Select
Tag Cloud

Anything in here will be replaced on browsers that support the canvas element

  • Facebook
  • Yahoo
  • Google
  • Live
  • Twitter
  • Live
By: On October 3, 2014
MIỀN TRUNG VIỆT NAM VÀ VĂN HOÁ CHĂMPA (MỘT CÁI NHÌN ĐỊA - VĂN HÓA)  Trần Quốc Vượng   I. Lời mở Từ một hai thế kỷ đầu Công nguyên cho đến các thế kỷ XVII-XVIII, trên dải đất miền Trung Việt Nam hiện tại, chủ yếu là từ Đèo Ngang cho đến Hàm Thuận, nhiều thời bao gồm cả Tây Nguyên, đã nảy sinh, phát sáng rực rỡ rồi tắt dần một nền văn minh độc đáo, ta gọi là văn minh Chămpa mà sợi dây liên kết (theo F. Engels: "sợi dây liên kết văn minh là Nhà nước" (xem Nguồn gốc gia đình tư hữu và Nhà nước, 1882) là các nhà nước mà sử sách Trung Hoa, Đại Việt gọi bằng những tên Lâm Ấp, Hoàn Vương, Chiêm Thành, với các miền lãnh thổ - cũng có thể là các "tiểu quốc" xuất hiện trong sử sách Hoa Việt dưới những cái tên Địa Lý, Ma Linh, Bố Chính, châu Ô, châu Lý, Chiêm Động, Cổ Lũy, Thi Bị, Thượng Nguyên, Bôn đà lãng..., hay trong bi ký Phạn - Chàm với những tên Chămpapura, Amaravati, Vijaya, Kauthara, Panduranga, Virapura, v.v... Văn minh Chămpa đã tắt, hay đúng hơn, các nhà nước Chămpa đã không còn tồn tại từ vài trăm năm nay, song tộc Chăm và các tộc bà con theo mẫu hệ còn đó: Chăm H'rê, Chăm H'roi, Raglai, Jarai, Rhaday... Văn hóa Chăm vẫn còn đây, sống động ở Ninh Thuận (với làng gốm Bàu Trúc), Bình Thuận hay là các phế tích "thành lồi', "giếng Hời", "cánh đồng chăm" theo cách gọi của người Kinh - Việt ở Bình - Trị - Thiên, Nam - Ngãi - Bình - Phú, Khánh Hòa - Phan Rang, Phan Rí, Phan Thiết..., những "thánh địa" (sanctuaive) Mỹ Sơn, Đồng Dương, Phong Nha, những cụm/nhóm đền - tháp Chămpa trong thung lũng, trên sườn đồi, chân núi, ven biển, trong rừng sâu..., những dòng họ Ông, Ma, Trà, Chế... với những con người da đồng hun, mũi cao, mắt sâu, tóc xoăn, những huyền tích, những lễ hội Katé, nhiều di tích Chăm và ảnh hưởng văn hóa Chăm còn "nhìn" thấy được và có thể tìm hiểu, nghiên cứu được ở Thanh, Nghệ, Tĩnh, ở châu thổ Bắc Bộ, ở ngay nội đô và ven đô Hà Nội... Và ngôn ngữ Chăm vẫn là sinh ngữ (Ngôn ngữ là sản phẩm/thành phần văn hóa). Người ta bảo "chính trị qua đi, văn hóa ở lại" (Les poliques passent, les cultures restent)". Văn hóa Chămpa đã và vẫn là một bộ phận hợp thành, là những thành tố của phức thể (multiplex) văn hóa việt Nam... Dưới đây, tôi muốn trình ra một cái nhìn địa - văn hóa về Chămpa dựa trên những kết quả thăm dò điền dã nhiều năm qua từ những làng Việt vốn là khu biệt cư (isolat) Chăm ở châu thổ sông Hồng và đặc biệt ở miền Trung, từ chân đèo Ngang tới Xuân Lộc - Biên Hòa, lưu vực Đồng Nai thượng, hạ... Tôi rất yêu quý tộc người Chăm - một tộc người có một nền