Select
Tag Cloud

Anything in here will be replaced on browsers that support the canvas element

  • Yahoo
  • Google
  • Live
  • Live
By: On June 6, 2012
Văn Hiến -Văn h3a trang phục Chăm thể hiện qua cc hiện vật được trưng by ở Bảo tᠠng điu khắc Chăm rất đa dạng phong ph. T꺹y theo nghề nghiệp, trong sinh họat hng ngy, trong h࠴n lễ, trong cc lễ hội cũng như theo lứa tuổi, giới tnh… m᭠ trang phục được may theo những phong cch khc nhau. Nhᡬn từ đặc điểm giới tnh, c thể nhận thấy nếu như phụ nữ Chăm th� qung khăn mu trắng, vࠡy ở trong, o ở ngoi, cᠳ khăn mu đỏ đnh ở tay phải vୠ bn hng, b괪n tay tri c đ᳭nh tua mu đỏ. Đn ࠴ng dn tộc Chăm lại mặc quần o trắng, khăn đ⡴i đầu mu vng c࠳ dải buộc ở quần. Đồ đội đầu của đn ng Chăm phổ biến lഠ khăn, đối với người đn ng trẻ tuổi thബ khng đội khăn m chỉ vắt khăn ch䠩o vng cổ qua vai. Cch đội đầu của người Chăm biểu hiện sự ph⡢n biệt cc đẳng cấp trong x hội, đᣠn ng qu tộc th佬 đội khăn c dệt vải hoa văn quả trm c㡹ng mu trắng phủ kn mặt vải, c୲n đn ng bബnh thường th sử dụng khăn dệt trơn bằng vải th trắng kh촴ng c hoa văn. Đn 㠴ng Chăm v thiếu nữ Chăm trong ngy lễ Trong văn h࠳a dn tộc Chăm, ng giữ đ⴨n l người chủ tr nghi lễ tắm tượng thần lễ, mặc trang phục thần P଴Klong Garai, mặc o vy mᡠu trắng, bn ngực phải c gắn khăn đỏ, khăn đội đầu m고 trắng c viền tua đỏ. Thầy ko đ㩠n l người chủ tr cଡc nghi lễ lin quan đến nng nhiệp. Trong lễ Kate, thầy k괩o đn ht bࡠi thnh ca ca ngợi cc vị thần cᡳ cng đức với dn l䢠ng được người Chăm ngưỡng mộ, suy tn. Thầy mặc o v䡡y mu trắng, vy quần cࡳ viền, khăn chong đầu mu trắng c࠳ viền tua đỏ, vai phải c khăn mu đỏ vắt ngang, tay tr㠡i vắt hai khăn mu đỏ, mu vࠠng. Thầy k)o đn Kanhi, Cả Sư vࠠThầy Bng Khc với thầy k㡩o đn, thầy bng quೠng khăn chong đầu mu trࠡng viền tua đỏ, o mặc trong mu trắng, ᠡo mặc ngoi mu đỏ, vࠡy quần mu trắng, trn vડy quần c đnh m㭠u nu với hoa văn thu rất đặc sắc, vai phải của thầy b⪳ng qung khăn mu đỏ. Y phục của bࠠ Đơm Cơm trong văn ha Chăm cũng rất đặc biệt với khăn chong cổ về ph㠭a tri c viền đỏ, ᳡o vy mu trắng, vᠡy quần viền đỏ, tay phải cũng c khăn mu đỏ. B㠪n cạnh đ l h㠬nh ảnh thầy vỗ- nghệ nhn biểu diễn trống Ghinăng- một loại nhạc cụ trong dn nhạc cổ truyền của người Chăm. Thầy vỗ c⠳ khăn chong đầu mu trắng, hai bࠪn c viền tua đỏ, o v㡡y mu trắng, tay phải c khăn mೠu đỏ. Thầy Vỗ (hnh tri) -졠Trang phục c du ch䢺 rể (hnh phải) 젠 Nt độc đo ở văn h顳a trang phục người Chăm cn thể hiện trong trang phục ngy cưới. Trong ng⠠y lễ trọng đại ny, ton bộ ࠡo vy của c dᴢu mang mu trắng c viền hoa văn đỏ, cೳ tua mu đỏ đnh tr୪n khăn ở bn tri. Trang phục ch꡺ rể gồm o trong mu trắng, ᠡo ngoi mu t࠭m, trn đầu đội cả khăn đội đầu v khăn ch꠹m. Ch rể mặc vy trắng kh꡴ng viền hoa văn c3 dải khăn. Ty theo loại lễ hội v t頭nh chất lễ hội m trang phục Chăm c những điểm khೡc nhau. B Bng lೠ người dng lễ vật ln c⪡c vị thần trong cc đền thp. Bᡠ l người trung gian lm cầu nối để chuyển tải lời cầu nguyện của dࠢn lng ln cડc vị thần v ngược lại. B B࠳ng mặc o di trắng, vᠡy trắng, khăn đội đầu v cuối c viền tua đỏ, ngoೠi ra cn c th⳪m khăn trầu đỏ. B vũ sư v bࠠ Bng Kh㠡c với B Bng, Bೠ Xế l người phụ lễ trong cc nghi thức liࡪn quan đến đền thp hằng năm như lễ mở cửa thp, lễ tống ᡴn, lễ Kat v trong tang lễ. Bꠠ mặc o vy mᡠu trắng, khăn đội đầu mu trắng c viền tua đỏ, vai phải cೳ khăn mu đỏ v c࠳ v mang trn người. Ngo�i ra, trong bảo tng cn trưng bಠy trang phục của thầy Cả Sư. Đối với người Chăm theo đạo Blamn. Thầy Cả Sư cള nhiệm vụ tnh lịch php Chăm, điều h�nh v điều phối cc Paseh phục vụ tang lễ vࡠ chủ tr cc nghi thức lễ li졪n quan đến đền thp hng năm. Trang phục của thầy Cả Sư gồm vᠡy o mu trắng, vᠡy quần c viền đỏ vng xanh, khăn m㠠u trắng c viền tua đỏ, vai phải c khăn đỏ vắt ngang vai, vai tr㳡i mang v. Đối với người Chăm, đồ trang sức cũng chiếm một vị tr quan trọng trong văn h�a trang phục. Người đn ng Chăm dഹng đồ trang sức đơn giản, họ chỉ c đeo duy nhất một chiếc nhẫn, mặt nhẫn c đ㳡nh hột đen được bao quanh bằng hoa 8 cnh m họ thường gọi lᠠ chiếc nhẫn Mưta. Người phụ nữ Chăm thường đeo hoa tai c đnh tua vải m㭠u đỏ hnh nấm, hnh tr쬲n, hnh vnh khăn l젠m bằng vng, đồng thau v c࠳ đnh tua vải đỏ, cổ c đeo x�u chuỗi hột trn hnh bầu dục cũng bằng v⬠ng hoặc đồng thau, tay đeo nhẫn Mưta mặt nhẵn c đnh hột đen được bao quanh bằng hoa 4 c㭡nh: chiếc nhẫn Mưta l đồ trang sức in đậm bản sắc Chăm. Từ những hiện vật được trưng by ở bảo tࠠng Chăm, c thể nhận thấy trang phục của người Chăm chủ yếu lấy mu trắng l㠠m mu sắc chủ đạo, viền trn chઢn vy, tay o… thường lᡠ hoa văn thu mu đỏ sự trang tr꠭ trn trang phục khng qu괡 cầu kỳ nhưng vẫn tot ln được vẻ tinh tế cũng như sự độc đ᪡o, l nt ri੪ng thuộc về bản sắc khng ha lẫn, kh䲴ng pha tạp với bất kỳ dn tộc no.⠠ Trang phục Chăm trong c!c lễ hội Nhn tổng qut, 졡o di phụ nữ Chăm v phụ nữ Kinh c࠳ nhiều nt tương đồng, chỉ khc nhau ở chỗ l顠 o di Kinh cᠳ xẻ t với nt bấm để mặc hay cởi được dễ dຠng chứ khng phải chui đầu như o d䡠i Chăm. Chnh ở đặc điểm ny m� người Chăm cho rằng o di Kinh tuy giống ᠡo di Chăm nhưng được nng cao về mặt mỹ thuật vࢠ tiện lợi hơn. V cũng chnh v୬ lẽ đ, trang phục được xem như một tn hiệu biểu trưng để nhận biết, ph㭢n biệt tộc người ny với tộc người khc trong cộng đồng dࡢn tộc, l một gi trị bền vững mang mࡠu sắc ring của mnh. ꬠ Nghệ nhn thổi t (vỏ ốc biển)⹠ L Chnh theo: vntimes.com.vn
0 Rating 430 views 1 like 0 Comments
Read more
By: On June 5, 2012
Nằm ở địa thế cao nhất thuộc thnh phố Tuy Ha, tỉnh Ph಺ Yn. Thp Chăm – tꡪn người dn bản địa nơi đy thường gọi l⢠ Thp Nhạn. Ta thᲡp độc đo ny được tọa lạc trᠪn đỉnh ni Nhạn l một trong những địa danh được nhiều du khꠡch lần đầu đến với thnh phố biển khng thể bỏ qua. Thഡp Nhạn nổi bật trn ni Nhạn, khu vực cao nhất ở TP Tuy H꺲a Được Bộ Văn ha Thng tin (nay l㴠 Bộ VHTTDL) cng nhận l Di t䠭ch kiến trc - nghệ thuật cấp Quốc gia ngy 16/11/1988. Với kiến tr꠺c độc đo, Thp Nhạn lᡠ một trong những ngi thp v䡠o loại lớn của người Chăm. Ẩn hiện sau những t!n cy cổ thụ, Thp Nhạn khiến bất cứ ai cũng t⡲ m khi lần đầu đặt chn đến C⢳ kiến trc bnh đồ vuꬴng, với chiều cao gần 24m, Thp Nhạn bao gồm 3 phần chnh đ᭳ l phần đế, thn vࢠ mi cng những nṩt hoa văn cổ knh độc đo gồm tất cả 4 tầng thu nhỏ dần khi l�n cao đặc trưng của thời kỳ cuối thế kỷ 11. Trn khoảng sn rộng, Thꢡp Nhạn hiện diện như một dấu ấn của văn ha Chăm Nằm ở độ cao hơn 60m so với mực nước biển, đứng trn Th㪡p Nhạn chng ta c thể quan s곡t ton cảnh TP. Tuy Ha với dải bờ biển cಹng sự pht triển của thnh phố nᠠy… Đỉnh thp được lm bằng đᠡ khối hnh trụ, biểu tượng phồn thực Bốn mặt của thp được trang tr졭 bằng cc hoa văn độc đo Một trong 4 gᡳc cạnh của thp vẫn cn nguyᲪn vẹn Lam Than theo: thethaovanhoa.vn
0 Rating 367 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On June 2, 2012
Người Việt trong quá trình mở rộng lãnh thổ và tiến về phương Nam, đã từng bước thay thế người Chăm trở thành chủ nhân của dải đất duyên hải miền Trung ngày nay.   Trong quá trình đó, người Việt đã tiếp nhận và nối tiếp các mối quan hệ thương mại, duy trì các thương cảng và phát triển nên hải thương vốn có từ thời Vương quốc Champa. Từ đó dẫn đến sự chuyển hóa từ thương cảng Chăm sang thương cảng Việt mà điển hình là thương cảng Thi Nại – Nước Mặn (Bình Định). Vijaya từ thế kỷ XI đến cuối thế kỷ XV, với vị thế là trung tâm chính trị, văn hóa và kinh tế của vương quốc Champa đã phát triển rất thịnh đạt. Những tòa thành kiên cố, những đền tháp tôn giáo, những thương cảng ven biển… đã được xây dựng. Trong một tổng thể Vijaya tương đối hoàn chỉnh ấy, thương cảng Thi Nại đã trở thành quốc cảng và là cửa ngõ quan trọng nhất hướng ra thế giới bên ngoài của Vương quốc Champa. Thương cảng Thi Nại Với vị trí nằm trên con đường hàng hải quốc tế, Thi Nại đã có mối quan hệ với nhiều khu vực trong nước và các quốc gia láng giềng. Thương cảng Thi Nại của Vương quốc Champa đã trở thành một điểm đến quen thuộc của các thương thuyền trên tuyến hải thương khu vực, đặc biệt, Thi Nại đã trở thành điểm kết nối mang tính chiến lược giữa Trung Quốc với thế giới Đông Nam và Tây Nam Á.   Đầm Thi Nại Sau hơn hai thế kỷ, Thi Nại gần như bị bỏ hoang phế, đến thời chúa Nguyễn, với chính sách cởi mở trọng thị với các thương nhân ngoại quốc đặc biệt là Trung Quốc, Nhật Bản trong việc trao đổi hàng hóa, thương cảng Thi Nại xưa đã mau chóng phục hưng trở lại, thành một thương cảng sầm uất của vùng Đàng Trong thời bấy giờ với cái tên mới “Nước Mặn”. Thương cảng Nước Mặn hình thành đầu thế kỷ XVI, phát triển đỉnh cao trong thế kỷ XVII, nằm trên đồng bằng cuối hạ lưu sông Côn, thuộc thôn An Hòa, xã Phước Quang, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định. Nước Mặn nằm tại phủ Quy Nhơn – một phủ giàu có của Đàng Trong. Sản vật có nhiều loại như: trầm hương, tốc hương, sừng tê, vàng bạc, đồi mồi, châu báu, sáp ông, đường, mật, dầu, sơn, cau tươi, hồ tiêu, gỗ, thóc lúa… Không những thế, Phủ Quy Nhơn lại nằm gần các phủ Phú Yên, Bình Khang, Dinh Nha Trang. Sự phong phú của các sản vật tự nhiên đã mang lại nguồn hàng dồi dào, có giá trị, thu hút sự có mặt của các thương nhân, tàu buôn tại khu vực này. Nơi đây đã trở thành một cửa khẩu thương mại quan trọng trong vùng Đông Nam Á và là một thương trạm quan trọng trên “Con đường gốm sứ” ở vùng biển Tây Nam Thái Bình Dương trong thời đại Đại thương mại. Phố cảng Nước Mặn Thương cảng Nước Mặn, từ vị thế là một quốc cảng của Vương quốc Champa xưa, đã thành một thương cảng trung tâm vùng dưới thời các chúa Nguyễn Đàng Trong. Nước Mặn có vai trò quan trọng trên con đường tiến về phương Nam của các chúa Nguyễn, nắm vị thế là trung tâm kết nối với biển lục địa, giữa vùng cao nguyên trù phú với đồng bằng và vùng biển phía đông. Cũng giống như các thương cảng khác ở miền Trung, sự phát triển của thương cảng Nước Mặn gắn liền với vai trò của các thương nhân Hoa kiều. Bên cạnh đó còn có các thương nhân Nhật Bản, phương Tây. Sự hiện diện và tham gia của các thương nhân ngoại quốc đã mang lại sức sống cho không chỉ thương cảng Nước Mặn mà còn cho cả các thương cảng Đàng Trong khác như Hội An, Thanh Hà. Họ đã trở thành cầu nối hiệu quả giữa thị trường trong nước với thế giới bên ngoài.   Cảng Quy Nhơn Người Chăm và Vương quốc Champa trong lịch sử đã có sự phát triển hải thương lâu dài, được ghi nhận là một “vương quốc biển” hay “thể chế biển” điển hình trong lịch sử Đông Nam Á cổ trung đại. Từ thế kỷ XVI -XVIII đã diễn ra sự chuyển hóa từ thương cảng Chăm sang Việt với trường hợp Hội An, Thanh Hà, Nước Mặn… Thương cảng Nước Mặn đã nối tiếp lợi thế vốn có từ thời Thi Nại để trở thành một thương cảng trọng yếu của xứ Đàng Trong với những sứ mệnh và vai trò lịch sử đặc biệt của mình trong việc phát triển ngoại thương và mở mang lãnh thổ người Việt về phương Nam. Lê Khiêm tổng hợp Nguồn: Đỗ Trường Giang, Sự chuyển hóa từ thương cảng Chăm sang Việt (trường hợp Thi Nại – Nước Mặn). NCĐNÁ 2008, số 8, tr. 71 – 76. Nguồn:Gulpataom.com (theo http://www.baotanglichsu.vn)
0 Rating 657 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On May 26, 2012
Tượng vũ nữ Chămpa Ở mỗi dân tộc, mỗi đất nước đều có bề dày lịch sử và bề rộng của không gian xã hội. Cũng vậy, cư dân Chăm đã có một vương quốc với một nền văn minh cổ đại. Lớp bụi hàng trăm năm của thời gian vẫn không xoá nhoà hình ảnh của vương quốc Chămpa cổ, vốn là một hiện tượng lịch sử văn hoá độc đáo. Bởi lẽ đến nay, những công trình kiến trúc, điêu khắc cổ và kể cả nghề luyện kim đã để lại rất nhiều hiện vật tiêu biểu cho thời kỳ hưng thịnh của cư dân Chăm.     Nghệ thuật điêu khắc Chămpa đã đi sâu vào lòng người, sớm nhất vào khoảng đầu thế kỷ 7,  đã gây nên những ấn tượng khá sâu sắc tới nhiều người trong và ngoài nước. Có thể nói công phát hiện đầu tiên là của các học giả, nhà nghiên cứu Pháp như: Parmentier, Agmonier, G. Maspero. Tuy số nhà nghiên cứu không nhiều, nhưng với nghệ thuật điêu khắc độc đáo và phong cách gắn với sắc thái dân tộc đã đóng góp một phần nào vào kho tàng văn hóa của nhân loại. Trong các tác phẩm điêu khắc được trưng bày tại Bảo tàng Chăm Đà Nẵng, Bảo tàng Lịch sử Việt Nam – TP Hồ Chí Minh. Các tác phẩm được trưng bày ở đây đã minh chứng cho sự phát triển của nghệ thuật Chămpa đạt đến đỉnh cao của nghệ thuật và đã được phát triển liên tục từ thế kỷ 7 đến thế kỷ 17, trong đó có vũ nữ Apsara Chămpa. Cội nguồn của các pho tượng trên là do các nhà nghiên cứu Pháp phát hiện từ vùng Quảng Nam – Đà Nẵng cho đến Quy Nhơn – Bình Định là những vùng được coi là lưu giữ nhiều nhất các di tích Chămpa như Mỹ Sơn, Đồng Dương, Trà Kiệu. Trong đó tượng vũ nữ Apsara của bệ thờ Trà Kiệu là một tác phẩm điêu khắc tiêu biểu. Vũ nữ Apsara với khuôn mặt đầy đặn, đầu đội mũ Mrần kiểu Kirata – Mukata có nhiều tầng với hai mắt mở to, sóng mũi cao và nở rộng đó là đặc trưng của điêu khắc Chămpa. Bên cạnh đó để làm đẹp và tô thêm sự duyên dáng của các cô vũ nữ, nghệ nhân Chămpa đã khắc đôi bông tai bằng những tua sợi rất tinh tế và hài hòa, ngoài ra với đôi môi mỏng và đang mỉm cười đã làm cho chân dung vũ nữ thêm phần sinh động. Đi sâu vào bức tượng, ngắm nhìn, cố lọc ra những gì tưởng chừng như không hợp lý, nhịp điệu của cơ thể giúp cho chúng ta đi vào bên trong của sự kỳ diệu ấy.   Cô gái gần như lõa thể, với hai bộ ngực căng tròn với hai cánh tay nõn nà điểm xuyến vòng tay (Kon), bắp tay, bắp đùi căng tròn và thon thả. Cùng với điêu khắc đã phác họa vũ nữ Chămpa đẹp và sống động ấy vượt lên trên vẻ đẹp thân xác. Vũ nữ không có sắc dục, chỉ có nhịp điệu và vũ điệu Tamia Tatih; Tamia Biyen, Tamia Tra mà được các hậu duệ của họ là thiếu nữ Chăm nối tiếp vũ điệu cổ xưa đang lưu truyền trong cộng đồng người Chăm cho đến ngày nay. Toàn bộ khối hình của người vũ nữ là hai hình tam giác đối đỉnh nhau tạo nên một cảm giác cân đối nhưng chông chênh. Các đường lượn của tay và đùi tạo thành các đường gấp khúc uyển chuyển. Với cánh tay dài nõn nà mà có thể nói là quá khổ uốn cong thành một động tác tưởng chừng như là phi lý, nhưng chính cánh tay trái này làm thành một đường lượn kết nối hai phần của bức tượng, làm hai khối trở nên mềm mại và tinh tế hơn. Cùng với chiếc khố “plá tọp” được chạm với họa tiết khắc vạch rất tinh tế, diễn tả các đường trang trí hình cườm đồng tâm tỏa đều trên thân tượng. Những đường tròn từ chuỗi hạt, dây lưng, viền khố tạo một làn sóng lan tỏa từ trên xuống dưới. Các hạt cườm vắt qua bắp đùi và cánh tay giúp cho các khối này trở nên tròn trịa hơn. Hai chân ở một tư thế một chân trụ vững, một chân nhón gót theo nhịp uốn của thân rất uyển chuyển tài hoa mà bất cứ một vũ nữ tài ba nào ở thế gian này khó đạt được. Nghệ nhân Chămpa xưa đã biết tạo được nhịp động của khối đá vô tri vô giác thành một đường nét tổng hòa, một tư thế rất mềm mại mà khỏe khoắn tạo cho người xem, nhà nghiên cứu càng thích thú thêm về vũ nữ Apsara. Nhà nghiên cứu Cao Xuân Phổ đã nói “người ta gọi là vũ nữ riêng tôi gọi là cô gái Trà Kiệu, bao nhiêu mỹ từ đã được gán cho người đẹp, vẫn cảm thấy như chưa đủ, khách tham quan còn muốn tự bàn tay mình tiếp xúc với làn da mát rượi, cầu mong một luồng cộng hưởng giữa người nay và người xưa. Ao giác biết là ảo mà vẫn mong”.         Thật vậy, chúng ta có thể nhìn bệ thờ Linga và Yoni ở Trà Kiệu mà nhiều nhà nghiên cứu gọi là bệ thờ Trà Kiệu, hay bàn thờ vũ nữ : rộng 3m, cao 1,50m thể hiện hai vũ nữ và hai nhạc công với khuôn mặt ngất ngây hiền dịu, đôi mắt như nhìn vào cõi xa xăm, làn môi như hé nở nụ cười, tư thế uốn cong vừa khỏe vừa uyển chuyển mà dứt khoát. Đường cong của thân phù hợp với đường cong của đôi chân tô thêm sự diệu kỳ của người vũ nữ mà nhà nghiên cứu đã thốt lên “động trong cái tĩnh, tĩnh trong cái động của điệu múa”. Đó là bí quyết của nghệ thuật múa của Chămpa nói riêng và nghệ thuật Đông Phương nói chung mà người vũ nữ Trà Kiệu đã thể hiện một cách hoàn mỹ.   So sánh giữa vũ nữ Campuchia với vũ nữ Chămpa, ta thấy có những nét tương đồng, như: có tư thế hai tay uyển chuyển, đôi chân với tư thế một chân trụ và một chân nhón. Tuy nhiên nhìn dưới góc độ mỹ thuật, Apsara Chăm có nét hài hòa, uyển chuyển và hoàn mỹ hơn như mắt mở tròn, mũi cao với khuôn mặt xinh xắn cùng với đôi môi như nở nụ cười, không như Apsara Campuchia với khuôn mặt không cân đối, mũi nở rộng, môi dày, đặc biệt hơi dữ tợn với đôi cánh tay to và thô, có lẽ nghệ thuật điêu khắc của họ đã bị ảnh hưởng vấn đề tôn giáo rất sâu sắc, vì họ quan niệm đã là thần hay vũ nữ phải có cái riêng, cái uy quyền của thần linh, khác với đời thường thì muôn dân mới sợ và kính trọng.   Theo truyền thuyết, Apsara được coi như là nữ thần biên giới, là vũ nữ của thần Indra, chuyên múa hát và dâng hoa cho các vị thần. Apsara có biệt tài ca hát, nhảy múa có nghệ thuật yêu đương, là người bạn hay người yêu của mục đồng thiên giới Gandhawa, đặc biệt có tài khêu gợi tình dục, thậm chí phá được phép tu khổ hạnh của các tu sĩ đắc đạo và làm xiêu lòng biết bao thần thánh.    Qua vũ nữ Apsara trong nghệ thuật điêu khắc Chămpa đã tiếp thu văn hóa Ấn Độ một cách sáng tạo những yếu tố truyền thống văn hóa dân tộc. Thông qua cải tiến những họa tiết vốn có và bổ sung thêm những yếu tố mới đã góp phần làm phong phú về mặt nghệ thuật văn hóa dân tộc. Tuy nhiên sự tiếp thu đó mang tính cách dung nạp rồi sau đó bản địa hóa, địa phương hóa trở thành cái riêng của mình. Vũ điệu  người Chăm ngày nay là sự kế thừa của của vũ điệu Yang Naitri Chămpa xưa mà họ đang sử dụng trong các lễ hội như Riya Nưgar, RiYa HaRay (lễ cầu mưa) hay lễ Ka Tê mà chúng ta đang chiêm ngưỡng trong các lễ hội ngày nay. Điều đáng lưu ý là Yang Naitri đã được nghệ nhân Chăm pa dung hòa được các yếu tố bên ngoài mang sác thái của cư dân Chăm, để rồi qua mỗi triều đại biến nó thành cái đẹp hoàn mỹ mà không ai nhầm lẫn được nghệ thuật điêu khắc Chămpa với nghệ thuật cổ các nước Đông Nam Á. B.T.P ________________________________________________ Tài liệu tham khảo 1. Cao Xuân Phổ, từ cô gái Trà Kiệu, tạp chí VHNT – Bộ VHTT, số 6 năm 1979. Tr 15-17. 2. Trần Duy Bá – Trung Chánh, Khu đền Angkor, tạp chí VHNT, số 6 năm 1979, Tr 24.   3. Trần Kỳ Phương, Tư liệu về Nghệ thuật Chàm, tạp chí NCNT, số 5 năm 1980, Tr 78-81. Đăng trong tạp chí mỹ thuật trường ĐH Mỹ Thuật TP.HCM Số 7-8 (Phát Hành Tháng 4 Năm 2004)    Theo:  Gulpataom.com
0 Rating 405 views 1 like 0 Comments
Read more
Lòng tong là loại cá con, nhỏ như cá cơm ở biển. Khi mùa mưa về, sông suối ao hồ kênh mương đều đầy nước. Người Chăm ở Bình Thuận lại rủ nhau đi bắt cá lòng tong về làm mắm, vừa có thể làm thức ăn dự trữ, vừa có thể đem bán tăng thu nhập cho gia đình. Cá lòng tong sau khi được bắt về, đầu tiên người ta nặn bóp cho hết những chất bẩn trong bụng cá, rồi rửa sạch. Sau đó bỏ vào chum ủ muối với một nắm cơm nguội hay nắm gạo rang giã thành bột và trộn lẫn với nhau. Phía trên phủ kín một lớp lá chùm miệng rồi bao kín lại bằng một miếng ni lon, xong mới đậy nắp. Tỷ lệ mặn nhạt của mắm lòng tong ở mỗi vùng Chăm là khác nhau, nó phụ thuộc vào tập quán và nơi cư trú của họ. Nơi gần biển thì thích ăn mặn, những vùng nông thôn thì ăn nhạt hơn. Chum mắm lòng tong để trong nhà ăn mắm sẽ mát và ngon hơn, mặn mà mùi vị hơn khi để ngoài nắng. Thời gian ủ mắm thường mười ngày là ăn được. Mắm lòng tong là đặc sản của người Chăm, vừa dân dã, vừa đậm đà, thể hiện tình người và lòng mến khách của con người nơi đây. Cái thú vị của mắm lòng tong là những thứ gia vị được cho vào khi mắm đã ngấu để ăn. Khi ăn người ta giã me, tỏi, ớt cho nhuyễn và trộn với một ít đường, vừa mặn vừa ngọt, vừa bùi, vừa thơm rất mùi vị. Không có những thứ này sẽ không thành mắm lòng tong đặc trưng của người Chăm. Mắm lòng tong có thể ăn với cơm hoặc nhậu. Nếu ăn cơm, thì thái một đĩa dưa leo và cà tím ăn kèm, còn để nhậu thì không bỏ đường. Nhậu với rượu, người ta thường ăn bánh tráng nướng (bánh đa) kèm mắm lòng tong, ăn lẫn cà pháo và khế chua thái nhỏ. Mắm lòng tong làm rất đơn giản, ít tốn công, tốn tiền, không chỉ để ăn cơm ngon miệng mà còn để nhậu, lại dự trữ được lâu ngày mà không phai mùi. Ngoài món mắm, người Chăm còn dùng cá lòng tong để kho đặc, với gia vị như kho cá vậy. Nếu có ít mỡ heo thêm vào thì lòng tong càng béo, thơm, ăn cơm càng ngon. Để thay đổi khẩu vị, người Chăm còn đêm cá  lòng tong nấu canh với dưa hồng vừa bổ, vừa mát, nhất là khi trời nóng nực. Ngày nay ăn cơm với mắm lòng tong, ngoài cà pháo, khế chua, người ta còn có thêm những món nhậu đưa miệng như đĩa cá rô, cá trào nướng và ly rượu trắng. Đơn giản vậy thôi, mà cũng đã thấy rất tuyệt rồi. Mắm lòng tong là thứ đặc sản mà du khách từ miền xuôi lên sẽ được những người Chăm mời thưởng thức. Nó vừa dân dã, chân chất nhưng cũng đậm đà như chính tình người nơi đây. Phương Lam (Theo Người Lao Động)  
0 Rating 285 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On May 12, 2012
  Dệt vải là nghề thủ công truyền thống có từ lâu đời của người K’ho Lâm Đồng. Nghề dệt không những cung cấp sản phẩm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt hàng ngày, góp phần nâng cao nguồn thu nhập gia đình và bảo tồn được bản sắc văn hoá độc đáo của dân tộc mình. Thông qua tấm vải dệt, người phụ nữ K’ho đã gửi gắm tâm hồn, tình cảm cũng như sự cảm nhận về thế giới tự nhiên, con người qua những hoa văn sinh động. Đó là những vật dụng gần gũi, thân thương gắn bó trong đời sống sinh hoạt hằng ngày. Nguyên liệu Nguyên liệu của nghề dệt là sợi bông và các loại cây tạo màu đều được lấy từ trong tự nhiên. Trước đây, trong đời sống tự cung tự cấp, đồng bào tự trồng bông để lấy sợi dệt vải. Để nhuộm màu họ đã dùng các loại củ, quả, lá cây rừng như: củ nghệ, đồng bào gọi là củ rơ- mít để tạo màu vàng, hạt quả cari còn gọi là quả nho để tạo màu cam. Vỏ và thân cây lốt để tạo màu đỏ, lá cây drửm để tạo màu xanh đậm và xanh dương. Để giữ bền màu khi nhuộm họ còn cho thêm bột vỏ sò và tro củ chuối vào nước nhuộm sợi. Công cụ Người K’ho dệt với công cụ khá đơn giản, bao gồm: cán bông (tơ-rơ-ghiết), bật bông (kăm-bích), xa quay sợi (khưng), hai khung cuốn sợi (sờ-na-bờ-rài và duỳnh doèng), khung căng sợi và bộ khung dệt. Khác với người Kinh và một số dân tộc ở phía Bắc, người K’ho không có khung dệt cố định và kiên cố mà họ chỉ có bộ khung dệt rời bằng các thanh gỗ, tre khá đơn giản. Bộ khung dệt gồm 12 thanh lớn nhỏ khác nhau và mỗi thanh đều có tên gọi và chức năng riêng: Thanh gạt chỉ (pơ-nớ-kủa-tria), thanh này được làm bằng gỗ, một đầu tròn dẹt và một đầu vát nhọn, dùng để gạt và lén chặt sợi khi dệt. Thanh cuộn vải (pờ -sar) được làm bằng gỗ, có hình chữ nhật dùng để cuộn vải trong quá trình dệt. Thanh đạp chân (đưng – poong) được làm bằng cây lồ ô, thanh này nằm ở cuối khung dệt dùng để tỳ chân tạo độ căng cho khung khi dệt. Thanh tâng- cau dùng để nhấc lên, kéo rộng khe hở luồn sợi chỉ khi dệt. Thanh lột - may dùng để luồn sợi xuống dưới phối hợp cùng tưng cau. Thanh lâm –pã dùng để điều chỉnh sợi khi tạo hoa văn, thanh này được làm bằng lồ ô vót mỏng. Thanh tơ – cau – brài dùng để quấn và luồn sợi khi dệt, nó có tác dụng như thoi dệt của người Kinh. Ngoài ra, một số thanh phụ khác tất cả đều được làm bằng tre hoặc lồ ô và dây đeo dùng để cố định một đầu khung vào lưng khi dệt. Khung căng sợi của người K’ho cũng khá đơn giản: chỉ là 2 thanh gỗ dài khoảng 1,5 – 2m được cái móc cố định vào 2 chiếc ghế cao làm khung. Khi căng sợi người dệt chỉ buộc một đầu sợi vào 1 thanh gỗ dài ở phía bên này khung và bắt đầu kéo luồn sợi qua lại sang thanh bên kia khung sao cho căng và dàn đều là được. Sau khi căng xong, người ta khéo léo luồn các thanh của khung dệt vào và dỡ bỏ hai thanh gỗ của khung căng sợi ra và bắt đầu dệt. Dệt Khi dệt người phụ nữ K’ho ngồi duỗi thẳng chân trên sàn. Hai chân đạp và giữ chặt một thanh chủ của khung dệt (gọi là đưng- pong) và một thanh chủ khác được dùng dây móc vào lưng người dệt để cố định và kéo căng khung sợi. Các thanh khác tuỳ theo chức năng của chúng mà luồn rất khéo vào giữa giàn sợi. Họ vừa dệt vừa tạo hoa văn trên tấm vải, tay phải cầm thanh pờ-nơ (thanh gạt chỉ) luồn vào nâng lớp sợi ở phía trên lên, sau đó dùng tay trái cầm cây tơ-rau-brài, có công dụng như cây thoi của người Kinh đâm qua. Tiếp đến dùng pờ-nớ kéo xuống lèn chặt dồn sợi chỉ vừa dệt vào cho khít chặt với phần vải dệt. Sau đó nâng thanh tâng – cau kéo lên để làm rộng khe giữa 2 lớp sợi, điều chỉnh cái thanh lột may (lột mẹ), lột uôn (lột con) để tạo hoa văn theo ý muốn. Muốn tạo hoa văn, ngoài 2 thanh lột may (lột mẹ) còn phải có nhiều thanh lột uôn (lột con) vì nó có chức năng chia sợi ra từng phần nhỏ để tạo hoa văn theo ý người dệt. Hoa văn càng nhiều càng phức tạp thì càng cần nhiều thanh lột uôn. Hoa văn Trên thổ cẩm của người K’ho chủ yếu là các loại hoa văn hình kỷ hà, người, các loài muông thú và các vật dụng quen thuộc, gần gũi trong đời sống sinh hoạt hàng ngày của họ như: cầu thang nhà sàn, cổ nỏ, tua cây nêu, cán xà gạt, con thuyền, mắt chim công, đường ranh, lá đùng đình, cây chông, vang trăng, con bọ chè, cườm chim cu. Các sản phẩm nghề dệt truyền thống của người K’ho là những tấm đắp (ùi tơng), váy (ùi- ngoách), tấm choàng dể địu con (ùi -khan -bay), băng cột đầu, dây đeo tay. Ngày nay còn có thêm một số sản phẩm mới như băng cầu nguyện dùng trong các nghi lễ tôn giáo, các loại túi, ví xách tay bằng thổ cẩm… Hiện nay, tuy nghề dệt bị thu hẹp nhưng người K’ho vẫn tiếp tục duy trì nghề và dần thích ứng với kinh tế thị trường; sản phẩm làm ra rất phong phú, đa dạng về mẫu mã, đảm bảo tốt về chất lượng với giá cả hợp lý. Sản phẩm dệt của người K’ho đã trở thành hàng hóa và quà lưu niệm ưa thích đối với du khách trong và ngoài nước khi đến thăm vùng đất Nam Tây Nguyên này. Nguồn langvietonline.vn
0 Rating 630 views 0 likes 0 Comments
Read more
Tác phẩm đoạt giải BT- Kết quả cuộc thi ảnh kỹ thuật số quốc tế tại Budapest (Hungary) do Liên đoàn Nhiếp ảnh nghệ thuật thế giới (FIAP) bảo trợ vừa được công bố. Cuộc thi thu hút 543 tác giả của 49 quốc gia tham dự, với 5.009 ảnh cho 3 thể loại ảnh màu, ảnh đen trắng và thể nghiệm. Từ ngày 30/10 - 13/11/2011 hội đồng giám khảo gồm các thành viên FIAP đã tiến hành chấm, chọn ảnh để trưng bày triển lãm, và trao giải thưởng cho các tác phẩm xuất sắc. Tại cuộc thi này, các nghệ sĩ nhiếp ảnh Việt Nam đã đoạt 2 HCV ở thể loại ảnh đen trắng và ảnh màu. Nghệ sĩ Ngô Đình Hòa với tác phẩm Gốm sứ Chăm pa (HCV ảnh màu); tác giả Hùng Hoa Lư (Daklak) với tác phẩm Về nhà (HCV ảnh đen trắng). Ban tổ chức còn trao bằng danh dự cho các tác phẩm: Hai chị em (Ngô Đình Hòa); Chơi (Trương Hữu Hùng); Khói (Trương Hữu Hùng); Buổi chiều mùa đông (Hùng Hoa Lư).   Nguồn tin: Binhthuanonline
0 Rating 492 views 1 like 0 Comments
Read more
By: On May 8, 2012
Sáng ngày 22.3, đoàn cán bộ nghiên cứu của Viện Khảo cổ học Việt Nam cùng Trung tâm Quản lý di sản văn hóa Đà Nẵng đã tổ chức buổi báo cáo tổng kết việc điều tra, khảo sát di sản khảo cổ học tại địa bàn thành phố Đà Nẵng.   Đây là đợt điều tra khảo sát tổng thể khảo cổ học trên địa bàn Đà Nẵng kéo dài từ 12.3.2011 đến 21.3.2012, qua đó để xác định giá trị của từng loại hình di sản văn hóa, nhằm bảo tồn di sản văn hóa, đồng thời phục vụ việc giải phóng mặt bằng, xây dựng các dự án du lịch, cũng như định hướng nghiên cứu trong những năm tới. Theo TS Lê Đình Phụng – Trưởng đoàn khảo sát, lịch sử Đà Nẵng nằm chung trong dòng chảy Xứ Quảng của lịch sử dải đất miền Trung, manh nha từ văn hóa Sa Huỳnh theo suốt tiến trình lịch sử với văn hóa Champa đằng đẵng hơn một ngàn năm, và đến nay, với gần ngàn năm văn hóa Việt tồn tại và phát triển trên địa bàn Đà Nẵng đã để lại những dấu tích vô cùng quan trọng. Qua đợt điều tra khảo sát, đoàn nghiên cứu đã tiến hành xác định các địa điểm di tích cơ bản, với nhiều loại hình khác nhau, từ miếu thờ tín ngưỡng (Đình Dương Lâm) chỉ thờ ngẫu tương Linga – Yony quy mô nhỏ bé đến các phế tích có quy mô lớn hay những lũy thần đất (Thành Lồi – Hòa Phong) đã nói lên sự phong phú của các di tích ở đây. Về di chỉ văn hóa Sa Huỳnh, điển hình là di tích Vườn Đình Khuê Bắc (phường Hòa Hải, quận Ngũ Hành Sơn) là địa bàn cư trú của người Sa Huỳnh đã được biết đến qua cuộc khai quật năm 2000-2001. Các hiện vật của phế tích tháp Phong Lệ Những di tích hiện trạng còn lại đến nay, gồm có đình Khuê Bắc với cửa Ngũ môn, giếng cổ xếp đá hình tròn cách cửa đình khoảng 50m, cho thấy đây làmột di tích được sử dụng lâu dài trong lịch sử, từ thời sơ sử cho đến ngày nay. Về di tích văn hóa Chămpa, tại Gò Cấm Mít (thôn Cẩm Toại Đông, xã Hòa Phong, huyện Hòa Vang) là dấu tích của một phế tích tháp Chăm. Phạm vi dấu tích của tháp Cấm Mít khoảng hơn 1000 m2. Nơi đây hiện đang nằm trên phần đất một số hộ dân. Trong quá trình điều tra nghiên cứu, đã phát hiện được một số dấu tích còn khá đậm đặc, có tiềm năng lớn về khai quật khảo cổ học. Tại phế tích tháp Quá Giáng (thôn Quá Giáng, xã Hòa Phước, huyện Hòa Vang), hiện có một ngôi miếu Bà, chính giữa miếu đặt một tượng Chăm để thờ, đặt trên bệ đá mặt trước có chạm khắc con tê giác. Theo gia đình đang sống trên phần đất này, phế tích Quá Giáng chưa từng được khai quật. Phế tích tháp Xuân Dương (thôn Nam Ô, phường Hòa Hiệp Nam, quận Liên Chiểu), hiện nay không còn nhận diện được, xung quanh gò có cư dân sinh sống. Theo người dân, trước kia ở đây là một lò gạch cao đổ nát với nhiều tác phẩm điêu khắc nghệ thuật cómỹ thuật cao, nay đã được đưa về bảo quản tại Bảo tàng điêu khắc Champa. Phế tích tháp Phong Lệ (phường Hòa Thọ Đông, quận Cẩm Lệ), được Bảo tàng Chăm tổ chức khai quật năm 2011. Cuộc khai quật đã làm xuất lộ dấu tích kiến trúc tháp cổng, tháp thờ Chính (Kalan) cùng nhiều điêu khắc đá khác... Trên địa bàn chùa ở Ngũ Hành Sơn còn lưu giữ một sốhiện vật Champa, đó là: Bệ thờ, mảnh bệ thờ, mảnh góc bệ thờ được khắc tạc trang trí đẹp với các đề tài như tượng, voi, sư tử, Drappla, hoa dây uốn xoắn.. thuộc phong cách nghệ thuật Đồng Dương thế kỷ IX. Các giếng cổ như Giếng Lăng, Giếng Đình, Giếng Thành Cung, Giếng Quán Hóa Ô (thôn Nam Ô, phường Hòa Hiệp Nam, quận Liên Chiểu)... phần lớn lòng giếng hình vuông, được xây bằng các phiến đá xếp chồng lên nhau. Mặc dù, nhiều giếng có đề ghi năm tháng, nhưng qua nghiên cứu, các nhà chuyên môn cho rằng những giếng này có thể có nguồn gốc giếng cổ Champa, được người Việt sử dụng lại hoặc xây dựng theo truyền thống kỹ thuật Chăm khi vào định cư sinh sống nơi đây. Về di tích văn hóa Việt, bao gồm khá nhiều di tích với nhiều loại hình thuộc nhiều thời kỳ khác nhau. Trong đó, đáng chú ý như: mộ cổ Khương Mỹ, mộ cổ Cẩm Toại Tây, mộ cổ Yến Nê, mổ cổ Nại Hiên Đông... và các kiến trúc cổ như: đình làng Dương Lâm, đình Cẩm Toại, đình Đồ Bản, đình Quá Giáng... phản ảnh chuỗi tiến trình phát triển và hội tụ trở thành bản sắc văn hóa Việt. Qua những kết quả đạt được sau thời gian tiến hành điều tra, khảo sát di sản khảo cổ học nói trên, các nhà chuyên môn đã nêu kiến nghị: Cần khẳng định những di tích hiện còn có giá trị đặc biệt góp phần tìm hiểu về lịch sử và văn hóa vùng đất. Tiến hành xếp hạng, tạo sơ sở pháp lý cho việc giữ gìn, trùng tu tôn tạo, đặc biệt là những di tích Champa còn dạng phế tích. Giữ lại làng chài nhỏ nằm gần núi Nam Ô (phường Hòa Hiệp Bắc, quận Liên Chiểu), bởi nơi đây còn lại nhiều quần thể di tích có giá trị như Giếng cổ, Lăng thờ cá Ông, chùa làng Ba Sơn, miếu thờ Bà Liễu Hạnh, miếu thờ bà Bô Bô... phát huy các lễ hội cầu ngư, lễ hội đình làng Xuân Dương, nhằm góp phần phục vụ tham quan du lịch, hòa nhịp với mục tiêu phát triển văn hóa du lịch của thành phố Đà Nẵng... Trung Sáng Theo http://baotanglichsu.vn
0 Rating 355 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On April 30, 2012
Một "thế giới" nhỏ bé người Chăm ở An Giang đã có mấy trăm năm tồn tại. Cộng đồng cư dân này sống rải rác ở huyện Châu Phú, An Phú và thị xã Tân Châu. Họ sống hòa đồng với những dân tộc khác, nhưng vẫn giữ gìn một bản sắc rất riêng. Nhờ vào ý thức cội nguồn sâu thẳm, cùng với giáo luật làm nền tảng, những cộng đồng Chăm tại đây thực sự là một "thế giới" đầy bí ẩn. Bài 1: Bí ẩn những “thế giới” bé nhỏ Trên đường từ Tân Châu sang Châu Đốc, trước khúc quanh dẫn lên chiếc cầu sắt bắt ngang con kinh Vĩnh An thuộc ấp Phũm Soài, xã Châu Phong, bất ngờ chúng tôi nhìn thấy trên ban công nhà sàn một cô gái Chăm đang ngồi thêu đan. Kín đáo trong bộ trang phục màu xám, chỉ hiện ra một phần gương mặt dưới chiếc khăn trùm, nhưng đó là gương mặt đẹp đến sững sờ. Một vẻ đẹp sâu thẳm, thánh thiện, chỉ thấy trong các tác phẩm hội họa về các thánh nữ. Tích tắc dừng xe ấy trở thành ấn tượng không phai về các xóm Chăm ở đầu nguồn Cửu Long mà chúng tôi có dịp lướt qua trong chuyến đi đầu năm 2010 này, dọc các cù lao nằm giữa sông Tiền và sông Hậu thuộc tỉnh An Giang. Bangsa – cội nguồn Một cô gái Chăm ở xóm Lama, Vĩnh Trường trong một lễ đặt tên. Đám đặt tên, cưới hỏi, người Chăm có ăn uống, nhưng nói họ ăn nhậu như một số phương tiện truyền thông là họ tức giận, vì rượu, bia bị giáo luật cấm uống. Chúng tôi đã biết gì về những người Chăm anh em sống bên mình đã mấy trăm năm ở đầu nguồn Cửu Long này? Chỉ là con số không. Tìm hỏi vài người quan tâm đến lịch sử vùng đất An Giang, đang sống tại An Giang, hóa ra họ cũng không khác gì. Ám ảnh ấy khiến chúng tôi cố công tìm hiểu để quyết một lần sẽ trở lại với những xóm Chăm An Giang. Trong tiếng Chăm, Bangsa có nghĩa là cội nguồn. Bangsa Chamba là cội nguồn Champa, đó cũng là tên cuốn sách của hai đồng tác giả, mà chúng tôi may mắn gặp được ngay sau chuyến về từ đất cù lao. Hai tác giả, ông Dohamide và Dorohiêm là hai anh em ruột cùng sinh ra, lớn lên ở làng Koh Taboong, ấp Khánh Mỹ, xã Khánh Hòa thuộc huyện Châu Phú, tỉnh An Giang ngày nay. Chúng tôi đã tìm về tận đây, nhưng tiếc thay tất cả những người ruột thịt của hai ông hiện không ai còn sinh sống nơi này. Nhiều tài liệu phổ biến hiện hành vẫn viết rằng, người Chăm An Giang có nguồn gốc từ Bình Thuận, Ninh Thuận di cư vào. Sự thật họ có cùng cội nguồn, tổ tiên họ cùng một dân tộc, là con dân của vương quốc có lịch sử từ vài ngàn năm trước đến thế kỷ 17, hùng cứ dọc dải đất miền Trung của Việt Nam ngày nay. Nhưng người Chăm hiện định cư ở đầu nguồn Cửu Long lại có nguồn gốc từ Campuchia di cư sang, cách nay chỉ vài trăm năm. Vì sao họ di cư, chính xác vào thời điểm nào? Cả sách Bangsa Champa cũng chưa tìm được tài liệu để minh định. Chỉ biết, bể dâu thế cuộc trong quá khứ còn để lại một thực tế: cộng đồng người Chăm hiện sống trên 10 quốc gia thì ở Campuchia là đông nhất, hơn 317.000 người. Trong khi ở Việt Nam, con số này là 133.000. Khi cuộc tiếp xúc đã trở nên cởi mở thân tình, ông quản tự của thánh đường ở ấp Hà Bao 2, xã Đa Phước, huyện An Phú bất ngờ cho chúng tôi một thông tin: theo lời ông bà kể lại thì tổ tiên ông đã theo nhà Nguyễn từ Phnom Penh, Campuchia di cư về đây đã 300 năm. Nếu thông tin này chứng minh được, nghĩa là họ đã di cư trước cả thời Gia Long lên ngôi lập ra triều Nguyễn (1802). Thời các chúa Nguyễn, nước ta có 2 cuộc di binh lớn sang tận Phnom Penh để giúp triều đình Chân Lạp dẹp loạn và an trị: năm 1700 của đại binh Nguyễn Hữu Cảnh và năm 1755 của Nguyễn Cư Trinh. Sử cũ đều chép, cả hai cuộc bình định này đại quân Việt đều có thu nạp vào quân ngũ người Chăm sinh sống ở Campuchia. Và cả hai cuộc can thiệp này đều rút về nước bằng đường thủy xuôi dòng Mekong, lại tiếp tục đồn trú để giữ yên biên ải trên vùng cù lao đầu nguồn Cửu Long. Nếu chứng minh được con số trên dưới 300 năm, thì có thể lắm, đó là cuộc di binh của Lễ thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh. Một “thế giới” để ngỏ Gặp chúng tôi trước chuyến đi, nhà thơ Lê Thanh My, người nhiều năm làm trưởng phân hội văn nghệ Châu Đốc, cho biết: mới tháng trước, có vài bạn văn từ Vĩnh Long sang muốn tiếp cận để tìm hiểu các làng Chăm. Nhưng khi cái hội lang thang này dừng lại trước một thánh đường, một bến nước, một ngôi nhà sàn cổ… để chụp hình, nhìn ngắm là liền có mấy thanh niên Chăm đến dò hỏi có vẻ không thân thiện. Hóa ra sự e ngại của chị My và lo lắng của chúng tôi là chẳng cần thiết. Không kể người trẻ, ngay những người già là chức sắc trong giáo hội đều rất cởi mở khi chúng tôi tiếp xúc. Giáo cả xóm Chăm Koh Taboong, Vĩnh Hòa, cũng là giáo cả của toàn giáo hội Islam An Giang, dù đã ngoài 80, đã qua một lần tai biến tuần hoàn não, vẫn ân cần tiếp chuyện chúng tôi gần cả buổi chiều, tỉ mỉ diễn giải tất cả mọi điều mà chúng tôi cần biết. Ở thánh đường Rohmah, Lama, Vĩnh Trường, hơn 50 đàn ông cả già trẻ ngồi tụ tập trước giờ lễ trưa để giải thích cho chúng tôi từ lễ tục, giới răn của đạo cho đến nếp sống sinh hoạt ngoài đời. Sau khi kết thúc lễ, ông Mohamach Thost còn mời tiếp chúng tôi về nhà để trò chuyện. Cộng đồng người Chăm An Giang quả thật bé nhỏ, chỉ trên dưới 12.000 người sống phân tán thành từng xóm trên hai huyện An Phú, Châu Phú và thị xã Tân Châu. Xóm Chăm luôn nối liền với các xóm Việt trên một trục lộ, hay một bờ kinh mà người qua đường rất khó phân định. Họ sống trên nhà sàn. Nhưng người Việt ở đây cũng sống trên nhà sàn, vì đất này hàng năm có 4 - 5 tháng ngập lũ. Thoạt trông, chẳng khác gì nhau, nhưng bên trong là hai thế giới khác biệt. Đi qua xóm Chăm không thấy phụ nữ trên đường, đàn ông cũng thảng hoặc, chỉ có trẻ con đi học. Lễ hội, tiệc cưới, tiệc vui người Chăm vẫn có mặt người Việt. Ngược lại, họ không dự tiệc tùng của người Việt, không vào quán ăn, quán giải khát của người Việt, không mua thực phẩm ở chợ Việt… Khác biệt một phần bắt nguồn từ giáo luật, phần khác là phản ứng bảo tồn bản sắc một cách tự nguyện xuất phát từ cội nguồn thẳm sâu. Xóm Chăm Lama, Vĩnh Trường được xem là cộng đồng Chăm lớn nhất An Giang với hơn 500 nóc nhà và trên dưới 2.200 con người, nhưng cũng chỉ kéo dài theo trục lộ chưa được một cây số. Nhiều xóm Chăm khác là cụm cư dân nhỏ chỉ vài trăm con người, thế mà mấy trăm năm qua họ vẫn không hề mất đi bản sắc văn hóa. Đó là cả một bí mật lớn lao mà loạt bài này không hề có tham vọng làm sáng tỏ, chỉ mong được kể lại đôi điều mà chúng tôi quan sát, tìm hiểu được.  Theo Vietbao (Theo: queviet.pl)
0 Rating 475 views 2 likes 0 Comments
Read more
By: On April 19, 2012
Tấm bia đ xanh to lớn cho thấy sự sng lập ra vương quốc Chăm Pa cũng như vai trᡲ của văn minh Ấn Độ tại vương quốc ny. Bia V Cạnh hiện được lưu giữ ở Bảo tൠng Lịch sử Việt Nam. Tấm bia đ đ mᣲn minh văn Nh nghin cứu Phડp H.Parmetier khng bằng lng với việc ghi địa danh của tấm bia n䲠y một cch sơ si. Chᠭnh v thế, ng đ촣 tm đến tận Khnh H졲a để xc minh cụ thể địa điểm trn: “Người ta chỉ n᪳i chung chung l bia V Cạnh với bൠi minh văn nổi tiếng tm thấy ở pha nam ngọn đồi nhỏ của người Chăm cổ. Nếu n쭳i chnh xc, n� được tm thấy ở lng V젵 Cạnh, tại một điểm nằm về pha đng của một ng�i nh thờ đạo. Địa điểm ny ở khoảng giữa hai xࠣ Ph Văn v Ph꠺ Vinh, tổng Xương H, huyện Vĩnh Xương, tỉnh Khnh Hࡲa”. Khi được pht hiện ra, bia nằm im lm dưới tᬡn một cy duối cổ thụ, nửa l l⳪n mặt đất, nửa chn dưới bn ruộng, chẳng ai để 乽. Thực chất, đy l một khối đ⠡ to lớn c minh văn khắc trn cả bốn mặt. Cũng ch㪭nh v thế, c nhiều người đề nghị gọi n쳳 l khối bia. Hiện được giữ ở Bảo tng Lịch sử Việt Nam, bia lࠠ một tảng đ xanh to lớn, cao trn 2,5m. Nh᪬n vo mặt rộng nhất của tảng đ, bia trࡴng như một chiếc cột đ hnh chữ nhật, với chiều rộng hơn lᬠ 72 cm, chiều hẹp hơn l 67 cm. Mặt bia khắc chữ Phạn. Pha tr୪n đầu tảng đ đ bị mẻ mất một miếng ở phᣭa rộng hơn. Mặc d chữ khắc trn bia kh骡 to, cao trung bnh 1 cm nhưng do thời gian nhiều chữ đ kh죴ng cn r. Ch⵭nh v thế, chụp ảnh ở cự ly gần hay dng kỹ thuật tạo th칡c bản, người ta vẫn khng thể đọc được đầy đủ nội dung của những dng chữ tr䲪n bia. Cc chuyn gia đ᪣ phải dng đến cch cuối c项ng l lấy ngn tay lần theo những n೩t đục cc con chữ trn bề mặt khối đ᪡. Bia V Cạnh – Ảnh: T.L Tuy cc c塢u bị mất nhiều chữ, cc nh nghiᠪn cứu vẫn thấy lối hnh văn rất rắc rối cầu kỳ. Những cu văn dࢠi v phải c một ph೴ng văn ha nhất định về những nền văn ha cổ mới giải m㳣 được. Một số dấu vết chữ khắc chồng ln nhau cho thấy hnh như những bꬠi minh văn được khắc lấn từ mặt nysangmặt khࠡc của bia. Chnh v thế, một học giả Ph�p tn M.Jacques đ phỏng đo꣡n rằng khối bia ny được khắc ở cả bốn mặt. Những nghin cứu sau đળ cho thấy, đy khng chỉ lⴠ tấm bia được khắc bằng chữ Phạn cổ sớm nhất của vương quốc Chăm Pa, m thậm ch, của cả khu vực Đ୴ng Nam . Dấu ấn văn hsa Ấn Độ Theo TS Nguyễn Đnh Chiến – Ph gi쳡m đốc Bảo tng Lịch sử Việt Nam, tấm bia V Cạnh cho biết về quൡ trnh hnh th쬠nh v hợp nhất vương quốc Chăm Pa. Theo đ, vương quốc được h೬nh thnh từ hai tiểu quốc Nam Chăm v Bắc Chăm. Nam Chăm c࠳ thủ phủ tại Panduranga, tức vng Phan Rang ngy nay. Bắc Chăm (theo sử Trung Hoa c頲n gọi l Lm Ấp) đࢳng ở Simhapura, tức vng Tr Kiệu ng頠y nay. Sau đ, vo khoảng thế kỷ thứ 7 hai tiểu vương quốc n㠠y hợp nhất thnh vương quốc Chăm Pa, chọn Simhapura lm thủ phủ. Ngoࠠi bia V Cạnh, bia k H彲n Cc, Mỹ Sơn, cũng ghi danh hiệu của vua Bhadravarman trn toꪠn lnh thổ Chăm Pa. Điều ny, theo nh㠠 nghin cứu Php L.Finot chứng tỏ Chăm Pa lꡠ một quốc gia độc lập v thống nhất quyền năng của nh vua trung ương. Do đ࠳, cc lnh ch᣺a hay tiểu vương của mỗi vng đều phải khp m马nh dưới quyền lực của nh vua. Ngoi ra, theo Bảo tࠠng Lịch sử Việt Nam, tấm bia cn cho biết ảnh hưởng mạnh mẽ của văn minh Ấn Độ cng vai tr⹲ quan trọng của giới tăng lữ ở tiểu vương quốc ny. Ton bộ nội dung văn bia đࠣ thể hiện sự du nhập nền văn minh Ấn Độ, trong đ c Phật gi㳡o, vo cư dn Chăm khࢡ sớm. Theo TS Ng Văn Doanh, tấm bia V Cạnh l䵠 vật chứng đầu tin v cũng lꠠ cổ nhất ở Đng Nam n䁳i về Phật gio. Khảo cứu bia V Cạnh, Finot cᵲn cho biết: “Nh vua dựng bia để thể hiện thức về sự vུ thường của cuộc đời, về lng trắc ẩn đối với chng sanh; về sự hy sinh của cải m⺬nh cho lợi ch chung”. Căn cứ ny cho thấy, Phật gi�o được truyền vo Chăm Pa những nin kỷ thứ 1 sau C઴ng nguyn. Khi đ, tại Ấn Độ, tinh thần quy hướng Phật gi곡o một cch tuyệt đối vẫn cn sᲢu đậm. Từ đ, những nh bu㠴n l phật tử đi khắp nơi, trong đ cೳ hải cảng Chăm Pa. Ngay khi thuyền cập bến, những phật tử ny tm nơi để tu tập, đồng thời khai ngộ cho ch଺ng sanh. Phật gio đ đến Chăm Pa như vậy. Sau nᣠy, thư tịch cổ Trung Hoa miu tả việc mua bn với người Chăm Pa vꡠo những thế kỷ thứ 7 đ ghi lại rằng cộng đồng người Chăm thời kỳ ny rất k㠭nh mến Phật Thch Ca. Đặc biệt, lc qu�n nh Ty đ๡nh chiếm Chăm Pa đ thu được rất nhiều chiến lợi phẩm, trong đ nổi bật nhất l㳠 1.350 pho kinh Phật. Nghin cứu bia V Cạnh kết hợp với sử liệu cho thấy, tuy ng굠y nay Phật gio gần như vắng bng trong sinh hoạt t᳭n ngưỡng của tộc người Chăm Pa nhưng trong lịch sử n rất quan trọng trong đời sống tộc người ny. Ng㠴 An Nguồn : TNO
0 Rating 309 views 0 likes 0 Comments
Read more
Mẹ xứ sở Po Inư Nưgar trong tm thức người Chăm HOI QUẢNG T‭n ngưỡng thờ Mẫu l gi trị văn hࡳa tinh thần cao đẹp của dn tộc Việt Nam. Từ khi đất nước đổi mới đến nay, tn ngưỡng d⭢n gian ni chung v thờ Mẫu n㠳i ring đ được phục hồi ở người Việt v꣠ cc dn tộc thiểu số khᢡc. Điều đ gp phần l㳠m cho bộ mặt văn ha nước nh th㠪m phong ph: v sống động. Nữ thần Po Inư Nưgar của người Chăm Nữ thần Po Inư Nưgar lࠠ biểu tượng linh thing nhất của người Chăm về Mẹ. Ngy nay cꠡc huyền thoại, truyền thuyết, kiến trc, lễ hội… về Nữ thần vẫn cn tồn tại v겠 in đậm trong đời sống nhn dn. Nữ thần Po Inư Nưgar được coi l⢠ người Mẹ xứ sở của người Chăm, l người sng lập ra vương quốc Champa. Từ thời cổ đại đến thời cận đại đࡣ c rất nhiều thần thoại viết về nguồn gốc của Nữ thần. Ngay từ thời sơ thủy, trong dn gian đ㢣 bắt đầu kể về B: "Ngi lࠠ Nữ thần mẹ của vương quốc Ngi tạo dựng nn vહng đất cho cy cối v rừng gỗ qu⠽ sinh si Ngi g䠢y ra giống la v dạy dꠢn gian trồng la Vua trn trời ngửi thấy hương thơm của lꪺa đang trổ chọn, pha lẫn hương thơm trầm gỗ của người trần gian dng tế trời. Po yang Inư Nưgar mới cho đưa ln trời một hạt l⪺a c cnh trắng như đ㡡m my. Vua trn trời gieo hạt l⪺a ấy m lm nࠪn tất cả mọi giống la. Tuy khc nhau về mꡠu sắc bn ngoi nhưng b꠪n trong th hon to젠n như nhau. Po Inư Nưgar ght hạng người độc c, thường gi顺p đỡ hạng người hiền lnh. Lễ cng Ngຠi chỉ c trầu, dng tr㢪n hai cnh tay nng cao". Theo truyền thuyết, Bᢠ l vị thần từ ci trời xuống trần gian. Bൠ c 97 người chồng, 36 người con. Nữ thần c nhiều t㳪n gọi khc nhau: Po Inư Nưgar (thần Mẹ xứ sở), Po yang Inư Nưgar Taha (thần Mẹ lớn xứ sở), Muk Juk (B Đen), Pataw Kamei (Vua của đᠠn b), Bahagavati vari (Nữ thần Mẹ lớn Linga – Shiva). Khi B La M࠴n gio xuất hiện ở Champa, người Chăm B La Mᠴn gio đ đồng nhất Po Inư Nưgar với Nữ thần Uma – vợ thần Shiva trong Bᣠ La Mn gio của người Ấn Độ. Về sau, dưới c䡡ch nhn của người Chăm B ni lại cho rằng B젠 l con gi của ࡂu Loa H (thượng đế). Trong qu trꡬnh tiếp xc, giao lưu với văn ha Ấn Độ th곬 đ c sự h㳲a nhập giữa vị thần Bhavapara (Uma – vợ của thần Shiva) của Ấn gi!o với nữ thần bản địa Po Inư Nưgar của người Chăm v sau ny c࠲n được Hồi gio B ni hᠳa nữa. Kết quả của qu trnh tiếp biến văn hᬳa đ, Po Inư Nưgar được cc triều đại vua Champa ở v㡹ng Kauthara (Nha Trang) tn thờ ở vị tr tối cao. C䭳 thể ni, Po Inư Nưgar hiện diện trong tm thức người Chăm như một vị thần tối thượng sinh ra mọi thứ từ vũ trụ đến đất đai, c㢢y cối, la gạo v cả con người. Bꠠ lại l nữ thần mẹ của xứ sở che chở con người Chăm v gi࠺p họ tồn tại với chức năng l nữ thần nng nghiệp bởi đള l ngnh kinh tế ch࠭nh của họ từ trước đến nay. Do vậy đối với người Chăm, Po Inư Nưgar l vị thần tối thượng ton năng, lࠠ đấng sng tạo, l đấng bảo vệ, lᠠ đấng hủy diệt những điều xấu, điều c. Chnh v᭬ thế m trong hầu hết cc nghi lễ, nữ thần Po Inư Nưgar luࡴn được người Chăm cầu xin ban phước v bảo vệ. Trong suốt mười mấy thế kỷ cho đến nay, người Chăm vẫn lun tഴn thờ một B mẹ xứ sở của từng thn lഠng họ. Vai tr của tn ngưỡng thờ Mẫu trong đời sống người Chăm v⭹ng Nam Trung Bộ Đối với văn ha của dn tộc Việt Nam vốn c㢳 nguồn gốc nng nghiệp, vai tr của người phụ nữ rất được đề cao trong đời sống cộng đồng, n䲳 khng chỉ biểu hiện qua thức m你 cn cả trong tnh cảm lẫn cuộc sống t⬢m linh của mỗi người. Đối với người Chăm, vai tr của Nữ thần Po Inư Nưgar đặc biệt quan trọng, B dạy người Chăm biết c⠡ch trồng la, dệt vải, l vị thần đầy quyền năng sꠡng tạo. B đ n࣢ng đỡ người Chăm đi những bước đầu trong tiến trnh lập quốc của mnh. H쬬nh ảnh Po Inư Nưgar l B mẹ nhiệm mࠠu đ xa đi mọi ngăn c㳡ch tn gio, vậy n䡪n d l t頭n đồ của bất kỳ tn gio n䡠o th B cũng c젳 một vai tr quan trọng trong đời sống tinh thần của họ. B được t⠴n thờ một cch độc lập v trở thᠠnh một biểu tượng thing ling. Nghi lễ rước kiệu vꪠ y phục nữ thần Mặt khc, tn ngưỡng thờ Mẫu c᭳ rất nhiều nt gần gũi với tn ngưỡng thờ c魺ng tổ tin, một tn ngưỡng cꭳ vai tr quan trọng hng đầu trong hệ thống t⠭n ngưỡng dn gian Việt Nam ni chung vⳠ người Chăm ni ring. Ngay cả t㪭n đồ đạo Hindu cũng cảm nhận được tn ngưỡng thờ Mẫu c rất nhiều n�t gần gũi với họ, đ l đức tin v㠠o người mẹ. Thực tế trn lịch sử cho thấy giữa Ấn gio vꡠ Champa đ c sự giao thoa ảnh hưởng lẫn nhau thể hiện qua h㳬nh ảnh nữ thần Uma (vợ thần Shiva) m người Chăm đ tiếp nhận dưới h࣬nh tượng Po Inư Nưgar. Đặc biệt vo thng 3 ࡢm lịch hằng năm, từ Bắc tới Nam đều tiến hnh “giỗ Mẹ”. Ở người Việt l lễ v࠭a Thnh Mẫu Thin Y Ana, người Hoa l᪠ lễ va B Thi�n Hậu, cn người Chăm l lễ v⠭a Thần nữ Po Inư Nưgar. Vo dịp ny khࠡch thập phương c thể chim ngưỡng sắc m㪠u lễ hội, tạo nn khng kh괭 no nhiệt trn khắp cả nước. Tựu trung lại, c᪳ rất nhiều tộc người c tục thờ Mẫu, mỗi tộc người c một b㳠 Mẫu khởi nguyn v họ xem đ꠳ l tổ tin của mબnh như Mẫu u Cơ của người Việt v Po Inư Nưgar của người Chăm. Việc thờ cng ny lꠠ dấu vết sớm của tục thờ cng tổ tin của mỗi gia đꪬnh hiện nay. Lịch sử x hội pht triển, c㡡c giai cấp v hnh thଡi x hội ra đời, ngoi những vị Mẫu được xem l㠠 nguồn khởi nguyn giống ni th견 ring từng nhm người lại t곴n thờ một vị Mẫu thần cụ thể, gần gũi v cần thiết cho cuộc sống tm linh của bản thࢢn. T i liệu tham khảo:- Cc nữ thần Việt Nam (Đỗ Thị Hảo, Mai Thị Ngọc Chc), NXB Phụ Nữ, HẠ Nội, 1993. - Đạo mẫu ở Việt Nam (Ng Đức Thịnh chủ bin), NXB Văn H䪳a Thng Tin, 1996. - Về tn ngưỡng lễ hội cổ truyền (Ng䭴 Đức Thịnh chủ bin), NXB Văn Ha Th곴ng Tin (2007). - Tn ngưỡng thờ Mẫu ở miền Trung Việt Nam (Nguyễn Hữu Thng chủ bi�n), Phn viện Nghin cứu văn h⪳a tại thnh phố Huế, NXB Thuận Ha, 2001. - Tiếp cận t೭n ngưỡng dn gian Việt Nam (Nguyễn Minh Sang), NXB Văn Ha DⳢn Tộc H Nội (1994). - Từ thần thoại Po Inư Nưgar đến Thin Y Ana. Những vấn đề dઢn tộc học ở miền Nam Việt Nam, Tập II, quyển 2 (Văn Đnh Hy). Viện Khoa học x hội TP Hồ Ch죭 Minh, 1978.
0 Rating 634 views 1 like 0 Comments
Read more
By: On April 17, 2012
Sử liệu chp rằng, cc ng顴i thp Chm được xᠢy dựng bắt đầu từ thế kỷ VII v chấm dứt vo thế kỷ XIII. Đầu thế kỷ XXI, c࠳ lẽ sử liệu lại phải chp thm rằng, “ở Quảng Nam, đang c骳 một người nung gạch Chăm, xy thp Ch⡠m. Một mnh ng x촢y nn 2 ta th겡p”. Thp xy xong, ᢴng vẫn cn… ngho. Nghe d⨢n gian đồn thổi việc lm v mơ ước “c࠵i trn” của ng Chỉnh đ괣 lu nhưng phải đến tận đầu thng 11 năm nay, sau khi đ⡭ch thn ng Ngⴴ Văn Hng – Gim đốc Sở KH-CN Quảng Nam – dường như kh顴ng thể chờ đợi lu thm, đ⪣ k văn bản giấy trắng mực đen, gửi trực tiếp ln Bộ trưởng Bộ KH-CN, đề nghị nghi�n cứu thnh lập Hội đồng thẩm định v hỗ trợ kinh ph࠭ để ng L Văn Chỉnh c䪳 thể sản xuất đại tr gạch Chăm. ng LԪ Văn Chỉnh, 63 tuổi, ở thn Ph B京nh, x Tam Xun, huyện N㢺i Thnh, tỉnh Quảng Nam.Gặt hi đầu tiࡪn của chng thanh nin Lપ Văn Chỉnh ngay sau khi đất nước vừa giải phng l ph㠡t hiện ra di chỉ khảo cổ Tam Mỹ sau nht cuốc của những người dn lᢠm thủy lợi. Từ pht hiện ny, ᠴng được điều về cng tc ở Bảo t䡠ng Quảng Nam. Chỉ với một kha học 2 thng về c㡴ng tc bảo tồn, bảo tng nhưng liᠪn tục trong một thời gian ngắn, ng Chỉnh cng 3, 4 anh em kh乡c ở Bảo tng Quảng Nam đ ph࣡t hiện được thm 10 di chỉ, di tch quan trọng, trong đꭳ c di chỉ Bu Tr㠡m (gồm cc ngi mộ chum vᴠ mộ tng) khu di tch Ph᭺ Ha (thời kỳ đồ đồng) ở 2 x Tam Anh v⣠ Tam Xun, huyện Ni Th⺠nh, cng di tch mộ chum Sơn – Cẩm – H魠, ở huyện Tin Phước… Tất cả cc di chỉ, di tꡭch ny đều thuộc văn ha Sa Huỳnh. Theo ೴ng Chỉnh, cc hiện vật thuộc văn ha Sa Huỳnh cᳳ sự tương đồng với gạch Chăm. Một trong những yếu tố tương đồng đ l hiện hữu của b㠣 thực vật trong vật liệu xy dựng. Ngay cả đồ gốm Sa Huỳnh, trong pht hiện của ⡴ng Chỉnh cũng c nhiều b thực. Sự say m㣪 gạch Chăm từ ngi thp Ch䡠m Khương Mỹ ở gần nh thuở cn niಪn thiếu đ gip 㺴ng khẳng định chắc chắn sự tồn tại tất yếu của chất liệu b thực vật trong từng vin gạch. Nhờ b㪣 thực vật v cch nung đặc biệt mࡠ những vin gạch Chăm khng hề bị thối rữa, kh괴ng c một loi r㠪u no bm phủ trࡪn n. Bất cứ vin gạch Chăm n㪠o cũng nhẹ hơn gạch bnh thường v khi chạm khắc th젬 đổ bột chứ khng vỡ vụn. Tất cả cc vi䡪n gạch Chăm khi bẻ đi đều c m䳠u xm đen ở phần li. Từ khᵡm ph ny, năm 1990, sau khi nhận được 500.000 đồng tiền về mất sức một lần, ᠴng Chỉnh đ dốc trọn vo việc nung gạch thử nghiệm. Nh㠠 chỉ c 4 so ruộng, tiền kh㠴ng cn nhưng cu hỏi từ năm 12, 13 tuổi tại th⢡p Chm Khương Mỹ đ được ࣴng Chỉnh tự trả lời vo tuổi 40. “Thất bại th nhiều lắm, kh଴ng biết phải mất bao nhiu mẻ nung v bao nhi꠪u tiếng bấc tiếng ch của vợ con, ti mới biết c촡ch xy những chiếc cầu đất nung để đưa lửa từ từ vo l⠲ cũng như tm ra một thứ củi ni kh캴ng chắc m cũng khng xốp để duy trബ nhiệt độ ổn định cho mỗi mẻ nung ko di khoảng 1 tuần”. Đ頢y chnh l kết luận về b� quyết gạch Chăm của ng Chỉnh. Tnh ra, 䭴ng mất mười lăm năm để tm ra b quyết n쭠y. Phần xm đen ở li cᵡc vin gạch cũng được ng Chỉnh l괽 giải một cch thỏa đng, lᡠ do chất phụ gia (b thực vật) được nho nặn trong đất s㠩t, khi tiếp xc với lửa đ ch꣡y m ỉ ở bn trong. Khi t⪴i hỏi đến chất phụ gia, ng Chỉnh mau mắn ra sau vườn nh bẻ một nh䠠nh cy, ni gọn lỏn: “Nⳳ đấy!”. Nhnh cy trࢪn tay người đn ng dốc cạn tഢm huyết, sức lực vo gạch Chăm, ha ra lೠ nhnh bời lời – thứ cy mᢠ bất cứ lng qu nઠo cũng c. Bời lời cũng như dước hay d㴢m bụt, đều cho một thứ nhựa c thể kết dnh thay mạch vữa hồ m㭠 cc chuyn gia ᪝ – Việt đang trng tu Di sản Mỹ Sơn từng đặt vấn đề tham khảo. Cng tr鴬nh trng tu Di sản Mỹ Sơn tnh đến đ魺ng thng 11 ny đᠣ kết thc năm thứ nhất v theo ꠴ng Phan Thanh Bảo – Gim đốc Trung tm Bảo tồn di sản, di t᢭ch Quảng Nam – th cng việc hiện nay của c촡c chuyn gia l đang thử nghiệm chất kết d꠭nh bn ngoi nh꠳m thp G3. Tiếc thay, pht kiến của ᡴng L Văn Chỉnh lại khng hề được ng괳 ngng tới. ng Chỉnh khԴng lấy đ lm buồn v㠬 tự tay ng từ năm 2002 đến nay, đ đốt l䣲 nung gạch v xy nࢪn 2 ta thp Chăm với k⡭ch cỡ cng đường nt kh驴ng khc g cᬡc ngi thp m䡠 người Chăm xưa từng tạo nn khắp giải đất miền Trung. Hai ta th겡p ny, một ở giữa lng thಠnh phố Đ Nẵng, trong khun viപn nh hng Apsara số 222 đường Trần Ph࠺, một ở khu du lịch sinh thi Suối Lương – pha Nam đ᭨o Hải Vn. Xy xong 2 t⢲a thp m mỗi viᠪn gạch cứ chồng kht ln nhau, kh�ng cần bất cứ thứ hồ vữa no chỉ trong vng 5 đến 6 thಡng, ng Chỉnh đm ra ho䢠i nghi kiến của một số học giả cho rằng, để xy n�n một ngi thp, người Chăm xưa phải mất h䡠ng trăm năm. C một thực tế buộc phải ni ra, 㳴ng xy xong 2 ta thⲡp nhưng gia cảnh cn ngho rớt mồng tơi. C⨡i sự ngho, u cũng l袠 thin định của cả một đời tm huyết, lắng nghe hơi thở của từng viꢪn gạch để lm nn điều kỳ diệu kh઴ng ai từng nghĩ đến: xy thp Ch⡠m ở thế kỷ XXI. DƯƠNG THANH TNG B٠i đ đăng ngy 08.01.2004 tại http://vanchuongviet.org
0 Rating 283 views 1 like 0 Comments
Read more