinh điển Phật giáo, đến khi Princep khám phá ra qua bia ký là có thật, một nhà vua hiền triết chuộng đạo Phật với một vương quốc rộng lớn.
Hiện nay nghiên cứu về nền minh và văn hóa Champa đã được quan tâm và đã có một số công trình nghiên cứu có giá trị được xuất bản gần đây ở Việt Nam. Đây là một dấu hiệu đáng mừng cho sự nghiên cứu Champa học ở Việt nam. Trước đây, trong các thập niên 1970 và sau 1975, có sự dè dặt trong sự nghiên cứu Champa học, vì ngành này đa số là do các nhà nghiên cứu nước ngoài, chủ yếu là Pháp, khai phá và phát triển với sự cộng tác của một số cộng tác viên Champa và Việt. Sự dè dặt nghi kỵ của người Việt về mục đích chính trị đối với các công trình nghiên cứu Champa học không phải là không có lý do. Vì đã có nhiều thế lực chính trị lợi dụng để chia rẽ, hay muốn tách rời địa phận để độc lập làm khó khăn cho Việt Nam trong những năm chiến tranh chống thực dân, giảm đi tiềm năng và bước tiến của lịch sử. Nhưng sự dè dặt và nghi ngờ này nếu đi quá cũng có hệ quả là trong lãnh vực Chăm học, “sân chơi” chỉ dành cho lực lượng người nước ngoài nghiên cứu mà Việt Nam thì chỉ có lưa thưa vài người.
Khi tôi đề cấp đến sở thích về nghiên cứu văn minh Champa thì mọi người đổi thái độ và hơi dè dặt lo âu, anh trưởng ban chuyển qua đề tài về các lực lượng chống chính quyền ở Tây Nguyên và sau đó không còn bàn về đề tài Chăm học nữa. Chỉ có bác quản gia già ở thư viện sau đó nói chuyện với tôi vui vẽ về các sách về Chăm học mà bác biết rất nhiều từ khi bác làm việc ở đây từ trước năm 1945. Khoảng cuối thập niên 1990, tổ chức Toyota Foundation đã tài trợ cho Gs Trần Kỳ Phương xuất bản bộ sách tổng hợp về sự hiểu biết hiện nay về văn minh Champa ở Việt Nam như trước đây họ đã tài trợ cho bộ sách về văn minh Đông Sơn do Gs Hà Văn Tấn xuất bản. Không may là sự việc đã không thành.
Ngày nay Việt nam đã khác nhiều và tự tin hơn về đất nước mình qua sự chuyển mình về kinh tế và tìm năng trong tương lai. Tư duy cũng đã thay đổi từ thời chiến qua thời bình mặc dầu có những khó khăn trong những năm chuyển tiếp. Sự vững tin này cũng thể hiện trong lãnh vực văn hóa, văn học và nghiên cứu trong những năm gần đây. Viện Nghiên cứu Đông Nam Á đã thành lập. Việt Nam ngày nay là thành viên của tổ chức ASEAN. Cộng đồng Champa ở Việt Nam là gạch nối với các thành viên Indonesia, Mã Lai cùng tôn giáo và liên hệ ngôn ngữ. Các nước này đã có những chương trình hoạt động văn hóa, nghiên cứu chung với cộng đồng Champa. Sợi dây liên hệ giữa Việt Nam và Đông Nam Á sẽ càng đan kết và thắt chặc.
Lần đầu tiên sau nhiều năm qua đã có một hội nghị Champa học vào tháng 8/2004 ở Singapore qui tụ một số học giả từ nhiều nước như Việt Nam, Singapore, Nhật, Anh, Mỹ, Pháp. Nhiều báo cáo, khám phá mới có giá trị đã được thông báo: những hiểu biết về văn minh Sa Huỳnh và Champa qua địa điểm khảo cổ Trà Kiệu, liên hệ giữa ngôn ngữ Champa và các ngôn ngữ dân tộc ở Tây Nguyên. Một điểm đáng chú ý trong các bản báo cáo là các tài liệu Trung quốc trước kia chưa được quan tâm đến nay đã được một số học giả nghiên cứu: Minh sử, Tống hội yếu tập cao và Cửu Phiên Chí. “Tổng hội yếu tập cao” có nhiều thông tin về Champa từ 960-1180 như sự liên hệ của Champa với triều đình Tống, Chân Lạp, Srivijaya, Đại Việt (thuộc Giao Châu thời bị Trung quốc đô hộ và sau khi độc lập năm 960), phong tục Chăm, nông nghiệp, thương mại hàng hải...
Tiếp nối công trình bỏ dở của Boisselier khi ông này mất, Emmanuel Guillon năm 2002 đã xuất bản tác phẩm về nghệ thuật Champa qua những bảo vật ở viện bảo tàng Đà Nẵng. Sách có giá trị tham khảo, tổng hợp sự hiểu biết từ trước đến nay kể cả những khám phá các di vật khảo cổ mới thu thập được.
Ở Việt Nam, các sách về văn hóa, văn học, nghệ thuật Champa của Ngô Văn Doanh, Insara, Trần Kỳ Phương... với những hiểu biết mới cũng đã được xuất bản. Lãnh vực Chăm học như có luồng sinh khí mới mở đầu cho thời kỳ Phục hưng trong nghiên cứu mà trước đây đã bị bỏ quên, ít được quan tâm trong một thời gian dài, sau những công trình khám phá tiên phong của các học giả Pháp trong giai đoạn nữa đầu thế kỷ 20.
Indrapura
vùng đất từ Đèo Ngang, Hoành Sơn đến đèo Hải Vân (Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên) là vùng giao điểm của hai văn minh từ hướng Bắc và hướng Nam hải đảo. Đây là vùng đất "đệm" của hai nền văn minh Ấn-Hoa. Di tích Champa trong vùng này còn ở Mỹ Đức, Quảng Bình, Hà Trung, Thạch An, Bích La cũng như ở dãi cồn ở Cửa Tùng, Cửa Việt. Di tích Tháp Champa được tìm thấy ở An Xá (Do Linh), Cam Giang, Cam Lộ, Cổ Thành Ái Tử và Trà Liên.
Tại vùng này, người ta cũng tìm được nhiều đồ gốm xưa của văn hoá Champa và Trung quốc từ thời Đường, Tống, Minh.. chứng tỏ xưa kia ở đây cũng có thể là nơi có các hải cảng thương mại sầm uất không kém cảng Hội An về sau này.
Xa hơn nữa vào thời tiền sử, vùng này là nơi chuyển tiếp của giao lưu văn hóa Sa Huỳnh và văn minh Đông Sơn qua Đèo Ngang. Nơi đây còn có các di tích văn hóa Sa Huỳnh ở Cồn Bàu, đảo Cồn Cỏ, Cổ Trai ở Cửa Tùng. Đồ đồng Đông Sơn đã được tìm thấy ở Tam Mỹ, Phú Hòa và mới đây tận mãi Bình Định, còn những khuyên tai hai đầu thú và các hạt chuổi thuỷ tinh thuộc văn hoá Sa Huỳnh, thì tìm thấy được ở Xuân An, Làng Vạc (Nghệ An, Hà Tĩnh). Văn hoá Sa Huỳnh được các nhà khảo cổ Việt Nam và nước ngoài cho là có không gian chính từ Quảng Nam đến Đồng Nai.
Tháng 8, 2001 ở Thừa Thiên, Huế, tình cờ tìm được một ngôi tháp Chăm nhỏ, đỉnh tháp đã mất, thân tháp cao khoảng gần 2m. Theo Ngô Văn Doanh, ngôi tháp này (gọi là tháp Mỹ Khánh) có niên đại ở thế kỷ 8. Như vậy là ngôi tháp Chăm cổ nhất hiện còn thuộc phong cách Mỹ Sơn E1.
Trong chiến tranh chống Mông cổ dưới đời vua Trần Nhân Tông, liên minh Champa-Việt đã thành công đẩy lui hiểm họa xâm lăng từ phương bắc qua đường bộ và thủy. Từ sự liên kết này qua chính sách chiến lược sáng suốt của vua Trần Nhân Tông, mà Jaya Simhavarman III (Chế Mân) cũng đã đồng ý theo lời đề nghị của thượng hoàng Nhân Tông, trong dịp ông rời nơi tu dưỡng ở núi Yên Tử đi viếng Champa, để lấy công chúa Trần Huyền Trân, em gái của vua Trần Anh Tông. Trong hôn nhân Champa-Việt này, lãnh thổ Champa là châu Ô và châu Rí (Quảng Trị và Thừa Thiên) đã được nhượng tặng cho Đại Việt. Trong thời trị vì của vua Chế Mân, quyền lực Champa rất mạnh trãi rộng đến tận Tây Nguyên nam phần. Tháp Yang Prong ở Tây Nguyên và tháp Jaya Simhalingesvara (tháp Pô Klaung Garai) nổi tiếng ở Phan Rang là do chính Chế Mân xây dựng.Tuy nhiên sau khi Nhân Tông và Jaya Simhavarman mất, vua Anh Tông hoàn toàn thay đổi chánh sách. Chiến tranh Champa-Việt trở lại khốc liệt hơn khi Champa đòi lại vùng đất đã nhượng.
Theo Minh sử, một trong những lý do nhà Minh đã gởi tướng Trương Phụ xâm lăng Đại Việt là Đại Việt đã nhiều lần xâm phạm lãnh thổ Champa. Sứ giả Champa lúc này đã dùng chiến thuật ngoại giao rất có tác dụng. Họ đã báo cáo thường xuyên rất nhiều lần và nhờ nhà Minh trợ giúp quân sự hay mua võ khí để đánh trả Đại Việt. Nhưng cũng chính sự chiếm đóng và đô hộ Đại Việt của nhà Minh, trong một thời gian đã đưa đến các nguyên nhân dẫn đến sự suy tàn của vương quốc Champa, sau khi Đại Việt dành lại được độc lập. Theo Wade thì có 2 nguyên nhân chính: Sự chiếm đóng và quản lý của nhà Minh ở Đại Việt và các quận ở Indrapura đã mỡ rộng phạm vi Đại Việt, khi quân Minh rút đi Sự chuyển giao kỷ thuật quân sự (súng ống) của nhà Minh vào Đại Việt. Ðến thời Lê Thánh Tông, vương quốc Champa hoàn toàn bị mất thế trong tương quan lực lượng quân sự. Champa bắt đầu tàn lụi sau khi thủ phủ Vijaya bị tàn phá với dân số một phần bị tiêu diệt và phần khác bị bắt làm tù binh mang về Đại Việt.
Theo Shiro Momoki, qua các tư liệu như “Tống hội yếu tập cao”, “Chư Phiên Chí” thì Champa vào thế kỷ 10 đến 11 vẫn còn các cơ cấu xã hội, chính quyền ở phía bắc đèo Hải Vân. Như vậy quan điểm cho rằng người Việt liên tục mở rộng xuống phía Nam từ thế kỷ 10 là không đúng. Ngay cả ở thế kỷ 14, Champa không suy tàn như ta nghĩ, mà vẫn phát triển hoạt động thương mại với Trung Quốc và các nước trong vùng. Vải bông, đồ gốm Chăm xuất khẩu đến các nước Đông Nam Á hải đảo. Cửa Thị Nại là cảng quan trọng ở biển Nam mà Kublai Khan coi là cảng tiếp nối từ cảng Quảng Châu đến cảng Qui lam ở nam Ấn Độ. Như vậy sự nam tiến của Đại Việt sau 1390 chỉ có thể được coi như là một chiến thắng len lỏi từ sau lưng.
Amaravati
Từ đèo Hải Vân (Quảng Nam) xuống phía nam đến giáp Bình Định là vùng trọng điểm của văn minh Champa với các di tích lớn như Mỹ Sơn, Trà Kiệu, Đồng Dương, Khương Mỹ, Chiên Đàn. Nơi đây ở Đồng Dương đã tìm thấy tượng phật đồng rất đẹp đầy mỹ thuật (hiện còn tàng trữ ở viện bảo tàng Thành phố SG). Đặc biệt các tượng điêu khắc, kiến trúc ở đền Đồng Dương chịu ảnh hưởng của Phật giáo đại thừa. Trong tất cả các di tich Chăm, nghệ thuật Chăm Đồng Dương là độc đáo sáng tạo và là nơi duy nhất có chịu ảnh hưởng tư tưởng từ Trung quốc phương bắc. Di tích Đồng Dương hầu như đã bị huỷ diệt hoàn toàn trong cuộc chiến tranh vừa qua.Trà Kiệu hay Simhapura (Thành phố sư tử, từ chữ Simha, Singha nghĩa là sư tử và pura là thành phố) là kinh đô xưa nhất của Champa ở Amaravati. Trước cả 2 thành phố "sư tử"
khác ở Đông Nam Á là Singapore (Lion City, từ Singha và pura) và Singburi (Singha và buri (thành phố)), gần Ayuthaya, Thái Lan. Xưa kia sư tử còn hiện diện ở Cận Đông và Bắc Ấn (các vua người Assyria thường đi săn bắn sư tử như trên các bia khắc đền đã mô tả), sau này sư tử Á châu tuyệt chủng chỉ còn lại sư tử ở Phi Châu. Theo Ngô Văn Doanh thì từ Trà Kiệu hiện nay là biến âm từ chữ Chăm cổ ya – sông, nước và chữ Phạn: keo - ngọc, mà người Việt gọi là thành Sông Ngọc để chỉ thành phố Simhapura. Mariko Yamagata, Ian Glover, Nguyễn Kim Dung của nhóm nghiên cứu Việt-Anh-Nhật khai quật ở Trà Kiệu (1997-2000) và ở Gò Cam (2000) gần sông Thu Bồn, cách thành cổ Trà Kiệu 3.5km về phía Đông. Tại đây đã tìm thấy các hủ đất giống các hiện vật ở Trà Kiệu, các đồ gốm, đồng, dấu ấn thời Hán, di tích nhà gổ cổ nhất (được xác định khoảng ). Dưới tầng khai quật trên là các di vật thuộc văn hóa Sa Huỳnh, cho thấy có sự liên tục và người Chăm là hậu duệ của người Sa Huỳnh. Địa điểm Gò Cam gần ba di tích mộ chôn Sa Huỳnh: Gò Miếu Ông, Gò Mã Voi, Gò Vàng. Ông Yamagata cho rằng Trà Kiệu và Gò Cam xuất hiện n_ sau sự suy tàn của văn hóa Sa Huỳnh. Tầng cuối nhất của địa điểm khảo cổ Hoàn Châu (Trà Kiệu) và Gò Cam được thẩm dịnh ở nửa đầu thế kỷ 2.
Mỹ Sơn là di tích Champa lớn nhất, nằm trong thung lũng, dọc theo một con suối. Nơi đây có nhiều đền, tháp, bia ký được nhiều triều đại trong lịch sử Champa xây dựng. Nhờ bia ký tìm được mà người ta biết được là người sáng lập ra Mỹ Sơn vào thế kỷ thứ 4 là vua Bhadravarman I . Dù thủ đô có dời hay ở nơi nào khác do thời cuộc, các vua chúa Champa vẫn hướng về Mỹ Sơn để tưởng nhớ và xây đền thờ. Thánh địa Mỹ Sơn vì thế có nhiều kiến trúc khác nhau theo các phong thái riêng của mỗi thời.. Phần lớn những công trình kiến trúc hiện còn ở Mỹ Sơn được xây dựng vào thế kỷ thứ 10 có chung một phong cách kiến trúc được các nhà nghiên cứu gọi chung là phong cách Mỹ Sơn A1. Trước phong cách Mỹ Sơn A1 là các nhóm tháp thuộc thế kỷ 8 đến 9. Qua lịch trình phát triển kiến trúc Champa thì trong 2 thế kỷ 8 và 9, có ba phong cách khác nhau được nhận ra là phong cách Mỹ Sơn E1, phong cách Hoà Lai và phong cách Đồng Dương.
Trong cuộc chiến tranh Việt-Mỹ vừa qua, đền Mỹ Sơn A1 và vài di tích lân cận đã bị phá huỷ khi trúng bom máy bay Mỹ trong một phi vụ oanh kích. Vào năm 1988, trong một công trình thủy lợi, người ta tình cờ khám phá ra di tích tháp An Mỹ, Tam Kỳ với nhiều điêu khắc đá như bộ linga-yoni, trang trí kiến trúc (đỉnh, cột tháp), mảnh vở của tấm bia… Niên đại được thẩm định vào đầu thế kỷ 10, thuộc phong cách chuyển tiếp từ Đồng Dương đến Mỹ Sơn A1.
Vào năm 1997, tỉnh Quảng Nam và chính phủ Việt Nam đã đề nghị và xin Liên Hiệp Quốc đưa Trà Kiệu, Mỹ Sơn và Đồng Dương lên danh sách những di sản của thế giới (World Heritage list) để bảo tồn. Đây là những di tích văn hóa xưa nhất ở Trung Việt Nam, lâu hơn Huế hơn 12 thế kỷ. Hiện nay quần thể Mỹ Sơn được công nhận là một di sản văn hoá thế giới.
Đồng Dương (Indrapura) một thời là kinh đô của Champa dưới triều đại Indrapura. Triều đại Indrapura, do vua Indravarman II sáng lập, bắt đầu từ năm 875. Các đền tháp của phong cách Mỹ Sơn A1 đều được xây dựng dưới triều đại Indrapura. Sau hơn một thế kỷ phát triển, kinh thành Indrapura bị tiêu hủy trong trận chiến với vua Lê Đại H&ag
vùng đất từ Đèo Ngang, Hoành Sơn đến đèo Hải Vân (Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên) là vùng giao điểm của hai văn minh từ hướng Bắc và hướng Nam hải đảo. Đây là vùng đất "đệm" của hai nền văn minh Ấn-Hoa. Di tích Champa trong vùng này còn ở Mỹ Đức, Quảng Bình, Hà Trung, Thạch An, Bích La cũng như ở dãi cồn ở Cửa Tùng, Cửa Việt. Di tích Tháp Champa được tìm thấy ở An Xá (Do Linh), Cam Giang, Cam Lộ, Cổ Thành Ái Tử và Trà Liên.
Tại vùng này, người ta cũng tìm được nhiều đồ gốm xưa của văn hoá Champa và Trung quốc từ thời Đường, Tống, Minh.. chứng tỏ xưa kia ở đây cũng có thể là nơi có các hải cảng thương mại sầm uất không kém cảng Hội An về sau này.
Xa hơn nữa vào thời tiền sử, vùng này là nơi chuyển tiếp của giao lưu văn hóa Sa Huỳnh và văn minh Đông Sơn qua Đèo Ngang. Nơi đây còn có các di tích văn hóa Sa Huỳnh ở Cồn Bàu, đảo Cồn Cỏ, Cổ Trai ở Cửa Tùng. Đồ đồng Đông Sơn đã được tìm thấy ở Tam Mỹ, Phú Hòa và mới đây tận mãi Bình Định, còn những khuyên tai hai đầu thú và các hạt chuổi thuỷ tinh thuộc văn hoá Sa Huỳnh, thì tìm thấy được ở Xuân An, Làng Vạc (Nghệ An, Hà Tĩnh). Văn hoá Sa Huỳnh được các nhà khảo cổ Việt Nam và nước ngoài cho là có không gian chính từ Quảng Nam đến Đồng Nai.
Tháng 8, 2001 ở Thừa Thiên, Huế, tình cờ tìm được một ngôi tháp Chăm nhỏ, đỉnh tháp đã mất, thân tháp cao khoảng gần 2m. Theo Ngô Văn Doanh, ngôi tháp này (gọi là tháp Mỹ Khánh) có niên đại ở thế kỷ 8. Như vậy là ngôi tháp Chăm cổ nhất hiện còn thuộc phong cách Mỹ Sơn E1.
Trong chiến tranh chống Mông cổ dưới đời vua Trần Nhân Tông, liên minh Champa-Việt đã thành công đẩy lui hiểm họa xâm lăng từ phương bắc qua đường bộ và thủy. Từ sự liên kết này qua chính sách chiến lược sáng suốt của vua Trần Nhân Tông, mà Jaya Simhavarman III (Chế Mân) cũng đã đồng ý theo lời đề nghị của thượng hoàng Nhân Tông, trong dịp ông rời nơi tu dưỡng ở núi Yên Tử đi viếng Champa, để lấy công chúa Trần Huyền Trân, em gái của vua Trần Anh Tông. Trong hôn nhân Champa-Việt này, lãnh thổ Champa là châu Ô và châu Rí (Quảng Trị và Thừa Thiên) đã được nhượng tặng cho Đại Việt. Trong thời trị vì của vua Chế Mân, quyền lực Champa rất mạnh trãi rộng đến tận Tây Nguyên nam phần. Tháp Yang Prong ở Tây Nguyên và tháp Jaya Simhalingesvara (tháp Pô Klaung Garai) nổi tiếng ở Phan Rang là do chính Chế Mân xây dựng.Tuy nhiên sau khi Nhân Tông và Jaya Simhavarman mất, vua Anh Tông hoàn toàn thay đổi chánh sách. Chiến tranh Champa-Việt trở lại khốc liệt hơn khi Champa đòi lại vùng đất đã nhượng.
Theo Minh sử, một trong những lý do nhà Minh đã gởi tướng Trương Phụ xâm lăng Đại Việt là Đại Việt đã nhiều lần xâm phạm lãnh thổ Champa. Sứ giả Champa lúc này đã dùng chiến thuật ngoại giao rất có tác dụng. Họ đã báo cáo thường xuyên rất nhiều lần và nhờ nhà Minh trợ giúp quân sự hay mua võ khí để đánh trả Đại Việt. Nhưng cũng chính sự chiếm đóng và đô hộ Đại Việt của nhà Minh, trong một thời gian đã đưa đến các nguyên nhân dẫn đến sự suy tàn của vương quốc Champa, sau khi Đại Việt dành lại được độc lập. Theo Wade thì có 2 nguyên nhân chính: Sự chiếm đóng và quản lý của nhà Minh ở Đại Việt và các quận ở Indrapura đã mỡ rộng phạm vi Đại Việt, khi quân Minh rút đi Sự chuyển giao kỷ thuật quân sự (súng ống) của nhà Minh vào Đại Việt. Ðến thời Lê Thánh Tông, vương quốc Champa hoàn toàn bị mất thế trong tương quan lực lượng quân sự. Champa bắt đầu tàn lụi sau khi thủ phủ Vijaya bị tàn phá với dân số một phần bị tiêu diệt và phần khác bị bắt làm tù binh mang về Đại Việt.
Theo Shiro Momoki, qua các tư liệu như “Tống hội yếu tập cao”, “Chư Phiên Chí” thì Champa vào thế kỷ 10 đến 11 vẫn còn các cơ cấu xã hội, chính quyền ở phía bắc đèo Hải Vân. Như vậy quan điểm cho rằng người Việt liên tục mở rộng xuống phía Nam từ thế kỷ 10 là không đúng. Ngay cả ở thế kỷ 14, Champa không suy tàn như ta nghĩ, mà vẫn phát triển hoạt động thương mại với Trung Quốc và các nước trong vùng. Vải bông, đồ gốm Chăm xuất khẩu đến các nước Đông Nam Á hải đảo. Cửa Thị Nại là cảng quan trọng ở biển Nam mà Kublai Khan coi là cảng tiếp nối từ cảng Quảng Châu đến cảng Qui lam ở nam Ấn Độ. Như vậy sự nam tiến của Đại Việt sau 1390 chỉ có thể được coi như là một chiến thắng len lỏi từ sau lưng.
Amaravati
Từ đèo Hải Vân (Quảng Nam) xuống phía nam đến giáp Bình Định là vùng trọng điểm của văn minh Champa với các di tích lớn như Mỹ Sơn, Trà Kiệu, Đồng Dương, Khương Mỹ, Chiên Đàn. Nơi đây ở Đồng Dương đã tìm thấy tượng phật đồng rất đẹp đầy mỹ thuật (hiện còn tàng trữ ở viện bảo tàng Thành phố SG). Đặc biệt các tượng điêu khắc, kiến trúc ở đền Đồng Dương chịu ảnh hưởng của Phật giáo đại thừa. Trong tất cả các di tich Chăm, nghệ thuật Chăm Đồng Dương là độc đáo sáng tạo và là nơi duy nhất có chịu ảnh hưởng tư tưởng từ Trung quốc phương bắc. Di tích Đồng Dương hầu như đã bị huỷ diệt hoàn toàn trong cuộc chiến tranh vừa qua.Trà Kiệu hay Simhapura (Thành phố sư tử, từ chữ Simha, Singha nghĩa là sư tử và pura là thành phố) là kinh đô xưa nhất của Champa ở Amaravati. Trước cả 2 thành phố "sư tử"
khác ở Đông Nam Á là Singapore (Lion City, từ Singha và pura) và Singburi (Singha và buri (thành phố)), gần Ayuthaya, Thái Lan. Xưa kia sư tử còn hiện diện ở Cận Đông và Bắc Ấn (các vua người Assyria thường đi săn bắn sư tử như trên các bia khắc đền đã mô tả), sau này sư tử Á châu tuyệt chủng chỉ còn lại sư tử ở Phi Châu. Theo Ngô Văn Doanh thì từ Trà Kiệu hiện nay là biến âm từ chữ Chăm cổ ya – sông, nước và chữ Phạn: keo - ngọc, mà người Việt gọi là thành Sông Ngọc để chỉ thành phố Simhapura. Mariko Yamagata, Ian Glover, Nguyễn Kim Dung của nhóm nghiên cứu Việt-Anh-Nhật khai quật ở Trà Kiệu (1997-2000) và ở Gò Cam (2000) gần sông Thu Bồn, cách thành cổ Trà Kiệu 3.5km về phía Đông. Tại đây đã tìm thấy các hủ đất giống các hiện vật ở Trà Kiệu, các đồ gốm, đồng, dấu ấn thời Hán, di tích nhà gổ cổ nhất (được xác định khoảng ). Dưới tầng khai quật trên là các di vật thuộc văn hóa Sa Huỳnh, cho thấy có sự liên tục và người Chăm là hậu duệ của người Sa Huỳnh. Địa điểm Gò Cam gần ba di tích mộ chôn Sa Huỳnh: Gò Miếu Ông, Gò Mã Voi, Gò Vàng. Ông Yamagata cho rằng Trà Kiệu và Gò Cam xuất hiện n_ sau sự suy tàn của văn hóa Sa Huỳnh. Tầng cuối nhất của địa điểm khảo cổ Hoàn Châu (Trà Kiệu) và Gò Cam được thẩm dịnh ở nửa đầu thế kỷ 2.
Mỹ Sơn là di tích Champa lớn nhất, nằm trong thung lũng, dọc theo một con suối. Nơi đây có nhiều đền, tháp, bia ký được nhiều triều đại trong lịch sử Champa xây dựng. Nhờ bia ký tìm được mà người ta biết được là người sáng lập ra Mỹ Sơn vào thế kỷ thứ 4 là vua Bhadravarman I . Dù thủ đô có dời hay ở nơi nào khác do thời cuộc, các vua chúa Champa vẫn hướng về Mỹ Sơn để tưởng nhớ và xây đền thờ. Thánh địa Mỹ Sơn vì thế có nhiều kiến trúc khác nhau theo các phong thái riêng của mỗi thời.. Phần lớn những công trình kiến trúc hiện còn ở Mỹ Sơn được xây dựng vào thế kỷ thứ 10 có chung một phong cách kiến trúc được các nhà nghiên cứu gọi chung là phong cách Mỹ Sơn A1. Trước phong cách Mỹ Sơn A1 là các nhóm tháp thuộc thế kỷ 8 đến 9. Qua lịch trình phát triển kiến trúc Champa thì trong 2 thế kỷ 8 và 9, có ba phong cách khác nhau được nhận ra là phong cách Mỹ Sơn E1, phong cách Hoà Lai và phong cách Đồng Dương.
Trong cuộc chiến tranh Việt-Mỹ vừa qua, đền Mỹ Sơn A1 và vài di tích lân cận đã bị phá huỷ khi trúng bom máy bay Mỹ trong một phi vụ oanh kích. Vào năm 1988, trong một công trình thủy lợi, người ta tình cờ khám phá ra di tích tháp An Mỹ, Tam Kỳ với nhiều điêu khắc đá như bộ linga-yoni, trang trí kiến trúc (đỉnh, cột tháp), mảnh vở của tấm bia… Niên đại được thẩm định vào đầu thế kỷ 10, thuộc phong cách chuyển tiếp từ Đồng Dương đến Mỹ Sơn A1.
Vào năm 1997, tỉnh Quảng Nam và chính phủ Việt Nam đã đề nghị và xin Liên Hiệp Quốc đưa Trà Kiệu, Mỹ Sơn và Đồng Dương lên danh sách những di sản của thế giới (World Heritage list) để bảo tồn. Đây là những di tích văn hóa xưa nhất ở Trung Việt Nam, lâu hơn Huế hơn 12 thế kỷ. Hiện nay quần thể Mỹ Sơn được công nhận là một di sản văn hoá thế giới.
Đồng Dương (Indrapura) một thời là kinh đô của Champa dưới triều đại Indrapura. Triều đại Indrapura, do vua Indravarman II sáng lập, bắt đầu từ năm 875. Các đền tháp của phong cách Mỹ Sơn A1 đều được xây dựng dưới triều đại Indrapura. Sau hơn một thế kỷ phát triển, kinh thành Indrapura bị tiêu hủy trong trận chiến với vua Lê Đại H&ag
Total votes: 0
Khánh Sơn
User not write anything about he.
Like (2)
Loading...