văn hóa đặc sắc trải mấy phong sương... Một anh bạn Chămpa học (không bao giờ nghĩ rằng tôi giỏi như và hơn anh ấy) bảo rằng có lẽ vì tôi nặng tình với Chămpa nên có duyên với các di tích Chămpa. Có lẽ vậy... II. Bối cảnh và tảng nền địa văn hóa miền Trung 1. Trong bài này, tôi xin phép không nói đến Thanh - Nghệ - Tĩnh cũng thuộc miền Trung, đúng hơn Bắc Trung bộ. Có nhà địa lý học nói rằng trên một ý nghĩa nào đó thì châu thổ sông Mã, sông Lam chỉ là sự "nối dài" của châu thổ Bắc bộ. Tôi không dám nghĩ thế, song về văn hóa - khảo cổ học, từ trước Công nguyên, Thanh - Nghệ - Tĩnh đã là thuộc không gian văn hóa Đông Sơn (chỉ cần kể hai khu di chỉ mộ táng lớn: Đông Sơn (Thanh Hóa), Làng Vạc (Nghệ An). Trước đó nữa, di chỉ Cồn Chân Tiên, xứ Thanh hoàn toàn có chất Gò Bông (Phùng Nguyên) - Đồng Đậu của sơ kỳ Kim khí trung châu sông Nhị và gốm Hoa Lộc (sơ kỳ Kim khí đặc trưng ven biển xứ Thanh) tìm thấy ở nhiều di chỉ xứ Đoài miền Bắc (Gò Mả Đống, Gò Ghệ, Gò Giạ). Trước đó nữa, thì cồn sò hến Đa Bút, cồn Cổ Ngựa và các di chỉ hang động xứ Thanh là thuộc về không gian văn hóa Hòa Bình - Bắc Sơn. Cả giới địa học và dân tộc - văn hóa học đều xem miền núi Thanh - Nghệ là sự nối dài cùng một dải của sơn hệ Tây Bắc Bắc bộ. Cố nhiên, Thanh - Nghệ - Tĩnh đã là không gian Việt cổ (Lạc Việt) và cũng như Giao chỉ (Bắc bộ), Cửu Chân, Ái châu (Thanh), Diễn châu, Hoan châu (Nghệ), Đức châu (Tĩnh) từ đầu Công nguyên (Hán) đã nằm chung trong "lồng" Bắc thuộc Giao Châu rồi An Nam đô hộ phủ thời Hán - Đường, và cùng giành quyền tự chủ chung ở thế kỷ X. Thế kỷ X và đầu thế kỷ XI. Ranh giới phía Nam của Đại Cồ Việt - Đại Việt là Đèo Ngang - Hoành Sơn hayNam Giới (vùng cửa Sót, Hà Tĩnh nay, bên bắc đèo Ngang một chút). Tuy nhiên, cũng cần để ý đến ba chuyện: + Nhiều nhà khảo cổ học cho rằng văn hóa Quỳnh Văn (Nghệ) là cội nguồn của văn hóa Bàu Tró (Quảng Bình) và văn hóa Bàu Tró lại là cội nguồn của văn hóa Sa Huỳnh (Trung Trung bộ): Bắc Trung Bộ và Trung Trung Bộ có quan hệ hữu cơ về Di truyền văn hóa. + Thời gian gần đây đã tìm được trống đồng loại I Heger và đồ đồng Đông Sơn ở nhiều địa điểm Quảng Bình (Phù Lưu), trống Thanh Khê (thố) (Bố Trạch), Quảng Trị (Dak Krông, Hướng Hóa), rìu lưỡi xéo, trống đồng Thừa Thiên (Ô Lai, Phong Điền)... Ngược lại, cũng tìm khuyên tai hai đầu thú kiểu Sa Huỳnh ở Xuân An (nay là thị trấn Xuân An, Nghi Xuân, Hà Tĩnh) dưới chân dải Hồng Lĩnh bên hữu ngạn sông Lam. Gốm Sa Huỳnh ở Cồn Yàng[1] (Hương Trà, Huế) có nhiều mô típ trang trí kiểu Phùng Nguyên - Đông Sơn. Do vậy: + Cái giả thuyết khoa học cho rằng Bình - Trị - Thiên là khu đệm trước công nguyên dăm thế kỷ giữa văn hóa Sa Huỳnh từ Trung Nam Trung bộ tỏa ra và văn hóa Đông Sơn từ Bắc Trung Bộ lan vào, hay đó là vùng giao thoa văn hóa Sa Huỳnh - Đông Sơn vẫn tỏ ra có lý, tuy các di tích cả Sa Huỳnh, cả Đông Sơn, tìm và đào được ở Bình Trị Thiên còn khá mờ, khá ít, thua xa Sa Huỳnh Quảng Nam hay Đông Sơn Thanh Nghệ. Có lẽ còn cần thâm canh khảo cổ sơ kỳ kim khí ở Bình Trị Thiên nhiều hơn nữa mới hiểu được cội nguồn văn hóa Chămpa. + Nghệ An có người Bồ Lô (Poulo = Đảo nhân) ở Cửa Lò, cửa Hội, có Bà Lỗ Man ở cửa Cờn Quỳnh Lưu, Diễn Châu mà sử biên niên ghi ở thế kỷ X (thời Lê Hoàn). Từ đầu Công nguyên, Cửu Chân (Thanh Nghệ), Nhật Nam (Quảng Bình - Quảng Nam) luôn luôn theo biên niên sử Trung Hoa - phối kết nổi dậy chống Bắc thuộc, đặc biệt năm Xích Ô 11 (248) Lâm Ấp đánh chiếm đến Hoành Sơn thì ở xứ Thanh có khởi nghĩa Bà Triệu. Lâm Ấp, Chiêm Thành thường đánh phá Cửu Đức, Đức Châu (Tĩnh) và có lúc chiếm Thanh Nghệ một thời gian (đầu IX). Do vậy cần lý giải thêm quan hệ tộc người và văn hóa Việt (Thanh - Nghệ - Tĩnh) - Chăm (Bình Trị Thiên) ở vùng này. Tôi cho rằng có cư dân ngữ hệ Mã Lai - tiền Chăm ở vùng ven biển Thanh - Nghệ - Tĩnh, chủ nhân các văn hóa Hoa Lộc, Bàu Tró. + Chưa kể sau này (từ XI-XII trở đi) văn hóa Mường - Việt được lan truyền từ Thanh Nghệ Tĩnh vô Bình Trị Thiên và giao thoa với văn hóa Chămpa vùng Bắc. + Hay lại có giả thuyết cội nguồn tiếng nói và tộc người Tiền Việt - Mường hay/và Việt - Mường chung là từ miền Tây Nghệ - Tĩnh - Bình lan tỏa ra miền Bắc của nhiều học giả trong và ngoài nước (P. Ferlus, P. Schneider, G. Diffloth...). + Và từ H. Quarich Wales, Olov Janse ở thập kỷ 30 cho đến nay vẫn có giả thuyết là Chămpa đã là một trong những người thừa kế văn hóa Đông Sơn như G. Condominas đã tìm ra di duệ nghệ thuật Đông Sơn ở cột đâm trâu Tây Nguyên. Vậy cứ còn phải nghiên cứu nữa, nghiên cứu mãi... mà vai trò khảo cổ học là có tầm quan trọng quyết định đối với văn hóa Chămpa. Tiếc rằng Bình Trị Thiên cũng như Tây Nguyên còn là miền yếu của Khảo cổ - Văn hóa học Việt Nam. 2. Kèm theo đây là một sơ đồ - mô hình địa văn hóa Việt Nam, thể hiện cái nhìn của tôi về các vùng địa - văn hóa đa dạng của một Việt Nam thống nhất hôm nay. Nhưng bài này chỉ nói về miền Trung và văn hóa Chămpa. 3. Nói đến miền Trung, ai cũng biết đấy là miền có địa thế hẹp chiều Tây - Đông, dằng dặc chiều Bắc - Nam. Tây là dải Trường Sơn, người Pháp gọi là Chaine annamitique; GS.TS Trần Kim Thạch chia đoạn Trường Sơn Nam, từ Quảng Nam đến Vũng Tàu, gọi nó là Nam Sơn. Trường Sơn mênh mông rừng rậm, với nhiều tầng cây nhiệt đới. Có một dải đồi ở miền chân núi (piérmont) mà người Nga gọi là miền trước núi (pretgorie = sơn cước). Từng đoạn, từng đoạn dải núi - đồi này lại đâm ngang ra biển Đông, chia cắt miền Trung thành từng vùng - xứ - tