Select
Tag Cloud

Anything in here will be replaced on browsers that support the canvas element

  • Yahoo
  • Google
  • Live
  • Live
By: On August 16, 2017
+V?n hoá Sa Hu?nh Khu v?c ven bi?n mi?n Trung Vi?t Nam t? Qu?ng Bình ??n Bình Thu?n và m?t ph?n Tây Nguyên t? lâu ?ã là ??a bàn sinh t? c?a các dân t?c thu?c ng? h? Malayo - Polynesien, trong ?ó ng??i Ch?m là ?ông nh?t.   Phát hi?n kh?o c? h?c v? các khu c? trú và m? táng c?a ng??i c? ? vùng này cho th?y có m?t trung tâm nông nghi?p tr?ng lúa thu?c th?i ??i kim khí phát tri?n t? ti?n Sa Hu?nh t?i Sa Hu?nh v?i các giai ?o?n v?n hóa Xóm C?n (Khánh Hòa), v?n hóa Long Th?nh, v?n hóa Bình Châu và v?n hóa Sa Hu?nh liên t?c cách ngày nay kho?ng 3.500 - 2.200 n?m. Th?i ti?n Sa Hùynh, c? dân c? t?i ?ây s? h?u nh?ng ?? ??t nung g?m chum, vò hình tr?ng có n?p ??y trang trí hoa v?n th?ng, kh?c v?ch… ???c tô màu, mi?t láng. Th?i V?n hóa Sa Hu?nh (Qu?ng Ngãi) c? dân ?ã có nhi?u ngh? c? b?n: ?úc ??ng, rèn s?t, làm g?m, d?t v?i, n?u th?y tinh, ch? t?o ?? trang s?c và buôn bán th??ng m?i mà di v?t còn l?i là các lo?i khuôn ?úc ??ng, x? ??ng, công c? và v? khí b?ng s?t, ?? trang s?c b?ng ?á quý, th?y tinh trong ?ó có v?t ?eo hai ??u thú, các lo?i khuyên tai ?a d?ng: lo?i kh?i tròn phía ngoài có 3 m?u hình tam giác, lo?i tròn phình qu?n nh? con ??a… làm b?ng ??t nung, ?á quý ho??c th?y tinh, kim loa?i ??ng… và ?? g?m v?i các hình d?ng, hoa v?n ??c tr?ng: bát chân cao có hai l? d??i chân trang trí v?n ch?m d?i, n?i mi?ng loe có hai l? trên c?… ??c bi?t là t?c chôn ng??i ch?t trong các lo?i vò g?m [51, tr.11] v?i ?? lo?i ?? tùy táng nh? ?? trang s?c, ?? g?m, v? khí… ???c ch? tác tinh x?o. V?n hóa Sa Hu?nh ???c xem là ti?n ?? c?a v?n hóa Champa. Bát chân cao:  Bát ???c t?o hình nh? m?t chi?c ??a b?ng chân cao h?i loe nh?ng ???ng kính chân chi? nh? b?ng n?a so v?i mi?ng bát. Vành mi?ng có thành h?i xiên. Bát ???c n?n b?ng tay, nung nh? l?a, v?n ch?m d?i. + V?n hoá Ch?mpa (TK II- TK XVII) N?m 179 tr. CN, m?nh ??t mi?n Trung - Sa Hu?nh cùng chung s? ph?n v?i Âu L?c - ?ông S?n khi Tri?u ?à xâm l??c. N?m 111 tr. CN, mi?n ??t này thu?c nhà Hán, ???c g?i là qu?n Nh?t Nam. Nh?ng cùng v?i nhân dân Giao Ch? và C?u Chân ? phía B?c, nhân dân Nh?t Nam nhi?u l?n kh?i ngh?a ?òi quy?n ??c l?p và ?ã tr? thành b? ph?n ??u tiên giành ???c ??c l?p: N?m 192, Khu Liên (Srimara?) lãnh ??o nhân dân huy?n T??ng Lâm thu?c Nh?t Nam ?u?i ???c quân Hán thành l?p n??c v?i tên g?i là Lâm ?p có ngh?a là x? r?ng. ??n TK VII, Sambhuvarman (Ph?m Chí) kh?ng ??nh tên n??c là Champa mà th? ?ô tr??c ?ó ? Sinhapura (Trà Ki?u). Tuy nhiên ng??i Trung Qu?c l?i g?i Champa là n??c Hoàn V??ng (758 - 859) và sau ?ó g?i là n??c Chiêm Thành. L?ch s? Champa hi?n nay còn nhi?u ?i?m ch?a rõ ràng nh?ng v? ??i th? có th? chia làm các giai ?o?n nh? sau:  - Giai ?o?n Sinhapura - Trà Ki?u (192 - 750): b??c ??u th?ng nh?t.  - Giai ?o?n Virapura (750 - 850): kh?ng ??nh v? th?.  - Giai ?o?n Indrapura - ??ng D??ng (850 - 982): b?t ??u phát tri?n  - Giai ?o?n Vijaya - Bình ??nh (982 - 1471): th?nh ??t và ?i vào kh?ng ho?ng.  - T? n?m 1471, khi b? vua Lê Thánh Tông chia làm 3 n??c nh?, v??ng qu?c Champa ch?m d?t s? t?n t?i. Sau ?ó, các chúa Nguy?n ?àng Trong d?n ki?m soát ??t ?ai còn l?i c?a Champa, n?m 1693, ki?m soát mi?n ??t cu?i cùng Phan Rang - Bình Thu?n. Tuy nhiên ng??i Ch?m v?n ???c chúa Nguy?n và nhà Nguy?n phong v??ng kéo dài ??n n?m 1822 khi vua Ch?m cu?i cùng là Po Ch?n Chan b? sang Campuchia thì v??ng tri?u Champa th?t s? ch?m d?t.  Dân t?c Ch?m c? b?n ???c hình thành t? hai th? t?c: Cau (Caramukar) ? ph??ng Nam và D?a (Narikelanamsa) ? ph??ng B?c. V? không gian sinh t?n, v??ng qu?c Champa có 5 vùng: Amaravati t??ng ?ng v?i Qu?ng Bình - Hu?, Indrapura (Qu?ng Nam – ?à N?ng), Vijaya (Quy Nh?n – Bình ??nh) v?i kinh ?ô là thành Chà Bàn (?? Bàn), Kauthara (Khánh Hòa), Pandurangar (Bình Thu?n – ??ng Nai).  Qua hàng ngàn n?m l?ch s?, nhân dân Champa ?ã xây d?ng nên m?t n?n v?n hóa ??c ?áo mang ??m tính b?n ??a và ch?u ?nh h??ng tôn giáo ?n ?? trong ?ó ch? y?u là Bà la môn giáo và Ph?t giáo. Trong ??o Bà la môn, ng??i Ch?m tôn th? Shiva trong tam v? nh?t th?, Vishnu và Brahma ít quan tr?ng h?n. T? kho?ng th? k? XI ??o H?i xu?t hi?n trong c?ng ??ng Champa.  Champa ?ã ?? l?i m?t kh?i l??ng di tích và di v?t r?t l?n v? ki?n trúc, ?iêu kh?c ?á, các lo?i ?? ??ng, ?? g?m, ?? th? cúng b?ng vàng, b?c, các lo?i ?? trang s?c… các lo?i hi?n v?t này ph?n ánh nh?ng nét sinh ho?t trong xã h?i Champa x?a, t? ??i th??ng ??n tôn giáo và cung ?ình, chúng có giá tr? v? nhi?u m?t, nh?t là v? ngh? thu?t. ??c bi?t có m?t qu?n th? ki?n trúc ??n tháp thu?c tôn giáo c?a Ch?mpa ? M? S?n (Qu?ng Nam) còn g?i là “thánh ??a M? S?n” ???c UNESCO công nh?n là di s?n v?n hoá th? gi?i vào tháng 12 n?m 1999. Ngoài ra, ng??i Ch?mpa còn ?? l?i các di s?n ca múa nh?c th? hi?n m?t ph?n trên ?iêu kh?c ?á: các t??ng v? công ho?c ng??i ch?i nh?c c?.  - Ki?n trúc Champa ch? y?u là các lo?i ??n tháp (kalan) b?ng g?ch ???c xây d?ng theo m?t k? thu?t ??c bi?t v?i ngh? thu?t ch?m kh?c tinh x?o trên g?ch. Trong quá trình t?n t?i, ng??i Champa ?ã xây d?ng hàng tr?m ??n tháp nh?m th? cúng th?n và các v? vua, tuy nhiên khi ng??i Champa suy y?u các tháp ?ã b? b? hoang và b? phá ho?i nghiêm tr?ng, hi?n nay còn l?i kho?ng 70 tháp, r?i rác ? Bình Thu?n, Ninh Thu?n, Khánh Hòa, Phú Yên, Bình ??nh, ?aklak... t?p trung nhi?u ? Qu?ng Nam, nh?t là M? S?n n?i ???c coi là vùng ??t thánh dùng xây ??n tháp th? các v? vua ?ã qua ??i mà m?i v? vua ???c xây d?ng m?t c?m ki?n trúc g?m 4 tháp (tháp c?ng, tháp n??c, tháp l?a và tháp th?). Tháp Ch?m th??ng có m?t b?ng vuông, dùng g?ch làm v?t li?u xây d?ng chính, ch? có m?t ít b? ph?n b?ng ?á nh? mi c?a, tr? c?a, b?c c?a. M?i tháp có ba t?ng, nh? d?n khi lên cao theo d?ng núi Meru - n?i trú ng? cùa các th?n Bà la môn, tháp ch? m? m?t c?a chính h??ng v? phía ?ông, 3 c?a còn l?i ?óng kín. Theo quan ni?m c?a ng??i Ch?m thì h??ng ?ông là h??ng c?a th?n linh, B?c là h??ng c?a ma qu?, Tây Nam là h??ng c?a dân chúng nên nhà c?a c?a ng??i Ch?m th??ng m? c?a v? h??ng Tây Nam.  - ?iêu kh?c ?á Champa là m?t b? môn n?i ti?ng ???c nghiên c?u t? cu?i th? k? XIX. Các nhà nghiên c?u ?ã ??nh ra ???c các phong cách t?o hình c?a Champa t? giai ?o?n tr??c TK VII (ch?u ?nh h??ng ngh? thu?t Amaravati c?a ?n ??) cho t?i giai ?o?n n?a sau TK VII tr? ?i, ?ã t?o ra ???c nh?ng nét riêng c?a ?iêu kh?c ?á Champa qua 8 lo?i phong cách: M? S?n E1, Hòa Lai, ??ng D??ng, Kh??ng M?, Chánh L?, Tháp M?m, Yang Mun, Pô Rô Mê. Hi?n nay s?u t?p ?iêu kh?c Champa t?p trung ? các B?o tàng L?ch s? Hà N?i, B?o tàng Ch?m ?à N?ng, B?o tàng T?ng h?p Hu?, B?o tàng Bình ??nh và B?o tàng L?ch s? Vi?t Nam –Tp. HCM. Ngh? thu?t ?iêu kh?c Champa r?t phong phú v?i nhi?u tác ph?m phù ?iêu, t??ng tròn g?n v?i sinh ho?t tôn giáo Bà la môn, trên nh?ng tác ph?m này th??ng b?t g?p nét ch?ng t?c, y ph?c, trang s?c Ch?m hòa tr?n v?i hình ?nh các v? th?n Bà la môn, ho?c nh?ng nét t? th?c c?ng nh? cách ?i?u th? hi?n trong hình ?nh con ng??i, loài v?t… h?t s?c sinh ??ng. - N? th?n Devi: ???c t?o tác bán thân, tóc búi ki?u hình tháp, lông mày li?n nhau, m?t m? to, s?ng m?i th?ng, cân ??i, mi?ng h?i n? n? cu?i t?o nên khuôn m?t xinh ??p, hài hòa, t??ng ?? h? b? ng?c tròn c?ng s?c s?ng nh?ng l?i t?o nên m?t c?m giác thánh thi?n. Theo truy?n thuy?t, n? th?n Devi có tên Champa là Rija kula hara Devi, là v? c?a vua Indravarman II, ng??i sáng l?p tri?u ??i ??ng D??ng, tri?u ??i Ph?t giáo vào th? k? th? IX. Vì Devi có công v?i ??t n??c, ??c bi?t là th??ng giúp ?? nh?ng ng??i nghèo, cô nhi qu? ph?, nên sau khi m?t bà ???c phong th?n và ???c vua Jaya Shinhavarman I d?ng tháp th?.    - Th?n Shiva: Shiva là th?n Bà la môn giáo ???c ng??i Ch?m th? cúng và tôn vinh là v? th?n t?i cao. Kho?ng TK IV, s? tôn th? Shiva m?t cách tuy?t ??i c?a các vua Champa kh?i ??u b?i vua Bhabravarman ?ã hình thành m?t tôn giáo chuyên th? th?n Shiva g?i là Shiva giáo mà t? ?ó ra ??i khu “thánh ??a M? S?n”. Shiva v?a mang tính h?y di?t v?a mang tính sáng t?o, v?a ???c coi là hung th?n phá ho?i, h?y di?t muôn loài v?a là phúc th?n b?o v? ??i s?ng c?a c? dân Champa. Shiva th??ng th? hi?n d??i d?ng m?t nam nhân có ba con m?t v?i m?t th? ba ? gi?a trán, ba m?t t??ng tr?ng cho m?t tr?i, m?t tr?ng, ng?n l?a th? gian, và có th? nhìn th?y h?t quá kh?, hi?n t?i, t??ng lai. Tay Shiva có khi c?m ?inh ba bi?u t??ng cho sáng t?o, b?o t?n và h?y di?t, có khi c?m rìu bi?u hi?n cho s? tuy?t ??i ho?c c?m cây ki?m xua ?u?i nh?ng s? hãi và m?t tay ban phúc lành. Shiva c?ng là v? th?n t?ng h?p, v?n s? ??u qui t? vào ?ó, khác nào nh? bi?n là n?i qui t? t?t c? m?i dòng n??c trong, n??c ??c.  Bi?u t??ng c?a Shiva là Linga. Linga c?ng là bi?u hi?n c?a tam v? nh?t th? v?i ch?m ??u hình c?u tròn là Shiva, ph?n gi?a là Vishnu có tám c?nh và ph?n cu?i là Brahma có b?n c?nh. Chi?c Linga ??u tiên xu?t hi?n d??i tri?u vua Bhadravarman th? k? IV. Nhà vua cho xây t?i thánh ??a M? S?n m?t ??n th? th?n Shiva Bradravarman, mà bi?u t??ng là m?t Linga. - Th?n Ganesha: Là con c?a Shiva và Parvati, ???c th? hi?n d?ng ??u voi mình ng??i v?i cái b?ng to ?n quá no b? v? ph?i qu?n con r?n Naduki bó l?i. Theo th?n tho?i ?n ??, th?n Ganesha có ??u voi là vì do trong m?t c?n nóng gi?n, Shiva l? ch?t m?t ??u Ganesha. Ngay sau ?ó Shiva s?a ch?a sai l?m b?ng cách l?p l?i nguy?n s? l?y ??u k? nào g?p tr??c tiên ?? g?n vào thân hình Ganesha cho Ganesha s?ng l?i, nh?ng sinh v?t mà Shiva g?p ??u tiên sau khi chém con mình l?i là m?t chú voi nên Ganesha ?ành mang ??u voi mình ng??i. Ganesha ???c coi là th?n tài, th?n h?nh phúc. ? nh?ng qu?c gia theo ?n giáo, Ganesha r?t ???c sùng kính. Ganesha Ch?m ???c th? hi?n nh? trong th?n tho?i v?i t? th? ng?i, ??u ??i v??ng mi?n, có con m?t th? ba gi?a trán,b?ng cu?n con r?n Naduki. T??ng b? m?t c? 2 cánh tay.   - S? t? (Trà Ki?u – Qu?ng Nam, TK X - XI) S? t?, ng??i Ch?m g?i là “Rimon”, là hình t??ng ph? bi?n trong ?iêu kh?c Champa, ??c bi?t là ? kinh ?ô Sinhapura (thành ph? s? t?) - Trà Ki?u. S? t? là con v?t không có ? Champa nh?ng vua chúa Champa l?i dùng s? t? bi?u hi?n cho v??ng quy?n. Theo quan ni?m c?a ng??i Ch?m s? t? bi?u t??ng cho quý t?c, cho s?c m?nh vì theo truy?n thuy?t, s? t? là m?t trong m??i ki?p hóa thân c?a th?n Vishnu và ?ã gi?t ???c qu? Hiraya Kapipu. S? t? Champa th??ng ???c t?o thân hình v?m v? v?i các t? th? ??ng, ng?i, qu?, ph? bi?n là t? th? ??ng. Ngh? nhân th? hi?n s? t? không hoàn toàn ?úng theo ??i th??ng nh?ng l?i ???c mang r?t nhi?u ?? trang s?c.  - ?? g?m: Ngh? g?m ? Champa ít ???c bi?t ??n. Kho?ng n?a cu?i TK XX m?i có m?t s? công trình ?? c?p v? g?m Champa nh?ng t? ?ó ??n nay nh?ng hi?u bi?t v? dòng g?m này v?n còn ít ?i so v?i lãnh v?c ki?n trúc và ?iêu kh?c c?a v??ng qu?c Ch?mpa. Tuy nhiên ?i?u ch?c ch?n là ?ã t?ng t?n t?i nh?ng lò g?m c? trong ??a bàn c? trú c?a ng??i Ch?m ? Bình ??nh nh? các lò Gò Sành, Gò H?i, Gò Tr??ng C?u, Gò Cây Me, Gò Ké… mà niên ??i thu?c th?i Vijaya. ?i?m quan tr?ng khác là s?n ph?m lo?i g?m này ch? y?u ???c phát hi?n trong nh?ng công trình kh?o c? không nh?ng ? Hoa L?, Th?ng Long thu?c ??i Vi?t, ??i Làng, ??i Lào (Lâm ??ng) mà còn tìm th?y trên con tàu ??m ? Padanan (Philippine), ? c?ng Altur thu?c bán ??o Sinai (Trung C?n ?ông) [31, tr.236-242] … ?i?u ?ó cho th?y g?m Champa th?c s? là m?t lo?i s?n ph?m có ch?t l??ng ???c tin t??ng s? d?ng ? ngoài Champa. ?ây có l? c?ng là m?t d?ng g?m xu?t kh?u mà không s? d?ng trong n?i ??a t??ng t? nh? g?m Chu ??u Vi?t Nam th?i Lê.   S?n ph?m g?m Champa r?t ?a d?ng t? các lo?i g?ch, ngói, v?t trang trí ph?c v? vi?c xây ??n tháp, thành trì ho?c ki?n trúc nhà ? cho ??n các lo?i ?? ??ng nh? bát ??a h? chóe, âu, bình, vò... G?m ?? ??ng Champa có nét riêng v? dáng ki?u và ??c bi?t là màu men v?i các lo?i men nâu ng? ?en, da l??n, men ng?c, men s?t… mà bao gi? ph?n chân hi?n v?t c?ng ???c ?? m?c. G?m ?? ??ng Champa ???c trang trí ki?u khuôn in, ??p n?i ho?c kh?c v?ch v?i nh?ng h?a ti?t hoa sen, dây lá, hình k? hà, sóng n??c, m?t Kala… cho th?y ?ây là nh?ng th? pháp trang trí ??c thù c?a các lo?i men ??c s?c TK XIII - XIV tr??c khi xu?t hi?n g?m men xanh tr?ng. - Lokesvara (Th? t? t?i B? tát) Ng??i Champa xem Lokesvara là hình th?c th? hi?n s? k?t h?p gi?a Shiva (Bà la môn giáo) và Avalokitesvara (Ph?t giáo) v?i hình t??ng nam nhân, ???c th? ph? bi?n nh?t t?i vùng Indrapura (??ng D??ng - Qu?ng Nam), n?i ?ây tìm th?y nhi?u t??ng Lokesvara b?ng kim lo?i (??ng, vàng, m? vàng ho?c b?c) ?a s? ???c l?u gi? t?i B?o tàng L?ch s? Vi?t Nam – TP. HCM và B?o tàng Chàm ?à N?ng. Lokesvara ???c th? hi?n trong t? th? ??ng ho?c ng?i, ng?c n? eo thon, mang nhi?u trang s?c ? tai, c?, b?p tay, c? tay, c? chân… khuôn m?t ??y ??n. ?ôi m?t m?, tóc búi cao có mi?n ch?m Avalokitesvara. T??ng th??ng có hai tay, c?m hoa sen, chu?i h?t ho?c bình n??c cam l?. Ngh? nhân Champa ?ã th? hi?n Lokesvara v?i ý ngh?a thu?n túy b?ng tr?c giác, nh?ng bi?u tr?ng c?a Ph?t giáo phù h?p v?i ??c v?ng và ni?m tin c?a xã h?i Champa x?a.   - T??ng Ph?t ??ng D??ng - TK IV Ng??i Ch?m g?i ??c Ph?t là “ph?h”. T??ng ??ng D??ng m?c áo choàng h? vai trong t? th? ??ng trên tòa sen, tóc hình b?t ?c, tai dài g?n ??n vai, ?ôi m?t m?, khuôn m?t thon và ??y ??n.  T??ng Ph?t ???c th? hi?n khá v?m v?, mang ??m phong cách ?n ?? ??n n?i có nhà nghiên c?u cho r?ng t??ng ???c mang t? ?n ?? sang. Trong các công trình nghiên c?u v? Champa, ngh? ?úc ??ng ít ???c quan tâm nh?ng có m?t ?i?u ?áng l?u ý là trong các di v?t Champa h?u nh? không có t??ng Ph?t b?ng ?á và ng??c l?i không th?y các lo?i t??ng Bà la môn ???c ?úc b?ng ??ng. ?nh h??ng c?a Ph?t giáo v?i Champa th? hi?n m?nh nh?t vào th?i k? Indrapura.
0 Rating 253 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On August 15, 2017
L?U L?C X? CHAMPA JaHaon *Bi?n Ch?mpa, 28/12/1282. G?n m?t tháng lênh ?ênh trên bi?n, ch? còn vài ngày n?a là ??n Ch?mpa. Trong tôi c? mong ???c s?m th?y mi?n ??t ?y, n?i mà tôi có th? th?y ???c nh?ng ?i?u m?i m?, nh?ng con ng??i m?i. Tôi t? c??i chính mình, sao tôi l?i suy ngh? k? c?c nh? v?y! Nhi?u ng??i nói r?ng, h? nh? nhà l?m, h? mu?n lênh ?ênh nh? v?y mãi. Ch?mpa s? là m?t n?i r?t t?i t?. Tôi là Yuen Pa, 25 tu?i, sinh ra ? m?t làng quê nghèo, vùng Qu?ng ?ông, Nam T?ng. Tôi là ??a con duy nh?t c?a ba m?, chúng tôi yêu th??ng và s?ng vui v? v?i nhau, cu?c s?ng c? th? trôi qua bình th?n, gi?n d? cho ??n khi ng??i Mông C? xu?t hi?n. Hai n?m tr??c Nam T?ng b? quân Mông C? xâm chi?m. Nh?c ??n quân Mông C? tôi l?i c?n r?n r?i n??c m?t. Chúng quá tàn ác, sao chúng l?i có th? gi?t ng??i tàn b?o ??n v?y? Chúng c?ng có cha m?, có con, có ng??i thân, b?n bè... chúng c?ng là con ng??i nh? tôi v?y, nh?ng d??ng nh? chúng ch?ng có chút ??ng c?m gì v?i ??ng lo?i. Chúng ??t c? làng chúng tôi, gi?t b?t c? ai chúng th?y, k? c? tr? s? sinh và ph? n? mang b?u. Cu?c s?ng d??ng nh? là m?t chu?i ?au kh? b?t t?n, ông tr?i c? thích ??a ??y con ng??i vào nh?ng th?m c?nh k? c?c nh?t. Bây gi? ?ây, b?n bi?t không? tôi l?i ? ?ây, trên nh?ng chi?n thuy?n d?n ??u b?i b?n Mông C?, tôi tr? thành th? x?u xa mà tôi c?m thù nh?t. Hôm ?ó tôi ?ã nhìn th?y t?t c?, trong vô v?ng tôi núp mình trong b?i cây trên m?t ng?n ??i cao ngoài làng. Quân Mông C? ti?n vào làng, chúng gi?t t?ng ng??i, ??t t?ng c?n nhà. Tôi quá hèn nhát, ch? bi?t núp, không dám ch?y ra, ch?y ra lúc ?ó ??ng ngh?a v?i cái ch?t. Trong thâm tâm, tôi bi?t r?ng nh?ng ng??i thân yêu ?ang g?p nguy hi?m, nh?ng tôi l?i t? d?i r?ng h? s? ch?y thoát. M?t suy ngh? d?i trá hèn h?. Khi b?n Mông C? ?ã r?i ?i, tôi m?i dám b??c vào ngôi làng, nhà tôi ch?ng còn gì ngoài tro b?i. H?n n?a n?m sau, tôi quanh qu?n kh?p n?i c? tìm tung tích c?a cha m?. Trong s? nh?ng ng??i còn s?ng, có ng??i nói cha m? tôi ?ã m?t, có ng??i nói h? không bi?t. Nh?ng tôi ch?a bao gi? còn nhìn th?y cha m? n?a, c?ng ch?ng còn ng??i thân nào. Tôi ??n Qu?ng Châu, xin vào làm ph? b?p trong m?t quán ?n. Làm nh?ng vi?c l?p ?i l?p l?i, ngày qua ngày ch? ?? sinh t?n. Trong quán ?y có m?t cô gái tên Khan Sy, cô gái r?a chén c?a quán ?n. Tôi c?m m?n c? ?y, ngh? r?ng chúng tôi h?p ?ôi. L? ?âu sau này chúng tôi có th? cùng k?t duyên, xây nên ngôi nhà, có v?i nhau nh?ng ??a con, cùng xây nên m?t gia ?ình h?nh phúc. Suy ngh? ?y ?em l?i cho tôi chút ?m áp. Tôi hay nhìn tr?m cô ?y, nhìn mái tóc tôi r?t mu?n ch?m vào. Có ?ôi l?n ánh m?t chúng tôi b?t g?p nhau, th?t thú v? và b?i r?i. R?i m?t hôm, tôi ngõ l?i, cô ?y ??ng ý. Chúng tôi yêu nhau ???c h?n m?t n?m và có r?t nhi?u k? ni?m vui bu?n. Nh?ng cu?i cùng chúng tôi ?ã chia tay. Khan Sy ?ang tu?i tr?ng tròn, nhi?u ng??i h?i c??i cô ?y, ng??i giàu c?ng có, ng??i tu?n tú c?ng có, t?t c? ??u có v? t?t h?n tôi. C? nh? v?y làm cho cô ?y ph?i b?n kho?n. Tôi yêu Khan Sy l?m, tôi b?o r?ng tôi s? c? g?ng cho hai tôi có m?t cu?c s?ng t?t ??p, hãy tin ? tôi. Lúc ?y, tôi không có gì trong tay. Khan Sy không tin l?i tôi nói. Sau ?ó, tôi càng níu gi?, cô ?y càng quy?t tâm r?i b?. Tôi nh? ?iên d?i, con tim tan nát. Sao cu?c ??i l?i nh? th?? Sao m?t ng??i có th? t? b?c v?i ng??i yêu th??ng mình nh? v?y? Bi?t bao k? ni?m mà sao h? có th? quên nhanh ??n nh? v?y? R?i m?t ngày Khan Sy nói chúng tôi nên chia tay, cô ?y xin l?i, cô ?y c?n ph?i ngh? v? t??ng lai c?a gia ?ình mình, ?ã có ng??i h?i c??i và cô ?y ?ã ??ng ý. Không còn cách nào khác, tôi và Khan Sy r?i xa nhau t? ?ó. Lúc này, gian s?n ??i T?ng ?ã thu?c v? ng??i Mông C?. Tri?u ??i m?i l?y qu?c hi?u là Nguyên. M?t hôm tôi ?ang làm thì quan quân tri?u ?ình t?i b?t tôi ?i. H? nói tri?u ?ình ?ang tuy?n binh, tôi bu?c ph?i tòng quân. Cu?c ??i tôi b?t ??u chuy?n sang m?t ngã r? khác ? m?t n?i xa xôi, tôi tr? thành th? mà tôi c?m ghét nh?t. Cu?i n?m 1282, Toa ?ô d?n ??u 10 v?n quân cùng 1000 chi?n thuy?n t? Qu?ng Châu ti?n th?ng ??n Ch?mpa.   *Bi?n Ch?mpa, 29/12/1282. Sau g?n n?a n?m hu?n luy?n, tôi ???c ?i?u ?i tham gia cu?c vi?n chinh Ch?mpa. Do không quen v?i khí h?u trên bi?n nên tôi b? s?t n?ng, có m?t ng??i tên Yan Sao ???c phân công ch?m sóc tôi. Nh? anh ta t?n tình ch?m sóc mà tôi ?ã qua kh?i c?n b?o b?nh, chúng tôi thân nhau t? ?ó. Tôi và Yan Sao cùng thu?c m?t ti?u ??i, anh c?ng là ng??i Hán nh? tôi. Hàng ngày c? ??n gi? ?n, tôi l?i r? Yan Sao cùng ?i ?n, m?t hôm th?y Yan Sao ?n c?m mà m?t r?i l?, anh nói anh nh? nhà quá. Anh tâm s? tr??c ?ây anh là ng? dân ? m?t làng chài nh?, anh có m?t cô v? xinh ??p cùng ??a con th? ?ang ch? ? quê nhà. Tri?u ?ình ban l?nh tòng quân, anh không th? tr?n, c?ng không ?? ti?n lo lót quan l?i, ch? còn bi?t hy v?ng có th? toàn m?ng tr? v?. Quen nhau t? khi lên chi?n thuy?n này, tôi luôn c?m nh?n ???c sâu th?m trong Yan Sao là s? bu?n bã, b?t l?c và n?i s? hãi, lo l?ng. Anh có quá nhi?u th? ?? ngh? v?. So v?i anh, tôi l?i th?y mình may m?n ph?n nào, tôi không có quá nhi?u th? ph?i lo ngh? nh? Yan Sao. H?m ??i có t?i 1000 chi?n thuy?n do Nguyên soái Toa ?ô ch? huy. Chi?n thuy?n r?t to, m?i chi?c ch?a t?i 100 ng??i cùng l??ng th?c, binh ph?c và nhi?u th? c?n thi?t khác cho t?ng ?y con ng??i trong vòng m?t n?m. Nguyên Tri?u ?ã chu?n b? hai n?m tr?i cho vi?c chinh ph?c Ch?mpa l?n này. Tr??c kia Nam T?ng là m?t ?? qu?c giàu có s? h?u k? thu?t ?óng tàu tân ti?n nh?t thiên h?. D?a vào k? thu?t ?ó, Nguyên Tri?u cho ?óng m?t lo?t chi?n thuy?n c? l?n chu?n b? cho vi?c chinh ph?c nh?ng x? s? xa xôi nh? Ch?mpa, Java và ??i Vi?t. ?? ch? Mông Nguyên ??t ng??i Mông C? lên v? trí ?u vi?t nh?t, n?m quy?n cai tr? thiên h?, ??ng th?i h? c?ng ??t chúng tôi - nh?ng th?n dân c?a Nam T?ng xu?ng v? trí th?p nh?t g?i là Nam nhân. ??i v?i tôi b?n Mông C? m?i x?ng ? v? trí th?p nh?t, chúng không gì h?n là nh?ng k? du m?c man r? không chút tính ng??i. Không hi?u sao ông tr?i l?i trao cho chúng v? trí ?u vi?t h?n so v?i các gi?ng dân khác, th?t không công b?ng. V?i b?n tính tàn b?o và tham v?ng ngu xu?n, H?t T?t Li?t xua nh?ng ng??i nh? tôi và Yan Sao ??n nh?ng vùng ??t xa l?, ? ?ó chúng tôi bu?c ph?i sát h?i nh?ng ng??i xa l? ch?ng thù oán gì v?i mình, h?n thù l?i ch?t thêm h?n thù. Nh?ng ng??i Hán nh? tôi ch?ng m?n mà gì khi ph?i chi?n ??u trong hàng ng? quân Mông Nguyên, chúng tôi bu?c ph?i tòng quân ch? vì th?i th?. Màn ?êm buông xu?ng, c? m?t vùng bi?n l?p lánh ánh ?èn c?a 1000 chi?n thuy?n, t?a nh? ngàn ngôi sao sáng gi?a ??i d??ng. Tôi ??ng trên thuy?n, nhìn ng?m nh?ng ánh ?èn, r?i l?i nhìn lên b?u tr?i có vô s? nh?ng vì sao sáng. T? h?i có ph?i m?i ngôi sao là m?t linh h?n? ??t nhiên, tôi th?y h?, r?t nhi?u ng??i, có c? ba m?, trên ng??i h? toàn máu. T?t c? h? ?ang nhìn tôi ch?m ch?m. M?t ph?n tôi mu?n ch?y ??n v?i h?, m?t ph?n tôi th?y s? hãi. Ánh m?t h? nh? mu?n nu?t s?ng tôi, nh?ng h? ch?ng làm gì c?, h? ch? nhìn. Phía sau tôi là m?t cánh c?ng g?, sau cánh c?ng là m?t ??i d??ng mênh mông. M?t n??c ? ?ó r?t ph?ng l?ng. Tôi v?i ch?y v??t qua cánh c?ng, th?t l? là tôi có th? ??ng trên m?t n??c, lúc ?ó tôi c?m nh?n th?y m?t con qu? ?ang ? phía sau mình, nó ch?n cánh c?ng l?i. Tôi ti?p t?c ch?y xa kh?i cánh c?ng, ch?y mãi, r?i tôi nh?n ra m?i th? xung quanh là m?t bi?n n??c r?ng vô t?n. Xa xa tôi th?y cánh c?ng g? ban nãy. Tôi quy?t ??nh ch?y l?i cánh c?ng. Khi ?ã ch?y t?i tr??c c?ng, tôi b?ng d?ng l?i, c?m nh?n có th? gì ?ó ?ang ? trên ??u mình, m?t con qu? ?ang ?n nh?ng móng tay s?t nh?n c?a nó xuyên qua ??u tôi... Tôi ch?t t?nh d?y, Yan Sao ?ang v? nh? vào ??u tôi, hóa ra m?i th? kinh kh?ng lúc nãy ch? là m?. Yan Sao v?a v? tôi v?a g?i "d?y ?i Yuen Pa, t?i ??t li?n r?i!". Tôi t?nh d?y trong m? màng, tr?i ?ã t? m? sáng, có th? nghe th?y ti?ng gà gáy, phía tr??c chúng tôi là vùng ??t c?a Ch?mpa.     *??m Cri Vinaya, g?n kinh ?ô Ch?mpa, 30/12/1282. ?? ?ánh chi?m kinh ?ô Vijaya, tr??c h?t chúng tôi ph?i vào ???c m?t con ??m r?ng l?n tên là Cri Vinaya. Ch? có m?t c?a bi?n h?p ?? vào con ??m ?y, quân Ch?mpa có th? ??t mai ph?c ? hai bên c?a bi?n. Vì v?y vi?c ti?n vào ??m s? r?t nguy hi?m, nh?ng không còn cách nào khác. 1000 chi?n thuy?n ?ang ch?m rãi v??t qua c?a bi?n ?y. T?ng chi?c n?i ?uôi nhau xâu chu?i thành m?t ???ng th?ng, m?i ng??i im l?ng m?t cách ?áng s?. Nh?ng g??ng m?t s? hãi, lo l?ng báo hi?u ?i?u ?áng s? ?ang g?n k?. M?t n??c th?t ph?ng l?ng, ? phía ?ông, m?t tr?i ch? m?i b?t ??u ló d?ng. ??t nhiên, trên tr?i xu?t hi?n nh?ng t?ng ?á kh?ng l? lao v? phía chúng tôi. Hàng ch?c t?ng ?á lao t?i t? phía tây. M?t n??c t?nh l?ng b?ng xu?t hi?n nh?ng ti?ng n? d? d?i. M?t vài chi?c thuy?n b? ?á ?âm th?ng ?ang chìm d?n, nhi?u ng??i ch?t ?u?i, có ng??i b? ?á ?âm ph?i nát bét. Nh?ng t?ng ?á v?n ti?p t?c lao t?i nh? món quà ra m?t ch?t chóc t? Ch?mpa. Phía tây c?a bi?n có nhi?u máy b?n ?á l?n. Quân Ch?mpa không ng?ng b?n ra nh?ng t?ng ?á kh?ng l? v? phía chúng tôi nh?m phá h?y nh?ng chi?n thuy?n. M?c cho c?n m?a ?á, chúng tôi dong thuy?n ti?n th?ng v? phía tây c?a bi?n, ph?i tiêu di?t ??i quân b?n ?á. Ch?ng m?y ch?c thuy?n ?ã ti?n sát b?, l?p l?p binh lính r?i thuy?n ti?n v? phía máy b?n ?á. ??i c?a tôi dùng khiên r?ng che ch?n l?n nhau tr??c nh?ng m?i tên ??c. Chúng tôi t? t? ti?n v? phía tr??c, r?i b?ng nhiên quân Ch?mpa rút ch?y b? l?i nh?ng máy b?n ?á ?ã b? phá h?y. K?t thúc tr?n này, có 12 thuy?n b? chìm, kho?ng 1000 ng??i ch?t. Tôi và Yan Sao may m?n v?n còn s?ng. ?ây m?i ch? là s? kh?i ??u c?a nh?ng c?n ác m?ng. Chúng tôi ti?p t?c dong thuy?n ti?n v? phía ?ông ??m Cri Vinaya. B? ??m n?i chúng tôi d?ng tr?i là m?t bãi cát tr?ng r?ng l?n. T? doanh tr?i nhìn v? phía tây là b? bên kia c?a ??m, n?i có quân Ch?mpa; n?u ?i v? phía ?ông kho?ng n?a canh gi? s? th?y bi?n Ch?mpa. Chi?n thuy?n ???c neo l?i trong ??m, chúng tôi di chuy?n trên nh?ng con phà ?? vào b?. T?i hai ngày sau thì m?i vi?c m?i xong xuôi. Trong h?n 30 ngày sau ?ó không có chi?n s? n? ra. C? vài ngày l?i có s? gi? sang d? hàng vua Ch?mpa, nh?ng không có d?u hi?u cho th?y Ch?mpa s? ??u hàng. Trong m?t bu?i chi?u, ??i tôi ?i tu?n tra quanh b? bi?n. ? ?ó có r?ng thông và nh?ng dãy núi cao nhô ra bi?n. Trong khu r?ng có nh?ng qu? trái nh? mà tôi không bi?t tên, nh?ng trái ?y v?a chua v?a ng?t v?a ??ng, ?n vào r?t s??ng mi?ng. Chúng tôi hái nh?ng trái ?y, ng?i ngh? l?i bên g?c cây, v?a ?n trái v?a bàn v? cu?c chi?n ?ang di?n ra. R?i mai Ch?mpa s? ??u hàng ch?ng? Tôi h?i ?ùa Yan Sao. Nhìn v? phía Bi?n, Yan Sao tr?m ngâm: Không ?âu, tr? phi s? gi? mình có phép thu?t! Yuen Pa ?i, chúng ta ??u mong t?i ngày tr? v?. Quê h??ng ? phía bên kia bi?n c?. Nh?ng ph?i ch?p nh?n thôi, Ch?mpa có ??u hàng thì còn có chi?n d?ch ti?n lên ??i Vi?t, hành trình tr? v? gian nan l?m. Ng??i Ch?m hay ng??i Vi?t không bao gi? d? dàng giao l?i gian s?n c?a h?, mu?n chi?m l?y ch? con cách ?? máu mà thôi. M?t hôm ??i tôi ?ang ?ánh cá ? ??m thì th?y m?t thuy?n l?n ?i ngang qua, là thuy?n c?a s? gi? ?i d? hàng ng??i Ch?mpa tr? v?. Trên thuy?n l?i c?m c? ?en, là d?u hi?u báo r?ng s? m?nh ?ã th?t b?i, là l?n th? 7 r?i. Ba ngày sau, ??i tôi nh?n nhi?m v? h? t?ng s? gi? sang d? hàng. ?ây là l?n th? 8, c?ng là l?n cu?i cùng, n?u không thành công thì s? có m?t tr?n quy?t chi?n. Ch?ng m?t nhi?u th?i gian ?? thuy?n ??n ???c phía tây b?c c?a ??m. ? ?ó có m?t con sông l?n, chúng tôi dong thuy?n ?i ng??c dòng sông v? phía tây nam, n?i có nhà vua ng?. Khác h?n v?i n?i chúng tôi ?óng quân là m?t n?i khô h?n, nhìn ra hai bên b? sông có th? th?y nh?ng ??ng lúa xanh r?ng mênh mông, cây c? phát tri?n t??i t?t. Lâu lâu l?i th?y m?t s? thuy?n Ch?mpa ?ang ?i xuôi ng??c. Có v? m?i sinh ho?t c?a ng??i dân v?n di?n ra bình th??ng. Nhi?u ng? dân ch? m?t qu?n mà không m?t áo b?t k? là trai hay gái, khí h?u n?i ?ây khá nóng nên nhi?u khi m?t áo là không c?n thi?t. Ph?n l?n h? có làn da ?en ngâm, nh?ng c?ng có ng??i có da tr?ng sáng. Nhìn th?y thuy?n s? gi? h? c?ng ch?ng b?n tâm l?m, v?n ti?p t?c công vi?c. Có l? thuy?n s? gi? ?i qua ?ây nhi?u l?n r?i nên c?ng ch?ng còn gì l?. ? phía nam b? sông có m?t thành quân s? r?t r?ng, ng??i Ch?m g?i là Bal Sri Banoy. Thành ch? y?u ???c làm b?ng g?, phía B?c thành d?a vào hào t? nhiên là con sông mà chúng tôi ?i qua. Thuy?n ph?i m?t h?n n?a canh gi? m?i ?i qua h?t m?t b?c c?a thành. D?a vào tính toán thì thành này có chu vi kho?ng 20 d?m. Trên thành có binh lính canh gi? c?n m?t. H? m?t qu?n áo v?i màu ?en xám, ?i chân tr?n, tay c?m giáo và khiên. Có nhi?u ng??i còn có cung v?i tên n? ???c t?m ??c. M?t s? ít ng??i khác, có l? là ch? huy ???c trang b? áo giáp. So v? trang b? h? không h? thua kém binh lính nhà Nguyên, ch? khác là chúng tôi ??u có giày ?? ?i. ? phía d??i thành, lâu lâu th?y có nh?ng con voi cao t?i 3 mét ?ang ???c cho ?n, ngà c?a chúng s?t nh?n ???c b?c l?i b?ng thép, ch?c h?n là voi chi?n Ch?mpa, trông khá ?áng s?. V?n còn 10 d?m n?a m?i ??n n?i nhà vua ng?, chúng tôi ti?p t?c dong thuy?n v? phía tr??c.     *??a khu Vijaya, Ch?mpa, 10/2/1283. Có m?t nhóm binh lính Ch?mpa ?ang ?óng tr?i ? ven sông. Th?y thuy?n s? gi? nhà Nguyên thì h? ra hi?u cho c?p b?. Sau khi vào b?, chúng tôi ???c chào ?ón b?i m?t v? quan cùng kho?ng 100 binh lính khác. V? quan ?y m?t m?t chi?c áo dài màu xám ch? dài ??n quá ??u g?i, ph?n thân d??i qu?n m?t chi?c sarong nhi?u màu dài t?i t?n bàn chân, chi?c áo dài che ch?n ph?n trên c?a chi?c sarong ?y, ??u tóc v? quan ???c qu?n l?i g?n gàng b?ng m?t chi?c kh?n màu ?en, chân ông ta mang m?t ?ôi giày ???c làm t? da thú. V? quan còn có m?t thanh ?ao ???c ?eo ? sau l?ng, tôi ?oán ông ta là m?t v? võ quan. Không ng? r?ng v? quan này có th? giao ti?p sành s?i v?i chúng tôi b?ng Ti?ng Hán. Sau này tôi m?i bi?t ?ã có r?t nhi?u ng??i Hán dong thuy?n ??n t?n x? này ?? tr?n tránh quân Mông C?, r?t có th? v? quan ?ã h?c Ti?ng Hán t? nh?ng ng??i ?ó. H? ?ã chu?n b? s?n r?t nhi?u ng?a cho chúng tôi c??i. Gi?ng ng?a c?a h? th?p bé h?n nh?ng con ng?a tôi th?y ? Trung Nguyên. Tuy th?p bé nh?ng nh?ng con ng?a này v?n là ph??ng ti?n di chuy?n nhanh nh?t ? x? này. Không m?t nhi?u th?i gian, chúng tôi ?ã ??n ???c hành cung n?i nhà vua ?ang ?. Sau khi dâng th? c?a ch? soái Toa ?ô lên nhà vua, chúng tôi ???c d?n ??n n?i ? giành cho s? gi?, ? ?ó chúng tôi ???c ti?p ?ãi tr?ng th?. ??n ngày hôm sau vua Ch?mpa s? quy?t ??nh có mu?n g?p s? gi? hay không. N?u không hài lòng, ông ta có th? yêu c?u chúng tôi quay tr? v?, th?m chí có th? b?t nh?t ho?c gi?t h?t chúng tôi. *Th? Toa ?ô g?i cho vua Indravarman V: Ta vì th??ng dân x? ngài còn th? d?i, không n? l?m sát mà h?n m?t tháng nay án binh b?t ??ng, không n? ti?n vào ??t phá x? s? c?a ngài. Ngài ngh? r?ng, v?i binh l?c hùng h?u c?a Nguyên Tri?u, m?t khi tràn vào ?ánh chi?m kinh ?ô thì li?u binh lính ngài có ch?ng gi? n?i không? X?a kia, Khwarezm là m?t ?? qu?c r?ng l?n h?n x? ngài g?p ch?c l?n, vua x? ?y ng?o m?n sai ng??i tàn sát s? gi? Mông C?, k?t c?c quân ta tràn vào x? ?y ??t s?ch, gi?t s?ch, già tr? l?n bé ngay c? gia c?m c?ng không tha. Nhà Kim ??i ??ch v?i chúng ta h?n 23 n?m tr?i cu?i cùng c?ng ph?i ch?u th?t b?i, thành Yên Kinh b? quân ta ??t tr?i t?i ba tháng m?i cháy h?t. Ngay c? nhà T?ng m?t th?i hùng m?nh gi? c?ng ?ã b? chúng ta chinh ph?c. K? ra nh?ng ?i?u ?y ?? cho ngài th?y ???c m?nh tr?i ?ã thu?c v? Nguyên Tri?u. Là b?c quân v??ng, ch?c ngài th?a sáng su?t ?? hi?u th? nào là Thiên M?nh. C? sao ngài v?n mãi ngoan c? mà ch?a ch?u qui ph?c Thiên Tri?u? ? phía B?c, các vua ??i Vi?t t?ng nhi?u l?n mang quân sang tàn phá ??t n??c c?a ngài, b?t ?i dân chúng c?a ngài, chi?m nhi?u lãnh th? c?a ngài. M?i thâm thù này há ngài có th? quên ???c? N?u ch?u qui ph?c, ta ??i di?n cho Thiên Tri?u h?a s? giúp ngài tiêu di?t ??i Vi?t, sau ?ó s? hoàn tr? l?i gian s?n toàn v?n cho ngài. Bên nào l?i, bên nào h?i ?ã quá rõ ràng. Ta bi?t r?ng ngài là m?t b?c quân v??ng th??ng dân nh? con, há l?i mu?n con dân mình ph?i lâm vào c?nh máu ch?y ??u r?i? Ng??i x?a có câu "k? th?c th?i m?i là trang tu?n ki?t", mong ngài hãy suy xét th?t k? càng.   T?i ?ó là m?t ?êm tr?ng sáng, chúng tôi ???c ban cho nh?ng chum r??u c?n, r?t nhi?u th?t dê, th?t trâu cùng nhi?u qu? trái t??i ngon khác. Chúng tôi hút r??u thông qua nh?ng ?ng hút b?ng tre ???c c?m vào chum r??u theo nh? t?p quán c?a ng??i Ch?mpa. R??u c?a h? r?t loãng và ngon, ph?i u?ng t?i t?n khuya m?i say. T?i ?ó, chúng tôi ???c ?n u?ng no say th?a thích. ?ây có l? là kho?ng th?i gian vui nh?t trong h?n hai tháng t? khi tôi r?i quê nhà. B?t ch?t m?t c?m giác bu?n ??n não lòng ch?t ?p ??n, toàn thân tôi xìu xu?ng nh? ch?ng còn s?c s?ng. Tôi nh? ??n Khan Sy ng??i tôi yêu, không bi?t gi? này nàng ?ã ra sao? Tôi l?i nh? ba m? c?a mình, nh? ngôi làng thân th??ng g?n li?n v?i tu?i th?. N??c m?t tôi trào ra. Nhìn xung quanh tôi th?y nhi?u ng??i khác c?ng ?ang khóc, h? c?ng r?t nh? nhà nh? tôi. Tôi tìm ??n Yan Sao, anh ta ?ang ng?i m?t mình bên chum r??u, tay c?m m?ng th?t to, v?a hút r??u v?a nhai ng?u nghi?n. Trông anh ch?ng có v? gì bu?n r?u. Th?y tôi v?i b? d?ng nh? ??a tr?, Yan Sao ch? c??i th?m r?i nói: Tôi ?ã khóc quá nhi?u r?i, ch?ng còn n??c m?t ?? mà r?i n?a. Yuen Pa, hãy ??n ?ây, chúng ta s? ti?p t?c u?ng, u?ng cho quên h?t m?i s?. Tôi gi?t l?y ?ng hút, hút liên t?c m?y ch?c ng?m, r??u ??i v?i tôi khi ?y nh? n??c ??i v?i ng??i s?p ch?t khát v?y. Tôi c? u?ng, c? u?ng r?i g?c lúc nào không hay. Sáng hôm sau, khi tôi v?n còn ?ang v?t l?n v?i c?n say ?êm qua thì có m?t v? quan ??n báo r?ng vua c?a h? không mu?n g?p s? gi? và yêu c?u chúng tôi ph?i r?i ?i ngay. V? quan ??a cho chúng tôi th? c?a vua Ch?mpa, b?o r?ng ph?i g?i ??n t?n tay Toa ?ô. S? gi? nh?n th? r?i nhanh chóng s?p x?p r?i kh?i hành cung c?a nhà vua. Chúng tôi phi ng?a tr? v? thuy?n, trên ???ng ?i tôi nh?n th?y m?t ?i?u l? là có r?t nhi?u nhà tranh hai bên ???ng, nh?ng lâu lâu m?i th?y ???c vài ba ng??i, dân chúng ?ã ?i ?âu h?t?   *??a khu Vijaya, Ch?mpa, 11/2/1283. Dong thuy?n xuôi theo dòng sông quay tr? l?i ??m Cri Vinaya. Khi t?i gi?a ??m thì th?y m?t vài binh lính Nguyên Mông ?ang ?ánh b?t cá, h? nhìn chúng tôi v?i ánh m?t nh? lúc tr??c tôi nhìn nh?ng s? gi? v?y. Ch?c h? c?ng ?oán ???c s? m?nh l?n này l?i th?t b?i, và m?t tr?n ác chi?n là không th? tránh kh?i. S? gi? mang th? c?a vua Ch?mpa trao cho Toa ?ô. Sau khi ??c xong Toa ?ô ?ã r?t gi?n d? vì ?ã u?ng công h?n m?t tháng khuyên hàng. Ông ta coi lá th? nh? là l?i khiêu chi?n, ra l?nh cho binh lính ? tr?ng thái s?n sàng, chúng tôi s? t?n công vào Bal Sri Banoy b?t c? khi nào có l?nh.     *Th? vua Indravarman V g?i Toa ?ô: Bi?t ???c ??i nhân vì th??ng dân n??c tôi mà không mu?n ??ng binh, tôi vô cùng c?m kích. B?n thân tôi ?ã già y?u ch?ng trông mong gì nhi?u, ch? mong sao dân chúng luôn ???c yên bình vui s?ng, th?t không h? mu?n nhìn th?y c?nh máu ch?y ??u r?i. Nay Thiên Tri?u có ý mu?n giúp tôi ?ánh ??i Vi?t, tâm ?y tôi xin nh?n. Nh?ng n??c tôi v?i ??i Vi?t g?n ?ây không có mâu thu?n gì, n?u vô c? d?n quân qua ?ánh, e r?ng làm ?i?u b?t chính tr?i s? không phù h?, l?i làm t?n h?i l??ng dân. Nên tôi xin ???c phép t? ch?i ý t?t c?a Thiên Tri?u. Tâm tôi m?t lòng qui ph?c Thiên M?nh, ?ã s?m dâng th? x?ng th?n. Không bi?t vì hi?u l?m gì ?ã khi?n cho Hoàng Th??ng ph?i c?t công c? quân t?i t?n ?ây ?? h?i t?i. Tuy là qu?c v??ng ?ã 17 n?m tr?i, nh?ng ??i v?i nh?ng vi?c ??i s? c?a v??ng qu?c, tôi th?t s? không ???c toàn quy?n quy?t ??nh. M?c dù ?ã m?t m?c khuyên can các v? có th?c quy?n trong v??ng qu?c nh?ng h? th?t không ch?u nghe l?i. H? còn trách móc tôi làm v??ng mà quá nhu nh??c, tôi th?t s? ?ã h?t cách. Ch? mong sao ??i nhân có th? rút quân v?, n?m sau tôi s? ?ích thân qua Trung Nguyên ?? t? t?i v?i Hoàng Th??ng. N?u ??i nhân s? b? Hoàng Th??ng trách t?i mà không th? rút quân, s? r?ng hai ta ch? còn cách quy?t chi?n m?t tr?n. Mong ??i nhân suy xét.   Chi?u hôm ?y mây ?en ph? kín b?u tr?i, sóng to, gió l?n n?i lên làm h? h?i quá n?a chi?n thuy?n. Là ?i?m d? ch?ng? Tôi hoang man ngh? v? t??ng l?i s?p t?i. ??n sáng thì c?n giông t? qua ?i, chúng tôi ph?i dành c? ngày ?? s?a ch?a nh?ng chi?n thuy?n b? h? h?i. Khi v? l?i doanh tr?i, tôi th?y v? ch? huy thông báo m?t vi?c quan tr?ng: Tôi ph?ng m?nh quan trên thông báo v?i các anh em r?ng ??i chúng ta nh?n ???c l?nh ph?i tham gia vào tr?n ?ánh s?p t?i. V?y nên, chúng ta ph?i chu?n b? tâm lý cho nh?ng gì s?p x?y ra. Trên chi?n tr??ng không có ch? cho lòng th??ng c?m, các anh em ph?i gi?t ?? không b? gi?t. Ch? soái ra l?nh, m?t khi chi?m ???c thành c?a gi?c, n?u g?p b?t c? ai, dù ?àn bà hay con nh? c?ng ph?i gi?t ?i. M?c ?ích c?a vi?c này là làm cho ng??i khác khi?p s? mà b? ?i quy?t tâm ph?n kháng. Có nh? v?y quân ta m?i mau th?ng l?i, anh em c?ng không ph?i t?n quá nhi?u x??ng máu. Phàm nh?ng v?t ít giá tr?, anh em có th? gi? l?i, nh?ng nh?ng kho tàng l?n thì ph?i nghiêm phong. ?ây là l?nh, anh em nh?t m?c ph?i tuân theo, n?u trái l?nh s? b? x? theo quân pháp. Nghe l?i truy?n ??t c?a ch? huy, tôi l?i nh? ??n ngôi làng b? tàn sát c?a mình. ?úng v?y, chi?n thu?t c?a Mông C? ?ã r?t hi?u qu?, bi?t bao ng??i T?ng ch? c?n nghe ??n s? tàn ác c?a h? thôi c?ng ph?i rung s?, không còn quy?t tâm ph?n kháng. ?? bây gi? chính ng??i T?ng ph?i chi?n ??u d??i tr??ng ng??i Mông C?. Toa ?ô không h? có ý th??ng xót dân chúng Ch?mpa. Ông ta ch?a mu?n t?n công ch? vì mu?n b?o toàn l?c l??ng ?? có th? ?ánh lên ??i Vi?t. N?u chúng tôi b? thi?t h?i quá nhi?u t?i chi?n tr??ng Ch?mpa, k? ho?ch lâu dài ?ánh chi?m ??i Vi?t s? g?p nhi?u r?c r?i. Ch?mpa là x? có nh?ng h?i c?ng r?t quan tr?ng, Nguyên Tri?u r?t mu?n chi?m ???c n?i này, mu?n bi?n n?i ?ây thành m?t bàn ??p v?ng ch?c ?? v??n ra xâm l??c các qu?c gia xung quanh. M?t khi ??u hàng, dân Ch?mpa ch?c ch?n s? ph?i lao ??ng vô cùng kh? c?c ?? ph?c v? cho m?ng xâm l??c c?a Nguyên Tri?u. Toa ?ô hy v?ng có th? d? hàng vua Ch?mpa, tám l?n g?i s? gi? ??n khuyên hàng. Ông ta ngh? r?ng vua Ch?mpa có th? vì th?y quân ??i hùng h?u c?a nhà Nguyên mà khi?p s? ??u hàng. Nh?ng r?t cu?c ông ta ?ã l?m. Cu?i cùng vua Indravarman V g?i cho Toa ?ô m?t b?c th? có n?i dung khiêu chi?n. ??n n??c này, ch? còn cách b??c vào m?t tr?n gi?t chóc mà thôi.   *??a khu Vijaya, Ch?mpa, 13/2/1283. Gi?a ?êm khuya, chúng tôi ???c l?nh lên thuy?n ti?n qua b? Tây con ??m, tr?n này chúng tôi ph?i ?ánh chi?m ???c Bal Sri Banoy. ?ó là m?t ?êm r?m, tr?ng sáng v?ng v?c. M?t v?n quân ???c chia làm 3 cánh ti?n t?i Bal Sri Banoy. Cánh quân c?a tôi g?m 3000 quân ???c ch? soái Toa ?ô tr?c ti?p ch? huy. Chúng tôi s? ti?n ?ánh m?t phía nam c?a thành. Hai cánh quân còn l?i s? l?n l??t t?n công vào c?a b?c và m?t ?ông c?a thành. Bal Sri Banoy là m?t thành quân s? n?m ? phía tây ??m Cri Vinaya, ??c l??ng n?i ?ây có m?t v?n quân Ch?mpa canh gi? ngày ?êm. ?? chi?m ???c kinh ?ô Ch?mpa, tr??c h?t ph?i chi?m ???c Bal Sri Banoy. Ng?i im trên chi?n thuy?n, lòng tôi nôn nao tr??c s? yên t?nh c?a c?nh v?t. Ch? m?t ch?c n?a, không bi?t chuy?n gì r?i s? ??n? Ph?i ch?ng ?ây là th?i kh?c cu?i cùng c?a ??i mình? C?m giác lúc ch?t th? nào? Ngh? ??n lúc ?y, tôi c? hình dung ra c?m giác ch?t. Tôi nh?m m?t l?i, nh?n th?, c? không suy ngh? gì c?. Tôi nghe k? r?ng, cho t?i c?n k? cái ch?t ng??i ta v?n nghe ???c. Âm thanh là th? cu?i cùng mà m?t con ng??i có th? c?m nh?n, không ph?i s? ?au ??n, không ph?i nh?ng suy ngh? nu?i ti?c. Ti?ng kêu c?a nh?ng con cò ch?t khi?n tôi m? m?t, ??n b? r?i sao? Không ph?i. M?t vài con cò ?ang bay trên tr?i phát ra ti?ng kêu quan quác. D??i ánh tr?ng r?m, nhìn v? phía tây có th? th?y ?óm l?a quân Ch?mpa. ?oàn thuy?n chúng tôi h?n 30 chi?c, t?t c? ??u không b?t ?èn d?u ?? tránh quân Ch?mpa nhìn th?y. Nh? ánh tr?ng mà các chi?n thuy?n có th? bám theo nhau mà ?i. Khi s?p vào b?, chúng tôi b? lính canh Ch?mpa phát hi?n, h? li?n th?i kèn báo ??ng. ? xa xa v? phía B?c và phía ?ông thành, c?ng nghe th?y ti?ng kèn và tr?ng báo ??ng vang kh?p b?u tr?i. Hai cánh quân kia ?ã b?t ??u t?n công r?i. Toa ?ô l?nh ??y nhanh t?c ?? ti?n vào ??t li?n. Chúng tôi nhanh chóng ch?n ch?nh ??i hình ti?n t?i phía nam Bal Sri Banoy. D??i tr?ng r?m, 3000 chi?n binh nh?m h??ng c?ng thành mà ti?n t?i. T? trong thành, quân Ch?mpa b?n ra nh?ng qu? c?u l?a và m?i tên ??c. Không th? b?t thang lên thành, chúng tôi dùng tên t?m l?a b?n cháy thành g?. B?n bao nhiêu thì ng??i Ch?mpa d?p l?a b?y nhiêu, chúng tôi ti?p t?c b?n không ng?ng ngh?, cu?i cùng thành c?ng cháy, khói b?c lên cao ng?t tr?i. Không th? d?p l?a, ng??i Ch?mpa xua voi ra thành. Chúng tôi r?t s? nh?ng con voi cao l?n ?y, nh?ng chúng còn s? l?a h?n. C? m?i l?n voi ti?n ??n, chúng tôi l?i dùng tên l?a b?n ?i làm chúng ph?i lui l?i. Th? tr?n gi?ng co ngày càng ác li?t, kéo dài t?i sáng r?i t?i t?n tr?a. Tr??c tình th? ?y, Toa ?ô l?nh cho 1000 quân c?m t? x?p theo ??i hình m?i tên xông th?ng vào c?ng thành. Tuy b? thi?t h?i khá n?ng, nh?ng chúng tôi ?ã nhanh chóng phá ???c c?ng thành. T?t c? quân Nguyên còn l?i tràn vào ?ánh phá h? tr? quân c?m t?. Quân Ch?mpa v? ??i hình, nhanh chóng ch?y tan tác. Chúng tôi tràn vào thành ??t phá toàn b?, lúc này quân Ch?mpa trong thành ph?i ch?ng ch?i v?i cánh quân Nguyên ?ã tràn vào thành và 2 cánh quân Nguyên khác ?ang t?n công ? phía B?c và phía ?ông. Th?y không th? ch?ng n?i bèn rút ch?y kh?i thành, nh?ng ai ch?y không k?p ??u b? tàn sát. Cu?i cùng chúng tôi ?ã làm ch? ???c toàn b? Bal Sri Banoy. Nhi?u toán quân Nguyên ?i lang thang l?c l?i trong thành, thu ???c h?n 100 máy b?n ?á mà quân Ch?mpa ?? l?i. ?i v? phía Tây, tôi th?y m?t tháp Ch?mpa và ba ng??i v?n ch?a ch?u ?i. H? là các th?y tu trông gi? tháp. H? không hi?u ti?ng Hán, t? v? vô cùng s? hãi. Ngôi tháp này khá ?? s?, cao t?m 20m, thân hình ch? nh?t, ??u thì nh?n d?n lên cao. bên trong không có gì ??c bi?t, ch? có các v?t b?ng ?á g?i là Linga và Yoni. Yan Sao rút g??m ra, m?t ??y sát khí ti?n v? phía th?y tu. Tôi v?i can ng?n: c?u ??nh làm gì? Yan Sao: Ch? soái ra l?nh ph?i gi?t h?t.  ??t ng?t anh ta chém ph?ng m?t ng??i, ??u ng??i ?y r?i xu?ng ??t, máu phun nh? n??c. Hai ng??i kia th?y v?y thì vô cùng kinh hãi b? ch?y vô tháp quì l?y thánh th?n, Yan Sao vào trong tháp k?t li?u toàn b?. Sau khi tàn sát, anh ta l?y m?i vàng b?c trên các thi th?, còn ??a cho tôi m?t cái vòng vàng, b?o r?ng: ?ây là ph?n c?a c?u, ??ng nói cho ai bi?t. Tôi b??c vào Tháp, nhìn nh?ng thi th? ??y máu. Tôi khép l?i nh?ng ?ôi m?t v?n còn m? to. T?i sao tôi l?i r?i vào hoàn c?nh ??y t?i l?i này, tôi ch? mu?n thoát kh?i n?i này.     *Bal Sri Banoy, Vijaya, Ch?mpa, 16/2/1283. L?a v?n cháy, m?t th??ng c?ng nh?n nh?p ch? còn là ch?n hoang tàn. Xác ch?t còn r?i rác kh?p n?i, mùi máu tanh v?n còn n?ng n?c. Ch? sau m?t ngày, chúng tôi l?i ???c l?nh ti?n ?ánh thành Vijaya. Toa ?ô vi?t m?t b?c th? ng?n g?i toàn quân ?? khích l? nhu? khí. Tr?n này, quân ta tuy ít h?n v?n d? dàng dành ???c chi?n th?ng, không h? danh v?i t?m vóc c?a m?t quân ??i vô ??ch thiên h?. Ng??i Ch?m không bi?t t? l??ng s?c, m?t m?c hung h?ng lao ??u vào tr?n chi?n, khác gì l?y tr?ng ch?i ?á. Gi? thì b?n chúng ?ã chu?c l?y ??i b?i, có h?i h?n c?ng ?ã mu?n màng. ?úng là, ch?a th?y quan tài ch?a ?? l?. Nay, vua tôi chúng trong c?n ho?ng lo?n ?ã ch?y tr?n v? thành ?ô Vijaya. Ti?c thay, v?i s?c m?nh c?a quân ta, hành ??ng c?a vua tôi chúng ch?ng khác gì chui ??u vào r?. C? nhân nói “d?ng binh quí ? th?n t?c”, nhân lúc ??ch còn r?i lo?n, anh em hãy ngay l?p t?c ch?n ch?nh ??i ng? chu?n b? ti?n ?ánh thành Vijaya. L?nh m? sáng ngày mai b?t ??u xu?t quân. Hành quân d??i c?n m?a t?m t?, ?oàn quân Nguyên n?i ?uôi nhau dài nh? vô t?n. V?a ?i v?a hát Quân Ca, ti?ng hát c?a hàng v?n ng??i vang lên t?n b?u tr?i, hòa cùng ti?ng m?a và ti?ng s?m t?o nên m?t b?n hòa ca c?a tr?i ??t và con ng??i.   Ta ?i Vì s? nghi?p nh?t th?ng Ta ?i Quân ??ch ph?i b?i tan Ta ?i Ti?c gì s? s?ng Ta ?i Tr?n thiên m?nh, báo hoàng ân   Chúng tôi ti?n ??n ?ông nam thành Vijaya. Lúc này, vua Ch?mpa c? s? gi? ra xin hàng, nh?ng Toa ?ô ?u?i s? v?, yêu c?u Vua ph?i ?ích thân ra m?t thì s? ???c mi?n t?i. Qua m?t ngày, không th?y h?i ?áp nên phát l?nh ti?n ?ánh m?i phát hi?n thành Vijaya ?ã b? b? tr?ng. Sau khi chi?m ???c thành, chúng tôi ra ngoài thành h? tr?i nh? t?p quán c?a quân Nguyên Mông. Hai ngày sau, s? gi? Ch?mpa l?i t?i, l?n này là c?u c?a vua Ch?m, tên là Bhadradeva. Tuy là ng??i Ch?mpa chính th?ng, nh?ng Bhadradeva có th? nói sành s?i ti?ng nói c?a ng??i Nguyên, dáng ?i c?a ông ta toát lên v? cao thâm khó l??ng.   *Toa ?ô và Bhadradeva: Bha..: B?m ??i nhân, t?i h? ph?ng m?nh qu?c ch? t?i ?? xin c?u hòa. Toa ?ô: Tr??c kia, ta n?m l?n b?y l??t c?u hòa v?i chúa nhà ng??i. Nh?ng ông ta nh?t m?c không ch?u m?i gây ra c? s? này. L?n tr??c ta ?ã nói, mu?n c?u hòa thì ?ích thân ông ta ph?i ??n ?ây, c? sao l?n này ng??i ??n l?i là ng??i? Bha..: B?m, qu?c ch? ?ã r?t ân h?n vì hành ??ng ngu mu?i, ?nh h??ng ??n bi?t bao l??ng dân bá tánh. Vì lo ngh? quá nhi?u, l?i tu?i cao s?c y?u nên qu?c ch? lâm tr?ng b?nh. Gi? ng??i n?m b?t ??ng trên gi??ng không bi?t còn s?ng ???c bao lâu. Do v?y, qu?c ch? ch?a th? t?i ?? ti?p ki?n ??i nhân. Nay, qu?c ch? sai t?i h? mang theo ng?n giáo này, là v?t b?t ly thân c?a ng??i làm v??ng trao l?i cho ??i nhân ?? t? lòng thành. Toa ?ô: Ng??i t??ng có th? l?a ???c ta hay sao? Nói v?i chúa nhà ng??i, n?u còn không ch?u ra t? t?i, ta s? ?? sát toàn b? dân chúng. Ng?n giáo này ta không nh?n. Bha..: Xin ??i nhân b?t gi?n, t?ng l?i t?i h? nói ??u là s? th?t. Tuy ch?a th? ra ti?p ki?n, nh?ng qu?c ch? có nói, ba ngày sau con tr??ng qu?c ch? Sri Harijit s? ??n t? t?i v?i ??i nhân. Toa ?ô: ?ích thân ông ta ph?i t?i ch? không ph?i ai khác, ng??i ??ng nhi?u l?i. Bha..: Xin ??i nhân hãy cho t?i h? th?i gian ?? b?m báo l?i v?i qu?c ch?. Xin ??ng làm t?n h?i l??ng dân. Toa ?ô: ???c, ng??i hãy mau ?i ?i. Nh? r?ng, tính m?ng c?a r?t nhi?u ng??i tùy thu?c vào s? thành tâm c?a chúa nhà ng??i. Bha..: T?i h?, xin cáo lui. Thành Vijaya b? b? tr?ng không m?t bóng ng??i. Nh?ng th? có giá tr? nh?ng không th? mang ?i ??u b? ??t h?t, không thu ???c gì t? thành này. Ch? th?y xung quanh là m?t ??ng lúa d?i r?ng mênh mông. Sau khi Bhadradeva r?i ?i, chúng tôi ???c l?nh t?a ra xung quanh thành ?? lùng b?t b?t c? ai còn ? l?i. D??ng nh? m?i ng??i ? ?ây ?ã b? ?i t? lâu, tr??c c? khi thành ?ô th?t th?, ch? b?t ???c h?n m?t tr?m ng??i già ch?a ch?u r?i ?i. Th?t ra c?ng có ng??i tr? ? l?i, ch? có m?t ng??i mà tôi nhìn th?y, m?t cô gái tr?. Hôm ?ó, chúng tôi vô m?t ngôi làng ?? lùng b?t b?t c? ai còn ? l?i. Nh?ng t?t c? dân làng ?ã r?i ?i, tr? c?n nhà n?. Phát hi?n th?y m?t c? già, chúng tôi xông vào l?c soát xem còn ai n?a không. Th?t ra chúng tôi ch? l?c soát qua loa vì ngh? r?ng s? không còn ai khác ? ?ó. Th?y khát nên tôi m? n?p cái lu tìm n??c u?ng. Nh?ng trong cái lu ?ó, không ph?i là n??c, mà là m?t cô gái tr?, v? m?t ngây th?, ánh m?t to, ánh m?t ?y, nhìn tôi ?? c?u mong chút th??ng h?i. ?ây là kho?nh kh?c mà tôi có th? quy?t ??nh ??n s? ph?n c?a m?t con ng??i, có th? t??ng t??ng ra m?i th? kh?ng khi?p s? x?y ra v?i cô gái t?i nghi?p n?u tôi không ?óng cái n?p ?y l?i. Nh?ng n?u tôi ?óng l?i thì sao? Tôi có th? b? phát hi?n ?ã trái l?nh, và theo quân pháp tôi s? b? x? t?, ??u ?ó c?ng t?i t? không kém. ??n lúc ??a ra quy?t ??nh tôi l?i nhìn vào ánh m?t ?y, c?m giác th?t thân thi?t, nó làm tôi ngh? v? Khan Sy. Ch?t m?t ng??i lính t? ??ng xa g?i tôi: Hey, Yuen Pa ?i thôi, có gái ??p trong ?ó hay sao mà nhìn hoài v?y? Yuen Pa: Không, tôi ch? tìm n??c u?ng, mà nhìn mãi ch?ng th?y n??c! R?i tôi ?óng n?p l?i, chúng tôi cõng c? già ?i xa kh?i ngôi làng. Tôi v?a quy?t ??nh m?t ?i?u tr?ng ??i, quy?t ??nh ?y làm tôi c?m th?y thanh th?n. Chúng ta ???c sinh ra ?? làm nh?ng ?i?u t?t ??p, ch? không ph?i gi?t chóc. Ch?ng ai vui vì gi?t chóc, n?u có là b?i vì h? b? h?y ho?i b?i s? c?m thù, ho?c h? là c?m thú. Nh?ng cu?c s?ng v?n ph?c t?p, ?âu ph?i lúc nào ta c?ng làm vi?c t?t. Gi? nh?, ng??i trong lu là m?t gã m?t hung d? thì sao? Tôi có b?t h?n không? Có th? l?m, khi ?ó tôi l?i ??i ?áp v?i l??ng tâm r?ng ?ó ch? là nhi?m v?.   *Bên ngoài thành Vijaya, Ch?mpa, 27/2/1283. Sau m?t tu?n, Bhadradeva l?i ??n, l?n này ông d?n theo hai ng??i n?a ?i vào doanh tr?i c?a Toa ?ô. Trên ???ng ?i, ông nhìn th?y bên ???ng là nh?ng th?n dân Ch?mpa b? b?t làm con tin, lòng Bhadradeva tr? nên n?ng tr?u. Bha..: B?m ??i nhân, qu?c ch? s?c y?u qu? th?t không th? ??n y?t ki?n. Qu?c ch? có hai con trai, nay ??n thay m?t cha ?? bàn vi?c xin hàng. Toa ?ô: Trên ???ng vào ?ây, ch?c ng??i ?ã th?y s? ng??i b? ta b?t. S? ng??i ?ó, n?u ta có gi?t h?t thì chúa nhà ng??i ch?c c?ng ch?ng ??ng lòng. V?y mà nói th??ng dân nh? con ?? Chúa nhà ng??i ham s?ng s? ch?t, vì b?n thân m?c k? dân lành. Nay l?i ?em hai con ??n th? m?ng. M?t ng??i nh? th?, có x?ng ?áng làm v??ng không h?? N?u không nói s? th?t, ta s? gi?t h?t ?ám ng??i ngoài kia. Bha..: ??n n??c này, t?i h? ch? còn bi?t nói s? th?t. Toa ?ô: Nói. Bha..: Hai ng??i này, th?t không ph?i con qu?c ch?. Toa ?ô: H?, bây ?âu, nh?t hai k? m?o danh này l?i. Hai ng??i b? b?t t? v? gi?n d?, liên t?c ch?i Bhadradeva là k? ph?n b?i: ?? vong ân b?i ngh?a, ta có ch?t c?ng s? v? ám nhà ng??i, s? v? ám ba ??i nhà ng??i... Bhadradeva ch? bi?t cu?i ??u. Sau khi hai ng??i ?ó b? lôi ?i, Bhadradeva m?i ti?p t?c nói. Bha..: Lúc tr??c b?n qu?c có 10 v?n quân m?i dám ch?ng l?i thiên binh. Nay ?ã tan tác h?t, không còn hy v?ng ph?c h?i. Thái t? Sri Harijit là m?t ng??i anh d?ng kiên c??ng c?ng ?ã b? m?ng. Toa ?ô: Còn qu?c ch? nhà ng??i th? nào? Bha..: B?m, qu?c ch? b? tên b?n vào má, nay ?ã ??. Nh?ng vì h? th?n và s? hãi nên không dám ??n y?t ki?n. Toa ?ô: Ch?ng qua là h?n s? b? ta b?t. ?ã h?t th?i mà còn c? bám víu quy?n l?c. N?u v?y, ta s? c? ng??i ??n h?i th?m h?n xem sao. Nói r?i Toa ?ô sai Lâm T? Toàn, L?t Toàn, Lý ??c Kiên ?i theo Bhadradeva, m??n c? th?m b?nh vua Ch?mpa ?? dò thám quân tình. Toa ?ô: Bhadradeva, ta th?y ngài là m?t b?c hi?n tài, n?u có th?, c? g?ng cùng ta s?m k?t thúc cu?c chi?n này. N?u m?i vi?c suôn s?, ta có th? tâu l?i v?i thánh th??ng, ?? ngài ???c làm v??ng. Bha..: T?i h? không dám! T? lâu, t?i h? ?ã say mê v?n hóa Trung Nguyên. N?u có ngày ???c d?c lòng ph?c v? Thiên tri?u, thì qu? là phúc ph?n ba ??i! Toa ?ô: Hay l?m, tr?i qua trùng d??ng, không ng? l?i g?p ???c tri k? ch?n này. Hay l?m!! Sau ?ó Bhadradeva cùng b?n Lâm T? Toàn theo h??ng Tây B?c mà ?i. ??n vùng ??i núi hi?m tr? thì b? quân Ch?mpa ch?n l?i không cho ?i ti?p. B?y gi?, Bhadradeva t? v? nh? b? vua Ch?mpa d?i g?t. Ông ta nói v?i Lâm T? Toàn: "Qu?c ch? dùng d?ng không ch?u ra hàng, nay l?i phao l?i là mu?n gi?t tôi, ông hãy v? th?a v?i t?nh quan r?ng qu?c ch? ??n thì ??n, không ??n thì tôi s? b?t ?em n?p". B?n Lâm T? Toàn ?ành quay v? báo l?i v?i Toa ?ô. Còn Bhadradeva thì quay tr? v? c?n c? quân Ch?mpa. H?n 10 ngày sau, Bhadradeva l?i ??n g?p Toa ?ô. Bha..: Qu?c ch? gi? không còn tin t?i h?. Cái ??u này, không bi?t còn gi? ???c bao lâu. Toa ?ô: Lão v?n còn ngoan c? th? sao? Bha..: T?i h? h?t lòng khuyên nh?. Nh?ng qu?c ch? không nh?ng không nghe l?i, còn ?òi chém n?u t?i h? ti?p t?c khuyên hàng. Toa ?ô: V?y là ông ta không có ý ??nh ??u hàng hay sao? Bha..: B?m, ?úng v?y. Toa ?ô: N?u v?y, ta ?ành ph?i d?n binh vào b?t lão ta. Bha..: ??i nhân ch? ??ng! Ch? qu?c ch? ? là n?i hi?m ??c, quân lính thà chi?n ??u ??n ch?t còn h?n ??u hàng. Quân binh thiên tri?u không thông thu?c ??a hình, n?u d?n binh vào ch?n nh? v?y, e r?ng s? thi?t h?i n?ng. Toa ?ô: V?y ngài có k? gì hay h?n ch?ng? Bha..: Nhi?u v? ??i th?n khi nghe t?i h? can ng?n ?ã ??i ý mu?n qui ph?c thiên tri?u, gi? h? r?t b?t mãn v?i qu?c ch?. N?u ???c, xin ??i nhân hãy ban cho t?i h? m? áo c?a thiên tri?u. T?i h? s? c? g?ng khuyên hàng qu?c ch?, n?u l?n này th?t b?i, t?i h? có ch?t c?ng cam lòng. Toa ?ô: ???c, ta mong ch? tin t?t t? ngài.   *Bên ngoài thành Vijaya, Ch?mpa, 15/3/1283. Bhadradeva l?i ??n, ?i theo ông là các quan ??i th?n Ch?mpa. Bha: Th?a ??i nhân, ?ây là các v? quy?n cao ch?c tr?ng trong tri?u ?ình. H? r?t có uy tín trong dân chúng, ch? c?n h? lên ti?ng thì dân chúng Ch?mpa s? không ph?n kháng n?a mà thu?n theo thiên tri?u. Nay h? ??u v? ?ây c?, cha con Indravarman không ???c lòng dân, c?ng không ???c lòng quan, gi? nh? r?n m?t ??u nh?ng v?n không ch?u t? b? ngai vàng. Các v? ??i th?n ??ng thanh ho to: Thiên tri?u v?n tu?! Toa ?ô: Th?t v?y sao. Sao ta nghe nói.. Các ng??i ngày ?êm tr? binh, ??p thành, tích tr? l??ng th?c là có ý gì? Bha..: B?m, th?t s? không h? có chuy?n này. C? sao ??i nhân l?i nói nh? v?y? Toa ?ô: Có ng??i nói v?i ta. D?n T?ng Diên vào ?ây. T? ngoài b??c vào là m?t ng??i Hán tên là T?ng Diên. T?ng Diên: Th?a ??i nhân, ?ã t? lâu tr??c khi có chi?n s?, vua Ch?mpa b?t dân chúng ngày ?êm xây d?ng thành g? trên núi Aia Hu. Hi?n gi? còn phát chi?u c?n v??ng ??n các ??a khu khác, t?p h?p ???c quân s? lên t?i h?n hai v?n ng??i. Bha..: Ng??i d?a vào ?âu mà nói nh? v?y? T?ng Diên: T?i h? x?a là ng??i Nam T?ng, l?u l?c ??n ?ây ch? mu?n s?ng yên bình. Th?i th
0 Rating 334 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On August 13, 2017
Nhà th? Inrasara G?i cho BBC t? Sài Gòn V??ng qu?c Champa ???c thành l?p n?m 192, kéo dài t? M?i Hoành S?n - sông ?inh cho ??n Bà R?a - V?ng Tàu. Ba?n quyê?n hi?nh a?nhISTOCK Image captionNhi?u ??n ?ài Champa còn ? M? S?n, t?nh Qu?ng Nam T? th? k? XI, qua các cu?c Nam ti?n c?a ??i Vi?t, biên gi?i lui d?n v? ph??ng Nam r?i m?t h?n vào n?m 1832, khi cu?c kh?i ngh?a cu?i cùng c?a Thak Wa b? vua Minh M?ng d?p tan. Su?t quá trình l?ch s? ?y, ng??i Cham l?u l?c qua nhi?u vùng ??t khác nhau, ?? t?o thành c?ng ??ng riêng v?i nh?ng khác bi?t nh?t ??nh v? v?n hóa và ngôn ng?. Giai ?o?n 986-988, khi L?u K? Tông làm vua ??t Champa, b? ph?n Cham ch?y qua H?i Nam - Trung Qu?c sinh s?ng. N?m 1044, nhà Lý b?t 5.000 tù binh Cham ra B?c; 25 n?m sau, s? l??ng tù nhân Cham ra B?c lên ??n 50.000 ng??i; h? l?p thành các làng riêng và t?n t?i th?i gian khá dài. ??n th?i Po Rome (1627-1651), m?t b? ph?n l?n Cham v??t ??i d??ng qua s?ng ? Kelantan - Malaysia; sau này 1975, 5 v?n ng??i Cham ch?y tr?n cu?c th?m sát c?a Pôn P?t qua Mã Lai sinh s?ng, và không có ý quay l?i Campuchia (G. Moussay). Ba?n quyê?n hi?nh a?nhDUONGDINHHUNG Th? k? XVIII, ng??i Cham ch?y lo?n qua Thái Lan, hi?n thu?c khu Ban Khrua, Bangkok, kho?ng 5.000 ng??i. ? Campuchia, vào n?m 1692, 5.000 gia ?ình Cham t? Pangdurangga di c? qua, ? vùng ??t t?t d?c sông Mekong, sau ?ó còn m?y ??t di dân khác n?a. Hi?n nay, ngoài 22 làng còn theo tôn giáo Bà-ni, t?t c? ??u là Muslim. Cu?i th? k? XX, ng??i Cham ? Campuchia thay ??i h? tên thành Khmer Islam. Riêng ? Vi?t Nam có g?n 20 v?n ng??i Cham sinh s?ng. B? ph?n Cham Hroi hình thành khi vào 1471, Lê Thánh Tông chi?m ?? Bàn, ng??i Cham ch?y lên vùng trung du Bình ??nh, Phú Yên, s?ng c?ng c? v?i dân t?c Bana. C?ng ??ng Cham ? ?ây theo tín ng??ng dân gian; dân s? hi?n nay trên d??i 30.000 ng??i. Th? k? XVIII, Cham t? Pandurangga ?i vào Nam tr? l?i Tây Ninh và An Giang; sau ?ó ít lâu do bên Campuchia có bi?n, m?t s? t? Campuchia tr? l?i An Giang. Gi?a th? k? XX, m?t b? ph?n vào Sài Gòn, ?? n?a cu?i th? k? XX, hàng tr?m gia ?ình ra Long Khánh sinh s?ng. Ng??i Cham ? các t?nh này theo Islam, t?c là H?i giáo chính th?ng, v?i kho?ng 50.000 tín ??. Nh?ng có th? nói ng??i Cham ? Vi?t Nam t?p trung nhi?u nh?t ? Ninh Thu?n và Bình Thu?n v?i s? dân 110.000 ng??i. ??i ?a s? ng??i Cham ? Ninh Thu?n và Bình Thu?n theo hai tôn giáo chính là ?n giáo và H?i giáo Bà-ni. ?ông nh?t là c?ng ??ng Cham ?n giáo còn g?i là Cham Ahier v?i 68.000 ng??i; H?i giáo Bà-ni là Islam ???c Cham hóa ?? tr? thành th? tôn giáo dân t?c r?t ??c ?áo v?i 38.000 tín ??; s? ít còn l?i theo H?i giáo chính th?ng ???c truy?n vào Ninh Thu?n vào th?p niên 60 cùng vài tôn giáo m?i du nh?p g?n ?ây nh? Công giáo, Tin Lành. Tôn giáo m? Tôn giáo Cham là tôn giáo m?. Nh?p ??a Champa vài th? k? và kh?ng ??nh v? th? c?a mình vào th? k? 14, Islam xung ??t v?i c?ng ??ng và t? ch?c xã h?i Cham ?n giáo kéo dài su?t hai th? k?, mãi ??n th?i Po Rome (1627-1651), tôn giáo này m?i ???c bi?n c?i thành H?i giáo Bà-ni. ? ?ây n?m c?t tr? làm nên n?n t?ng ??c tin H?i giáo, là: Chahadah: ??c tin không có Chúa Tr?i nào khác ngoài Allah, Salat: c?u nguy?n 5 l?n m?t ngày, Zakat: b? thí, Sawm: nh?n ?n tháng Ramadan, Hadj: hành h??ng thánh ??a Mecca, ??u không còn ???c ng??i Cham Bà-ni tuân th?. Ng??i Cham Bà-ni bên c?nh ??c tin vào Allah, h? còn th? c? th?n M?a, Bi?n, Núi… và cúng ông bà t? tiên; h? không còn nh? ??n vi?c hành h??ng Mecca; còn vi?c c?u nguy?n m?i ngày hay ?n chay vào tháng Chín và b? thí ch? ???c th?c hi?n vào mùa Ram?wan và ch? dành cho gi?i tu s?; còn ? ngoài ??i, ng??i Cham Bà-ni bi?n tháng chay t?nh thành ngày l?: Bb?ng Muk Kei, dân gian g?i là ?n “t?t” Bà-ni. Cu?i cùng, ?nh h??ng ch? ?? m?u h? khi?n ng??i Cham Bà-ni chú tr?ng l? kar?h dành cho n? h?n katat c?a nam; còn ?ám c??i hay ?ám tang thì hoàn toàn theo h? m?. C?ng ??ng Cham s?n sinh r?t nhi?u l? h?i, trong ?ó Rija N?gar là l?n h?n c?. V?i Islam là v?y, riêng v?i Cham ?n giáo, ng??i Cham Bà-ni có s? hòa h?p r?t ??c bi?t. ? ?ây, ông bà Cham ?ã t?o ra h? phái M?dw?n ?? ph?c v? l? bái cho c? ?ôi bên. Trong vài l? t?c mang tính gia ?ình hay dòng t?c, ng??i ta th?y c?p Acar vào làng Cham ?n giáo cúng t?. Khi có l? nghi mang tính khu v?c nh? Pakap Haluw Kraung, giáo s? c? hai bên Cham ?n giáo l?n Cham Bà-ni cùng ph?i h?p th?c hi?n. Ba?n quyê?n hi?nh a?nhISTOCK Dân t?c Cham là c? dân c?a v??ng qu?c Champa c?, nh?ng không gi?ng các dân t?c thi?u s? khác ? Vi?t Nam, ??i ?a s? ng??i Cham s?ng ? vùng ??ng b?ng theo t?ng ??n v? palei (làng), s?ng xen c? và c?ng c? v?i ng??i Vi?t. Dù có b? ph?n nh? buôn bán l? hay làm công ch?c Nhà n??c, ng??i Cham làm ru?ng n??c là chính, ??c bi?t ng??i Cham ? Ninh Thu?n hi?n t?n t?i ba làng ngh? n?i ti?ng, là: làng g?m Bàu Trúc, làng th? c?m Chakleng và làng Ph??c Nh?n chuyên ngh? thu?c nam. Ngay t? th? k? th? 4, dân t?c Cham ?ã có ch? vi?t. ?ó là th? ch? vay m??n t? ?n ?? qua nhi?u bi?n thái ?? tr? thành ch? Cham ngày nay, ti?ng Cham g?i là Akhar thrah. Ng??i ta có th? tìm th?y các v?n b?n g?m v?n h?c, l?ch s?, truy?n thuy?t, các l? nghi tôn giáo và nhi?u t? li?u giá tr? khác ???c th? hi?n b?ng ch? vi?t này trên các lo?i lá buông hay gi?y b?n. Tr??c 1975, các b?c có ch? ngh?a trong xã h?i Cham tìm ?? m?i cách vi?t, in (ronéo) sách giáo khoa b?ng Akhar thrah ?? ph? bi?n ch? ông bà vào các tr??ng h?c và trong dân. ??t n??c th?ng nh?t, Ban Biên so?n sách ch? Ch?m thành l?p n?m 1978 chuyên biên so?n và theo dõi vi?c d?y và h?c ch? Cham ? các tr??ng Ti?u h?c có ng??i Cham sinh s?ng. C?ng ??ng Cham s?n sinh r?t nhi?u l? h?i, trong ?ó Rija N?gar là l?n h?n c?. ?ây là l? ???c t? ch?c vào ??u n?m Cham l?ch (kho?ng tháng 4 D??ng l?ch), mang ý ngh?a t?ng kh?i làng cái x?u xa nh? nh?p c?a n?m c?, ?ón cái t?t lành vào làng nhân n?m m?i. L? Rija Praung th?c hi?n t? 3-7 ngày ?êm ???c xem là l? tr? n? l?n nh?t, là t?p ??i thành các ?i?u múa, bài t?ng ca cùng nghi th?c liên quan. L? T? ?n hay T?y oan dù th?c hi?n ??n s? h?n, v?n mang ý ngh?a l?n v? m?t xã h?i. Sau cùng l? h?i Kate di?n ra vào ??u tháng B?y Cham l?ch ???c dân gian xem nh? m?t th? T?t c?a ng??i Cham, ? ?ó h?u h?t làng Cham t? ch?c lên tháp d? vào cu?c hành h??ng long tr?ng và nhi?u màu s?c. Kate, hành h??ng lên ??t Tháp, con ng??i Cham ???c nh?n bi?t qua l?i ?n m?c, ti?ng nói hay ?i?u múa. Th? nh?ng nh?c ??n Cham không th? không nói ??n tháp Chàm. Tháp Chàm cô ??c, kiêu hãnh có m?t su?t d?i ??t mi?n Trung Vi?t Nam. Trong ?ó Thánh ??a M? S?n ???c UNESCO công nh?n là Di s?n V?n hóa – L?ch s? th? gi?i. Bài vi?t th? hiê?n quan ?i?m riêng và cách dùng t? c?a tác gi?. theo www.bbc.com/vietnamese  
0 Rating 359 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On March 30, 2017
  Pgs. Ts. Po Dharma (Viện Viễn Ðông Pháp) Sakkarai Dak Rai Patao là biên niên sử duy nhất viết bằng tiếng Akhar Thrah Chăm liên quan đến lịch sử của tiểu vương quốc Panduranga, chứ không phải là biên niên sử của vua chúa liêng bang Champa đóng đô ở Vijaya. Tiếc rằng, những yếu tố cơ bản lịch sử trong tư liệu có giá trị này đã bị hiểu lầm và sửa đổi theo nhãn quan riêng tư của một số nhà nghiên cứu hay nhà viết lách trong nhiều bài viết đăng tải trên tập san và báo chí viết bằng tiếng Việt ở Việt Nam cũng như ở hải ngoại gần 40 năm qua. Chỉ cần nhìn lai các bài viết sai lầm về Po Klaong Garai, Po Binnasuar và Po Saong Nhung Ceng, ba nhân vật được ghi trong biên niên sử này, chúng ta đã thấy rằng Sakkarai Dak Rai Patao đã bị thêu dệt tùy theo quan điểm của mỗi tác giả để rồi trở thành nạn nhân của làn sóng nghiên cứu về văn hóa Chăm hôm nay. Một số tác giả cho rằng Po Klaong Garai là vị vua thật sự trị vì vào năm (1151-1295). Họ còn cho rằng Po Klaong Garai là Jaya Indravarman IV vua của liên bang Champa (1147-1160), nhưng họ không bao giờ cho biết tại sao. Tiếc rằng, trong tác phẩm Sakkarai Dak Rai Patao, Po Klaong Garai chỉ là vua huyền sử, một vị thần linh tự sinh ra (éngkat) và được xếp vào triều đại thứ 5 trong danh sách các vua huyền sử này. Sau mấy năm trì vị ở trần gian, Po Klaong Garai trở về trời (nao mâng rup). Po Binnasuar (hay Po Binthuer) cũng là nhân vật được phô trương trong nhiều bài viết. Một số người tự phỏng đoán rằng Po Binnasuar (1316-1361 hay 1328-1373) là quốc vương Chế Bồng Nga (1360-1390). Tiếc rằng, Po Binnasuar và Chế Bồng Nga là hai vị vua khác nhau. Po Binnasuar là vua của tiểu vương quốc Panduranga, gốc làng Bính Nghĩa, Phan Rang lên ngôi năm 1316 hay 1328. Ðền của ngài vẫn còn thờ phượng ở gần làng Bính Nghĩa này. Ngược lại, Chế Bồng Nga là quốc vương của liên bang Champa đóng đô ở Vijaya (Ðồ Bàn), lên ngôi năm 1360. Cuối cùng, Po Saong Nhung Ceng (1799-1822) là quốc vương Panduranga đã chết tại Phan Rí vì bệnh già yếu vào năm 1822 mà cả thư tịch cổ Việt Nam cũng đã chứng minh biến cố này. Ngược lại, một số nhà viết lách cứ cho rằng ngài chạy sang Cao Miên lánh nạn vào năm 1822.  Nguyên nhân của sự sai lầm  Ðiều mà chúng tôi muốn khẳng định ở đây đó là những sai lầm này chỉ xuất hiện trên mặt sách báo viết bằng tiếng Việt và nó bắt nguồn từ ngày ra đời tác phẩm Dân Tộc Chàm Lịch Sử của Dorohiem và Dohamide xuất bản vào năm 1965. Thế thì đâu là nguyên nhân chính đã đưa các nhà nghiên cứu hay người viết lách bằng tiếng Việt vấp phải lỗi lầm vô cùng tai hại cho lịch sử Champa nói chung và lịch sử của tiểu vương quốc Panduranga nói riêng. Ðể trả lời cho câu hỏi này, chúng tôi xin trình bày sơ lược xuất xứ của các bài nghiên cứu về Sakkarai Dak Rai Patao kể từ cuối thế kỷ thứ 19 cho đến hôm nay. Người nghiên cứu đầu tiên về Sakkarai Dak Rai Patao là E. Aymonier (1890: 145-206). Trong bài nghiên cứu này, E. Aymonier tự đặt bao câu hỏi có chăng Sakkarai Dak Rai Patao chỉ là cốt truyện huyền sử, hoang đường nếu cho rằng tác phẩm này là biên niên sử của vương quốc Champa? Vì rằng danh sách vua chúa ghi trong Sakkarai Dak Rai Patao không có gì liên hệ đến vua chúa Champa đóng đô ở Viyaja, từ niên đại lên ngôi, tên tuổi, thủ đô, v.v. Trong bài viết của mình, E. Aymonier chỉ nêu ra câu hỏi, đặt lại vấn đề liên quan đến xuất xứ của tư liệu này, nhưng ông không tìm ra một câu để giải đáp. Mười lăm năm sau, nhà nghiên cứu Pháp là E. Durand (1905: 377-382) trở lại nghiên cứu tác phẩm Sakkarai Dak Rai Patao. Trong phần kết luận, E. Durand cho rằng đây không phải là cốt truyện huyền sử và hoang đường, mà cũng không phải là biên niên sử của liên bang Champa như E. Aymonier đã nêu ra, mà là biên niên sử của tiểu vương quốc Panduranga ở miền nam, chỉ có thế thôi. Bài nghiên cứu của E. Durand vào năm 1905 đã trở thành một yếu tố lịch sử mà các chuyên gia ở phương Tây đều công nhận cho đến hôm nay. Theo quan điểm của E. Durand, Panduranga không phải là một đơn vị hành chánh tương đương với “Tỉnh” ở Việt Nam, mà là một tiểu vương quốc nằm trong liên bang Champa. Chính vì thế, tiểu vương quốc này cũng có một cơ cấu hành chánh riêng, chính trị và quân sự  riêng, kể cả biên niên sử riêng, đó là Sakkarai Dak Rai Patao. Năm 1978, tác phẩm Sakkarai Dak Rai Patao trở thành bài luận án phó tiến sĩ của tôi ở đại học Sorbonne, Paris. Trong bài luận án này, tôi cũng chứng minh rằng Sakkarai Dak Rai Patao là biên niên sử của Panduranga, một tiểu vương quốc của liên bang Champa. Không đọc đến bài nghiên cứu của E. Durand viết vào năm 1905 và những bài bài viết khác đăng tải trong các sách báo khoa học ở phương Tây, và cũng không cần nghiên cứu sâu đậm nội dung của biên niên sử viết bằng tiếng Chăm akhar thrah này, Dorohiem và Dohamide (Dân Tộc Chăm Lược Sử, 1965) chỉ dựa vào bài nghiên cứu bằng tiếng Pháp của E. Aymonier xuất bản vào năm 1980 để phát họa nội dung Sakkarai Dak Rai Patao theo cảm hứng riêng tư của mình. Trong tác phẩm này, Dorohiem và Dohamide, vì vô tình hay là cố ý, đã sửa đổi hoàn toàn quan điểm của E. Aymonier để thay vào đó một quan điểm mới lạ nhưng rất là phi lịch sử, cho rằng Sakkarai Dak Rai Patao là biên niên sử của vương quốc Champa, nhưng Dorohiem và Dohamide không đưa ra một dữ kiện lịch sử nào để minh chứng nội dung bài viết của mình. Ðúng ra, phong cách “sửa đổi yếu tố lịch sử” này chỉ thường xuất hiện trong các bài viết của người viết lách hơn là của nhà khoa học dưới thời Việt Nam Cộng Hòa. Sau ngày ra đời tác phẩm Dorohiem và Dohamide vào năm 1965, một số nhà nghiên cứu hay một vài người viết lách chỉ dựa vào tác phẩm bằng tiếng Việt mang tựa đề là Dân Tộc Chàm Lược Sử,  để rồi lặp đi lặp lại bao sự sai lầm lịch sử trong bài viết của Dorohiem và Dohamide. Thế là, tác phẩm Sakkarai Dak Rai Patao Cham, kể từ năm 1965, đã trở thành nạn nhân của quan điểm sai lầm do Dorohiem và Dohamide đưa ra, chứ không phải là nạn nhân của các nhà viết lách nữa. Ðể làm sáng tỏ lại vấn đề liên quan đến nội dung của tác phẩm lịch sử có giá trị này, chúng tôi muốn đặt lại vấn đề ở đây có chăng Sakkarai Dak Rai Patao là một tác phẩm huyền thoại như E. Aymonier đã đề nghị vào năm 1890 hay là biên niên sử của vương quốc Champa như Dorohiem và Dohamide đã phỏng đoán vào năm 1965 hay là biên niên sử thật sự của tiểu vương quốc Panduranga như E. Durand đã đưa ra vào năm 1905?  Sơ lược lịch sử Panduranga  Cũng nhờ các bia ký Champa, tư liệu cổ Việt Nam và Trung Hoa, các nhà nghiên cứu phương Tây đã phác họa lịch sử vương quốc Champa một cách tổng thể từ thế thế kỷ thứ 2 đến năm 1471, cũng là năm đánh dấu cho sự thất thủ Vijaya, tức là thành Ðồ Bàn (G. Maspero: 1928); G. Coedes: 1964; Po Dharma: 1978, 1987). Sau năm 1471, các bia ký Champa không còn xuất hiện nữa. Dựa vào sự biến mất của bia ký, các nhà nghiên cứu không còn quan tâm đến lịch sử cận đại của Champa sau thế kỷ thứ 15. Tiếc rằng, người ta đã quên rằng dân tộc Chăm ở khu vực Phan Rang và Phan Rí vẫn còn lưu trữ rất nhiều văn bản cổ viết bằng tiếng Chăm liên quan đến lịch sử và nền văn minh Champa sau năm 1471 (Po Dharma: 1987; P-B. Lafont: 1980). Trong kho tàng văn chương lịch sử này, Sak Karay Dak Rai Patao là văn bản duy nhất nói về biên niên sử của vua chúa Panduranga. Ai cũng biết, kể từ đầu thế kỷ thứ 20, các nhà nghiên cứu phương Tây (L. Finot: 1903; G. Coedes: 1964; P-B. Lafont: 1980; Po Dharma: 1987; B. Gay: 1988)  đã phân tích một cách khoa học và có hệ thống những nền tảng tổ chức chính trị và hành chánh Champa để rồi đưa ra một kết  luận chung đó là Champa không phải là một quốc gia tập quyền, thống nhất như thể chế chính trị ở Trung Hoa hay ở Việt Nam, mà là một vương quốc liên bang (fédération) và đôi lúc cũng là một liên hiệp quốc gia (confédération), rất gần gũi với thể chế liên bang Mã Lai hôm nay. Liên bang Champa tập trung 5 tiểu vương quốc trong đó có Indrapura, Amaravati, Vijaya, Kauthara và Panduranga. Ðứng đầu của quốc gia liên bang Champa là quốc vương mang tôn hiệu Rajadiraja (tức là vua của vua), chứ không phải là Patao như Dohamide và Dorohiêm (2004, tr. 263) đưa ra. Quốc vương này còn mang một tôn hiệu khác đó là Po Tana Raya (lãnh chúa toàn diện đất đai) để cai trị quốc gia với «cây lộng duy nhất››, biểu hiện cho uy quyền hoàng gia Champa. Thủ đô liên bang lúc ban đầu đặt tại Indrapura (Quảng Nam) sau đó dời về Vijaya (Bình định) kể từ năm 1000. Nằm ở cực nam của lãnh thổ liên bang Champa, Panduranga là một tiểu vương quốc có một thể chế hành chánh, chính trị và quân sự riêng biệt. Sự hình thành tiểu vương quốc này đã có từ lâu đời. Vì rằng vào năm 1050, bia ký đã nói đến cuộc vùng dậy của nhân dân Panduranga chống lai chính quyền trung ương Champa ở miền bắc. Ðể trả lời cho thái độ bất qui phục này, quốc vương Champa là Jaya Paramesvaravarman I đứng ra chỉ trích kịch liệt thái độ ương ngạnh của nhân dân Panduranga mà ngài gọi họ là «dân tộc phóng đãng (vicieux), ác tâm (malfsaisant), khinh bạc (frivole), luôn luôn phản động chống lai triều đình trung ương» (Maspero, 1928: 37 ; Po Dharma, 1987 : 57). Nhằm phá tan yêu sách đòi tự trị ở miền nam và đưa dân tộc Panduranga phải tôn trọng uy quyền triều đình trung ương, quốc vương liên bang Champa thường biến tiểu vương quốc Pandurang thành một lãnh thổ đặc hữu (apanage) đặt dưới quyền cai trị của một thái tử (yuvaraja) do quốc vương liên bang Champa chỉ định (Finot, 1909: 205-209, Maspero, 1928: 137). Sự hiện diện của thái tử này cũng không ngăn cấm nổi Panduranga trở lại con đường cũ : thua keo này bày keo khác. Vì rằng, Panduranga vẫn là nơi phát sinh một số biến cố chính trị lớn vào thế kỷ thứ 11. Biến cố thứ nhất đó là một nhân vật quan trọng trong triều đình của Panduranga đứng ra kêu gọi nhân dân tách rời ra khỏi liên bang Champa, rồi tự phong mình làm vua ở miền nam, dù rằng vương triều này chỉ kéo dài trong vòng 13 năm. Hết tìm cách xây dựng một quốc gia tự trị, Panduranga còn là nơi trú ẩn dành cho một số nhân vật chính trị từ trung ương ở Vijaya chạy sang lánh nạn (Finot, 1909: 205-209; Maspero, 1928: 137). Với bản chất cương quyết của nhân dân Panduranga đấu tranh cho bằng được quy chế tự trị ở miền nam, một số quốc vương liên bang Champa không còn cách nào khác là công nhận nền tự trị của Panduranga ở miền nam. Ðiển hình nhất là vào thế kỷ thứ 10, tư liệu Trung Hoa cho rằng mặc dù Panduranga vẫn là lãnh thổ trực thuộc liên bang Champa, nhưng tiểu vương quốc này vừa triều cống vua liêng bang Champa ở miền bắc, vừa gởi triều cống đến Trung Hoa như một quốc gia độc lập (Pelliot, 1903: 649). Ngoài yêu sách tự trị, vua chúa Panduranga cũng thường xác nhận họ có một thị tộc riêng biệt. Ðiển hình là vào cuối thế kỷ thứ 11, quốc vương liên bang Champa là Sri Harivarman IV (1074-1081) tự cho mình là người xuất thân từ thị tộc cây câu (Narikela) của dòng thân mẫu ở Panduranga, một thị tộc tinh khiết của chủng tộc Champa. Thân phụ của ngài thuộc thị tộc cây dừa (Kramula) ở Vijaya. Hai thị tộc này thường dùng đến bạo lực để chinh phục uy quyền ở liên bang Champa trong nhiều thế kỷ (Maspero, 1928: 43). Hết sự khác biệt về thị tộc, Panduranga thường đeo đuổi tư thế độc lập của mình về phương diện chính trị đối với miền bắc. Chính vì thế, Panduranga thường không hỗ trợ quân sự cho Vijaya, một khi tiểu vương quốc phía bắc này bị ngoai bang xâm chiếm. Vào năm 1145, vua Cao Miên xua quân xâm chiếm Vijaya và giết chết vua liên bang Champa là Indravarman III. Trước sự tấn công của ngoại bang, Panduranga không hề gởi quân để giúp đỡ quốc vương Champa ở phương bắc. Thêm vào đó, Panduranga còn đón nhận hoàng tử của tiểu vương quốc Vijaya là Rudravarman IV cùng với đứa con trai là Srivanandana chạy sang lánh nạn trên lãnh thổ của mình một khi quân Cao Miên phá hủy thủ đô Vijaya vào năm 1145. Ngoài sự tiếp đón nồng hậu này, dân chúng Pandurang còn tôn vinh hoàng tử Srivanandana lên làm vua Champa ở miền nam lấy vương hiệu là Jaya Harivarman I (Maspero, 1928: 156-157). Thế là vương quốc Champa bị chia đôi thành hai miền rõ rệt. Vijaya đặt dưới quyền chỉ huy của quân đội Cao Miên và Panduranga thì có Jaya Harivarman I. Với sự hỗ trợ của quân đội Panduranga, vua Jaya Harivarman I xuất quân ra bắc vào năm 1149 tấn công Vijaya và giết được tổng tư lệnh quân viễn chinh Cao Miên là hoàng tử Harideva, tức là em rể của vua nước này (Maspero, 1928: 156). Năm 1190, vua Cao Miên là Jayavarman VII giao quyền cho hoàng tử Champa là Sri Vidryanandana sang lánh nạn ở Cao Miên từ năm 1182, đem quân tấn công Vijaya lần thứ hai, bắt được vua Champa là Jaya Indravarman IV đưa về Cao Miên. Một khi thắng trận, vua Cao Miên phong cho em rể của mình lên làm quốc vương Vijaya (Nagara Vijaya) với vương hiệu là Suryajayavarman. Riêng về hoàng tử Sri Vidryanandana, ngài trở lại Panduranga, tự phong cho mình là quốc vương của tiểu vương quốc này với vương hiệu là Sri Suryavarmadeva, đặt thủ đô tại Rajapura (Phan Rang). Thế là vương quốc Champa lai bị chia đôi một lần nữa. Miền bắc do quân Cao Miên trấn giữ. Tiểu vương quốc Panduranga do hoàng tử Sri Suryavarman lãnh đao (Maspero, 1928: 166). Vì không chấp nhận tiểu vương quốc Vijaya bị cai trị bởi ngoại bang, hoàng tử Champa tên là Rasupati vùng dậy vào năm 1191 đánh đuổi quân xâm lược Cao Miên sau đó lên ngôi lấy vương hiệu là Jaya Indravarman V. Ðể trả thù cho cuộc vùng dậy này, vua Cao Miên chấp nhận trả tự do cho cựu quốc vương Jaya Indravarman IV bị bắt giam tại vương quốc này vào năm 1190. Từ vương quốc Cao Miên, cựu quốc vương Jaya Indravarman IV ghé sang Panduranga cầu cứu quân sự hầu chiếm lại ngai vàng ở phương bắc. Một khi đã nhận lời giúp đỡ, vua Panduranga là Sri Suryavarman xua quân sang miền bắc, đánh đuổi quân xâm lược Cao Miên ra khỏi Vijaya. Lợi dụng sự chiến thắng này, vua Panduranga phế truất cựu vương quốc Jaya Indravarman IV ra khỏi ngai vàng, tự phong mình làm quốc vương liên bang Champa kiêm cả chức vua của tiểu vương quốc Panduranga kể từ năm 1192 (Maspero, 1928:165-166). Một năm sau, tức là vào năm 1193, vua Cao Miên Jayavarman VII xuất quân sang chinh phạt Sri Suryavarman ở Vijaya. Bị thất trận vào năm 1203, Sri Suryavarman chạy sang Ðại Việt lánh nạn. Nắm chủ tình hình, vua Cao Miên chiếm lại thủ đô Vijaya và đặt nền cai trị ở miền bắc Champa trong xuốt 17 năm, từ 1203 đến 1220 (Maspero, 1928: 167) Sự đô hộ của Cao Miên ở Champa vào những năm 1203 và 1220 đã đánh dấu một biến cố quan trọng trong văn chương lịch sử ở Champa. Chính trong thời điểm này mà tác phẩm Sakkaray Dak Ray Patao đã ra đời với vị vua đầu tiên là Sri Agarang trị vì vào năm 1193 hay 1205 tùy theo dị bản. Tiếc rằng, không tư liệu nào có thể giúp chúng tôi để nhận diện rằng sự ra đời của Sakkaray Dak Ray Patao ở Panduranga có liên hệ gì với chính sách đô hộ Cao Miên ở Vijaya, miền bắc của Champa? Ðây chỉ là một vấn đề đặt ra nhưng không ai có thể trả lời câu hỏi này (Po Dharma, 1978). Một khi đã thoát thân ra khỏi nền đô hộ của Cao Miên vào những thập niên đầu của thế kỷ thứ 13, vương quốc Champa lại vướng vào một tai họa khác đó là chính sách Nam Tiến của Ðại Việt. Sau khi thôn tính dần dần một số đất đai ở phía bắc của Champa, Ðại Việt quyết định nuốt trọn thủ đô Vijaya vào năm 1471 và dời biên giới của mình đến đèo Cù Mông, phía bắc Phú Yên. Sự thất thủ thành Ðồ Bàn đã đưa bản đồ dân cư Champa vào một khúc quanh mới. Vì rằng, kể từ năm 1471, Champa bị thu hẹp lại trong lãnh thổ của tiểu vương quốc Panduranga ở miền nam mà thôi (Po Dharma, 1987, I, tr. 61-62). Sau khi Vijaya bị thất thủ, tướng Bố Trì Trì sang lánh nạn ở Panduranga, chiếm giữ một phần năm đất đai của tiểu vương quốc này để thành lập một quốc gia riêng biệt. Ngài cũng xin vua Lê Thánh Tông công nhận sự tấn phong của mình và biên niên sử Minh Chê của Trung Hoa vẫn còn nói đến sự liên hệ với Champa của Bố Trì Trì giữa năm 1478 và 1543 (Maspero, 1928: 240). Từ ngày thất thủ thành Ðồ Bàn vào năm 1471 đến năm 1611, tức là gần 140 năm, người ta cứ tuởng rằng chiến tranh không còn tái diễn nữa giữa hai nước láng giềng thù địch, đó là Champa và Ðại Việt. Tiếc rằng sự hòa bình này chỉ là một giấc mơ huyền ảo. Năm 1611, nhà Nguyễn bắt đầu phất cờ Nam Tiến, mà Phú Yên là nạn nhân đầu tiên của chính sách xâm lược này. Năm 1653 quân nhà Nguyễn chiếm đóng Kauthara (Nha Trang) và năm 1658 tràn sang khu vực Sài Gòn tức là đất đai của Cao Miên thời đó (Po Dharma (1987, I: 64-66). Ba mươi chín năm sau ngày thất thủ Kauthara (1653), nhà Nguyễn quyết định nút trọn lãnh thổ Champa còn lại vào năm 1692, thay đổi danh xưng Chiêm Thành thành Trấn Thuận Thành và thành lập phủ người Việt đầu tiên mang tên là phủ Bình Thuận trong biên giới của tiểu vương quốc Panduranga. Ðể trả lời cho chính sách xâm lược này, nhân dân Champa vùng dậy đánh đuổi quân xâm luợc nhà Nguyễn vào năm 1693. Vì không kháng cự nổi, nhà Nguyễn chấp nhận trao trả lại nền độc lập cho Champa vào năm 1694 với điều kiện là Panduranga phải công nhân sự hiện diện của phủ Bình Thuận ở tiểu vương quốc này nhằm quản lý các cư dân Việt sống ở Champa thời đó (Po Dharma, 1987, I: 67-71). Phủ Bình Thuận là đơn vị hành chánh trực thuộc nhà Nguyễn tập trung các làng xã người Việt nằm rải rác trong lãnh thổ Champa. Sự ra đời của phủ Bình Thuận đã thay đổi hoàn toàn địa bàn dân cư Panduranga thời đó. Vì lãnh thổ này không dành riêng cho dân tộc Champa nữa mà là cả cư dân Việt. Mô hình dân cư quá phức tạp này đã đưa hai cộng đồng Chăm và cư dân Việt đến sự xung đột thường xuyên trong những năm kế tiếp (Po Dharma, 1987, I: 70-71). Vào thập niên của cuối thế kỷ thứ 18, Panduranga lại trở thành một bãi chiến trường đẫm máu giữa hai thế lực thù địch người Việt, đó là chiến tranh giữa Tây Sơn và Nguyễn Ánh. Thế thì sự sống còn của Panduranga hoàn toàn tùy thuộc vào kết quả của chiến tranh này. Năm 1802, Nguyễn Ánh thống nhất sơn hà, lên ngôi lấy hiệu là Gia Long. Ðể đền đáp công lao cho một số người Chăm dấn thân vào phong trào chống Tây Sơn, Gia Long quyết định tái lập lại vương hiệu Panduranga và phong cho Po Saong Nhung Ceng, một chiến sĩ gốc người Chăm (tức là tổ tiên của Bà Thềm ở Phan Rí) đã từng theo ông trong buổi ban đầu chống quân Tây Sơn, lên làm vua của tiểu vương quốc này (Po Dharma (1987, I: 83-99). Và Po Saong Nhung Ceng cũng là vị vua cuối cùng nằm trong danh sách của Sakkaray Dak Rai Patao. Những biến cố mà chúng tôi đã nêu ra đã cho độc giả thấy rằng Panduranga có một quy chế chính trị và quân sự rất là đặc biệt trong quá trình lịch sử của Champa. Dù rằng đã mấy lần vùng dậy chống triều đình trung ương để đòi nền tự trị ở miền nam, xuất quân đánh đuổi kẻ xâm lược Cao Miên ra khỏi Vijaya ở miền bắc, gởi cả phái đoàn ngoại giao sang triều cống Trung Hoa như một quốc gia độc lập, có vua chúa và quân đội riêng, Panduranga vẫn là một đơn vị hành chánh của Champa. Nhưng đơn vị hành chánh này không thể hiểu là một “Tỉnh” của Champa như một số người thường hiểu lầm từ ngày ra đời tác phẩm của Dorohiêm và Dohamide vào năm 1965, mà là một tiểu vương quốc nằm trong liên bang Champa. Dựa vào yếu tố chính trị và hành chánh này, các nhà khoa học thường định nghĩa rằng Champa không phải là một quốc gia thống nhất và tập quyền như thể chế Việt Nam, mà một vương quốc liên bang. Ðây là một thể chế thông dụng mà người ta còn thấy ở liên bang Mã Lai hôm nay tập trung 9 tiểu vương quốc (Dupuis, 1972) hay liên bang Lào trong thời phong kiến tập trung 4 tiểu vương quốc như Luang Prabang, Vientian, Xieng Khoang và Champasak (Saveng Phinith, 1987: 6). Kể từ năm 1905, thể chế liên bang Champa đã trở thành một yếu tố lịch sử mà không ai có thể chối cãi được, ngoại trừ ba nhà nghiên cứu duy nhất trên thế giới đó là Lương Ninh, Dohamide và Dorohiêm. Trong bài viết của Lương Ninh xuất bản vào năm 2004, tác giả cho rằng «nếu đem lý thuyết Mandala (liên bang) áp dụng ở Champa, thì tác giả chỉ đồng ý một nữa›› mà thôi. Ðây là lối lý luận khập khiễng. Ngược lại, Dohamide và Dorohiêm thì phủ nhận hoàn toàn thể chế liên bang Champa trong tác phẩm Bangsa Champa xuất bản vào năm 2004. Không cần đưa ra một nguồn tư liệu nào để minh chứng cho quan điểm của mình, Dohamide và Dorohiêm tự phỏng đoán rằng vương quốc Champa hợp thành một cơ cấu quốc gia thống nhất. Chúng tôi khỏi bàn quan điểm này, vì đây chỉ là lối suy diễn dựa vào cảm hứng riêng tư và lý luận phi khoa học của Dohamide và Dorohiem mà thôi. Một khi đã công nhận Panduranga không phải là một “Tỉnh” của Champa như Dohamide và Dorohiem đã hiểu lầm từ năm 1965, mà là một tiểu vương quốc trong liên bang Champa, thế thì Panduranga cũng có quyền hưởng được quy chế pháp lý để có một biên niên sử riêng của mình, đó Sakkarai Dak Rai Patao.  Nội dung của biên niên sử  Trong thư viện của Pháp hiện còn lưu trữ 12 dị bản khác nhau của tác phẩm Sakkaray Dak Rai Patao. Trong tổng số này, có 10 dị bản viết bằng tiếng Chăm ở Việt Nam và 2 dị bản viết bằng tiếng Chăm ở Cao Miên. Sakkaray Dak Rai Patao viết bằng chữ Chăm Cao Miên cho rằng đây là biên niên sử của Nagar Panang-Panik, tức là biên niên sử của tiểu vương quốc nằm trong khu vực Phan Rang và Phan Rí, hay là  Panduranga. Ngược lai, Sakkaray Dak Rai Patao viết bằng chữ Chăm Việt Nam chỉ ghi rằng đây là biên niên sử Patao Chăm (vua chúa Chăm), nhưng không cho biết rõ Patao Chăm này thuộc về Panduranga hay vua chúa Champa đóng đô ở Vijaya. Nếu nói rằng Sakkaray Dak Rai Patao là biên niên sử của liên bang Champa thì không thể chấp nhận được. Vì rằng, hầu hết các lai lịch, “nghĩa trang” thuộc dòng thân mẫu (Kút) và đền tháp của vua chúa trong Sakkaray Dak Rai Patao đều nằm ở khu vực Phan Rang và Phan Rí hôm nay. Ðiều đáng chú ý nữa đó là các thủ đô như Bal Sri Banây, Bal Hanguw, Bal Anguai, Bal Batsinâng, Bal Pangdarang đều nằm trong lãnh thổ của Panduranga. Các danh xưng của vua chúa trong Sakkaray Dak Rai Patao đều khởi đầu bằng cụm từ «Po», như Po Romé, Po Klaong Haluw, v.v. chứ không phải khởi đầu bằng cụm từ «Jaya, Sri›› như Jaya Indravarman, Sri Sinhavarman, v.v. được sử dụng bởi các vua chúa liên bang Champa đóng đô ở Vijaya. Thêm vào đó, người ta chưa bao giờ tìm thấy một bản văn nào viết bằng Akhar Thrah Chăm phát xuất từ khu vực Panduranga lại nhắc đến một số kỷ niệm xa xưa ở khu vực Champa miền bắc (từ Bình Định cho đến Quảng Bình), ngoại trừ vài danh từ địa phương như Huê (tức là Huế), Mbin Ngai (tức là Quảng Ngãi), v. v., vì rằng các địa danh này chỉ xuất hiện trong văn chương Chăm vào thời Nguyễn mà thôi. Chính vì thế, một số người Chăm cho rằng Harek Kah Harek Dhei dùng trong bản văn Chăm nằm ở Quảng Bình là hoàn toàn phi khoa học, vì địa danh này chỉ nằm ở khu vực Aia Ru (tỉnh Phú Yên) tức là địa đầu của tiểu vương quốc Panduranga. Càng không thể được nếu cho rằng công chúa Bia Mih Ai trong tác  phẩm Nai Mai Mang Makah là công chúa Mị E, vợ của Jaya Sinhavarman II,  tức là Sạ Ðẩu (1044-), v.v., vì tác phẩm Nai Mai Mang Makah chỉ viết vào thế kỷ thứ XVIII (Po Dharma, 2000). Tác phẩm Sakkaray Dak Rai Patao có tổng số 38 vị vua và được chia làm hai phần rõ rệt.  Thời kỳ tiền sử
0 Rating 453 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On March 23, 2017
  1. Trung tuần tháng 2 hoặc tháng 3 âm lịch, người Việt có tục cúng đất, từ Đèo Ngang đổ ra gọi là cúng Thổ công và từ Đèo Ngang vô trong gọi là cúng Tá thổ. Cũng là cúng đất, nhưng người xứ Bắc Đèo Ngang cúng Thần Đất của chính họ, nên gọi là cúng Thổ công. Ngược lại, người miền Nam Đèo Ngang cúng Thần Đất của người Chăm nên gọi là cúng Tá thổ (借 土, mượn đất), ai cúng thì được "kỳ yên" (an lành), ai quên cúng thì chịu quả báo. Nói thêm, cúng Tá thổ tức là nghi lễ của những lưu dân người Việt xin mượn đất người Chăm, dẫu rằng mượn hơn 700 năm mà vẫn chưa trả! Vì mượn nhưng chẳng bao giờ trả nên Tổ tiên của những lưu dân người Việt đến từ miền Thanh Nghệ Tĩnh đã có một thái độ hết sức khiêm nhường, bởi họ luôn tâm niệm rằng những linh hồn Chăm mới là chủ nhân của miền đất mà họ đang "tá túc". Vị Thần Đất của người Chăm, thường được hóa thân thành Bà Ngũ Hành, Bà Chúa Ngọc, Bà Hời, Bà Vú ... được những lưu dân người Việt mời về "đồng lai cộng hưởng" bằng những lễ vật rất Chăm như củ khoai lang, chén mắm cái, đĩa đậu phộng, bát cơm nấu từ gạo Chiêm ... và đặc biệt phải có tam sinh, tức là một con cua cái sống, một tợ thịt heo sống và một hột vịt sống. Bái tất, lễ vật được đem treo ở những cây đa hay giữa ngã ba làng cho các linh hồn Chăm thụ hưởng. Tính độc đáo của lễ cúng "Tá thổ", cúng cho chủ đất cũ, chính là lối ứng xử hết sức nhân văn của người chiến thắng (Việt) đối với người chiến bại (Chăm). 2. Gần đây, đọc bài "Khóc ở Mỹ Sơn" trên tường của chị Kiều Kiều Maily, rồi đọc thêm bài "Không khóc ở Mỹ Sơn" của anh Inra Sara mà mình khóc òa. Lẽ nào con cháu của những người "mượn đất" lại đối xử với con cháu của "chủ đất" tệ đến thế sao? Người Việt đã "mượn" hết tất cả đất của người Chăm rồi, bây giờ con cháu người Chăm về hành hương đất tổ Mỹ Sơn thì bị người Việt bắt trả tiền mua vé! Cái cảm giác "uất nghẹn" này thì tôi đã nếm. Bà cố nội của tôi là người tộc Trần ở Hội An. Cách đây 5 năm, tôi về nhà thờ tộc Trần (21 Lê Lợi, Hội An) để thắp ba cây nhang thì bị chặn ở ngoài cổng. Người ta bắt tôi phải mua vé mới được vào. Ô hô, con cháu đi cúng bái ông bà tổ tiên mà còn phải mua vé hay sao? 3. Ngày Cồn Dầu bị san ủi cũng là ngày núi Phước Tường bị sạt lở. Có tâm linh gì không, hay là người ta phá núi quá nhiều nên chỉ sau mấy trận mưa mà Phước Tường sạt lở? Cách đây hơn ngàn năm, thời Champa (vương triều Đồng Dương), trên mảnh đất Đà Nẵng ngày nay, đã có một tòa thành gọi là Rudrapura उत्तरकाण्ड, thành phố Thần Bão tố (*). Núi thiêng của thành là ngọn Phước Tường, sông Thiêng của thành là dòng Cẩm Lệ, đất Thiêng của thành là Cồn Dầu. Thành Rudrapura có nội cảng Nại Hiên Tây và có tiền cảng Nại Hiên Đông, ngay bãi Tiên Sa, dưới chân núi Sơn Trà. Đất Quảng Đà vốn là đất Chăm, thiêng lắm. Cách đây vài năm, có ông lãnh đạo thành Đà ăn đất vô hậu, phá núi tàn canh nên bị quả báo, ung thư tủy sống. Ổng tốn hơn 3 triệu USD sang Mỹ chữa bệnh mà có mua được mạng sống đâu? Cái đó gọi là quả báo nhãn tiền. Nay, có bọn lãnh đạo khốn nạn nào đó đan tâm phá nát bãi Tiên Sa, băm sạch núi Sơn Trà cho thỏa lòng tham. Coi chừng có ngày bị ung thư ... Houston, 22/3/17ĐBT theo facebook.com
0 Rating 1.1k+ views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On February 10, 2017
Người Chăm ở Việt Nam và Campuchia. Nguyễn Văn Huy*  I. Nhận lại anh em, tìm lại bạn bè Chăm là một trong 54 nhóm chủng tộc bất khả phân của dân tộc Việt Nam. Dân số người Chăm hiện nay khoảng 100.000 người, trong đó hơn 2/3 định cư tại Phan Rang, Phan Rí, Phan Thiết và Bình Tuy ; số còn lại sinh sống tại Châu Đốc, Tây Ninh và Sài Gòn.  Cũng nên biết, trong thực tế, có khoảng 400.000 người Chăm sinh sống tại khắp nơi trên thế giới, đông nhất là tại Kampuchia (270.000 người), kế đến mới tới Việt Nam (100.000 người), sau là Thái Lan (15.000 người) và cuối cùng là Liên Bang Mã Lai, năm 1979 đã  tiếp nhận khoảng 10.000 người Chăm đến từ Kampuchia. Hải ngoại có khoảng 200 người Việt gốc Chăm (hơn 50 gia đình), đa số định cư tại Hoa Kỳ.  Tài liệu nói về nhóm dân cư này tuy có nhiều nhưng cũng rất thiếu. Đa số các tài liệu viết về các sinh hoạt có tính văn hóa và xã hội trong khi phần lịch sử và sinh hoạt chính trị của nhóm dân cư này hoàn toàn thiếu vắng, nếu có chăng thì nội dung cũng bị bóp méo để phù hợp với nhu cầu tuyên truyền của các chế độ đương quyền. Chính vì thế mỗi khi đề cập tới cộng đồng người Chăm, người Việt thường có một nhận thức rất mơ hồ, chỉ biết đại khái đó là một sắc tộc thiểu số ở miền Trung và Châu Đốc có nước da ngăm đen, phong tục tập quán, tín ngưỡng và văn hóa khác với người Kinh. Trầm trọng hơn, phần lớn những người lãnh đạo đất nước cũng không nắm rõ nguồn gốc những cộng đồng chủng tộc đã góp phần tạo thành dân tộc Việt Nam, do đó khó có thể xây dựng một chính sách dân tộc phù hợp với ước vọng của từng cộng đồng. Chính vì thế nội dung loạt bài viết về người Chăm này nhằm khai thông bế tắc đó. Nhận lại anh em, tìm lại bạn bè là chặng đường cần thiết trước khi cùng nhau xây dựng một tương lai chung.   Người Chăm và các danh xưng   Chăm là tên một nhóm dân cư, trước kia là thần dân vương quốc Chiêm Thành (Campa, Champa, hay Chăm Pa) cũ, đã có mặt từ lâu đời tại miền Trung trước khi người Kinh đến đây lập nghiệp.  Trước khi đi vào chi tiết, tưởng cũng nên phân biệt người Chăm và người Chămpa. Chăm là nhóm dân cư gốc Nam Đảo (malayo-polynésien) sinh sống trên những vùng đất thấp dọc duyên hải miền Trung, Chămpa là toàn thể các nhóm dân cư thuộc vương quốc Chiêm Thành cũ gồm cả người Chăm đồng bằng lẫn người Thượng (gốc Nam Đảo hoặc Môn Khmer), sinh sống rải rác trên các vùng rừng núi phía Tây dãy Trường Sơn, hay Tây Nguyên.  Champa là tên một loài hoa màu trắng hồng nhạt, hay trắng vàng nhạt, có hương thơm ngào ngạt có thể tìm thấy tại khắp nơi trên duyên hải miền Trung. Người Việt gọi là hoa sứ, tên khoa học là Michelia Champaca Linn. Không biết người Champa đã chọn loài hoa sứ này đặt tên cho xứ sở mình từ hồi nào, nhưng chữ Champa đã được tìm thấy trên một bia ký có từ thế kỷ thứ 6 tại Mỹ Sơn, viết bằng chữ Phạn (sanscrit). Trước đó, trong bộ Geographica năm 150 sau công nguyên, Claudius Ptolémée (90-168), nhà địa lý gốc Hy Lạp và là sứ giả của hoàng đế La Mã Marc-Aurèle Antonin tại Alexandrie (Ai Cập), đã có lần nói tới một xứ tên Zamba trên vùng Viễn Đông. Sách Tân Đường thư, do Âu Dương Tu và Tổng Kỳ biên soạn thế kỷ 10, phiên âm là Chiêm Bà khi nói về Hoàn Vương Quốc (vương quốc Lâm Ấp cũ). Về sau Champa được người Việt biết qua tên phiên âm Hoa ngữ là Chiêm Thành (Tchan-tcheng).  Trước kia người Việt gọi cộng đồng người Chăm là Chiêm, Chàm, Hời… Những danh xưng này được đọc theo cách viết của người Trung Hoa, hay theo cách phát âm của người miền Trung, do đó không phản ánh trung thực danh xưng chính xác của người Chăm hiện nay.  – Chiêm là tên gọi những cư dân sinh sống trên lãnh thổ Chiêm Thành ; danh xưng Chiêm thỉnh thoảng vẫn được nhắc nhở trong sử sách và tài liệu nghiên cứu, ngoài dân gian ít ai nói tới.  – Chàm là cách đọc trại đi từ chữ Champa ; danh xưng Chàm hiện còn rất thông dụng trong dân gian, một vài địa danh còn giữ chữ Chàm kèm theo như Cù Lao Chàm tại Quảng Nam, Tháp Chàm tại Phan Rang, quận Phan Lý Chàm, xã Ma Lâm Chàm tại Bình Thuận… Trong nước, những nhà dân tộc học đã thay chữ Chàm bằng danh xưng Chăm từ lâu ; điều này đã làm hài lòng cộng đồng người Chăm tại cả Thuận Hải lẫn Châu Đốc, vì là cách gọi đúng nhất theo lối phát âm từ chữ Chăm-pa.  – Danh xưng Hời rất ít được nhắc đến, người chỉ thấy chữ này xuất hiện một vài lần trong tập thơ Điêu Tàn, năm 1937, của Chế Lan Viên. Hời là cách đọc trại đi từ chữ Hroi (H’roi hay Hờ Roi), tên của một bộ lạc sơn cước sinh sống trên vùng rừng núi phía Tây các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi và Bình Định. Người Hroi thật ra cũng là người Chămpa, vì trước kia là thần dân của vương quốc Chiêm Thành cũ di tản lên Tây Nguyên tránh loạn rồi định cư luôn tại đây, họ vẫn còn giữ ngôn ngữ và một số phong tục tập quán của người Chăm đồng bằng trong những sinh hoạt thường nhật. Ngoài ra còn phải kể thêm những nhóm Bahnar Chăm, Bru-Vân Kiều, Kaho, Raglai, Rhadé, Djarai, Stiêng, Churu v.v…, tất cả đều là thần dân của vương quốc Chiêm Thành cũ di tản lên cao nguyên trong những giai đoạn loạn lạc rồi ở luôn tại đây. Trên khắp cao nguyên, những nhóm người mới hòa nhập và pha trộn với các nhóm người cũ tạo thành những sắc dân hỗn hợp mang hai dòng máu Chăm-Thượng trong những thời điểm khác nhau. Người Chăm lai Thượng gọi là Chăm Pal, nhưng người Việt ít biết đến tên này. Vì không có truyền thống đặt tên cho từng nhóm người, dân chúng gốc Kinh gọi chung tất cả những cư dân sinh sống trên miền núi phía Tây là người Hroi, sau đó biến âm thành người Hời.  Chữ Hời mang một nội dung xấu, đó là những nhóm man di chuyên đi cướp bóc, vì trong quá khứ người Hroi đã nhiều lần tiến công vào các làng xã người Kinh cướp bóc lương thực, trong những giai đoạn khó khăn, dưới thời các chúa Nguyễn. Sau này người Chăm tại Thuận Hải gọi những cư dân gốc Chăm sinh sống tại các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi và Bình Định là Chăm Hoi hay Chăm Hroi. Sử sách Việt Nam thời Nguyễn gọi chung là Mọi Đá Vách.  Ngoài ra cũng có một số người Chăm lai Việt gọi là Chăm Yuôn (Yuôn hay Yun có nghĩa là người Việt). Người Việt gọi là Kinh Cựu, nhưng danh xưng này rất ít người biết đến vì người Kinh Cựu luôn tự nhận mình là người Kinh. Cũng nên biết những binh sĩ hay tội đồ gốc Kinh, bị đày ra vùng biên địa giáp ranh với Chiêm Thành, đã lập gia đình với những phụ nữ Chăm (mà họ cho là người Kinh cổ xưa), từ đó mới sinh ra chữ Kinh Cựu.  Về ngôn ngữ, người Chăm được nhiều nhà nhân chủng học xếp vào họ Nam Đảo (Malayo Polynésien), nghĩa là có nguồn gốc xuất phát từ các hải đảo phía Nam vùng biển Đông Nam Á. Điều này có thể đúng khi đối chiếu văn minh, văn hóa của người Chăm với văn minh, văn hóa của các dân tộc cùng hệ ngôn ngữ tại Đông Nam Á vào thời tạo dựng. Nhưng qua những khám phá khảo cổ gần đây, văn minh và văn hóa của người Chăm tại Việt Nam không hoàn toàn do ngoại nhập mà có sự pha trộn yếu tố văn minh và văn hóa của những nhóm cư dân bản địa có mặt từ trước.  Trong thực tế không có bộ tộc nguyên thủy nào có tên Chăm. Chăm chỉ là tên gọi của nhiều nhóm dân cư sau này chọn sinh sống trên lãnh thổ của vương quốc Champa hay Chiêm Thành cũ, gọi chung là người Chămpa, chứ không phải tên riêng của một nhóm chủng tộc. Sau này cộng đồng người Chăm đồng bằng chấp nhận danh xưng Chăm, và đồng hóa nguồn gốc Nam Đảo của mình với nền văn minh và văn hóa Chiêm Thành cũ, để phân biệt với các nhóm Chămpa khác xuất phát từ nhiều nguồn gốc ngôn ngữ và chủng tộc khác nhau. Có thể nói vương quốc Chiêm Thành xưa kia là một liên bang đa chủng và đa văn hóa.   Nền văn hóa cổ Champa  Sau khi đã thống lãnh toàn bộ các khu vực có dân cư sinh sống trên vùng duyên hải miền Trung, từ thế kỷ thứ 2 đến thế kỷ 8, các nhóm người hải đảo gốc Malayo Polynésien bắt đầu thiết đặt nền tảng vật chất để trị vì lâu dài: xây dựng kinh thành, phổ biến lối sống định canh và tổ chức xã hội theo kiểu lãnh chúa. Vì trình độ văn hóa không cao nhưng giỏi chinh chiến, những nhóm này một mặt chỉ lưu giữ một phần của nền văn minh hấp thụ qua các đạo sĩ và thương nhân Ấn Độ (chữ Phạn và văn hóa Ấn Độ) đến đây trao đổi hàng hóa hay tạm trú, mặt khác vẫn duy trì một số tập tục, văn hóa bản địa cổ truyền của mình. Qua những di tích và văn hóa còn lại, người ta nhận thấy tất cả đều có sự pha trộn giữa yếu tố bản địa và Ấn Độ. Tuy vậy, với thời gian, văn hóa Ấn Độ dần dần trở thành yếu tố độc tôn, lấn át văn hóa bản địa ở phía Nam và Trung Hoa ở phía Bắc.  Nhưng các đạo sĩ và thương gia Ấn Độ chỉ truyền bá văn minh, văn hóa, tổ chức xã hội, kỹ thuật hàng hải, buôn bán và canh tác nông nghiệp của họ cho giới vương quyền và các lãnh chúa địa phương mà thôi, quần chúng dân gian không được chiếu cố tới. Sự phân biệt này có nhiều lý do, thứ nhất là quần chúng dân gian không có trình độ văn hóa cao, thứ hai là họ không phải là thành phần có quyền quyết định, thứ ba là sự tuân thủ các điều luật của đạo Bà La Môn, đẳng cấp này không thể giao tiếp với đẳng cấp kia. Và qua đó, những đạo sĩ Bà La Môn dần dần được các lãnh chúa trọng vọng và giữ những vai trò cao trong triều chính để giúp họ cai trị hữu hiệu và lâu bền.  Luật Manu của đạo Bà La Môn (Brahmanism) phân chia xã hội thành bốn đẳng cấp (castes). Đứng đầu là Brahman, tức giới đạo sĩ (phần lớn là người Ấn Độ), được cho là sinh ra từ miệng của Brahma (Phạm Thiên), nắm quyền văn hóa tư tưởng và học thuật. Thứ hai là Ksatriya (Lý Đế Lợi), tức đẳng cấp vua chúa, quí tộc, chiến sĩ (phần lớn là người Chăm gốc Nam Đảo), được sinh ra từ hai cánh tay của Brahma nên nắm quyền chính trị và quân sự. Thứ ba là Vaisya (Phệ Xá), tức giới thương gia và phú nông (đa số là người Chăm giàu có và người Thượng gốc Nam Đảo), được sinh ra từ hai đùi của Brahma nên có quyền làm kinh tế và xây dựng. Thứ tư là Sudra (Thủ Đà), tức đẳng cấp thợ thủ công, bần dân (đa số là các sắc dân miền núi và tù binh), được sinh từ hai bàn chân của Brahma chỉ để bị sai khiến và làm nô dịch.  Tuy vậy, trong giai đoạn đầu, do chịu ảnh hưởng của nền văn hóa Trung Hoa và Phật phái Đại Thừa, không thấy có sự phân chia đẳng cấp xã hội trong những bia ký tìm được trên lãnh thổ Bắc Chiêm Thành. Ngược lại trên lãnh thổ Nam Chiêm Thành, đẳng cấp Sudra vẫn tiếp tục tồn tại cho tới thế kỷ 19. Ngày nay đẳng cấp Brahman chỉ còn thấy trong các dịp tế lễ của giáo dân đạo Bà La Môn (các thầy Paseh, Tapah) và đạo Bani mà thôi (các thầy Char, Po Adhya, Po Bac), nhưng đã biến dạng rất nhiều so với nguyên thủy.  Người Chăm theo đạo Bà La Môn được gọi là Chăm Jăt, tức người Chăm chính thống.  Đạo Bà La Môn trở thành tôn giáo chính trong giai đoạn đầu, từ thế kỷ 3 (theo bia Võ Cảnh ở Nha Trang). Tuy gọi là tôn giáo chính nhưng chỉ giới vương tôn quí tộc mới có quyền hành lễ và dự lễ mà thôi, quần chúng dân gian hoàn toàn bị cấm. Đạo Bà La Môn lúc ban đầu phát triển mạnh tại miền Nam Chiêm Thành rồi phát triển ra miền Bắc từ thế kỷ thứ 4, dưới triều vua Bhadravarman I (Fan-houta hay Phạm Hồ Đạt), người sáng lập ra triều đại Gangaraja (sông Gange, Ấn Độ). Đạo Bà Là Môn giữ vai trò độc tôn trong các triều chính cho đến thế kỷ 10, sau đó nhường vai trò lại cho đạo Phật Tiểu Thừa (Thevada). Dưới triều vua Indravarman II (thế kỷ 9), pháp danh Paramabuddhaloka, đạo Phật và đạo Bà La Môn cùng nhau phát triển, nhiều tu viện và chùa được xây dựng tại Đồng Dương thờ Buddha và thần Siva.  Phật giáo Tiểu Thừa tuy được du nhập cùng lúc với đạo Bà La Môn nhưng không phát triển mạnh vì không thừa nhận tính cực đoan của giai cấp cầm quyền đương thời, do đó chỉ phát triển mạnh trong giới dân gian. Phật giáo tại Champa có hai phái: phái Arya Sammitinikaya (Tiểu Thừa) và phái Sarva Stivadanikaya (Đại Thừa), đa số Phật tử Chăm trong giai đoạn đầu theo phái Tiểu Thừa. Miền Nam Chiêm Thành không có dấu vết gì về Phật giáo Đại Thừa ; ngược lại tại miền Bắc, do ảnh hưởng Trung Hoa, Phật giáo Đại Thừa do các tu sĩ Trung Hoa mang vào phát triển mạnh từ thế kỷ thứ 6 đến thứ 9, nhất là trong giới dân gian sinh sống tại châu thổ sông Hồng và sông Mã (Cửu Chân, Nhật Nam), sau đó thì mất hẳn. Ngôn ngữ của người Chăm cũng rất khó xác định. Nói người Chăm có một ngôn ngữ đặc thù là không đúng. Thổ dân bản địa lúc ban đầu có lẽ đã trao đổi với nhau bằng ngôn ngữ cổ Mã Lai, kế là thổ ngữ Nam Đảo. Về sau một số dân cư từ phía Nam tràn lên miền Bắc và miền núi lập nghiệp góp phần pha trộn ngữ âm Môn Khmer vào tiếng địa phương. Rồi những đợt di dân từ ngoài biển (Java, Sumatra), những dân tộc phương Bắc (Văn Lang, Trung Hoa) và những nền văn minh khác (Ấn Độ, Ả Rập) liên tiếp gia nhập vào vùng đất này, ngôn ngữ của người Chămpa đã biến đổi, phân hóa thành nhiều hệ khác nhau (nhất là các sắc dân miền núi), mặc dầu vậy yếu tố Nam Đảo vẫn là mạnh nhất, ảnh hưởng và chi phối đến lối phát âm chính của người Chăm.  Tại miền Bắc, do ảnh hưởng của Trung Hoa những bậc vương tôn có thể đã sử dụng chữ Hán trong các văn thư trao đổi với các quan lại nhà Hán tại Giao Chỉ cho tới năm 192, lúc đó còn là lãnh thổ thuộc nhà Hán (quận Tượng Lâm). Nhưng đến đời con cháu Khu Liên, người sáng lập vương quốc Lâm Ấp đầu thế kỷ thứ 3, nhiều phái bộ được cử sang Giao Chỉ triều cống, các văn thư đều viết bằng chữ Hồ (tức chữ Phạn cổ). Điều này chứng tỏ người Ấn Độ (tu sĩ và thương nhân) đã vào Lâm Ấp truyền giáo và giao thương trước thế kỷ thứ 2 và đã phổ biến chữ viết. Những địa danh và tên các vương triều từ thế kỷ thứ 3 trở đi đều mang tên Ấn Độ, kể cả tên nước (Campapura là tên một địa danh tại miền bắc Ấn Độ). Chữ Phạn trở thành chữ quốc ngữ của vương quốc Champa cổ từ thế kỷ 2. Những bia ký tìm được đều được khắc bằng chữ sanskrit, tức chữ Phạn cổ.  Lâu dần chữ Phạn cổ có nhiều thay đổi. Người Chăm pha trộn và biến cải chữ Phạn cổ thành tiếng “Chăm mới”, nhất là từ sau thế kỷ 15 khi vương quốc miền Bắc bị tan rã, dân chúng Nam Chiêm Thành chỉ sử dụng chữ “Chăm mới” và còn áp dụng cho đến ngày nay. Chữ “Chăm mới” có nhiều trùng hợp với các loại chữ viết của các dân tộc hải đảo Đông Nam Á, nhất là với ngôn ngữ Malaysia và Indonesia.  Đạo Hồi được người Ả Rập truyền bá vào Đông Nam Á từ thế kỷ thứ 7, mạnh nhất là trong các quần đảo Sumatra, Java, bán đảo Mã Lai và các hải đảo nhỏ phía đông nam Philippines. Người “Java” (cách gọi chung những nhóm dân cư hải đảo thời đó) hấp thụ giáo lý đạo Hồi qua các giáo sĩ và thương nhân Ả Rập trốn chạy những cuộc thánh chiến đẫm máu đang xảy ra quanh vùng biển Địa Trung Hải và Trung Đông từ thế kỷ thứ 7 đến thế kỷ thứ 9. Yếu tố hấp dẫn dân cư Nam Đảo theo đạo Hồi là tính (thiện) tuyệt đối của nó: không tôn thờ hình tượng và xây dựng đền đài như đạo Bà La Môn. Dân cư hải đảo, đa số là thành phần ngư dân, đã theo đạo rất đông vì không muốn tham gia xây dựng đến đài tôn thờ các vị thần Ba La Môn giáo nữa. Khi các “hải tặc Java” (cách gọi những ngư phủ không hành nghề đánh cá mà chỉ chuyên đi cướp bóc ngoài khơi Biển Đông) đổ bộ lên miền Trung, họ đã mang theo một số sinh hoạt của nền văn minh và văn hóa Hồi giáo đến với các nhóm dân cư bản địa. Đó chỉ là những hiện tượng rời rạc vì đa số dân cướp biển không có trình độ văn hóa cao, không thể vừa cướp bóc vừa truyền đạo.  Nhiều thuyền buôn Ả Rập từ các hải cảng Basra, Siraf và Oman đã đến buôn bán với Chiêm Thành trong các thế kỷ 7 và 9, nhưng không được đón tiếp nồng hậu vì ngôn ngữ bất đồng, do đó không thể truyền đạo cho dân chúng địa phương. Hơn nữa thương nhân Ả Rập không ở lại như người Ấn Độ vì sợ cướp bóc, thêm vào đó họ cũng không thích hợp với khí hậu nhiệt đới gió mùa của miền Trung. Đạo Hồi được truyền bá vào vương quốc Chiêm Thành qua trung gian các nhà ngoại giao và thương nhân Java và Sumatra ngoài khơi Biển Đông. Vì lẽ đó, đạo Hồi tại Chiêm Thành có nhiều khác biệt so với đạo Hồi chính thống.  Mốc thời gian đạo Hồi được du nhập vào Chiêm Thành là thế kỷ 10. Dưới thời vua Indravarman III (918-959), tể tướng Po Klun Pilih Rajadvara nhận cho một số gia đình hoàng tộc Rahdar Ahmed Abu Kamil, Naqib Amr, Ali (trốn chạy chính sách cai trị khắc nghiệt của những tiểu vương Java) vào tị nạn. Những người này đã nhân dịp truyền bá luôn giáo lý đạo Hồi cho các gia đình hoàng gia Chiêm Thành.  Trong các thế kỷ sau mới có thêm các giáo sĩ, thương gia và giáo dân Hồi giáo Java từ Biển Đông vào giảng dạy giáo lý, lần này cho quần chúng. Qua tư cách và lối sống đạo của các người Hồi giáo Java, giáo lý đạo Hồi chinh phục nhanh chóng đức tin của quần chúng Chiêm Thành, thật ra họ cũng không muốn bị tước hết tài nguyên nhân vật lực để xây dựng những đền đài Bà La Môn giáo nữa. Nhiều người Chăm đã được thương nhân và giáo sĩ Java đưa sang Ả Rập học đạo. Đạo Hồi được đông đảo người theo và trở thành tôn giáo thứ hai của vương quốc Chiêm Thành, sau đạo Bà La Môn, từ thế kỷ thứ 11 đến thế kỷ 15. Chữ Ả Rập được du nhập vào vương quốc Chiêm Thành cùng với đạo Hồi, nhưng không lấn át được chữ Phạn.  Vị vua theo đạo Hồi được biết đến nhiều nhất là Po Alah (Po Ovlah, Po Âu Loah hay Po Allah), trị vì 36 năm (1000-1036) tại Sri Bini (Qui Nhơn). Po Alah học đạo ở La Mecque 37 năm rồi mới về nước trị vì. Dưới triều vua Po Alah, đạo Bà La Môn và đạo Hồi phát triển rất mạnh, nhiều đền thờ Siva và nhà thờ Hồi giáo được xây dựng tại Amavarati (Mỹ Sơn-Quảng Nam). Đạo Hồi rất thịnh hành tại Thuận Hải (các tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận ngày nay), nhưng cũng biến cải dần theo thời gian, theo phong tục và lối sống của người địa phương, mất dần tính chính thống của đạo Hồi Ả Rập. Đạo Hồi tại Thuận Hải có tên là đạo Bani (Hồi giáo biến cải), người Chăm theo đạo Bani được gọi là Chăm Bani để phân biệt với người Chăm theo đạo Hồi chính thống, gọi là Chăm Islam. 3/5 người Chăm tại Thuận Hải theo đạo Bà La Môn, 2/5 còn lại theo đạo Bani. Tuy vậy tại Thuận Hải cũng có ba làng Chăm Islam (2 ở Văn Lâm và 1 ở Phước Nhơn, huyện Ninh Phước, chiếm tỷ lệ 30% so với người theo đạo Bani).  Về sau, khi bị áp bức và chiến tranh đe dọa, một mảng lớn giáo dân theo đạo Bà La Môn và đạo Hồi chạy sang Chân Lạp và Java sinh sống. Khi định cư tại Chân Lạp, người Chăm bị nhóm Hồi giáo Mã Lai đồng hóa, cộng đồng Chăm và Mã Lai tại đây được gọi chung là Khmer Islam. Tại Chân Lạp sau một thời gian xung đột chính trị và tôn giáo với người Khmer (theo đạo Bà La Môn và Phật giáo Tiểu Thừa), một số người Chăm đã chạy về Châu Đốc lập nghiệp, đa số là thành phần tu sĩ, trí thức, nông dân và thương nhân. Người Chăm tại đây học kinh Coran viết bằng chữ ẢRập. Được những thương nhân ẢRập di cư truyền cho cách thức buôn bán, người Khmer Islam và Chăm Islam rất giỏi buôn bán.  Tại miền Trung, các thầy Char (Po Char) của người Chăm Bani thay mặt giáo dân giữ đạo. Tín đồ Bani chỉ giữ đạo vào mùa chay (ramadan) mà thôi, không nhất thiết phải cầu kinh 5 lần một ngày hay ăn chay trường. Ngược lại người Chăm theo đạo Hồi tại Châu Đốc giữ đạo đúng theo luật của Hồi giáo chính thống: tín đồ đều hướng về La Mecque 5 lần trong ngày để cầu nguyện, họ rất kiêng cử trong việc ăn uống và rất khắt khe trong việc lập gia đình.  Truyền thuyết về các dòng vương tôn  Theo truyền thuyết, các dòng vương tôn cầm quyền t
0 Rating 433 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On December 20, 2016
ĐỔNG THÀNH DANH Tóm tắt: Bài viết này muốn gây sự chú ý đến một thời kỳ lịch sử ít được biết đến của vương quốc Champa, từ sau thế kỷ thứ XVI, tức là sau sự sụp đổ của Vijaya. Mà trọng tâm của của nó là tìm hiểu và phân tích về những chuyển biến quan trọng của Champa trong giai đoạn này dẫn đến một thời kỳ được gọi là bản địa hóa trong tiến trình lịch sử sử của vương quốc ấy. Trong đó, tác giả giành sự quan tâm vào các yếu tố bản đại hóa trên nhiều khía cạnh như tín ngưỡng – tôn giáo, chính trị – xã hội, văn hóa – văn minh. Hầu từ đó có thể phần nào làm sáng tỏ một giai đoạn lịch sử của Champa trong thời kỳ hậu vương quốc. Từ khóa: Champa, lịch sử, thời kỳ hậu kỳ, yếu tố bản địa, bản địa hóa. Đặt vấn đề Thế kỷ thứ XV (cụ thể là năm 1471) là một cột mốc quan trọng của lịch sử Champa nói riêng và lịch sử các nước ở Đông Nam Á nói chung. Đây là thời điểm đánh dấu sự cáo chung của nển văn minh Ấn giáo ở Champa, để chuyển sang một nền văn minh mới, mang nhiều yếu tố bản địa, pha trộn với nền văn minh Hồi giáo, được du nhập từ Mã Lai, bên cạnh đó là sự tồn tại của một ít tàn dư Ấn Độ giáo. Sự hình thành nền văn minh mới ở Champa trong giai đoạn này, biểu hiện trên những sự biến đổi về ý thức hệ, niềm tin, hệ thống giáo lý và tổ chức tín ngưỡng – tôn giáo, cách thức vận hành và cấu trúc của các thiết chế chính trị – xã hội, kéo theo đó là những thay đổi về văn hóa, nghệ thuật, phong tục, tập quán… của vương quốc Champa. Hệ quả của những sự thay đổi này ngày nay còn tồn tại và thể hiện rõ nét qua tổ chức tôn giáo, xã hội, văn hóa, phong tục của cộng đồng người Chăm ở miền Trung Việt Nam, vốn là thần dân của vương quốc Champa trước đây. Dựa vào các văn bản cổ viết bằng Akhar thrah (tiếng Chăm hiện đại hay phổ thông), mà ngày nay còn lưu giữ các bản chép tay trong giới chức sắc và một số hộ gia đình người Chăm ở Ninh – Bình Thuận, từ cuối thế kỷ XX, các nhà khoa học như P.Y. Manguin, Po Dharma, P-B. Lafont[1]… đã phát hiện ra sự tồn tại của một nền văn minh mới ở miền Nam Champa sau thế kỷ XV, mà Lafont gọi nền văn minh này là một nước “Champa mới”[2]. Tuy nhiên, những công trình này mới dừng lại việc phát hiện và tìm ra nền văn minh này, mà chưa đi sâu vào công việc phục dựng, hay tái hiện quá trình bản địa hóa ấy, cũng như miêu tả chi tiết những đặc trưng, biểu hiện khác biệt của nền văn minh mới này so với nền văn minh Ấn giáo trước đó. Chính đó, là lý do mà chúng tôi thực hiện bài viết này, với mục đích đóng góp thêm và làm rõ về quá trình hình thành nền văn minh mới ở Champa sau thế kỷ XV. Dù vậy, những công trình đã kể trên, của các học giả đi trước, sẽ là một nguồn tham khảo bổ ích cho chúng tôi khi thực hiện bài viết này. Cũng cần nói thêm, trong quá trình hình thành của nền văn minh mới này, một mặt là sự suy tàn của nền văn minh Ấn giáo, mặt khác là sự du nhập của nền văn minh Hồi giáo vào đất nước Champa, nhưng trong quá trình đó, giới tinh hoa (các tầng lớp đứng đầu) của vương quốc Champa không tiếp nhận niềm tin, hệ thống tổ chức của Hồi giáo một cách thụ động, mà tiếp biến, sáng tạo nó cho phù hợp với các đặc tính bản địa. Do đó, trong giai đoạn này, quá trình bản địa hóa mới là diễn trình chủ đạo, góp phần tạo nên “hình thù” đầy đủ của nền văn minh mới ở Champa, sau thế kỷ XV. Chính vì thế, mà chúng tôi chọn tựa đề và chủ đề chính của bài viết là quá trình bản địa hóa, thay vì Hồi giáo hóa hay Mã Lai hóa. Bối cảnh lịch sử Từ thế kỷ thứ XIII, vương quốc Champa bước vào thời kỳ suy yếu và khủng hoảng, những cuộc xung đột liên tục giữa Champa với các nước làng giềng như Khmer, Trung Quốc (nhà Nguyên), Đại Việt, cũng như các cuộc xung đột nội bộ giữa chính quyền liên bang ở Vijaya (phía Bắc) với tiểu quốc Panduranga ở phía Nam… ngày càng làm cho thực lực của vương quốc trở nên yếu nhược. Thêm vào đó, sự xâm nhập và thống trị của Hồi giáo ở Ấn Độ, rồi sau đó là khu vực Đông Nam Á cũng làm cho niềm tin của những người lãnh đạo Champa ngày càng phai nhạt đối với nền văn minh Ấn giáo, một nền văn minh mà họ đã vay mượn từ triết lý, tổ chức tôn giáo, cách thức tổ chức, điều hành các hoạt động chính trị – xã hội cho đến ngôn ngữ, nghệ thuật… từ khi mới lập quốc đến nay (thế kỷ II). Chỉ dấu cho sự suy tàn của nền văn minh Ấn giáo tại Champa trong thời gian này chính là sự suy tàn của nghệ thuật Champa, mang ảnh hưởng Ấn Độ, sự ít dần của những công trình bằng gạch được xây dựng để thờ cúng thần Shiva, mà trong suốt hàng ngàn năm là biểu hiện sự sùng tín của nhà vua và giới quý tộc với Thượng đế của mình. Mặt khác, sự suy tàn của văn minh Ấn giáo cũng thể hiện qua sự suy tàn của văn hóa Phạn ngữ, các bia ký Phạn ngữ cuối cùng được tìm thấy ở miền Bắc Champa có niên đại vào khoảng thế kỷ thứ XIII và ở Biên Hòa khoảng thế kỷ XV[3], cho thấy ảnh hưởng của Phạn ngữ đã không được duy trì ở Champa phổ biến như trước đây nữa… Những điều đó cũng cho thấy sự phai nhạt và khủng hoảng về niềm tin của giai cấp lãnh đạo với giáo lý Ấn Độ giáo hay Phật giáo Đại thừa. Bước sang thế kỷ XV, một biến cố chính trị vô cùng quan trọng dẫn đến sự cáo chung của nền văn minh Ấn giáo ở Champa. Năm 1471, kinh đô Vijaya và toàn bộ phần lãnh thổ phía Bắc Champa (ranh giới đến đào Cù Mông ngày nay) thất thủ, bởi cuộc chinh phạt của vua Đại Việt, Lê Thánh Tông. Sau sự kiện này, trung tâm chính trị của vương quốc Champa chuyển về phía Nam ở tiểu quốc Panduranga, nơi mà một hàng tướng của Champa là Bồ Trì Trì lên làm vua của vương quốc[4]. Cũng từ đây, những nhà lãnh đạo mới của Champa hoàn toàn đánh mất niềm tin của mình vào Ấn Độ giáo, một cuộc khủng hoảng sâu sắc về ý thức hệ, cách thức tổ chức và vận hành các thiết chế chính trị, xã hội… Đòi hỏi giới tinh hoa phải đi tìm một hướng đi mới, một ý thức hệ tôn giáo, một thiết chế chính trị – xã hội mới để tiếp tục duy trì sự tồn tại của quốc gia. Trong bối cảnh ấy, từ phía Bắc, Champa luôn phải chịu áp lực từ Đại Việt (một mẫu hình của văn minh Trung Hoa) hoàn toàn xa lạ với triết lý tôn giáo và tổ chức chính trị – xã hội của Champa. Trong khi ở phía Nam đế chế Khmer đã suy tàn, đang phải chịu áp lực từ Xiêm La và Đại Việt (Đàng Trong) không thể là đồng minh để Champa tìm chổ dựa. Champa chỉ còn cách hướng ra biển, nơi những đế chế Hồi giáo đang hình thành ở Đông Nam Á hải đảo, và chính từ thời điểm này Champa bắt đầu tiếp thu văn minh Hồi giáo, thông qua các tiểu quốc ở Mã Lai, nhưng trên hết vẫn là sự quay về với những yếu tố bản địa, để tạo một nền văn minh mới là sự pha trộn giữa các đặc tính nội tại với các đặc tính ngoại lai. Có những bằng chứng lịch sử cho thấy, từ sau thế kỷ thứ XV, Champa đã có mối liên hệ thường xuyên và rất mật thiết với các quốc gia Hồi giáo ở vùng hải đảo như Kelantan, Johor, Malayu… Theo đó, vào thế kỷ thứ XV, vua Champa là Po Kabrah có đến viếng thăm Malayu[5], trong thế kỷ XVI, vua Champa còn gửi quân giúp đỡ một vị Sultan chống quân Bồ Đầu Nha[6], hay trong thế kỷ XVII, Champa vẫn còn liên hệ thường xuyên với tiểu quốc Johor[7]. Điều đó giải thích tại sao trong thời kỳ này, các thương thuyền Champa thường có mặt ở tiểu quốc Pattani (Bắc Mã Lai), Johor, mà các nhật trình phương Tây thường nhắc đến, ngược lại, các thuyền thương của Nam Dương (Inđônêxia) và Mã Lai cũng có mặt thường xuyên ở các cảng Malithit (Phan Thiết), Parik (Phan Rí), Kam-ran (Cam Ranh)… của Champa[8]. Cũng vào thế kỷ XVII, đặc biệt vào thời Po Rome (1627 – 1651), các văn bản Chăm như damnay Po Rome, damnay Po Tang Ahaok, damnasy Po Rayak (tiểu sử vua Po Rome, Po Tang Ahaok, Po Rayak)…ghi nhận các sự kiện quan trọng như sự kiện vua Po Rome sang viếng thăm Kelantan, kết hôn với công chúa Malai và học đạo Islam, ngoài ra Po Tang Ahaok, Po Rayak cũng được cử sang Mã Lai để học về tôn giáo, bùa phép, quân sự… Bên cạnh đó, cũng trong thời điểm này, thông qua các biên niên sử hoàng gia, các gia phả hoàng tộc ở Mã Lai như Hikayat Seri Kelentan (gia phả dòng họ tiểu vương Kelentan), Riwayat Kelentan Sejarah Melayu (lịch sử Malayu)… ghi nhận rằng nhiều vị tướng Mã Lai cũng đến Champa như Ungku Omar, Abdul Hmid, tại đây, họ đã dạy giáo lý Hồi giáo cho dân chúng địa phương[9]… Chính trong bối cảnh này, Champa đã hấp thụ các yếu tố của tư tưởng Hồi giáo và văn hóa Mã Lai để tổ chức và xây dựng lại các hệ thống tôn giáo, chính trị – xã hội và văn hóa – văn minh của đất nước. Vì lẽ đó, thế kỷ XV – XVI và nhất là thế kỷ XVII chính là thời kỳ tìm kiếm, định hình và hoàn thiện các sắc thái của nền văn minh Champa “mới”, một nền văn minh dù ảnh hưởng Hồi giáo, duy trì chút ít tàn dư Ấn giáo, nhưng trên toàn cảnh và nổi bật vẫn là sự quay về với các đặc tính địa phương trên mọi bình diện, hầu tạo nên một nền văn minh bản địa. Bản địa hóa trong tổ chức và thực hành tín ngưỡng – tôn giáo Thông qua những mối quan hệ với các tiểu quốc ở hải đảo, Champa đã tiếp thu và tiếp biến đạo Hồi, cũng như tôn giáo Mã Lai để thay thế cho Hindu giáo và Phật giáo Đại thừa. Trong quá trình ấy, giai cấp cầm quyền đã khéo léo dung hòa, kết hợp giữa những tàn dư Ấn giáo và các yếu tố Hồi giáo mới du nhập, đồng thời “phủ lên” các tôn giáo này nhiều đặc tính bản địa, khiến cho Ấn giáo không còn nhiều dấu vết Ấn Độ, Hồi giáo không còn nhiều dấu ấn Mã Lai, mà mang những đặc trưng riêng có. Trước thế kỷ thứ XV, Champa là một quốc gia theo Hindu giáo và Phật giáo Đại thừa, với một loạt những công trình thờ thần Shiva ở Mỹ Sơn hay thờ Phật ở Đồng Dương. Thế nhưng, những tôn giáo này chỉ được phổ biến trong hoàng gia và giới quý tộc, đại bộ phận dân chúng vẫn duy trì các tín ngưỡng bản địa, những yếu tố Ấn giáo chỉ được tiếp thu một cách hạn chế trong giới bình dân. Khi Hồi giáo mới được du nhập và tiếp thu ở Champa, tôn giáo này đã tạo nên những xung đột giữa hai tín ngưỡng, tôn giáo mới với cũ mà văn chương Chăm thường ghi nhận như sử thi Um Mưrup hay trường ca Bini – Cam (Nai Mai Mang Makah), Cam – Bini…[10] Chính từ đây, để tránh tạo nên những xung đột lớn giữa hai cộng đồng tôn giáo, các vị lãnh đạo của Champa, nhất là vua Po Rome (1627 – 1651) đã kết hợp hai tôn giáo này với nhau, đồng thời đưa những yếu tố bản địa vào trong cách thức tổ chức, thực hành văn hóa tâm linh, cũng như nâng những yếu tố này trở thành chủ đạo để hình thành nên hai cộng đồng Chăm Ahier (Chăm ảnh hưởng Bàlamôn giáo) và Awal (Chăm ảnh hưởng Hồi giáo), dù đối lập nhưng luôn thống nhất với nhau trong đời sống tín ngưỡng, tôn giáo Chăm. Thông qua sự sáng tạo và kết hợp này, người Champa đã tạo nên những cộng đồng Chăm theo Ấn giáo và Hồi giáo nhưng đã bị bản địa hóa thành một tôn giáo địa phương chỉ mang ít yếu tố chính thống, mà vẫn duy trì các tín ngưỡng bản địa như tục thờ đa thần (trong dó có thồ vật tổ, vạn vật và thần địa phương), thờ cúng ông bà tổ tiên, thực hiện các lễ nghi mang tính nông nghiệp… Đặc biệt là sự kết hợp giữa Ahier và Awal, dù đối lập nhưng vẫn thống nhất, luôn tồn tại trong sự phụ thuộc lẫn nhau, biểu hiện qua sự phân công và phối hợp trong việc thực hiện các lễ tục của cả cộng đồng[11]… Dấu ấn bản địa, được biểu hiện trong tín ngưỡng thờ đa thần, thông qua hệ thống thần linh của người Champa sau thế kỷ XV. Nếu như trước thế kỷ XV, ở Champa chỉ tôn thờ các vị thần Ấn giáo, mà nổi bật là thần Shiva, với vai trò như Thượng đế duy nhất, thì sau thế kỷ XV, hình ảnh của thần Shiva bị phai nhạt, ý niệm về một Thượng đế duy nhất cũng không còn. Mặt khác, dù tiếp nhận Hồi giáo, nhưng người Champa không xem Allah (mà họ gọi là Po Awloah) như một Thượng đế duy nhất, thay vào đó là một hệ thống đa thần giáo, mà Po Awloah chỉ là một vị thần đứng đầu… Trong hệ thống này, họ không tôn sùng riêng lẽ bất cứ một vị thần nào như Shiva trong Ấn giáo hay Allah trong Hồi giáo, mà tôn thờ nhiều vị thần, trong đó có các thần linh mà nguồn gốc từ Hồi giáo như Po Awloah (Allah), Po Nưbi Mohamad (thiên sứ Mohamad) cũng như những vị vua, tướng có công được thần thánh hóa, thần đất đai, thần sông, biển, thần canh giữ mương, đập… mà họ gọi chung là Yang. Hệ thống thần linh của Champa cũng được phân ra làm hai nhóm thần linh chính, tướng ứng với thần của Awal và thần của Ahier, lần lược được gọi là yang Biruw (thần linh mới) là những vị thần có nguồn gốc xuất phát từ Mã Lai thường mang yếu tố Hồi Giáo, như Nai Mah Ghang, Nai Tang Ya Bia Tapah, Po Riyak, Po Tang Ahaok, Po Haniimper, Po Baruw, v.v. Yang klak (thần linh cũ) thì có nguồn gốc xuất phát từ văn hoá bản địa pha trộn với tín ngưỡng Ấn Giáo, như Po Rome, Po Binthuer, Po Klaong Garai, Po Ina Nagar, Po Sah, v.v. Ứng với mỗi nhóm thần linh lại có một nơi thờ tự và cách thức thờ cúng khác nhau, nếu như trước đây mọi nghi lễ tôn giáo đều được tổ chức ở tháp, và tháp chỉ là nơi thờ thần Shiva, thì sau này các yang klak cũng được thờ ở tháp, ngoài ra các đền, miếu cũng trở thành nơi thờ tự và thực hiện các nghi lễ cho yang klak, những nghi lễ này do người Ahier phụ trách thực hiện, trong lúc thực hiện các nghi lễ chiếu lễ phải trải úp, đồ lễ phải là món mặn (thịt, trứng, rượu…). Trong khi đó, các yang biruw thì được thờ tự hay dâng lễ trong nhà, hoặc các nhà lễ tạm thời (kajang), do người Chăm Awal thực hiện nhiệm vụ thờ cúng, mâm lễ phải là các món chay (xôi, chè, bánh, trái…). Ngoài ra, để tạo sự gắn kết giữa hai cộng đồng Ahier và Awal, một số các nghi lễ như Rija Nagar (lễ đầu năm), palao sah (lễ cầu đảo)… cả hai cộng đồng phải cùng thực hiện, trong đó cả yang biruw hay yang klak đều được dâng cúng[12]. Về hệ thống chức sắc, nếu như trước đây các nghi lễ tôn giáo trong nước đều do các vị Brahman thực hiện, thì trong thời kỳ bản địa hóa, tầng lớp tu sĩ được gọi chung là Hahlau Janang hay aw koak (áo trắng), để phân biệt với tầng lớp dân thường gọi là Giheh hay aw juk (áo đen). Tầng lớp Hahlau Janang cũng được phân ra làm hai hệ phái chính: Basaih (gồm 5 cấp từ cao đến thấp là Po Adhia – Cả sư ,Ndung akoak, Liah, Pauh, Tapah) các tu sĩ của cộng đồng Chăm Ahier, có nghĩa vụ tổ chức các nghi lễ cho yang klak; Các Po Acar (gồm 5 cấp: Po Gru – Cả sư, Iman, Katip, Madin, Acar), tu sĩ của cộng đồng Chăm Awal, thường thực hiện các nghi lễ cúng yang biruw…Ngoài ra còn có các vị Ka-ing, Maduen, Kadhar…, thực hiện các nghi lễ chung cho cả hai cộng đồng[13]. Bản địa hóa trong cách thức tổ chức chính trị – xã hội Không chỉ bản địa hóa và tiếp thu các yếu tố Hồi giáo trong cách thức tổ chức tín ngưỡng – tôn giáo, trong thời kỳ này, Champa còn đơn giản hóa, dựa vào các giá trị bản địa và vay mượn một số yếu tố từ Mã Lai để tổ chức lại cơ cấu chính trị – xã hội của mình. Trước hết, về chính trị, nếu trước đây nhà vua thường tự thần thánh hóa mình, thường cho mình là đại diện của Thượng đế, hay là hiện thân của thần Shiva, hay nói cách khác là luôn đồng hoá thần quyền với vương quyền để cai trị đất nước, vì thế mà, các vị vua thời Ấn giáo thường tạc tượng đầu mình vào các Linga (Mukhalinga) hay thường đặt cho mình những danh xưng thần thánh mà các bia ký vẫn ghi lại[14]. Thì nay, nhà vua chỉ là một nhà chính trị đơn thuần trong nghĩa rộng của nó, ông lên ngôi và duy trì quyền lực dựa vào tài năng và đức hạnh của mình, hơn là từ một mệnh lệnh hay sự phó thác của đấng vô hình nào đó[15]. Nền chính trị cũng đơn giản hóa và mang tính đại chúng ngày càng phổ biến hơn, trước hết là việc những vị vua hay quan lại, nếu như trước đây phải xuất thân từ giai cấp thống trị, thì nay lại có nguồn gốc bình dân và nhiều khi rất nghèo khổ như vua Po Rome chẳng hạn, những điều này được ghi lại rõ ràng trong tiểu sử cùa các vua, quan của Champa, được viết sau thế kỷ XV[16]. Bên cạnh đó, nếu như trước đây, vua Champa thường sử dụng những người trong gia tộc, đẳng cấp hay bộ tộc của mình (trước đây hai tộc họ vẫn nắm quyền lãnh đạo ở Bắc và Nam Champa là Narikela – thị tộc Dừa và Krammuka – dòng tộc Cau). Nhưng trong giai đoạn này hệ thống cố vấn và quan lại bắt đầu có sự tham dự của mọi giới tầng, mọi tôn giáo (Ahier và Awal), mọi sắc tộc (bên cạnh người Chăm có người Churu, Êđê, Raglai…)[17]. Về tổ chức xã hội, trong thời kỳ Ấn Hóa, cơ cấu xã hội của Champa có nhiều yếu tố tương đồng với Ấn Độ. Trong đó, xã hội chia ra làm bốn đẳng cấp (theo quy luật cha truyền con nối) cao quý nhất là Brahman (tu sĩ Bàlamôn), sau đến ksatriya (thượng lưu quý tộc, những người lãnh đạo quốc gia), vaisya (nông dân, những người buôn bán…), sudra (có thể là nô lệ?)[18]. Nhưng từ sau thế kỷ XV, chế độ đẳng cấp của Ấn Độ cũng tan rã, kéo theo đó là sự xuất hiện chế độ giai cấp, với hai tầng lớp chính là thar patao bamao mah, bao gồm vua chúa, quan lại, quý tộc và người thân của họ, thứ hai là bal li-ua hua hawei, bao gồm nông dân, những người buôn bán và cuối cùng là các người làm công hay nô lệ được gọi là halun. Ngoài ra, khác với chế độ đẳng cấp trước đây, các giai cấp này có tính chất mở, không còn vai trò thế tập, một người có thể từ giai cấp thấp vươn lên giai cấp trên nếu có thể[19]. Cũng trong giai đoạn này, dù tiếp thu các quan niệm của Hồi giáo, nhưng chế độ hôn nhân và gia đình của người Champa vẫn duy trì các đặc tính địa phương, nếu như ở các quốc gia Hồi giáo họ luôn theo phụ hệ, vai trò của người đàn ông trong xã hội luôn được đề cao. Thì ở Champa, dù tiếp thu Hồi giáo, nhưng người ta vẫn thấy sự duy trì truyền thống mẫu hệ trong một số nhóm dân tộc như Chăm, Jarai, Churu, Êđê, Raglai… Theo chế độ này, từ dòng dõi vua, chúa, quan lại, quý tộc đến hạng thứ dân hay nô lệ đều phải tuân thủ quy luật người con gái phải theo tộc họ mẹ, con gái đi cưới chồng và thừa kế tài sản, con trai phải ở rễ nhà vợ, không có tài sản thừa kế… Ngày nay, người Chăm, dù là Ahier hay Awal, đều theo chế độ mẫu hệ, mẫu cư, nhưng phụ quyền, tức là trong gia đình, tộc họ thì phụ nữ nắm quyền, trong công tác chính trị, hoạt động xã hội thì đàn ông đảm trách. Bản địa hóa trong các lĩnh vực văn hóa, văn minh Ngoài việc bản địa hóa và tiếp thu một số yếu tố Hồi giáo trong tổ chức tín ngưỡng – tôn giáo, cũng như chính trị – xã hội, từ sau thế kỷ XV, Champa còn bản địa hóa và hấp thụ từ thế giới hải đảo nhiều giá trị văn hóa, văn minh. Quá trình ấy, đã góp phần tạo ra những giá trị tinh thần mới của Champa, từ các giá trị về ngôn ngữ, văn chương, nghệ thuật, đến lịch pháp… tổng thể những giá trị ấy đã góp phần tạo nên một diện mạo mới của nền văn minh Champa thời kỳ bản địa hóa. Trước hết, khi bước vào thế kỷ thứ XVI, Phạn ngữ và chữ viết Champa cổ điển (được sáng tạo trên cơ sở tiếp thu Phạn ngữ và chứa đựng nhiều điểm gần gủi với chữ viết Ấn Độ) bước vào giai đoạn thoái hóa và mất đi. Thay vào đó, tiếng Chăm phổ thông (akhar thrah) xuất hiện, mà những ghi chép đầu tiên của nó được khắc lên bia ký ở tháp Po Rome (Ninh Thuận). Hệ chữ viết này, một mặt thừa hưởng các quy luật của chữ Chăm cổ điển, mặt khác lại hấp thụ một số từ vựng gốc Mã Lai, để tạo nên những nét đặc thù của mình. Đặc điểm của hệ thống chữ viết này là có nhiều nét đơn giản, dể nhận biết, dễ tiếp cận hơn chữ Phạn và chữ Chăm cổ điển, vì vậy nó nhanh chóng được hoàn thiện, thống nhất và cố định, để rồi kể từ thế kỷ XVII, trở thành chữ viết chính thức được sử dụng trong mọi lĩnh vực hành chính, văn học, tôn giáo[20]… Cùng với sự thay đổi về chữ viết, là sự biến đổi về cách thức lưu giữ và truyền tải hệ thống văn tự mới này. Trước thế kỷ XV, khi Phạn ngữ và chữ viết Chăm cổ điển còn thịnh hành, loại chữ này thường được khắc hay viết lên các bia đá rải rác ở miền Trung. Từ thế kỷ XVI, cùng với sự xuất hiện của akhar thrah, ngoài bia ký Po Rome, việc viết chữ lên lá buông hay sau này là giấy trở nên phổ biến để thay thế cho chữ được viết trê
0 Rating 700 views 1 like 0 Comments
Read more
By: On December 13, 2016
  Ở Quảng Nam, có một làng gần như 100% là người gốc Chăm. Đó là làng Đồng Dương nằm trên địa bàn xã Bình Định, huyện Thăng Bình. Từ thời xa xưa, trong cộng đồng người Chăm Đồng Dương đã lưu truyền truyền thuyết khá hấp dẫn và lý thú về nguồn gốc của làng Chăm độc nhất ở Quảng Nam này! Những di tích còn sót lại của người Chăm ở xứ Quảng. Truyền thuyết thuật lại rằng thời xa xưa, không biết vì lý do gì giữa hai nước Chiêm và Việt nổ ra chiến tranh. Vua Việt tiến đánh quân Chiêm ở tận Đồng Dương. Ở vào thế chống đỡ, không còn cách nào khác, tướng Chiêm mới huy động cả thảy tám mươi con ngựa chiến. Đuôi ngựa được cột thêm vào một tàu lá cau. Bốn chân cột thêm bốn cái lục lạc. Khi hai bên lâm trận, mùa tháng Sáu, trời nắng chang chang nên khói bụi bay mù trời. Rồi lục lạc cũng huyên náo. Sau ba ngày ba đêm, thấy khó có thể cầm cự, quân Chiêm phải kéo cờ trắng đầu hàng. Đặc biệt, trong đám hàng binh, vua Việt phát hiện có một nàng công chúa xinh đẹp. Ngài bèn bắt về để làm vợ cho một vị hoàng tử. Nhưng, ngài hoàn toàn không biết nàng công chúa này đã có thai. Tương truyền rằng vì thế cho nên mới có dòng họ Trà nối nghiệp ở Đồng Dương bây giờ. Người ta kể rằng, sau đó, công chúa về Nghệ An làm vợ hoàng tử và sinh ra một đứa con trai. Tất nhiên, đó là một người Chiêm. "Chim có tổ người có tông", lớn lên, có lẽ do mẹ là công chúa Chiêm cho biết nguồn gốc nên người con mới lần vào Điện Bàn, coi như tìm về quê cha đất tổ. Đầu tiên, ông đến làng La Huân, nay thuộc xã Điện Thọ. Nghề nghiệp chính của ông là làm thầy... phù thuỷ. Tức pháp sư. Tên nôm na của pháp sư là ông Hai Lánh. Đã là pháp sư, dĩ nhiên, theo truyền thuyết ông rất giỏi pháp thuật, có thể kêu mây gọi gió. Làng La Huân bấy giờ nghèo lắm. Dân nghèo nên không có tiền đóng góp. Tất nhiên, đình làng chỉ là đình tranh. Mỗi năm có chuyện họp hội, làm lễ ở đình làng, người dân thường kêu ca về sự nghèo khó, khốn khổ của mình, rằng "Khổ quá, coi cái làng La Qua bên cạnh, họ giàu, đình là đình ngói. Còn mình chỉ đình tranh. Trời mưa gặp cúng lễ thì biết tránh mô cho khỏi ướt". Cứ mỗi lần có chuyện cúng, ông Hai Lánh thường nghe bà con than thở. Thấy vậy, ông mới buột miệng nói "Muốn có đình ngói thì ta đổi đình ngói". Tưởng nói chơi, hoá ra ông lại làm thật. Tối hôm ấy, ông lấy đậu xanh ngâm cho ra mộng. Mộng từ hạt nứt ra, nên còn gọi là cựa. Đến tối, ông đứng trước bàn thờ, khói hương nghi ngút, mới lầm rầm trong miệng làm phép. Tức thì, bao nhiêu hạt đậu đều biến thành âm binh. Ông bèn sai âm binh đi khiêng đình tranh La Huân sang làng La Qua để đổi đình ngói La Qua. Mọi việc diễn ra gần như hoàn hảo. Sáng ra, dân hai làng thức dậy, nghe bảo có chuyện lạ ở đình, kéo nhau rần rần đi coi. "Quái, răng lại thế ni?". Ở La Huân, đình tranh trở thành đình ngói còn ở La Qua đình ngói lại biến thành đình tranh. Lý trưởng và các vị chức sắc trong làng tức lắm, mới nhìn kỹ và phát hiện đình tranh có một dây bầu. "Đình ni đích thị là đình của làng La Huân rồi". Họ bèn đi kiện lên trên. Với chứng cứ rành rành, ông Hai Lánh bị vua bắt giam vào ngục. Các nghệ nhân dân gian người Chăm. Ảnh tư liệu. Không biết ông bị giam bao lâu thì đến ngày lễ quốc khánh năm nọ, triều đình cần làm "phường môn", tức cổng ngõ, sao cho đẹp. Biết ông là thầy phù thuỷ có tài, vua bèn sai quân lính lôi ông từ ngục ra, bảo "Nghe nói nhà ngươi có tài, ngươi phải trổ tài để trẫm xem thử". Ông thưa vua xin thắt hai con rồng gọi là "lưỡng long tranh nguyệt". Vua sai người đem lụa để ông thắt. Thoáng chốc, ông đã thắt xong một con rồng rất đẹp. Ông bảo rồng này chưa làm mắt, làm mũi. Vua thấy ông tài quá, bèn cho ông tự do đi lại, không phải giam vào ngục. Nhưng ngay tối hôm đó, ông lẻn ngồi lên lưng con rồng vừa thắt xong, hô biến. Tức thì con rồng biến thành con rồng thật. Rồng bay lên, đưa ông về đất Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam. Đến Bình Trung, ông thả chiếc giày bên trái để báo tin. Rồi ông vào Đồng Dương. Cũng từ đây, ông Hai Lánh bắt đầu cuộc đời lang bạt để trốn tránh sự truy lùng của triều đình. Đặc biệt, khi đến Đồng Dương, ông lấy vợ và sinh ra hai người con đặt tên là Trà Huyền An và Trà Huyền Chơn, tên tục gọi là ông Chóng và ông Đụn. Sau đó, ông tiếp tục đến khu vực Hòn Tàu, nay thuộc địa phận huyện Quế Sơn để gầy dựng sự nghiệp. Không ngờ, ông gặp một con cọp dữ. Thế là ông đánh nhau với cọp. Điều trớ trêu là sức người sức cọp gần như ngang bằng với nhau nên hai bên cứ giằng co. Cọp thua thế hơn, chạy lên Trà Linh. Ông đuổi theo. Lần này, ông đánh đến ba ngày ba đêm. Cọp ra máu nhiều, đâm khát nước, mới mò ra bờ suối để uống một hơi dài rồi chết ngay tại chỗ. Ông Hai Lánh bấy giờ cũng sức cùng lực cạn và chết theo. Dân làng Trà Linh tiếc thương, mới chôn thi thể ông. Từ sự tích này mà hiện nay ở Trà Linh còn hai mả, mả ông Hai Lánh và mả... cọp. Tương truyền, mả ông rất thiêng. Đàn bà, con gái không dám đi ngang. Tuy nhiên, có một điều kỳ lạ là họ Trà dù chiếm hơn 90% dân số toàn thôn, tức trên 130 hộ nhưng trong văn tế cùng tiền hiền làng hồi trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945, những ông này lại đứng sau hai người Kinh có công lập làng. Nguyên văn văn cúng, theo trí nhớ của ông Trà Díu là "... Tiền hiền khai khẩn, hậu hiền khai canh/ Tiền tổ, hậu tổ/ Tiền năng sư bách nhãn, hậu năng sư bách nhãn/ Tiền quế công chi vị, hậu quế công chi vị/ Châu Văn Tuý, Trịnh Khắc Thiệt, Trà tộc, ông Chóng, ông Đụn, Trà Huyền An, Trà Huyền Chơn, các chư tộc phái...". Trong đó, Châu Văn Tuý và Trịnh Khắc Thiệt là hai người đứng đầu đơn lập làng. Càng đặc biệt hơn khi hai ông tiền hiền làng là Châu Văn Tuý và Trịnh Khắc Thiệt đều không có con cháu nối nghiệp. Có thể nói, truyền thuyết nói trên là một trong những truyền thuyết suy nguyên (mythologie étiologique) nhằm suy đoán, giải thích nguồn gốc họ Trà ở làng Đồng Dương hiện nay. Ngay cái tên nhân vật Hai Lánh, thiển nghĩ, đó cũng chỉ là một cách gọi đầy ngụ ý, thể hiện rõ cuộc đời lang bạt của một người có lai lịch đầy bí hiểm mà thôi! Theo news.zing.vn  
0 Rating 538 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On October 27, 2016
Andrew Hardy Nguyễn Thị Hồng Hạnh dịch Tại kinh đô ở Nam Kinh, ngày 25 tháng 7 năm Hồng Vũ thứ tư (1371), hoàng đế nhà Minh của Trung Hoa tiếp nhận một tấu văn cỡ lớn làm bằng vàng lá, trên khắc chữ ngoại quốc. Sau khi dịch, hoàng đế biết rằng những hàng đầu tiên của tấu văn này được đọc như sau: “Hoàng đế Đại Minh đã lên ngôi vỗ yên bốn bể. Bệ hạ như bầu trời và mặt đất bao phủ và chứa đựng muôn loài, như mặt trời và mặt trăng chiếu sáng vạn vật. Sánh với bệ hạ, A-da-a-zhe chỉ như một cọng cỏ. Bệ hạ thương kẻ hạ thần đã sai sứ ban cho thần ấn vàng và sắc phong cho thần làm vua xứ này. Thần rất biết ơn và tự hào, và sẽ như vậy mãi mãi”(1). Tác giả của tấu văn này, A-da-a-zhe, được biết đến trong lịch sử là vua Chămpa Chế Bồng Nga. Trong sắc phong 1 năm trước đó, hoàng đế đã giải thích những nguyên tắc trong mối quan hệ của họ ở tương lai: “Rõ ràng là đứng giữa thiên hạ, vỗ về bên ngoài, ta coi tất cả là như nhau. Ngươi phải chú tâm vào nhiệm vụ bảo vệ biên cương và chăm sóc dân chúng một cách cẩn trọng và nhất quán, mãi duy trì là một chư hầu”. Với tấu văn trên, Chế Bồng Nga bắt đầu việc trao đổi thư từ với hoàng đế, kéo dài trên một phần tư thế kỷ. Đọc chúng trong biên niên sử nhà Minh, chúng ta có thể thấy Chế Bồng Nga ngày càng tăng cường thử độ nhẫn nại của hoàng đế như thế nào qua việc phá vỡ luật lệ đã được giải thích từ những năm đầu của triều đại. Một thế kỷ sau, cũng biên niên sử đó mô tả việc trao đổi thư từ khác thử độ nhẫn nại của hoàng đế, thậm chí còn căng thẳng hơn. Trong trường hợp này, không phải vua Chămpa đã phá vỡ luật lệ mà là hàng xóm của ông ở phía bắc, vua Việt Nam Lê Thánh Tông. Nguyên nhân khiến cho cả hai vị hoàng đế bực tức là những câu chuyện lịch sử nổi tiếng và có một điểm chung: cả hai đều có kết quả là quân đội của nước kia phá hủy kinh đô của một nước. Chế Bồng Nga chiếm Thăng Long trong những năm 1370; Lê Thánh Tông chiếm Vijaya (nay là Đồ Bàn, tỉnh Bình Định) năm 1471. Từ nhãn quan của triều đình Trung Hoa, bài viết này xem xét sâu hơn bối cảnh lịch sử của hai câu chuyện với mục đích đề ra một cuộc tranh luận về sự trường tồn khác thường của Thăng Long trong vai trò là thủ đô chính trị của Việt Nam, điều mà tôi coi là vấn đề quan trọng nhất đối với các nhà sử học nghiên cứu di tích khảo cổ tại 18 Hoàng Diệu. Chế Bồng Nga Trong tấu văn năm 1371, sau phần thăm hỏi được trích dẫn ở trên, Chế Bồng Nga đi thẳng vào vấn đề. Ông kêu rằng Việt Nam “đang sử dụng quân đội tấn công biên cương” và đề nghị giúp đỡ dưới dạng “vũ khí, nhạc cụ và nhạc công”. Hoàng đế đã từ chối can thiệp; với đề nghị về âm nhạc, ông khuyên Chế Bồng Nga chọn người của mình “và gửi họ tới kinh đô để học hỏi”(2). Hai năm sau, hoàng đế thiết triều cùng các quan cận thần quyết định cách xử lý liên quan đến chiến tranh giữa Việt Nam và Chămpa: “Năm trước, An Nam dâng biểu tâu rằng Chămpa đã xâm phạm biên cương. Năm nay, Chămpa hiện quả quyết rằng An Nam đã quấy rối cương vực của mình. Cả hai nước này đều phụng sự triều đình, nhưng ta chưa xác minh được bên nào đúng và bên nào sai. Hãy cử sứ thần tới hai nước này lệnh cho họ chấm dứt chiến tranh và để cho dân chúng nghỉ ngơi”(3). Năm 1377, biên niên sử ghi lại thất bại và cái chết của vua Việt Nam trong cuộc tấn công vào kinh đô Chămpa(4). Hai năm sau đó, hoàng đế vẫn tiếp tục duy trì cách tiếp cận không thiên vị đối với chiến tranh, răn đe Chế Bồng Nga bằng những lời lẽ sau: “Các ngươi phải bảo vệ biên cương và chăm sóc dân chúng. Không được đề cập đến chuyện tranh cãi. Ngươi phải được răn rằng Hoàng thiên có thể hài lòng lẫn không hài lòng”(5). Năm 1380, thái độ căng thẳng của hoàng đế bộc lộ trong chiếu chỉ gửi vua Việt Nam: “Ai đúng ai sai ta không biết. Nếu oán giận không được xoa dịu và thù địch không được hóa giải, điều gì sẽ xảy ra trong tương lai? Nếu ngươi nghe theo lệnh ta, chấm dứt chiến tranh và nuôi dưỡng dân chúng, điều đó sẽ được phản ảnh lên Thiên kính và ngươi rõ ràng sẽ chứng kiến sự thịnh vượng lâu dài. Nếu ngươi không theo lệnh ta và khăng khăng tiếp tục theo cách của mình, ta e rằng nó sẽ giống như đã xảy ra trong thời Xuân Thu và ngươi sẽ mang tai họa đến cho mình”(6). Vài tháng sau, chiếu chỉ của hoàng đế gửi cho Chế Bồng Nga cũng chứa đựng sự răn dạy: “Một số nước rõ ràng có khả năng hành động một cách nhân đức và do đó họ phù hợp với Thiên đạo. Những nước này sao mà không tồn tại lâu dài, con cháu kẻ cai trị sao mà không thịnh vượng? […] Nếu ngươi không làm như vậy và vẫn muốn tiến hành tấn công, năm này qua năm khác sẽ trở thành cuộc chiến tranh cay đắng. Không có cách nào để xác định ai thắng ai bại. Trai cò tranh nhau, ngư ông đắc lợi”(7). Khoảng năm 1388, sự nhẫn nại của hoàng đế bị cạn kiệt. Chế Bồng Nga phái con trai của mình tới Nam Kinh với một thái độ kính trọng, đồng thời ra lệnh cho người đóng giả cướp biển để trộm đồ cống nạp cho thiên triều trên đường đến từ Campuchia. Hoàng đế hỏi: “Sao ngươi đứng đầu một nước vẫn có thể xúc phạm tàn bạo đối với Thiên tử?”(8). Sứ thần Chămpa sau đó “đã dâng cống sản phẩm địa phương để thú tội”(9). Tiếp theo, chúng ta thấy Chămpa trong biên niên sử ở mục ngày 2 tháng 12 năm 1391: Quốc sư Tao-bao Jia-zhi được phái đến từ nước Chămpa đã trình biểu chương bằng vàng và dâng cống sừng tê, nô lệ và vải vóc. Hoàng đế nói với Thượng thư Bộ Lễ rằng: “Tất cả những vật này là đồ cướp bóc. Chúng sẽ không được thu nhận!”. Trước đó, Thái sư Chămpa là Ge-sheng đã giết vua và tự lập mình làm vua. Vì vậy mà hoàng đế ra lệnh từ chối đồ cống nạp(10). Đó là quan điểm về triều đại Chế Bồng Nga từ hoàng cung đế chế Trung Hoa ở Nam Kinh. Lê Quý Đôn đưa ra một nhãn quan thẳng thắn và Việt Nam hơn về những sự kiện trong chiến dịch quân sự đầu tiên của Chế Bồng Nga: Năm Thiệu Khánh thứ 10, vua Trần Nghệ Tông (năm Tân Hợi) [tức 1371 sau CN.], tháng 3 nhuận, người nước Chiêm Thành vào cướp phá nước ta. Thuyền họ vào cửa biển Đại An [thuộc địa phận tỉnh Nam Định], rồi thẳng đến xâm phạm Kinh kỳ, đốt phá, cướp bóc rồi trở về(11). Các sự kiện vào cuối những năm 1370 và đầu những năm 1380 được tóm tắt lại như sau: Trần Phế Đế (1377 – 1388) lên ngôi thay Duệ Tông. Chỉ 6 tháng sau khi Duệ Tông tử trận, quân Chiêm “vào cửa Thần Phù (Yên Mô, Ninh Bình) rồi lên cướp phá kinh thành Thăng Long”. Không ai chống giữ được. Năm 1378, quân Chiêm lại sang đánh Nghệ An rồi ngược sông Hồng lên đánh phá Thăng Long. Từ năm ấy đến 1383, nhiều trận giằng co Chiêm – Việt trên đất Nghệ An – Hà Tĩnh. Giữa năm 1383, Chế Bồng Nga lại đem quân đánh phá Thăng Long, vua ra vào Việt Nam như đi vào chỗ không người, chỉ trong mấy năm đến phá kinh đô 3 lần, làm cho vua tôi phải kinh hoàng”(12). Lê Quý Đôn cung cấp một phiên bản súc tích về kết thúc ngoạn mục của triều đại Chế Bồng Nga. Năm 1390, khi cua Chămpa bị giết trên chiến trường trong lần cuối của hàng loạt các cuộc tấn công vào kinh đô Việt Nam: “Chế Bồng Nga bị tướng Trần Khắc Chân đánh phá và bị đại bại, chết ở sông Hải Triều. Còn bao nhiêu quân lính đều trở về nước họ”(13). Đọc điều này, chúng ta không ngạc nhiên về lời lẽ bực dọc của hoàng đế Trung Hoa trong những chiếu thư khác nhau gửi Chế Bồng Nga và các vua nhà Trần của Việt Nam. Trong các cuộc chiến tranh chiếm phần lớn thời gian của hai thập kỷ, kinh đô Việt Nam đã bị phá hủy nhiều lần, một vua Việt Nam bị giết tại cổng kinh đô Chămpa, và cuối cùng là vua Chămpa bị giết tại cổng của kinh đô Việt Nam. Vài năm sau đó, từ hậu quả không trực tiếp của những sự kiện này, Việt Nam học được sự thật cay đắng trong thành ngữ của hoàng đế về “trai và cò”. Nhà Trần nhanh chóng kết thúc và ít lâu sau, “ngư ông” triều Minh thiết lập sự cai trị trên toàn cõi Việt Nam. Lê Thánh Tông Biên niên sử ghi lại rằng ngày 15 tháng 6 năm 1471 – đúng một trăm năm sau khi việc trao đổi thư từ với Chế Bồng Nga bắt đầu – hoàng đế Trung Hoa tiếp nhận sứ thần từ vua Việt Nam là Lê Thánh Tông, được biết dưới cái tên Lê Hạo. Thông điệp của vua rất thẳng thắn: “Nước của thần rất gần với Chămpa và trong một thời gian dài, chúng thần bị nước này tấn công và hăm dọa. (…) Thần muốn tập hợp binh lính để chiến đấu, nhưng sợ rằng điều này sẽ vi phạm chỉ dụ của Thiên triều. Thần cũng muốn nhẫn nại chịu đựng sự đau khổ (…). Trong tình thế tiến thoái lưỡng nan, thần quyết định nhẫn nại và gửi sứ kèm theo tới triều đình để kiến nghị điều này”. Tại kinh đô Trung Hoa, Thượng thư Bộ Binh không tin một câu nào trong thông điệp đó, tâu với hoàng đế rằng Lê Hạo “tham lam vô độ và trong khi ngấm ngầm lên kế hoạch xâm chiếm lãnh thổ, hắn công khai kiến nghị yêu cầu này”. Hoàng đế viết răn đe vua Việt Nam: “Sao ngươi có thể kích động sự thù hằn, tăng cường quân đội và tham gia tấn công chống lại nhau và dành toàn bộ thời gian để khiển trách người đáng kính. […] Người phải rất, rất cẩn trọng”(14). Một năm sau, biên niên sử ghi lại thông điệp được sứ thần chămpa mang tới triều đình Trung Hoa: “Trong tháng hai năm Thành Hóa thứ bảy (tháng 2-3 năm 1471), quân đội An Nam đã tới và tấn công kinh đô của chúng thần, bắt nhà vua Bàn La Trà Toàn và gia quyến đem đi, tổng cộng hơn 50 người. Họ còn thu giữ ấn, đốt nhà cửa, giết hoặc đem đi vô số binh lính và dân thường, cả đàn ông lẫn đàn bà. Hiện nay, em trai của nhà vua Bàn La Trà Toại tạm thời nắm giữ việc quản lý các công việc của đất nước và khiêm nhường đón đợi sắc phong”. Biểu chương này được gửi tới Bộ Binh. Thượng thư Bộ Binh Bai Gui và những người khác tâu rằng: “Vào năm Thành Hóa thứ bảy (1471-72), An Nam tâu rằng Chămpa đã vượt biên giới tấn công họ, và yêu cầu triều đình rủ lòng thương bằng cách kiểm soát sự áp bức. Khi đó chúng thần cảm thấy rằng Lê Hạo đã ngấm ngầm lên kế hoạch xâm chiếm lãnh thổ nhưng lại công khai tâu rằng hắn bị tấn công. Nay hắn đã tàn phá đất nước đó và đem vua của họ đi. Nếu hắn không bị trừng phạt, không chỉ Chămpa sẽ đánh mất lòng trung thành với Trung Hoa mà nó còn có thể khiến An Nam trở thành ngoan cố. Chúng ta cần phái người mang lệnh dụ của triều đình đến cho Hạo, đòi hắn trả vua, gia quyến và ấn tín mà họ đã cướp cho Chămpa, để hành động của hắn không gây nên thảm họa quân sự”. Lệnh của triều đình ban rằng: “Không cần phải phái người tới An Nam. Hãy đợi khi sứ thần từ An Nam đến và ban lệnh của triều đình cho hắn”(15). Vài tháng sau đó, khi sứ thần của Lê Thánh Tông đến, hoàng đế khẳng định mô tả của Việt Nam và Chămpa về các sự kiện là rất “mâu thuẫn”, dụ rằng nhà vua phải ứng xử một cách chính trực và “ngày càng tôn trọng các chuẩn mực đạo đức”(16). Tuy nhiên vào năm 1475, sứ thần Trung Hoa tới triều đình Chămpa, khi đến cảng đã bị từ chối không cho vào và phát hiện ra rằng “toàn bộ gia đình cua Chămpa đã bị An Nam đem đi và lãnh thổ Chămpa đã được đổi tên là thừa tuyên Quảng Nam”(17). Trường nhiều năm, Lê Thánh Tông tiếp tục gửi các tấu biểu không chính xác tới hoàng đế; hoàng đế tiếp tục khuyên ông “tự sửa mình” (18), cho tới ngày hoàng đế nhận được văn bản sau đây trong năm 1478. “Thủ lĩnh Chămpa Bo-long-a-ma trước đây giao hảo với đất nước của chúng thần. Vào năm thứ 11 thời Thành Hóa (1475-1476), hắn thu nhận lực lượng hải thuyền của nước Lưu Cầu bị gió đánh dạt tới đó, sai họ xâm chiếm và cướp bóc. Họ đã bị lính sơn phòng của chúng thần đánh bại. Sứ thần họ Lý nay vừa từ Thiên triều trở về và thần kính cẩn nhận chỉ dụ của triều đình, trách mắng thần đã chiếm đất Chămpa và biến nó thành như quận huyện. Thần phải trình bày nghiêm túc thực tế một cách chi tiết để chứng tỏ rằng tại sao chúng thần rõ ràng không thể đã làm điều đó. Vùng đất mà Chămpa được phong không có đất đai màu mỡ. Nhà cửa ở đó có vài gia súc và ít lương thực dự trữ, làng quê thiếu dâu và đay, núi non không có vàng và đá quý, trong khi biển thiếu cá và muối. Họ chỉ có ngà voi, sừng tê, gỗ mun. Tuy nhiên, đất nước của chúng thần sản xuất ra những thứ đó nhiều hơn nhiều so với nhu cầu. Làm sao mà chúng thần có thể coi đó là những vật có giá trị? Nếu chúng thần lấy đất của họ, chúng thần không thể sống ở đó; nếu chúng thần lấy người của họ, chúng thần không thể dùng họ; nếu chúng thần lấy hàng hóa của họ, chúng thần sẽ không thể giàu hơn bởi những thứ đó; nếu chúng thần lấy quyền lực của họ, chúng thần sẽ không thể mạnh hơn. Cũng sẽ rất khó khăn cho chúng thần để canh giữ vùng đất này và chúng thần sẽ nhận được rất ít ích lợi từ đó. Sự mất mát sẽ rất lớn và lợi lộc thì ít, tai họa là rõ ràng và danh tiếng giành được là không có. Đó là những lý do khiến chúng thần không chiếm Chămpa và biến nó thành như quận huyện. Nay triều đình lại dụ thần trả đất cho họ, để dòng dõi cai trị không bị tuyệt diệt. Thần kính cẩn cho rằng sứ thần của triều đình do vội vàng khó có thể tiến hành những yêu cầu chi tiết, và người Chămpa, trốn tránh loạn lạc và căm ghét đất nước của chúng thần, đã nói với sứ thần tin tức này. Lời của họ không thể tin được. Thần khiêm nhường mong rằng sứ thần của triều đình sẽ được đặc biệt gửi tới để sắp đặt lãnh thổ và phục hồi dòng họ bị đứt đoạn, để Chămpa được yên bình cả trên lẫn dưới, biên cương đất nước thần được hưởng sự nghỉ ngơi. Chămpa từ đó sẽ là bình phong của Trung Hoa và sự sắp đặt sẽ ích lợi cho các dân tộc xa xôi. Đó là mong ước lớn của thần và thần kính cẩn gửi sứ thần Nguyễn Đức Trinh tới tâu lên điều này”(19). Tiếp theo vài tháng sau là tin tức từ Zhai-ya-ma-wa-an đề nghị sắc phong là vua của Chămpa. Sứ thần của ông tâu lên hoàng đế rằng “Người An Nam đã trả cho thần vùng đất ở biên giới phía nam của nước họ để thần cai quản. Thần đã tái lập đất nước, nhưng e sợ quyền lực của Hoàng thiên, không muốn nhận vương hiệu cho chính mình, đặc biệt phái sứ thần dâng biểu xin sắc phong”. Hoàng đế nhà Minh đồng ý với đề nghị này, chấp nhận thực tế tình trạng mới của Chămpa. Tuy nhiên vào năm 1481, một lần nữa, chúng ta lại thấy ông phản đối Lê Thánh Tông về sự chiếm đoạt của Việt Nam: “Việc này như thể ngươi không biết hay không thấy điều gì đã xảy ra sau khi cha ông ngươi tham gia vào các cuộc tấn công trả thù chống Chămpa” (20). Quan thanh tra của các tỉnh miền Nam Trung Hoa gợi ý phái quân đội triều đình đến chống Lê Thánh Tông để “trừng phạt tội lỗi”: tuy nhiên, quan thanh tra này bị nghi là hành động vì tham vọng cá nhân và sau đó đã bị trừng phạt (21). Vào năm 1481, sự quở trách nặng hơn từ kinh đô Trung Hoa đến Thăng Long: “Trong những năm trước, ngươi kiến nghị rằng tất cả đất đai của Chămpa bị các thủ lĩnh địa phương của nước này tranh giành chia ra và chiếm cứ. Nay xem xét cáo buộc của Gu-lai, rõ ràng là nước của ngươi đã chiếm đất và đẩy họ đi chỗ khác. […] Sao ngươi có thể muốn che đậy sự xấu xa và tỏ vẻ có đạo đức, che giấu tội lỗi của chính mình, ở trên thất bại trong việc duy trì lòng trung thành của một người phụng sự bề trên, ở dưới thất bại trong việc duy trì mối quan hệ tốt với các nước láng giềng. […] Nếu ngươi tiếp tục giả dối và bất lương, răn rằng Thiên đạo mang lại thịnh vượng cho người tốt và tai họa cho kẻ xấu” (22). Răn đe cuối cùng được ban bằng miệng cho sứ thần năm 1490: nếu cương giới không được tôn trọng, “Triều đình sẽ lập tức nổi giận và binh lính Thiên triều sẽ phá hủy lãnh thổ của người giống như những sự kiện trong thời Vĩnh Lạc (1403 – 1424). Liệu ngươi có thể không hối lỗi” (23). Trong khi biên niên sử ghi lại khởi hành của một sứ thần “vô cùng sợ hãi”, không chắc rằng cảm xúc như vậy đã được cảm thấy tại hoàng thành ở Thăng Long khi sứ thần trở về. Hai thập kỷ đã trôi qua kể từ khi kinh đô Chămpa sụp đổ và gần 3 thập kỷ sẽ qua trước khi cái chết của lê Thánh Tông được ghi trong biên niên sử Trung Hoa năm 1498” (24). Tại một thời điểm trong giai đoạn này, biên niên sử ghi lại tuyên bố quan trọng sau đây của hoàng đế: Xem xét An Nam, ta coi nó cũng giống như ngoại quốc. Mỗi khi nó phạm luật hay kháng lệnh, ta khoan dung tha thứ nó. Công khai, chứng tỏ vẻ trung thành và kính trọng, nhưng ngấm ngầm chúng xảo quyệt và khôn lỏi. Tuy nhiên, hành động của chúng không thể che giấu được. Binh pháp có nói: “Không được giả định rằng kẻ địch sẽ không tới. Dựa vào phòng thủ của mình để bảo vệ chống lại chúng” (25). Sự phòng thủ của Trung Hoa được tăng cường thích đáng dọc biên giới phía nam. Nhưng không có đội quân Trung Hoa nào từng có ý định vượt biên giới vào Việt Nam. Thảo luận Vào cuối thế kỷ XIII, kinh đô Việt Nam bị quân đội từ phía nam cướp phá. Cuối thế kỷ XIV, kinh đô này không bị quân đội từ phía bắc cướp phá. Từ cuối thế kỷ XIII đến đầu thế kỷ XIV, kinh đô Việt Nam đã nhiều lần rơi vào tay quân xâm lược nước ngoài. Mặc dù vậy, nó vẫn là kinh đô của đất nước trong nhiều thế kỷ sau. Trái lại, vào cuối thế kỷ XIV, sự sụp đổ của kinh đô Chămpa đã dẫn đến sự chấm dứt của vương quốc Chămpa. Có thể thấy khá rõ về những sự kiện lịch sử khá nổi tiếng. Nhưng chúng ta học được điều gì của Chế Bồng Nga và Lê Thánh Tông, về lịch sử của Thăng Long? Theo quan điểm của tôi, chúng ta có thể vạch hai đường tìm hiểu từ các câu chuyện trên để định hướng suy nghĩ của chúng ta về Thăng Long. Cả hai đều được dẫn dắt bởi một câu hỏi lịch sử quan trọng nêu ra từ di tích khảo cổ tại 18 Hoàng Diệu, Ba Đình, Hà Nội. Câu hỏi này có thể được nêu ra theo hai cách. Thứ nhất, tại sao kinh đô của Việt Nam lại duy trì ở đúng một chỗ trong một giai đoạn dài như vậy? Thứ hai, tại sao kinh đô của Việt Nam lại chuyển vào miền Trung ở cuối giai đoạn này (đến Huế vào đầu thế kỷ XIX)? Giúp chúng ta nghĩ về câu hỏi này, các nhân tố tổ chức hành chính, bối cảnh khu vực và sự phát triển kinh tế – xã hội là rất quan trọng. Thăng Long không thể được hiểu chỉ đơn giản bằng việc nghiên cứu riêng Thăng Long. Bối cảnh mà tôi muốn nêu ra để chúng ta xem xét ở đâu là bối cảnh nổi lên từ mối quan hệ lâu dài giữa Chămpa và Việt Nam. Khác biệt chủ yếu giữa Chế Bồng Nga và Lê Thánh Tông là mục đích tấn công của người này vào kinh đô của người kia. Một mặt, chúng ta không có cứ liệu cho thấy rằng Chế Bồng Nga có ý định chiếm cứ Thăng Long: mục tiêu của ông trước tiên là quân sự, thứ đến là cướp bóc, là giả thuyết có khả năng nhất. Nếu ông thực sự có tham vọng chiếm cứ, ông thiếu mô hình chính trị và cấu trúc hành chính cần thiết để đảm bảo sự lâu bền của lãnh thổ chiếm được. Mặt khác, mục tiêu của Lê Thánh Tông là rõ ràng trong thư từ của ông với hoàng đế Trung Hoa. Chúng ta hãy xem xét đoạn văn sau trong biểu chương của ông năm 1475, nhớ đọc nó với nhận thức về phong cách hoàn toàn không trung thực trong trao đổi thư từ của ông với Thiên triều trên danh nghĩa: “Nếu chúng thần lấy đất của họ, chúng thần không thể sống ở đó; nếu chúng thần lấy người của họ, chúng thần không thể dùng họ; nếu chúng thần lấy hàng hóa của họ, chúng thần sẽ không thể giàu hơn bởi những thứ đó; nếu chúng thần lấy quyền lực của họ, chúng thần sẽ không thể mạnh hơn”. Những tuyên bố này không chính xác – lịch sử đã chứng minh điều đó – vừa dường như vua Việt Nam biết rằng chúng không trung thực. Văn bản này quả thật ẩn chứa giải thích rằng vua Việt Nam bị thúc đẩy bởi ham muốn chiếm đoạt những thứ đắt giá mà ông tỏ ra coi thường: ngà voi, sừng tê, gỗ mun trong hệ thống buôn bán mà nền kinh tế liên quốc thời đó dựa vào. Và ông biết rõ răng trong tay nông dân Việt Nam, ngay cả đất đai bạc màu của Chămpa cũng có thể sản xuất ra lúa gạo. Xét như vậy, ta không thể bỏ qua cấu trúc kinh tế – xã hội tương ứng của Chămpa vận hành một hệ thống kinh tế – xã hội theo hướng đông – tây mang tính dịch chuyển cao qua các địa hình khác nhau, dựa rên buôn bán được thực hiện trên một phạm vi trải dài: điều này cũng cung cấp nền tảng kinh tế cho hệ thống chính trị mang tính liên kết của nó. Hệ thống kinh tế – xã hội Việt Nam kém dịch chuyển hơn, dựa trên nông nghiệp trồng lúa, ủng hộ hệ thống chính trị có cấu trúc trung tâm và phân cấp: định hướng địa lý bắc – nam là một chức năng của khả năng tái tạo mô hình kinh tế và hành chính, thực hiện bởi những cuộc di dân vừa là binh lính vừa là nông dân trên một địa hình duy nhất: vùng đất thấp phù hợp với canh tác ruộng nước. Những cấu trúc đối lập này có các hệ quả sau: sự dịch chuyển và đa dạng của mô hình Chămpa đã tạo nên sự giàu có, được đầu tư vào việc phát triển một loạt các trung tâm cố định mang tính biểu tượng về chính trị (các đô thị lớn, tất nhiên và cả Mỹ Sơn, khu thánh địa của triều đình). Tuy nhiên, mô hình này không đòi hỏi sự mở rộng lãnh thổ thống nhất. Sự không dịch chuyển và thống nhất của mô hình Việt Nam tạo ra ít của cải hơn: không có các đô thị mà là xã hội của các l&a
0 Rating 573 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On October 27, 2016
  Tác giả: Nguyễn Duy Chính MỞ ĐẦU Thanh sơn y cựu tại Kỷ độ tịch dương hồng1 青山依舊 在 幾度夕 陽紅 Núi xanh như cũ còn đây, Chiều buông ráng đỏ đã thay bao lần. Nhìn vào cuộc Nam Tiến của dân tộc Việt Nam, những vương quốc bị xâm lấn không hẳn đã vì kém văn minh, mà trái lại có những thời đại huy hoàng sớm sủa hơn chúng ta nhiều. Những công trình gần đây nghiên cứu về người Chiêm Thành (Chăm) và người Chân Lạp (Khmer) đã chứng tỏ điều đó. Riêng về người Chăm, những di tích của vương quốc này cho thấy họ đã hình thành được một xã hội qui mô khá sớm sủa. Vào thế kỷ 17, 18 khi quốc sử coi như đã đặt một dấu chấm hết cho vương quốc Chiêm Thành thì trong các tài liệu của những nhà nghiên cứu ngoại quốc, người ta vẫn còn ghi nhận một khu vực được coi như giang sơn riêng của người Chăm – ít ra cũng bán độc lập với giang sơn của chúa Nguyễn được gọi là Đàng Trong. Một điều chắc chắn, sự tan biến của quốc gia này không đơn giản chỉ là xoá sổ một chính quyền như nhiều trường hợp trong quá khứ, cũng không phải chỉ là thay tên đổi họ của một triều đại. Tuy ngày nay cái tên Chiêm Thành chỉ còn trong sách vở, ảnh hưởng của văn hoá Champa còn tồn tại hầu như khắp mọi sinh hoạt, hiển hiện cũng có, lẩn khuất cũng có nơi một phần lớn văn hoá miền trung và miền nam. Ảnh hưởng đó ít ai để ý vì trong các nghiên cứu, chúng ta đặt nặng việc khai thác các tài liệu của người Việt (thường gọi là người Kinh) mà ít quan tâm đến văn minh và di sản của các dân tộc khác đã một thời sống chung trên cùng một mảnh đất. Có tác giả cho rằng mặc dầu người Việt đã đồng hoá được nhiều dân tộc khác bằng tiếng nói nhưng ngược lại, trong khía cạnh sinh hoạt và văn hoá chúng ta lại thu nhập khá rộng rãi tập quán của nơi quê hương mới đến cư ngụ, biến đổi cho phù hợp thành tài sản của mình. Gần đây, một số học giả trong nước cũng như ngoài nước đã bắt đầu những khảo sát tương đối khoa học hơn về vương quốc Champa, không chỉ giới hạn vào những công trình mỹ thuật còn tồn tại mà đào sâu vào văn hoá đặc thù của người Chăm để lượng định lại những đóng góp trong hơn 1000 năm lịch sử của họ. LỊCH SỬ Nghiên cứu về Chiêm Thành bị nhiều giới hạn. Tuy đế quốc Champa đã tồn tại trong một thời gian dài để lại nhiều công trình qui mô đáng chú ý nhưng phần lớn đã bị hủy hoại theo thời gian và cả những triệt hạ cố ý của nhiều triều đại người Việt nên ngày nay tài liệu về họ còn rất ít. Tổng hợp những ghi chép trong sử nước ta, Campuchia, Trung Hoa và một số văn bia bằng tiếng Sanskrit còn sót lại chỉ cho chúng ta một khái lược về lịch sử dân tộc Chăm, nhiều thời kỳ bị đứt quãng chưa có câu trả lời thoả đáng. Tuy chưa đầy đủ mọi chi tiết nhưng những công trình nghiên cứu gần đây cũng giúp chúng ta cũng hình dung được phần nào thời oanh liệt của một dân tộc nay chỉ còn là thiểu số trên chính quê hương họ.2 Đế quốc Champa trước nay vẫn được coi là một quốc gia trong khối bị Ấn hóa (Indianized states) ở Nam Á bao gồm một khu vực rộng từ Miến Điện sang Vân Nam dọc xuống Thái Lan, Mã Lai, Indonesia, Java, Cambodia, và Champa. Khu vực đó có nhiều đặc tính chung, về mỹ nghệ cũng như văn học. Nhìn một các tổng quát, ngay cả khu vực miền Bắc Việt Nam thời thái sơ cũng có chung một mẫu số và có lẽ chỉ biến dạng sau khi khu vực này bị sáp nhập vào lãnh thổ Trung Hoa trong hơn 1000 năm và liên tiếp bị pha trộn bởi nhiều đợt di cư của người Hán tràn xuống nảy sinh nhiều xung đột giữa dân bản địa với dân di cư. Trong một thời gian dài, các sắc dân vùng Đông Nam Á liên tục nổi lên chống lại, đáng kể nhất là các dân tộc ở tây và nam Trung Hoa khiến các triều đình đời Hán, Đường phải hao binh tổn tướng rất nhiều. Các dân tộc ở miền nam cũng thường tấn công lên vùng đất mới của Trung Quốc – tức miền Bắc nước ta ngày nay – để giành đất và người Trung Hoa ghi lại như những đám giặc bể “vào cướp pháGiao Chau” được nhắc đến trong sử nước ta thời Bắc thuộc.3 Thời kỳ đó, dọc theo duyên hải Việt Nam có rất nhiều dân tộc khác nhau sinh sống, bao gồm cả những nhóm thiểu số trên một vùng cao nguyên rộng lớn phía tây giáp tới sông Mékong, nên khi tập hợp được để hình thành một quốc gia đã mang vẻ dáng của một cộng đồng hợp chủng. Ưu điểm của cơ chế này là khi một chính quyền sử dụng được sức mạnh tổng hợp thì rất mạnh nhưng nếu chia rẽ đánh lẫn nhau thì lại dễ dàng bị người ngoài thôn tính. Những sinh hoạt cơ bản của họ cũng gần gũi hơn với văn hoá hải đảo chứ không bị ảnh hưởng nặng từ phương bắc. Trong nhiều thế kỷ nội thuộc nước Tàu, Việt Nam bị giam hãm trong vai trò phụ thuộc về địa lý và chính trị, một khu vực để khai thác tài nguyên cung ứng cho chính quốc nên tuy trên danh nghĩa là một quận huyện của Trung Hoa nhưng vẫn bị coi là man di chứ không bình đẳng với họ. Trái lại, bên kia “cot đong Ma Vien”4 ở biên giới cực nam, những dân tộc sống ngoài vòng cương toả của người Tàu đã có cơ hội phát triển khá cao về thương mại và kinh tế. Nhiều chứng tích cho thấy ngay từ những thế kỷ đầu tiên của Công Nguyên thương nhân Nam Á đã qua lại buôn bán dọn đường cho ảnh hưởng Ấn Độ về chính trị, tôn giáo và sinh hoạt xã hội. Sự thịnh vượng vật chất cũng giúp cho họ có điều kiện phát triển trên lãnh vực tinh thần trong đó mỹ nghệ, điêu khắc, kiến trúc, âm nhạc có nhiều nét nổi bật.   Carte du Royaume de Siam (bo phan) (Placide de Sainte Hélène, 1649-1734) Bản đồ vương quốc Xiêm La do Placide, một giáo sĩ dòng Augustine hoạ tại Paris năm 1686 (hiện tàng trữ tại Paris) Mapping the Silk Road and Beyond, tr. 108 Insulae Mollucae (bo phan) (Petrus Plancius, 1552-1622) Bản đồ Quần đảo Molucca do Plancius, một chuyên gia bản đồ ở Amsterdam hoạ tại Hoà Lan năm 1594 (hiện tàng trữ tại Amsterdam) Mapping the Silk Road and Beyond, tr. 88 India quae Orientalis dictitur et Insulae Adiacentes (bo phan) (Willem Gianszoon Blaeu, 1571-1638) Bản đồ Ấn Độ và các đảo lân cận vùng Viễn Đông của Blaeu, thuộc Công Ty Đông Ấn Hà Lan vẽ năm 1635, hiện tàng trữ tại Amsterdam. Mapping the Silk Road and Beyond, tr. 96 Partie Meridonale de l’Inde (bo phan) (Nicolas Sanson d’Abbeville, ?-1667) Bản đồ Miền Nam Ấn Độ do Nicholas Sanson, một chuyên gia về bản đồ người Pháp vẽ năm 1654 (hiện tàng trữ tại Paris) Mapping the Silk Road and Beyond, tr. 101 LẬP QUỐC Các sử gia đã nhận thấy tất cả khu vực là một quần thể giữa đất, núi và biển với hàng chục ngàn đảo lớn nhỏ mà nhiều nơi thổ dân còn giữ được những sinh hoạt cổ xưa khắc trên các trống đồng ở khắp vùng Đông Nam Á 5. Tuy nhiên, người ta vẫn chưa đưa ra một nhận định rõ rệt về sự chuyển biến từ sinh hoạt bộ lạc sang một xã hội qui mô hơn, điển hình là vương quốc Champa đã hình thành ra sao, vào thời kỳ nào. Nhiều người cho rằng dân tộc Chăm là một giống người thuộc nhóm Austronesian và Champa là hậu thân của vương quốc Phù Nam6. Champa cũng là một trong những nước ảnh hưởng văn minh Ấn Độ rất sớm của vùng Viễn Đông. Việc Ấn hoá đó có thể coi như một cuộc canh tân vĩ đại vì vào đầu công nguyên, thời đại Gupta (Gupta Era 320-550 CE) được coi là thời kỳ hoàng kim (Golden Age) của văn minh, đứng đầu thế giới trong nhiều mặt kể cả khoa học, kỹ thuật và tổ chức chính trị, là khuôn mẫu cho các dân tộc vùng Đông Nam Á vừa thoát khỏi thời kỳ bộ lạc.7 Ngay từ thời cổ, người ta đã ghi nhận rằng vương quốc Champa bao gồm hai hạng người, người Chăm và người mọi (savages), tuy về nhân chủng đều là một giống Austronesian nhưng người mọi bị coi rẻ, được gọi dưới những tên như Mlecchas hay Kiratas.8 Việc phân chia giai cấp đó là một thường tình trong mọi xã hội nhưng cũng có thể do ảnh hưởng của Ấn Độ, nền văn minh đề cao những người lãnh đạo thần thánh, những vua chúa có sức mạnh siêu nhiên (supernatural god-kings) và thứ bậc trong xã hội là ý nguyện và sắp đặt của thần linh. Vị trí các khu vưc Champa cổ Tâm Quách-Langlet: “The Geographical Setting of Ancient Champa” (Proceedings of the Seminar on Champa, 1994) tr. 25 Theo nghiên cứu của Tâm Quách-Langlet, Champa cổ bao gồm 5 phần, mỗi phần có một trung tâm văn hóa. – Ở phía bắc có Indrapura, nay thuộc Bình Trị Thiên tức là các châu Địa Lý, Ma Linh và Bố Chính mà Chế Củ đã nhượng cho vua Lý Thánh Tông để xin chuộc mạng. Ngoài ra còn phải kể thêm hai châu Ô, Rí là phần đất Chế Mân dùng làm sính lễ để xin cưới công chúa Huyền Trân đời Trần. – Kế đó là Amaravati, nay là Quảng Nam và Quảng Ngãi, có trung tâm văn hóalà Trà Kiệu (Simhapura hay Indrapura). – Khu vực thứ ba là Vijaya, tức Bình Định ngày nay, thủ đô là Chà Bàn9, có cửa bể Cri-Bonei (Thị Nại), phía nam chấm dứt ở đèo Cù Mông. – Khu vực thứ tư là Kauthara, nay thuộc Khánh Hòa, có hai con sông chính là sông Cái và sông Đà Rằng. Nơi đây có đền Po Ngar tượng trưng cho vương quyền Chiêm quốc. – Vùng đất cuối cùng là Panduranga, nay là Bình Thuận, Ninh Thuận.10 Y phục của miền Nam khi đó ảnh hưởng của người Chăm rất nhiều Ngoài khu vực dọc theo duyên hải, vùng ảnh hưởng của vương quốc Champa còn bao gồm cả vùng cao nguyên trong đó nhiều giống dân khác sinh sống như Chru, Roglai, Stieng, Rhadé, Jarai … trước đây rất gần gũi với người ở miệt dưới (lowland people). Nhiều tác giả đã đề cập đến những di tích còn sót lại ở bắc Cambodge và Nam Lào và cho rằng vùng đất này trước đây cũng thuộc vương quốc Champa11. Một điểm quan trọng là ngày xưa ranh giới quốc gia không rõ rệt, ngoài những khu vực có mốc thiên nhiên như sông, biển, phần lớn người ta miêu tả lãnh thổ theo định nghĩa một vùng ảnh hưởng (sphere of influence), co dãn, linh động tuỳ từng thời kỳ và khi Champa mạnh, các bộ lạc hay tiểu quốc ở đông bộ sông Mékong cũng thần phục và biên giới phía tây của Champa kéo dài tới Xiêm La. Nói chung ra họ là một vương quốc đa chủng trên phương diện nhân văn và là một tập hợp nhiều vương quốc nhỏ trên phương diện hành chánh. Tuy các tiểu quốc đó đều nằm dưới quyền một triều đình nhưng mỗi khu vực có tổ chức xã hội, kinh tế, tín ngưỡng và văn hoá ít nhiều khác biệt. Po Dharma khẳng định rằng “Champa khong phải là mot quoc gia duy nhat mà là mot lien hơp của nam địa khu Indrapura, Ameravati, Vijaya, Kauthara và Panduranga, moi khu vưc có mot thủ đo rieng”.12 Người Chăm sống dọc theo bờ bể thường trao đổi buôn bán, một mặt các sản phẩm núi rừng với người thượng du, một mặt với các thương nhân đi thuyền ngang qua đó. Đã có những thời kỳ vùng biển miền Trung nước ta là một khu vực sầm uất mà nhiều thương nhân Âu Châu đã có ý định dùng làm một đầu cầu thay thế cho các sản phẩm họ vẫn lệ thuộc vào Trung Hoa như gia vị, đồ gốm, tơ lụa … Chiến tranh và loạn lạc đã khiến cho họ phải từ bỏ ý định đó. Vì đất đai nhỏ hẹp không sản xuất đủ gạo lúa cho nhu cầu nên muốn sinh tồn, cả ba mặt, nông nghiệp, thương mại và ngư nghiệp phải phát triển đồng bộ. Những năm mất mùa, người Chăm thường tổ chức những đoàn thuyền sang mua, đổi hay có khi ăn cướp thực phẩm của lân bang. Chính vì thế, đời sống và sinh hoạt của họ đa dạng hơn, có máu phiêu lưu hơn và họ đã giao thiệp với nhiều quốc gia Nam Á ngay từ thời thượng cổ. Người Chăm cũng nằm trong những thương nhân đầu tiên mạo hiểm đi thuyền đến những vùng đất xa xôi như Úc Châu và Đông Phi. Thổ dân sống trên đảo Madagascar được xác định có gốc từ Đông Nam Á. Theo tài liệu của Trung Hoa, những thương nhân này được gọi dưới cái tên “k’un lun”, da đen, tóc quăn đã dùng thuyền buôn bán khắp vùng biển đông. Điều đáng chú ý nhất là theo miêu tả, người k’un lun chỉ thoải mái khi ở trên núi hay ở dưới biển mà thường đau ốm khi ở vùng đồng bằng, rất phù hợp với địa lý miền Trung nước ta là nơi đất hẹp, núi chạy dài ra sát biển.13 Theo Maspéro, người Chăm có 14 triều đại. Triều đại thứ nhất từ thế kỷ thứ 2 tới thế kỷ thứ tư sau Tây Lịch. Những vua Chăm thường được ghi lại trong sử Tàu (rồi ta chép lại) họ Phạm mà Majumdar cho là dịch từ chữ Varman là đế hiệu của các vì vua Champa, cũng như chữ Shri (Sovereign Lord) người Việt dịch ra thành Chế. Người Trung Hoa đặt cho tiểu quốc này cái tên Lâm Ấp, Chiêm Thành và là một trong số rất ít các vương quốc hình thành sớm nhất trong vùng Đông Nam Á. Để giảm thiểu áp lực từ Trung Hoa, người Việt dần dần lấn xuống đất đai của Chiêm Thành, khi thì bằng võ lực, lúc bằng ngoại giao và hai bên đã có nhiều cuộc giao tranh đẫm máu. Theo Việt sử, người Chăm thường hay tràn lên cướp phá chủ động tạo ra những xung đột giữa hai vương quốc nhưng rất có thể đó chỉ là cái cớ để biện minh cho những cuộc Nam chinh và Nam tiến là lối thoát duy nhất để người Việt có thể sinh tồn – hiểu nôm na là “dùi đanh đuc, đuc đanh sang”. Khi so sánh với Nam Chiếu, một quốc gia khác mặc dù hùng mạnh hơn nhưng vì không có đường lùi nên đã bị xâm lăng và tiêu diệt, C. P. Fitzgerald đã nhận định một các chua chát như sau: Lịch sử Viet Nam và Nam Chiếu chạy theo hai con đường song song nhưng rồi đổi hướng. Cả hai quốc gia đều vì bị nước Tàu thôn tính nên chịu ảnh hưởng văn hoá của họ; cả hai đều thành công trong việc đánh đuổi đươc chính quyền đô hộ kia đi mà vẫn giữ đươc bản sắc; Nam Chiếu thu hoi đoc lap trước Viet Nam đen hai tram nam. The nhưng ngay khi vừa đươc thoát cui so long, người Viet lap tức “tien ve phương Nam”, mởrong bờcoi với muc tieu lau dài làcho dan định cư và thuoc địa hoá, mac dau viec thong nhat chính trị van còn long leo. Ho khong chiem đat của Trung Hoa, trong lịch sử chưa có mot vì vua Viet Nam nào lai lơi dung khi nước Tàu suy yếu để xâm lăng họ. Còn Nam Chiếu thì ngươc hẳn. Họ không the Nam Tiến vì chỉ có mot khoang đat trong đe chiem. Banh trương ve phía Trung Hoa có nghĩa là phải đoi phó với mot cương quoc ngay cảkhi suy thoái cung van rat là ghe gớm và mot khi ho thong nhat đươc thì khong sao chống nổi.14 Cũng vì dân Việt quen sinh nhai bằng nghề nông nên chỉ thẩm nhập được những khu vực đồng bằng, đẩy lùi những người sống dọc theo duyên hải lên vùng cao chứ không chiếm lĩnh được toàn bộ lãnh thổ phụ thuộc vương quốc này. Những sắc dân địa phương bị triệt đường ra biển suy tàn dần để trở thành thiểu số, trở thành những đơn vị hành chánh của triều đình Đại Việt nhưng vẫn sống biệt lập và tự trị trong một số qui mô nhất định, không bị câu thúc một cách triệt để. Mãi đến khi người Pháp chiếm được toàn bộ Đông Dương, các khu vực cao nguyên mới dần dần có thêm người Kinh di cư lên sinh sống.
0 Rating 376 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On August 30, 2016
  ĐỔNG THÀNH DANH Tóm tắt: Bài viết này sẽ điểm lại các quan điểm chủ yếu liên quan đến vấn đề thời điểm và nguồn gốc du nhập của Hồi giáo ở Champa trước đây và của người Chăm ở Việt Nam ngày nay. Trong đó, chúng tôi sẽ xem xét và đánh giá về cơ sở khoa học và tính xác đáng của các quan điểm trên, hầu từ đó đưa ra quan điểm nhìn nhận của tác giả và đóng góp thêm các thông tin nhằm làm rõ vấn đề sự du nhập của đạo Hồi ở Champa.  Từ khóa: Hồi giáo, du nhập, Đông Nam Á, Champa, người Chăm.  Đặt vấn đề Do một số các yếu tố lịch sử, ngày nay cộng động Hồi giáo ở Việt Nam hiện nay chủ yếu tập trung trong cộng đồng người Chăm ở miền Trung và Nam bộ, tương ứng với hai vùng định cư này, người Chăm theo Hồi giáo cũng được phân chia ra làm hai nhóm rõ rệt dựa vào: Chăm Awal (hay thường gọi là Chăm Bàni) tập trung chủ yếu ở hai tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận; Chăm Islam ở vùng Nam bộ (tập trung chủ yếu ở An Giang và một bộ phận nhỏ ở Thành phố Hồ Chí Minh, Tây Ninh... Sự phân loại hai nhóm Hồi giáo này không đơn thuần chỉ dựa trên yếu tố địa lý mà còn dựa trên bối cảnh hình thành, mức độ tiếp thu, ảnh hưởng và cách thức thực hành tín ngưỡng – tôn giáo ở hai cộng đồng.  Trong khi, cộng đồng người Chăm Islam ở Nam Bộ là cộng đồng theo Hồi giáo chính thống dòng Suni, tuân thủ theo các quy định, giáo luật của Hồi giáo như các cộng đồng Hồi giáo toàn thế giới. Thì cộng đồng Chăm Awal lại có một cách thực hành tín ngưỡng theo một cách riêng, mất đi tính chính thống và chứa đựng nhiều dấu ấn tâm linh bản địa như không tôn sùng Allah như là một Thượng đế duy nhất, duy trì phong tục thờ cúng thần linh, thờ cúng tổ tiên, trong đời sống họ không phải cầu nguyện 5 lần, không nhịn ăn vào tháng chay niệm Ramadan, mà phó thác nhiệm vụ đó cho giới tu sĩ... Do đó giới nghiên cứu còn nhấn mạnh rằng đây là cộng đồng ảnh hưởng Hồi giáo chứ không phải Hồi giáo hay là một dạng thức Hồi giáo bản địa.  Hồi giáo được du nhập vào cộng đồng người Chăm ở Việt Nam từ thời người Chăm còn là thần dân của vương quốc Champa, cộng đồng Hồi giáo ấy còn để lại những hậu duệ của mình là người Chăm Awal ngày nay. Theo những biến cố lịch sử, một bộ phận người Chăm di cư đến Campuchia và Nam bộ (lúc ấy thuộc Chân Lạp) và bắt đầu tiếp thu và chuyển hóa theo Hồi giáo chính thống mà ngày nay chính là cộng đồng Chăm Islam. Chính vì vậy, trong bài viết này chúng tôi tập trung nghiên cứu về cộng đồng Chăm Awal chứ không phải là Chăm Islam (Nam Bộ). Cho đến nay, vẫn có hai nhóm xu hướng khác nhau nhận định về thời điểm du nhập của Hồi giáo vào cộng đồng Chăm thời kỳ Champa cổ: một nhóm cho rằng Hồi giáo hình thành ở Champa từ khoảng giai đoạn thế kỷ X – XIII, thông qua các hoạt động giao thương và buôn bán với các thương nhân Hồi giáo Trung Đông đến từ Arap hay Ba Tư... Một nhóm khác khẳng định Hồi giáo có mặt muộn hơn (khoảng thế kỷ XV – XVII) và thiên về xu hướng cho rằng Hồi giáo hình thành thông qua hoạt động buôn bán với các tiểu quốc hải đảo trong khu vực như Mã Lai, Java... Ngoài ra cũng có những xu hướng nghiên về cả hai giả thuyết này.    Những xu hướng trái chiều này đã tạo nên những bất đồng, mà hệ lụy là những mù mờ hoặc thậm chí ngộ nhận về nguồn gốc, thời điểm du nhập của Hồi giáo. Trong bài viết này chúng tôi sẽ điểm qua và đánh giá lại tính khoa học của hai xu hướng về sự du nhập của Hồi giáo, đồng thời cung cấp thêm những nguồn tư liệu mới, nhất là tư liệu dân tộc học, để cũng cố cho quan điểm của chúng tôi về nguồn gốc và thời điểm du nhập của Hồi giáo ở Champa.   Hai hướng nhận định về sự du nhập Hồi giáo vào Champa. Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy, nhóm các nhà nghiên cứu ủng hộ ước thuyết thứ nhất gồm Ed. Huber, P. Ravaisse, G. Maspero… Trước hết, theo Aymonier, từ khoảng thế kỷ IX – X, đã có một bộ phận đông đảo người Hồi giáo xuất hiện ở Champa, sau này do các biến cố lịch sử người Chăm Hồi giáo lần lượt di cư sang Campuchia, Xiêm (Thái Lan)... Có thể những nhận định này bắt nguồn từ sự xuất hiện của một nhân vật trong Biên niên sử Chăm mà Aymonier đã giành nhiều sự nghiên cứu, đó là Po Awloah (tức Allah – Thượng đế của Hồi giáo), vị vua mở đầu danh sách các vị vủa của người Chăm, trị vì Champa trong thế kỷ XI.  Tiếp đến E. Huber khẳng định về đời Tống (Trung Hoa), khoảng thế kỷ X – XII, ở Champa đã có những người Chàm theo đạo Hồi. Bằng chứng mà ông viện dẫn là ra là một chi tiết trong Tống sử có đề cập đến một tục lệ tế trâu của người Chăm, mà trong đó có một đoạn khấn lễ nhắc đến từ: “Allah akhar”, mà ông tin chắc rằng đó là một nghi lễ liên quan đến Hồi giáo. Khoảng năm 1922, P. Ravaisse lại cho công bố hai bia ký chữ Arab, được một sĩ quan Pháp khai quật được ở miền Trung. Bản thứ nhất là một ngôi mộ của một người tên Abu Kamil có niên đại 1039. Tấm bia thứ hai, có niên đại khoảng 1025 – 1035, đó là một thông báo cho cộng đồng Hồi giáo ở đây phải đối xử như thế nào với dân bản xứ khi tiếp xúc với họ. Từ kết quả này tác giả cũng nhận định, khoảng thế kỷ XI, đã có một cộng đồng Hồi giáo ở Champa.  Cho đến nay, hai nguồn tư liệu của Huber và Ravaisse được các nhà nghiên cứu thuộc nhóm thứ nhất xem như là chi tiết quan trọng, thường được dẫn ra để chứng minh Hồi giáo đã có mặt ở Champa từ thế kỷ X – XIII. Trước hết, hai nguồn tư liệu này được dẫn lại trong tác phẩm Le Royaume de Champa (Vương quốc Champa) của G. Maspero, để rồi ông cho rằng Hồi giáo đã du nhập vào Champa từ khoảng thế kỷ X. Giáo sư Lương Ninh cũng cho rằng, trong giai đoạn này có một số tài liệu cho thấy Hồi giáo đã phổ biến trong một số người ở hoàng tộc rồi mới truyền lại sang Java, nhưng ông không nêu hay trích dẫn các nguồn gốc của các tài liệu ấy (?). Gần đây, Ts. Bá Trung Phụ cũng dẫn lại hai nguồn tư liệu này để đưa ra nhận định rằng Hồi giáo đã có mặt ở Champa từ thế kỷ IX?.    Nhưng sau đó, lại xuất hiện một nhóm ý kiến khác cho rằng, chỉ từ thế kỷ XV – XVII, Hồi giáo mới du nhập mạnh mẽ vào Champa, và nó là kết quả của sự giao lưu tiếp xúc của người Champa với Thế giới Mã Lai, chứ không phải từ Trung Đông như trước đây.  Đầu tiên năm 1979, P.Y.Manguin đã giành riêng một bài viết để đánh giá lại các thông tin của Ravaisse, theo đó ông chứng mình hai bia ký liên quan đến Hồi giáo xuất hiện ở Champa, thế kỷ XI, có nguồn gốc ngoại lai do một cộng đồng Hồi giáo ngoại quốc hoặc một đoàn sứ giả Trung Đông đến và để lại ở Champa. Nhưng cũng trong bài viết này, Manguin cũng lập luận rằng sự có mặt của cộng đồng Hồi giáo ngoại quốc ở Champa không có nghĩa là Hồi giáo đã ảnh hưởng đến Champa, để có thể hình thành một cộng đồng tín đồ Hồi giáo gốc Chăm. Ngược lại ông đưa ra nhiều tư liệu khác hầu chứng mình rằng một cộng đồng gồm các tín đồ Hồi giáo bản xứ chỉ được hình thành từ thế kỷ XV - XVII, và đó là hệ quả của sự giao lưu với các quốc gia Hồi giáo trong khu vực.  Sau đó, trong luận án Tiến sĩ của mình năm 1987, được dịch sang tiếng Việt năm 2012, Po Dharma cho rằng Hồi giáo chỉ chính thức du nhập vào Champa ở thế kỷ thứ XVI. Lafont cũng đưa ra quan điểm tương tự về thời gian du nhập của Hồi giáo ở Champa, ông cũng cho rằng Hồi giáo Champa là hệ quả của mối gia thương với Mã Lai và kết quả là sự hình thành cộng đồng Chăm Awal (Bàni). Trong một hội thảo về bia ký Đông Nam Á do Viện Viễn Đông Pháp và Hội Khảo cổ học Malaysia tổ chức tại Kuala Lumpur (11/2011), Gs. Ludvik Kalus lại góp thêm những tư liệu và lập luận mới phát triển, làm rõ thêm ý tưởng nghiên cứu của P.Y. Manguin trước đó về hai tấm bia ký Hồi giáo ở Champa, từ đó các nhà khoa học thống nhất rằng Hồi giáo chỉ được du nhập vào Champa và Đông Nam Á từ thế kỷ XVI. Nhìn nhận và đánh giá về hướng nhận định thứ nhất  Về phía chúng tôi, trong quá trình nghiên cứu, nhận thấy một số điểm sau: theo nhóm nhận định thứ nhất thì từ thế kỷ X –XIII, Hồi giáo đã bắt đầu du nhập vào Champa, và đó là kết quả của cuộc tiếp xúc với các thương thuyền buôn bán của người Ảrập từ Trung Đông. Nhưng những cứ liệu đó rất tản mạn, không có nhiều căn cứ và chưa cho thấy rằng trong thời kỳ này đã hình thành một cộng đồng Hồi giáo bản địa ở Champa, chưa đủ để tạo nên một cộng đồng người Chăm Awal/ Bani như ngày nay. Trước hết, sự xuất hiện Po Awloah trong biên niên sử hoàng gia Champa là một yếu tố quan trọng cho thấy sự liện hệ với Hồi giáo. Vì ai cũng biết rằng Po Awloah cũng là tên một vị thần quan trọng trong tín ngưỡng của người Chăm, nhất là Chăm Awal, bên cạnh đó Po Awloah chính là các gọi Allah của người Chăm, mà Allah lại là Thượng đế của Hồi giáo. Rất có thể từ chi tiết này mà E. Aymonier cho rằng Hồi giáo xuất hiện ở Champa vào khoảng thể kỷ thứ IX - X, nhưng việc dẫn chứng này có lẽ không thuyết phục cho lắm! Vì rằng biên niên sử Chăm chỉ ra đời vào thời cận đại (tức là khoảng thế kỷ XV – XVII), bởi nó được viết bằng chữ Chăm hiện đại, một văn tự chỉ xuất hiện ở Champa từ sau thế kỷ XV, do đó rất có thể sự xuất hiện của Po Awloah trong biên niên sử chỉ là một yếu tố được thêm vào sau này, khi mà Champa đã tiếp nhận Hồi giáo.  Tiếp đến, hai văn bia được tìm thấy vào năm 1922, có niên đại khoảng thế kỷ XI, chỉ cho thấy sự tồn tại rải rác của một cộng đồng Hồi giáo ngoại lai đến từ Trung Đông và tạm dừng ở Champa, mà Manguin chỉ rõ đây là những phái đoàn ngoại giao trên đường đến Trung Quốc ghé lại ở Champa. Mặt khác, gần đây, dựa vào nội dung và văn phong, Ludvik Kalus đã chứng minh hai tấm bia này không xuất phát từ Champa mà từ thị trấn Kairouan thuộc Tunisia, một quốc gia nằm ở Trung Đông. Sự hiện diện của những người Hồi giáo gốc Trung Đông ở Champa thế kỷ XI là một chỉ dấu cho thấy mối quan hệ giao thương với các nước Trung Đông của Champa, nhưng không phải là một bằng chứng để lập luận rằng người Champa đã theo Hồi giáo từ thế kỷ XI.  Giả thuyết của Huber về một nghi lễ tế trâu kèm với lời khấn “Allah akhar”, mà ông tin rằng nó có liên quan đến Hồi giáo cũng chưa đủ là bằng chứng để ta kết luận có Hồi giáo ở Champa thời Tống. Trước hết, Huber chỉ dẫn lại chi tiết này từ Tống sử, bản thân tài liệu này chỉ viết rất sơ lược về Champa, người viết văn bản sử này là người Trung Hoa không am hiểu nhiều về phong tục và rất có thể họ chỉ được nghe kể về nghi lễ tế, mà không trực tiếp chứng kiến và nghe lời khấn. Mặt khác, ngày nay các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên và người Chăm ảnh hưởng Bàlamôn cũng tổ chức các nghi lễ tế trâu kèm với các lời khấn vái mang ý nghĩa tương tự nhưng hoàn toàn không liên quan đến nghi lễ tế trâu của Hồi giáo. Do đó, việc sử dụng chi tiết này hầu chứng minh đạo Hồi đã xuất hiện vào thời Tống là chưa đầy đủ và thuyết phục.   Trong thực tế, những chi tiết trên vẫn còn gây nhiều tranh cải và hàm chứa nhiều mâu thuẫn, một số nhà nghiên cứu như Maspero, Nguyễn Văn Luận dù trích dẫn các chi tiết này nhưng luôn đặt nghi vấn với nó. G. Maspero viết rằng: “...dù sao mặc lòng..., cũng khó tin rằng đạo của Mohamet đã được người Chàm theo trước năm 1470...”. Trong khi Nguyễn Văn Luận, cũng dẫn ra 3 chi tiết trên nhưng lại đặt câu hỏi: “...việc tìm được dấu tích Hồi giáo và vấn đề người Chàm cải đạo theo tôn giáo mới là hai sự việc khác hẳn nhau...”. Sau này, khi đánh giá về những cứ liệu này, các tác giả của cuốn Văn hóa Chăm cũng có cùng quan điểm như vậy, theo họ “...thoạt đầu Hồi giáo đến với người Chăm bằng sự hiện diện của một cộng đồng Hồi giáo gốc Trung Đông ngay trên đất Champa... Nhưng bởi vì cộng đồng Hồi giáo ấy do những điều kiện không thuận lợi ở Champa lúc bấy giờ... mà họ không truyền bá đức tin Hồi giáo một cách tích cực được...”.   Tóm lại, bản thân tính thuyết phục của các bằng chứng trên vẫn còn để ngỏ, nhưng chi tiết này chưa đủ để cấu thành các yếu tố hầu khẳng định Hồi giáo đã du nhập vào Champa trong khoảng giai đoạn thế kỷ X - XIII. Bởi vì, chỉ khi nào ở Champa xuất hiện bản xứ theo đức tin Hồi giáo hay ít ra ảnh hưởng Hồi giáo, thì khi ấy chúng ta mới có thể kết luận Hồi giáo đã chính thức du nhập vào Champa.  Đánh giá và góp thêm tư liệu cho hướng nhận định thứ hai  Ngược lại, những quan điểm nhận định của P.Y.Manguin, Po Dharma và Lafont lại có nhiều cơ sở thuyết phục hơn, nhất là khi đa số các nhà khoa học tán đồng rằng Hồi giáo chỉ du nhập chính thức từ thế kỷ XVI. Trong thực tế, cho đến tận thế kỷ XIII, các vua, chúa, quý tộc Champa vẫn tôn sùng Hindu giáo và thực hiện thờ cúng thần Shiva mà hầu hết các bia ký Champa còn ghi nhận, cho dù từ sau thế kỷ XIII, tín ngưỡng này đang trên đà suy thoái. Nhưng sự suy thoái của Champa Ấn giáo không đồng nghĩa là Hồi giáo đã du nhập vào Champa, cho đến tận thế kỷ thứ XV, người ta không tìm được thêm một bằng chứng nào cho thấy ở Champa đã có người theo Hồi giáo, ngoài chi tiết về một cuộc hôn nhân giữa vua Champa Sinhavarman III (Chế Mân) với một công chúa đến từ Mã Lai là Bia Tapasi và thế kỷ XIII. Tuy nhiên chi tiết này không chứng minh người Champa (nhất là hoàng tộc) theo Hồi giáo, mà chỉ cho thấy lúc này Champa đã bắt đầu thiết lập mối bang giao thân thiện với các tiểu quốc Mã Lai.   Người ta cũng không có một bằng chứng nào cho thấy hoàng tộc Champa đã có người theo Hồi giáo trước đó, vua Sinhavarman III dù lấy vợ gốc Jawa, nhưng vẫn xây tháp thờ Shiva và khi mất vẫn làm lễ hỏa thiêu như một tín đồ Ấn giáo thuận thành. Sau ngày sụp đổ của Vijaya, một số quý tộc Champa đến lánh nạn ở vùng Melaka và Pasai Hồi giáo vẫn là những người theo Ấn Độ Giáo. Cuối thế kỷ XV, vua Champa là Po Kabrah, dù đã kết hôn với một phụ nữ Hồi Giáo tên là Po Batlija, nhưng sau đó cả ông và vợ đều thiêu khi chết cho thấy vua vẫn theo Ấn giáo và vợ ông bỏ Hồi giáo theo đạo chồng. Cho đến tận năm 1607, một đô đốc người Hòa Lan vẫn xác nhận rằng vua Champa lúc ấy vẫn theo Hồi giáo, trong khi đó, các văn bản Chăm cho thấy Po Soat (1660-1692) là quốc vương Champa đầu tiên chấp nhận Hồi Giáo là một đức tin, mặc dù ngài vẫn tiếp tục thực thi những nghi lễ truyền thống của Bà La Môn Giáo.  Các quan điểm này cũng trùng với quan điểm của các nhà khoa học về sự du nhập của Hồi giáo ở Đông Nam Á nói chung. Theo J-P. Roux, Hồi giáo được du nhập vào Ấn Độ từ thế kỷ VIII, nhưng mãi đến thế kỷ XII mới giữ vai trò quan trọng, từ đây, đạo Hồi mới được truyền vào Mã Lai và Jawa, nhưng sự du nhập này cũng rất hạn chế, mãi đến thế kỷ XIV mới xuất hiện một vương triều Hồi giáo đầu tiên trong khu vực rồi từ đó mới truyền đi các nơi khác. Các tư liệu khác cho biết Hồi giáo chỉ du nhập mạnh mẽ ở Mã Lai từ thế kỷ XIII, sau đó mới truyền sang Brunei, Inđônisia, và đến Philippin vào cuốn thế kỷ XV. Chính vì vậy, Hồi giáo không thể du nhập vào Champa sớm hơn ở các quốc gia này.  Thật vậy, sự tồn tại của Hồi giáo, như là một đức tin của người bản xứ là kết quả của sự giao thương giữa Champa với các đế chế Hồi giáo trong khu vực chứ không phải là nguyên nhân. Từ thế kỷ XIII, Champa đã xúc tiến các mối quan hệ đầu tiên với các nước ở hải đảo, như cuộc hôn nhân giữa vua Sihavarman III với công chúa Tapasi của Jawa và sau đó là sự kiện vua Chế Năng đã chọn Java làm chỗ nương náu của ông ta khỏi áp lực của Việt Nam vào năm 1318. Nhưng phải từ sau thế kỷ XV, tức là sau sự sụp đổ của Vijaya, mối quan hệ này mới phát triển mạnh mẽ, mà một loạt các nguồn tư liệu đáng tin cậy đã mô tả.  Theo các nhà nghiên cứu, trong thời điểm này, các tài liệu thường đề cập đến cuộc viếng thăm của vua Po Kabrah (cuối thế kỷ XV) đến viếng thăm Malayu, và cuộc hôn nhân của với một phụ nữ Hồi Giáo tên là Po Batlija. Hay sự kiện năm 1594 vua Champa còn giúp đỡ một tiểu quốc là Sultan chống quân Bồ Đầu Nha. Cũng vào thế kỷ XVII, đặc biệt vào thời Po Rome (1627 – 1651), các văn bản Chăm như Damnay Po Rome, Damnay Po Tang Ahaok, Damnay Po Rayak (tiểu sử vua Po Rome, Po Tang Ahaok, Po Rayak)…ghi nhận các sự kiện quan trọng như việc vua Po Rome sang viếng thăm Kelantan, kết hôn với công chúa Malai và học đạo Islam, ngoài ra Po Tang Ahaok, Po Rayak cũng được cử sang Mã Lai để học về tôn giáo, bùa phép, quân sự….  Bên cạnh đó, người ta cũng tìm thấy trong các câu truyện của các nước đa đảo, những chi tiết về những vị công chúa Champa kết hôn với các quý tộc hay kể cả vua của một tiểu quốc Hồi giáo là Majahapit. Cũng trong thời điểm này, thông qua các biên niên sử hoàng gia, các gia phả hoàng tộc của Mã Lai như Hikayat Seri Kelentan (gia phả dòng họ tiểu vương Kelentan), Riwayat Kelentan Sejarah Melayu (lịch sử Malayu)… người ta biết rằng nhiều vị tướng Mã Lai cũng đến Champa như Ungku Omar, Abdul Hmid, tại đây, họ đã dạy giáo lý Hồi giáo cho dân chúng địa phương…. Từ đây Hồi giáo được du nhập mạnh mẽ vào Champa hơn bao giờ hết, mà các nhà khoa học đã không ngừng tìm ra các dữ kiện để minh chứng điều đó. Manguin dẫn tư liệu của người Bồ Đầu Nha rằng, từ năm 1595, người Chăm rất ngưỡng mộ Hồi giáo, các nhà truyền giáo rất được ưu đãi và nhiều thánh đường Hồi giáo đã được dụng nên trong nước. Còn theo Po Dharma, vua Champa Po Saot (1660-1692) là quốc vương Champa đầu tiên chấp nhận Hồi Giáo, ông đã xin các nhà truyền đạo một cuốn kinh Hồi giáo để nghiên cứu. Trong bức thư của vua Po Saot gửi cho thống đốc Hòa Lan ở Batavia (Indonesia) vào nằm 1680, ngài mang chức phong “Paducca Siry Sulthan” tức là Paduka Seri Sultan mà dân tộc Mã vẩn còn sử dụng hôm nay.  Chính vì thế, người Chăm thường cho rằng mình tiếp nhận đạo Hồi từ Mã Lai và các nước Hồi giáo khác trong khu vực, mà họ gọi chung là người Jawa, chứ không hề được tiếp nhận Hồi giáo từ Trung Đông. Trong thực tế người Chăm không hề sử dụng các thuật ngữ như tamư Asulam (vào đạo) để chỉ cho sự theo đạo Islam mà là tamư Jawa (vào đạo của người Jawa), lịch hỗn hợp của người Chăm là lịch Sakawi (Saka của Ấn Độ kết hợp Jawi của Mã Lai) thay vì là lịch Hồi giáo, họ cũng không sử dụng các văn bản Hồi giáo của Ả Rập như Coran, hadith, mà sử dụng các văn bản chép lại từ Mã Lai mà họ cho là akhar Jawa, ngoài ra người Chăm Awal vẫn thường gọi mình là Chăm amal adat Jawa hay amal ilmu Jawa (tức là người Chăm theo phong tục, văn hóa Mã Lai). Cũng đối với người Chăm, thuật ngữ Makah, thường xuất hiện trong văn chương, tức là nơi mà người Chăm cho rằng là thánh địa linh thiêng của Hồi giáo (nơi mà nhiều nhà truyền giáo đã đến Champa và người Chăm đến đấy để học đạo) là ở Kelantan (Mã Lai) chứ không phải là Mecca (Ả Rập) như người Hồi giáo chính thống quan niệm.  Giai đoạn thế kỷ XV – XVII, cũng là một giai đoạn xuất hiện biết bao nhiêu sự xung đột, mâu thuẫn tôn giáo trong xã hội, mà các tác phẩm văn học sử Champa không ngừng nhắc đến. Hai tác phẩm Um Marup (sử thi) và Nai Mai Mang Makah (thơ ca), mà chắc rằng chỉ có niên đại từ sau thế kỷ XVI, phản ánh cuộc xung đột giữa tôn giáo cũ và mới, ngay trong chính tầng lớp tinh hoa (hoàng gia, quý tộc) đang lãnh đạo đất nước lúc bấy giờ. Bản thân văn chương không hoàn toàn biểu đạt lịch sử, nhưng nó chứa đựng giá trị lịch sử, nó phản ánh cách nhìn của người viết với bối cảnh mà họ đang sống hay chứng kiến. Nội dung của các tác phẩm này, nhất là bài thơ Nai Mai Mang Makah, càng làm cho tôi tin rằng chúng diễn tả lại bối cảnh Champa trong thời kỳ mà người Mã Lai truyền, và người Chăm đang tiếp nhận Hồi giáo trong khoảng thế kỷ XV – XVII.   Điều đó cũng giải thích tại sao Hồi giáo ở Champa với Mã Lai có nhiều nét tương đồng trong thực hành tín ngưỡng – tôn giáo. Ngày nay, các nghi lễ như Rija Proang, Palao Sah (lễ cúng ở cúng ở cửa biển) của người Chăm là những nghi lễ mang ít nhiều dấu ấn Hồi giáo có nhiều tương đồng với lễ Mak Yong và puji pantai của người Mã. Mặt khác, trong các Rija, thầy chủ lễ (Maduen) thường đọc kinh hành lễ bằng tiếng Mã Lai, mà họ gọi là Jawa hoak. Ngoài ra, người Chăm Awal và người Mã Lai vẫn cùng chia sẽ một Hồi giáo thần bí (Sufi), theo đó hai dân tộc cùng lưu giữ niềm tin với linh hồn và ma quĩ, cho nên vẫn lưu trữ các văn chương, bùa chú cúng thần linh và đuổi tà ma, trong khi ở các xứ Hồi giáo Trung Đông ngoài Thượng đế thì họ không tôn thờ ai hết, việc thờ cúng thần linh hay người chết là tối kỵ.    Tất cả những dữ kiện lịch sử, văn chương và dân tộc học đó cho thấy đạo Hồi chỉ bắt đầu xuất hiện sớm nhất ở Champa từ sau thế kỷ thứ XV, chính thức du nhập khoảng thế kỷ XVI và phát triển mạnh mẽ nhất từ sau thế kỷ XVII. Như vậy, Hồi giáo được du nhập vào Champa, có nguốn gốc từ Mã Lai và các đế chế Hồi giáo từ trong khu vực Đông Nam Á, chứ không phải từ Trung Đông, như một số nhà nghiên cứu thường hiểu lầm. Tuy nhiên, Hồi giáo không được tiếp nhận một cách máy móc mà đã được tiếp biến, bản địa hóa đi rất nhiều, người Chăm Awal ở miền Trung ngày nay chính là hậu duệ của cộng đồng Chăm bản địa ấy! Kết luận Cho đến tận gần đây, vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau về thời điểm và nguồn gốc du nhập của Hồi giáo vào Champa. Tuy nhiên theo thời gian việc sử dụng các nguồn tư liệu ít ỏi và tản mạn để cho rằng Hồi giáo du nhập ở Champa từ khoảng thế kỷ X – XIII từ Trung Đông ngày càng tỏ ra yếu thế và bộc lộ nhiều khiếm khuyết. Thay vào đó, hướng quan điểm cho rằng Hồi giáo du nhập vào Champa từ khoảng thế kỷ XV – XVII, từ Mã Lai, ngày càng được nhiều nguồn tư liệu kiểm chứng, nhiều nhà khoa học tán đồng và tỏ ra là một giả thuyết đáng tin cậy, được ủng hộ rộng rãi.  Tuy nhiên, những nguồn tư liệu và thông tin này vẫn ít được thừa nhận và tiếp cận, nhất là ở nước ta. Bởi vì hầu hết chúng được viết bằng tiếng Chăm, tiếng Mã, nhưng ngôn ngữ xa lạ với hầu hết người nghiên cứu. Chính vì thế, trong bài viết này, đồng thời với việc đánh giá lại hướng nhận định thứ nhất, chúng tôi cũng góp thêm một số chi tiết hầu chứng minh Champa chỉ xuất hiện một cộng đồng Hồi giáo bản xứ từ sau thế kỷ XV, và có nguồn gốc từ Mã Lai, nơi mà người Chăm vẫn xem là thánh địa của Hồi giáo. Bài viết này, hy vọng đóng góp thêm những ý kiến phê bình, phản biện và bổ sung thêm các thông tin về chủ đề lịch sử Hồi giáo ở Champa trước đây và Việt Nam ngày nay.  Nguồn: Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, số 3 (53) 2016, tr. 80 – 93.  TÀI LIỆU THAM KHẢO   Abdullah Zakaria bin Ghazali (2003), “Historical And Cultural relations between The Malay World And Indochina In Malay”, trong Pinisule Indochioise Et Monde Malais, EFEO, Kuala Lumpur, pp. 167 - 188. Aymonier. E (1890), “Légendes historiques des Chams”, in Excursions et Reconnais­sances XIV32, pp. 145206.  Aymonier. E (1891), Les Tchampa et leurs religions, Ernest Leroux, Paris.  Anthoni Reid (2000), “Champa in the Southeast Asian Maritime System”, trong Charting the shape of early modern Southeast Asian, O.S. Printing House, Bangkok, pp. 39 - 45.  Phan Xuân Biên – Phan An – Phan Văn Dốp (1992), Văn hóa Chăm, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.  Durand. R-P (1903), “Les Cham Bani”, BEFEO III, pp. 54 - 62.  Inrasara (2006), Ariya Chăm, Nxb. Văn nghệ, TP. HCM.  Inrasara (2011), Văn học Chăm khái luận, Nxb. Tri thức, Hà Nội.  Nguyễn Văn Luận (1974), Người Chàm Hồi giáo miền Tây Nam Phần, Bộ Văn hóa Giáo dục và Thanh niên, Saigon.   Lombard, Denys (1981), “Campa Dipandang dari Selatan”, trong Kerajaan Campa, EFEO, Jakarta, pp. 286 – 297. Lafont. P-B (1988), “On relations between Champa and Southeast Asia”, trong Proceedings of the Seminar On Champa, Paris, pp. 65 – 75. Lafont. P-B (2011), Vương quốc Champa: địa dư - dân cư - lịch sử, IOC Champa ấn hành, San Jose.  Maspero. G (1928), Le Royaume de Champa, Van Oest, Paris.  Manguin. P-Y (1979), “L’Introduction de l’Islam au Campa”, BEFEO LXVI, pp. 255 – 287.  Mak Phoeun (1988), “La communaté Cam au Cambodge du Xve au XIXe siècle”, trong Actes du séminaire sur le Campa organisé à l’Université de Copenhague, CHCPI (Trung tâm Lịch sử và nền Văn minh Bán đảo Đông Dương), Pa
0 Rating 644 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On June 23, 2016
Ngô Viết Trọng Bất cứ quốc gia nào trên thế giới cũng được hình thành với một quá trình gần giống nhau. Bắt đầu là những bộ lạc nhỏ ở kề cận nhau, vì nhu cầu nào đó mà hợp lại với nhau hoặc thôn tính lẫn nhau. Dần dần các bộ lạc nhỏ yếu biến mất và các bộ lạc mạnh trở thành những tập thể xã hội lớn hơn gọi là “nước”. Các xã hội ngày xưa cứ thế mà diễn tiến như là một việc tất nhiên. Điển hình như nước Trung Hoa ngày nay là một tập hợp của hàng vạn nước nhỏ tạo nên! Xã hội Việt Nam cũng là một quần thể gồm nhiều dân tộc có tiếng nói, phong tục tập quán khác nhau hợp lại. Trong đó Việt tộc (người Kinh) chiếm đa số. Về lãnh thổ, Việt Nam là một dải đất hình chữ S nằm ven Biển Đông, chạy dài từ Ải Nam Quan đến mũi Cà Mâu. Để tạo dựng được một giang sơn như thế, Việt Nam không thể tránh khỏi việc phải thôn tính hoặc xâm lấn đất cát của một số nước láng giềng! Đó là công việc của người xưa đã phải làm để tồn tại.Trên dải đất hình chữ S Việt Nam hiện nay vẫn tồn tại nhiều chùa miếu, lăng mộ, đền tháp lâu đời của các dân tộc thiểu số nằm rải rác khắp nơi. Nổi bật là những dấu tích thành trì, những ngôi tháp cổ biểu tượng cho nền văn minh cổ của dân tộc Chiêm Thành ở miền Trung. Đặc biệt là khu Thánh địa Mỹ Sơn ở Quảng Nam đã được tổ chức quốc tế UNESCO chọn là một trong các di sản văn hóa thế giới.Khu Thánh địa Mỹ Sơn đã ghi lại dấu tích một thời vàng son của dân tộc Chiêm Thành. Thời Việt Nam còn nằm dưới ách Bắc thuộc, Chiêm Thành – tên cũ là Lâm Ấp rồi Hoàn Vương – đã nhiều phen gây bối rối cho Trung Hoa qua những vụ tranh chấp lãnh thổ, ngăn cản bước bành trướng của đế quốc to lớn này. Rất nhiều viên thứ sử, thái thú, huyện lệnh tàn ác của Trung Hoa đã mất đầu dưới tay người Chiêm. Người Chiêm cũng từng đánh vào các nước Mã Lai, Java, Chân Lạp, có lần còn đột kích luôn vào cả đảo Hải Nam để cướp ngựa nữa. Nói chung dân tộc Chiêm Thành đã có một quá khứ oanh liệt chẳng kém ai!Ngày nay thì người Chiêm đã trở thành thiểu số trong cộng đồng Việt Nam. Trong bài “Tìm Hiểu Cộng Đồng Người Chăm Tại Việt Nam”, Tiến sĩ Dân tộc học Nguyễn Văn Huy có đoạn viết:“Nhiều người sẽ hỏi dân số vương quốc Chiêm Thành xưa bây giờ ở đâu? Không lẽ họ đã bị tiêu diệt hết sao? Con số 100.000 người Chăm tại Bình Thuận và Châu Đốc có phản ánh đúng sự thật không?Câu trả lời là dân chúng gốc Chăm vẫn còn nguyên vẹn. Người Chăm đồng bằng không đi đâu cả, họ đã ở lại trên lãnh thổ cũ tại miền Trung và với thời gian đã trở thành công dân Việt Nam một cách trọn vẹn. Có thể nói không một người Việt Nam nào sống lâu đời tại miền Trung mà không mang ít nhiều dòng máu Champa trong người. Điều này cũng rất dễ khám phá, ít nhất là về hình dáng: da ngăm đen, vai ngang, mặt vuông, tóc dợn sóng, vòm mắt sâu, mắt bầu dục hai mí, mũi cao, môi dầy, miệng kín. Cũng không phải vô tình mà cách phát âm của người miền Trung khác hẳn phần còn lại của đất nước, với nhiều âm sắc thấp của người Champa. Đó là chưa kể những danh từ có nguồn gốc Champa. Cũng không phải tình cờ mà các điệu múa hát của người Chăm trở thành những điệu múa hát trong cung đình và ngoài dân gian thời Nguyễn. Nêu ra một vài trường hợp cụ thể trên để chứng minh một điều: dân cư vương quốc Champa cũ đã hội nhập hoàn toàn vào xã hội Việt Nam. Nhắc lại quá khứ của người Chăm cũng là nhắc lại quá khứ của cộng đồng người Việt tại miền Trung nói chung.”Lời nhận định của Tiến sĩ Nguyễn Văn Huy chắc không xa thực tế mấy. Những cuốn Việt sử xưa nhất đều có chép vụ tháng giêng năm Ất Tị (1365) quân Chiêm đã bắt hàng trăm thanh thiếu niên nam nữ của Đại Việt đang vui chơi Hội Xuân ở đất Bà Dương (Hóa Châu) đem về nước! Bắt về để làm gì? Nếu muốn giết đám trẻ đó, người Chiêm đủ khả năng để giết tại chỗ mà! Tiếp theo, mỗi lần Chế Bồng Nga sang đánh Đại Việt thắng trận lại bắt về không biết bao nhiêu thiếu nữ và đàn bà trẻ để làm gì nếu không phải là làm quà ban thưởng cho các quan quyền làm thê thiếp hay nô lệ? Tới năm Nhâm Ngọ (1402), nhà Hồ chiếm được xứ Động Chiêm và Cổ Lũy của Chiêm Thành, đưa lính tráng vào trước để khai khẩn đất đai tính chuyện ăn ở lâu dài. Thế nhưng năm sau, khi đưa vợ con những người này vào để đoàn tụ gia đình bằng thủy lộ, không may lại gặp bão đánh chìm thuyền bè, hầu hết số người này đều bị chết đuối. Vậy, những người lính làm di dân không may ấy sẽ tìm vợ ở đâu nếu không phải là những đàn bà Chiêm Thành? Tới thời Trịnh Nguyễn phân tranh, các chúa Nguyễn còn đưa bao nhiêu đợt tù binh bắt được của họ Trịnh vào khai khẩn đất Chiêm Thành nữa, họ cũng phải lập gia đình chứ? Nhưng họ dễ gì kiếm được đàn bà Đại Việt khi đang ở trên đất Chiêm!Thực tế như ở Thừa Thiên – Huế, chỉ điểm sơ ở các làng Vân Thê (xã Thủy Thanh), La Vân (La Chữ), An Mỹ (Thế Lại Thượng) đã có nhiều cư dân mang họ Chế. Hỏi dân địa phương họ ước tính người họ Chế trong ba làng đó đã lên tới vài ngàn người. Đó là chưa nói đến các họ khác mà vua Minh Mạng đã ban cho những người Chiêm trên toàn quốc: Bá, Đàng, Hứa, Lưu, Hán, Lộ, Mã, Châu, Ngụy, Từ, Tạ, Thiên, Ức v.v…Đến đây thiết tưởng cũng nên nói sơ về vấn đề “Họ” của người Chiêm một chút:Ngày xưa người Chiêm chưa có họ. Những người đã đạt được một địa vị quan trọng trong xã hội thường tự chọn tên một vị thần, một vị thánh, một vị vua danh tiếng, một đấng anh hùng mình tôn sùng ghép vào tên mình để tăng thêm vẻ tôn quí. Như chữ “Chế”, chữ “Trà” đứng trước tên người mang ý nghĩa như một biểu tượng về một tước vị, một giai cấp cao sang hoặc để “thiên mệnh hóa” cái địa vị đương thời của người ấy. Sau này một số người Chiêm đầu hàng các vua Việt mới được các vị vua ấy ban “họ chính thức” theo ý nghĩa Việt Nam.Đến đời vua Minh Mạng thì nước Chiêm bị sát nhập hẳn vào Việt Nam. Vua Minh Mạng đã bắt buộc những người Chiêm chưa có họ đều phải nhận cho mình một họ trong danh sách các họ do vua chỉ định để triều đình tiện việc thống kê hộ tịch.Ngày nay dân tộc Chiêm đã trở thành một bộ phận không thể tách rời của cộng đồng Việt Nam, lãnh thổ cũ của Chiêm Thành cũng đã trở thành một phần lãnh thổ Việt Nam. Vậy ta có thể coi lịch sử Chiêm Thành như một phần của lịch sử Việt Nam không? Sao lại không được nhỉ? Làm sao phủ nhận được sự liên can lịch sử của triều đại Chế Bồng Nga nước Chiêm Thành với lịch sử thời Trần mạt của Đại Việt? Người viết nghĩ cộng đồng Việt Nam cũng có thể hãnh diện với lòng chung thủy, dám hi sinh mạng sống của mình để giữ tròn trinh tiết với chồng của một vương phi Mỵ Ê, hãnh diện với những công trình văn hóa mà dân tộc Chiêm đã để lại cho đất nước Việt Nam lắm chứ!Còn nữa, nói tới dân tộc Chiêm mà quên nói tới vị vua anh hùng Chế Bồng Nga là một điều thiếu sót! Đó là một vị anh hùng đúng nghĩa, anh hùng chính hiệu!Sở dĩ người viết phải nhấn mạnh điểm anh hùng đúng nghĩa, anh hùng chính hiệu vì ngày nay người ta hay lạm dụng danh hiệu anh hùng quá đáng như anh hùng diệt tăng, anh hùng sản xuất phân xanh, anh hùng lao động v.v…! Danh hiệu này được dùng như một phần thưởng để ban phát một cách vô tội vạ! Điều mỉa mai là vẫn có lắm kẻ mê say nó đến quên mạng! Người viết còn nhớ hồi ở tù cải tạo, có một số bạn tù đói thắt ruột nhưng khi ra lao động vẫn cố gắng cuốc đất tối đa để cuối tuần được bầu làm “anh hùng lao động”! Lạm dụng đến nỗi có người phải than ngày nay là thời đại “ra ngõ gặp anh hùng”!Vậy, phải như thế nào mới xứng đáng là anh hùng chính hiệu?Theo nghĩa nguyên gốc thì anh là vua loài hoa, hùng là vua loài thú. Ngay chữ “anh” đã tự nó xác định cái ý nghĩa đẹp đẽ, thơm tho, tinh khiết của chính nó! Chữ “hùng” thì mang ý nghĩa sức mạnh, khả năng, lòng quả cảm, sự khôn khéo, sự chiến thắng…Hai chữ này đi chung với nhau nó trở thành tiếng kép để chỉ hạng người vượt trội những người khác về mặt tài năng hay đức độ, tạo nên được những thành tích phi thường có lợi cho nhân quần xã hội, ít nhất họ cũng để lại được một tấm gương sáng đẹp cho người đời soi chung.Từ ngữ anh hùng thường chỉ dùng giới hạn trong phạm vi một dân tộc, một đất nước, một liên bang thôi. Không nghe ai nói tới anh hùng quốc tế bao giờ! Để được gọi là anh hùng chính hiệu, nhân vật đó phải được dư luận quốc dân gạn lọc qua một thời gian dài mới định được!Trong bộ sách “Tam Quốc Chí” của văn hào La Quán Trung, ở hồi thứ 21, có đoạn Tào Tháo uống rượu luận anh hùng với Lưu Bị nghe rất lý thú, xin lược lại như sau:Trong khi uống rượu, Tào Tháo hỏi Lưu Bị có biết anh hùng trong thiên hạ đời nay là ai không? Lưu Bị đã nêu lên một số người đang có danh vọng, đang cát cứ một phần lãnh thổ của nước Trung Hoa đương thời, nhưng tất cả đều bị Tào Tháo bác đi. Tào Tháo cho Viên Thuật là nắm xương khô trong mả, Viên Thiệu thì mặt bạo mà gan non, thấy của thì quên mệnh, Lưu Biểu chỉ có hư danh mà không có thực tài, Tôn Sách thì dựa vào uy danh của cha, Lưu Chương là chó giữ nhà, Trương Tú, Trương Lỗ, Hàn Toại… là đám tiểu nhân lúc nhúc không đáng đếm xỉa. Tiếp đó Tào Tháo dõng dạc nói: “Người anh hùng ấy à? Anh hùng phải là người nuôi chí lớn trong tim óc, lại phải có mưu cao kế giỏi, có tài bao tàng cả máy Vũ Trụ trong lòng, có chí nuốt Trời mửa Đất, ấy mới đáng mặt anh hùng chứ!”. Lưu Bị hỏi lại: “Ai là người đáng mặt như thế?”. Tào Tháo không còn úp mở nữa, chỉ thẳng vào Lưu Bị rồi lại chỉ vào mình mà nói: “Anh hùng trong thiên hạ đời nay chỉ có sứ quân và Tháo!”. Lưu Bị nghe rụng rời cả chân tay, đôi đũa ông đang cầm cũng rơi xuống đất…Theo cách luận này thì muốn làm anh hùng quả thật là khó!Mạc Đăng Dung là một tướng có tài, khi triều Lê suy yếu, loạn lạc khắp nơi, ông ra công đánh Nam dẹp Bắc rồi cướp ngôi nhà Lê dựng nên triều nhà Mạc. Công nghiệp như thế nhưng chưa thấy sử sách nào khen ông ta là anh hùng cả! Vì sao? Vì Mạc Đăng Dung chỉ có “hùng” mà không có “anh”! Vì ông đã cam tâm dâng hiến một phần lãnh thổ của Đại Việt cho Trung Hoa để cầu chước bảo vệ ngai vàng, phản lại quyền lợi của dân tộc!Nguyễn Thân, một đại thần triều Nguyễn thời Pháp thuộc là người nhiều mưu lắm kế, giúp Pháp dẹp được rất nhiều cuộc khởi nghĩa, nhất là diệt được phong trào Văn Thân của Phan Đình Phùng. Ông là một vị tướng bách chiến bách thắng, đã được chính phủ Pháp tặng Bắc Đẩu bội tinh đệ ngũ hạng rồi Bắc Đẩu bội tinh đệ tứ hạng. Với triều Nguyễn, ông được phong Cần chính điện Đại học sĩ, Túc liệt tướng Diên Lộc quận công. Bước đường công danh như vậy là đã tột đỉnh. Thế nhưng cuối cùng ông chỉ để lại trong lòng người dân Việt vỏn vẹn cái danh hiệu “Việt gian”! Vì ông cũng chỉ có “hùng” mà không hề có “anh”, cam tâm làm tay sai cho ngoại bang, giết hại những người dân tranh đấu cho quyền lợi dân tộc!Ngược lại, các nhân vật như Triệu Thị Trinh, Trần Bình Trọng, Đặng Dung, Phan Đình Phùng, Đề Thám, Trương Định, Nguyễn Thái Học v.v… là những người không chịu khuất phục trước bọn giặc cướp nước, quyết kháng chiến tới cùng, dù thất bại họ vẫn được quốc dân nhớ ơn thờ kính, xưng tụng là những bậc anh hùng. Tên tuổi họ ngàn năm vẫn sáng ngời trong sử sách!Trở lại chuyện vua Chế Bồng Nga: Khi ông lên ngôi vua thì nước Chiêm vừa trải qua một trận dịch hạch khủng khiếp. Ông vừa lo việc hàn gắn vết thương cũ vừa lo việc phát triển quân đội để tái chiếm những vùng đất cũ của Chiêm Thành đã bị Đại Việt xâm chiếm. Trong bước đầu ông đã thành công rất vẻ vang. Nhờ mưu trí tuyệt vời, quân đội hùng mạnh, ông đã chiến thắng Đại Việt nhiều trận oanh liệt. Nhưng ông không hề nuôi ý định thôn tính Đại Việt. Ông đã sáng suốt nhận ra được những mối nguy sẽ xảy đến nếu Chiêm Thành thôn tính Đại Việt: Thứ nhất, dân Đại Việt sẽ quật cường vùng dậy như nhiều lần trước họ đã làm với người Trung Hoa. Thứ hai, nếu Đại Việt không vùng dậy nổi thì Chiêm Thành sẽ thành ở sát cạnh Trung Hoa, chẳng khác chi con dê phải ở sát cạnh một con báo! Ông đã cố thực hiện một giải pháp khác giữ được an toàn cho nước Chiêm hơn. Ông chủ trương duy trì sự tồn tại của một nước Đại Việt để làm bình phong che chắn thế lực Trung Hoa! Dùng Trần Húc con vua Nghệ Tôn không thành, ông lại định dùng Trần Nguyên Diệu, con thứ vua Duệ Tôn làm con bài chủ cho giải pháp này! Nhưng mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên! Không ngờ cuộc đời của một vị vua anh hùng ngang dọc một thời lại bị kết thúc đau đớn chỉ vì một sơ suất nhỏ! Ông đã không thực hiện được ước nguyện. Nếu Chế Bồng Nga cẩn thận hơn một chút, không biết cục diện khu vực Đông Nam Á ngày nay sẽ ra thế nào! Phải chăng đó là sự dàn xếp của định mệnh?Người viết vốn thích đọc lịch sử nước nhà, đã từng gặp nhiều đoạn sử oái oăm. Đôi khi chỉ cần một sự rủi may nhỏ nhoi cũng đủ làm thay đổi cả một cục diện lớn. Khi đọc qua đoạn sử này người viết không thể không suy nghĩ băn khoăn. Rõ ràng nhân vật Chế Bồng Nga, về nhiều mặt không thể tách rời dòng sử Việt được. Vì thế nên người viết mạo muội gom góp một ít tài liệu viết nên thiên tiểu thuyết lịch sử Chế Bồng Nga: Anh hùng Chiêm quốc.Có một điều người viết xin thưa trước với quí độc giả: Tuy viết tiểu thuyết lịch sử chứ không phải khảo cứu lịch sử, nhưng người viết luôn chủ trương xây dựng tác phẩm của mình không đi quá xa nguồn chính sử! Tiếc rằng tài liệu về nhân vật Chế Bồng Nga trong chính sử quá hiếm và quá ngắn gọn. Về dã sử tuy có nhiều hơn nhưng thường rất mơ hồ, hoang đường nên sự gạn lọc khá khó khăn. Vì vậy, thiên tiểu thuyết lịch sử này có thể vấp nhiều lầm lỗi dễ gây sự hiểu biết sai lạc cho độc giả như nhà văn tiền bối Lan Khai từng vấp phải. Theo chính sử, nhân vật Đỗ Tử Bình là một viên quan tham lam, gian dối, sự gian dối của y đã tạo thành ngòi nổ cho trận chiến Việt – Chiêm năm 1377 mà kết quả là quân Việt đại bại, vua Trần Duệ Tôn bị giết. Thế mà trong tập tiểu thuyết lịch sử Chế Bồng Nga của nhà văn Lan Khai, nhân vật Đỗ Tử Bình lại được biến thành người giết được Chế Bồng Nga, là vị cứu tinh của nhà Trần! Thật sự người bắn hạ được Chế Bồng Nga chính là Đô tướng Trần Khát Chân, lúc đó Đỗ Tử Bình qua đời đã lâu.Hi vọng với sự tiến triển của ngành nghiên cứu sử học, trong tương lai người ta sẽ tìm thêm được những tài liệu lịch sử về nước Chiêm chính xác hơn. Mong quí độc giả ai thấy những thiếu sót trong tập sách này xin chỉ giáo cho. Người viết lúc nào cũng sẵn sàng lắng nghe và xét lại để bổ chính khi sách được tái bản.Sacramento, tháng 3 năm 2011Trân trọng kính chào quí độc giả! Sau khi quân Mông Cổ bị thất bại trong cuộc chiến tranh xâm lược hai nước Đại Việt và Chiêm Thành, hai dân tộc này đã trải qua một thời gian sống hòa bình, thân thiện bên nhau ngót hai mươi năm. Vua Đại Việt Trần Nhân Tôn cũng như vua Chiêm Chế Mân đều rất cảm kích lòng dũng cảm, ý chí bất khuất của nhau trước lũ giặc lớn Mông Cổ. Khi vua Nhân Tôn đã xuất gia, trong một lần vân du sang Chiêm Thành, ngài đã hứa gả người con gái út của ngài là Huyền Trân công chúa cho vua Chế Mân. Thế nhưng khi vua Chế Mân xin thực hiện lời hứa đó, triều đình Đại Việt lúc bấy giờ đã do vua Anh Tôn lãnh đạo lại dùng dằng không muốn chịu. Bất đắc dĩ vua Chế Mân phải dâng hai châu Ô và Rí cho Đại Việt để làm sính lễ. Việc này đã làm cả triều đình lẫn dân chúng nước Chiêm bất mãn.Năm Bính Ngọ*, Huyền Trân công chúa được vua Chế Mân phong làm hoàng hậu. Nhưng cuộc tình duyên này không được lâu dài. Vua Chế Mân sống với Huyền Trân công chúa chưa được một năm thì mất. Hoàng tộc Chiêm Thành tôn hoàng tử trưởng Chế Chí lên kế vị vua cha.Vua Anh Tôn thương em, sợ Huyền Trân sẽ bị hỏa thiêu với chồng theo tục lệ Chiêm Thành – vua mất thì các hậu, phi của vua cũng phải hỏa thiêu theo vua(?) nên sai Đại hành khiển Trần Khắc Chung lập mưu cướp bà đem về Đại Việt.Vụ cướp lại công chúa đã làm người Chiêm càng thêm bất bình. Vua Chế Chí quá tức giận, đã tìm cách chiếm lại hai châu đất cũ. Thế là tình hình giao thiệp giữa hai nước bấy giờ càng ngày càng trở nên căng thẳng. Năm Nhâm Tý*, vua Anh Tôn thân hành đem quân đánh Chiêm Thành. Vua Chế Chí thấy quân Trần quá mạnh, có ý muốn đầu hàng. Ngặt nỗi quân dân Chiêm vì quá phẫn uất, thúc ép ông phải kháng cự. Kết quả vua Chế Chí đã bị bắt sống. Vua Anh Tôn bèn hội các quan ở Đồ Bàn để bàn định việc cai trị nước Chiêm. Vua hỏi:-Nay vua Chiêm đã bị bắt, quân Chiêm đã tan rã, ta có nên nhân dịp này đặt quan lại để cai trị nước Chiêm không?Thiên tử chiêu dụ sứ Đoàn Nhữ Hài thưa:-Đánh bại quân đội một nước có thể dễ nhưng cai trị một nước thì rất khó! Muốn cai trị nước Chiêm không phải bệ hạ chỉ để lại một số quan lại là đủ! Tuy rằng có thể tuyển mộ những binh lính tại địa phương nhưng làm sao tin tưởng chúng được? Còn nếu để lại nhiều binh lính của ta thì rất bất tiện: nào giải quyết vấn đề lương thực, vấn đề tình cảm gia đình, làm sao cho lớp binh lính xa nhà ấy được yên tâm để phục vụ? Chưa hết, nếu lỡ quân Bắc lại sang xâm lấn, lực lượng ta đã bị xé mỏng, bấy giờ tính sao? Theo thiển ý của thần, bệ hạ nên lựa chọn một người nào đó trong hoàng tộc nước Chiêm, phong cho y làm chúa rồi bắt y triều cống hàng năm thì vẫn lợi hơn là cai trị nước Chiêm để rồi gánh thêm bao nhiêu mối lo âu, xin bệ hạ xét định!Các quan đều tán thành ý kiến ấy. Vua Anh Tôn nghe lời, phong cho người em Chế Chí là Chế Đà A Bà Niêm làm Á hầu để cai quản nước Chiêm, lấy hiệu là Chế Năng. Ổn định tình hình nước Chiêm xong, vua Anh Tôn cho rút quân về nước.Nhưng Chiêm Thành thần phục Đại Việt chưa bao lâu lại trở chứng. Do tinh thần phẫn nộ của dân Chiêm về mối hận Ô Rí thúc đẩy, Chế Năng lại bước theo con đường Chế Chí đã đi. Năm Mậu Ngọ* Chế Năng kéo quân xâm phạm hai châu Ô và Rí. Lúc bấy giờ ở Đại Việt vua Trần Minh Tôn đã lên thay vua Anh Tôn, ông cử Huệ Vũ vương Trần Quốc Chẩn đem quân chinh phạt Chiêm Thành. Trước khi xuất quân, vua Minh Tôn nói với Huệ Vũ:-Với uy vũ của thúc phụ, chuyến đi này nhất định phải thành công. Tuy thế, trẫm chưa biết phải xử trí thế nào khi đã chiến thắng. Thúc phụ có cao kiến gì không?Huệ Vũ đáp:-Trước đây Thượng hoàng đã chinh phạt Chiêm Thành, bắt được vua Chiêm. Thượng hoàng có hỏi ý các quan có nên chiếm đất Chiêm không, các quan đều bàn chưa nên. Lý do là sợ phải xé mỏng lực lượng của ta trong khi mối đe dọa của phương Bắc vẫn còn đó. Thượng hoàng bèn lựa một người trong hoàng tộc Chiêm phong làm chúa để y cai quản lấy nước Chiêm, buộc hàng năm triều cống Đại Việt. Lần phạt Chiêm này cũng chẳng xa cách lần trước mấy, tình hình cũng chẳng khác nhau, tôi nghĩ ta cũng nên bắt chước kế hoạch của Thượng hoàng là hơn!Vua Minh Tôn nói:-Nếu thúc phụ cũng có ý ấy, xin thúc phụ cứ tùy tiện!Huệ Vũ bèn cử Hiếu Túc hầu Lý Tất Kiến đi tiên phong. Trong trận đụng độ đầu tiên, quân Chiêm đã kháng cự rất mãnh liệt. Quân Đại Việt thua lớn, Hiếu Túc hầu Lý Tất Kiến bị tử trận. May có Điện súy Phạm Ngũ Lão tiếp ứng kịp thời quân Đại Việt mới chuyển bại thành thắng. Quân Chiêm lại tan tác chạy. Huệ Vũ thừa thế tiến thẳng vào tới Đồ Bàn. Chế Năng hoảng sợ phải dẫn cả hoàng gia chạy sang nương náu ở Java là quê mẹ của ông ta. Triều đình Chiêm Thành như rắn mất đầu, các quan lại, các lãnh chúa người đầu hàng, kẻ chạy trốn hết.Chiếm xong Đồ Bàn, Huệ Vũ bèn cho yết bảng phủ dụ chiêu an dân Chiêm. Ông kêu gọi ai làm công việc gì nay trở về với công việc nấy. Ông cũng ra lệnh cấm tuyệt quan quân Đại Việt quấy nhiễu dân Chiêm. Ai phạm tội nặng như giết người, hiếp dâm đều bị xử chém. Tội vừa như cướp bóc, trộm cắp thì phải chịu đánh đòn, trường hợp nghiêm trọng có thể bị tước quân tịch và bắt làm nô lệ. Nhờ lệnh đó, dân Chiêm có phần yên lòng, dần trở lại làm ăn như cũ.Một hôm Huệ Vũ cho đòi tất cả các quan chức lớn nhỏ cũ của nước Chiêm đã đầu hàng tập trung tại nhà hội Vĩnh Xương trong thành Đồ Bàn rồi tuyên bố:-Trước đây Trần đế đã đánh bại Chế Chí, đáng lẽ ngài đã sát nhập nước Chiêm vào lãnh thổ Đại Việt! Thế nhưng vì lòng nhân ái, ngài đã phong Chế Năng làm Á hầu để cùng các ngươi cai quản nước Chiêm! Không hiểu sao Chế Năng và các ngươi lại ôm lòng phản trắc, gây hấn tạo tình trạng bất an cho dân cả hai nước. Trần triều bất đắc dĩ lại phải ra tay trừng phạt. Nay nước Chiêm thêm một lần nữa coi như đã mất! Với quyền lực trong tay, ta sẽ đặt các quan Đại Việt cai trị dân Chiêm! Còn các ngươi, ta có thể giam vào ngục thất hoặc đày ải làm nô lệ suốt đời cho biết thân, các ngươi nghĩ thế nào?Nghe Huệ Vũ hỏi thế, các quan chức Chiêm Thành đều lộ rõ nét mặt buồn bã lo âu nhưng chẳng ai dám hé môi. Huệ Vũ nhìn khắp bọn họ một lượt rồi nói tiếp:-Ta nói như thế có phải không? Tại sao triều đình Đại Việt đã dung dưỡng các ngươi, trả quyền chức cho các ngươi, cho các ngươi tự cai trị lấy nhau, thế mà các ngươi lại a tòng với kẻ phản bội chống lại Trần triều như các ngươi đã hành động vừa rồi? Tại sao các ngươi không biết khuyên Chế Năng bỏ cái thói ăn cháo đá bát ấy? Một người khuyên y có thể không nghe nhưng nhiều người khuyên lẽ nào y lại chẳng nghe? Cũng bởi các ngươi không tốt nên y mới dễ dàng thuyết phục cùng nhau làm cái việc vong ân bội nghĩa ấy! Kinh nghiệm xương máu đã rành rành trước mắt, Đại Việt ta đâu còn dám để các ngươi tự trị? Chính các ngươi đã tự đưa dân tộc các ngươi đến chỗ diệt vong! Các ngươi còn có lời gì để nói nữa không?Không khí im lặng ngột ngạt bao trùm cả sân hội. Đám cựu quan chức Chiêm Thành hầu hết gục mặt âu sầu tuyệt vọng. Bỗng một cụ già khoảng ngoài bảy mươi lấy can đảm đứng dậy tiến lên quì lạy Huệ Vũ rồi nói với giọng tha thiết:-Bẩm Đại vương, chúng tôi đã lỡ dại phạm tội với thiên triều! Cúi xin thượng quốc mở lượng hải hà bỏ qua lỗi lầm cho lũ mán mọi lạc hậu này! Nếu Đại vương cho nước Chiêm chúng tôi được tự trị một lần nữa, dân Chiêm chúng tôi xin thề chẳng bao giờ còn dám phản bội! Nếu chúng tôi còn phạm lời thề xin trời tru đất diệt!Nghe vị cựu quan già làm thế, nhiều người khác cũng bắt chước nhau cúi lạy Huệ Vũ:-Cúi xin Đại vương mở lượng hải hà tha thứ cho dân Chiêm chúng tôi một lần nữa! Chúng tôi sẽ tuân phục thờ kính thiên triều như thờ cha mẹ, chẳng bao giờ còn dám ăn ở hai lòng!Huệ Vũ đợi đám cựu quan chức Chiêm Thành van lạy một hồi rồi mới hỏi:-Có chắc các ngươi thề không bao giờ còn phản bội thiên triều nữa không?Một thoáng hi vọng lóe lên, đám cựu quan chức Chiêm Thành đồng loạt hô lớn:-Chúng tôi xin thề! Chúng tôi xin thề! Kẻ nào sai lời xin trời tru đất diệt!Huệ Vũ lại nhìn khắp đám người Chiêm sa cơ thất thế một lượt rồi tiếp:-Thề với trời đất không phải là chuyện chơi đâu! Khi được phong tước Á hầu để cai quản dân Chiêm, Chế Năng đã long trọng thề sẽ tuyệt đối trung thành với thiên triều, thế nhưng rồi y lại phản bội lời thề! Kết quả y đã làm được cái gì? Chỉ thấy cảnh xương tan máu đổ giáng lên đầu dân Chiêm! Chính bản thân Chế Năng đã trở thành kẻ vong gia thất thổ khốn đốn ở quê người! Các ngươi phải nhớ bài học đó! May là thiên tử lòng nhân bao la nên cử ta đánh dẹp! Nếu việc này giao cho một tướng khác, chưa chắc các ngươi còn được yên lành như hôm nay! Thấy các nguơi đã biết hối hận về sự phản bội của mình ta cũng động lòng. Ta biết các ngươi chỉ vì ngây ngô dại dột nên bị Chế Năng dụ dỗ hoặc ép buộc phải làm việc quấy thôi! Vốn tình thiên tử thương dân Chiêm chẳng khác gì dân Đại Việt! Ngài đâu muốn để dân Chiêm phải buồn khổ, đau lòng! Khi ta xuất chinh, ngài đã cho phép ta được quyền tùy tình hình mà giải quyết. Để thể hiện lượng khoan hồng của thiên tử, ta sẽ cho nước Chiêm được tự trị một lần nữa, các ngươi nghĩ thế nào?Đám dân Chiêm đang âu sầu ủ rũ như vừa chợt tỉnh ngủ, họ ngơ ngác nhìn nhau như dò hỏi. Nhưng cũng chẳng có một ai lên tiếng. Huệ Vũ lại tiếp:-Quân bất hí ngôn, ta thay mặt thiên tử cho dựng lại nước Chiêm thật đấy! Triều đình Đại Việt muốn có một nước Chiêm mới mẻ biết sống thuận hòa với Đại Việt để dân chúng hai nước cùng được yên ổn làm ăn. Một nước Chiêm mới cần phải có một triều đình mới để cai trị muôn dân. Nhưng muốn có một triều đình vững mạnh phải kết hợp được thật nhiều nhân tài. Các ngươi tất biết rõ những ai hiện ở trong nước đáng mặt nhân tài. Các ngươi hãy thăm dò, vận động, tiến cử những người có tài có đức ấy đứng ra giúp nước. Nước Chiêm có lập lại được hay không là do chính các ngươi! Ta hứa khi nước Chiêm đã được tái lập quân Đại Việt sẽ rút về nước!Nghe đến đây quan dân Chiêm đồng loạt reo vui:-Đội ơn Thánh hoàng! Đội ơn Đại vương! Thánh hoàng vạn tuế, vạn vạn tuế!Huệ Vũ nở một nụ cười tươi tắn:-Đã đồng lòng như vậy, các ngươi phải gắng làm tròn bổn phận của mình! Ta sẽ tiếp tay cho các ngươi!Lúc bấy giờ có viên tù trưởng tên Hiệu cai quản vùng Nghĩa Sơn nổi tiếng là một tay anh kiệt ít người sánh kịp. Trước đây Hiệu đã cùng con là Thủ (Patalsor) từng làm tướng chỉ huy quân Chiêm đánh nhau với quân Đại Việt nhiều trận. Khi Chế Năng chạy trốn sang Java thì cha con Hiệu dẫn một số thuộc hạ ẩn thân vào chốn rừng núi để mưu đồ việc phục quốc. Nay nghe tin vua Trần cho tái lập nước Chiêm, Thủ bàn với cha:-Thưa cha, nay có tin Đại Việt cho gây dựng lại nước Chiêm, không biết có đúng không? Nghe nói họ đang kêu gọi nhân tài nước Chiêm ra lập triều đình mới, cha nghĩ mình có nên tham gia không?Tù trưởng Hiệu nói:-Tin ấy đã được thông báo nhiều nơi, tức là có thật. Chắc là họ sợ người Trung Hoa đánh vào phía Bắc nên muốn r&ua
0 Rating 640 views 0 likes 0 Comments
Read more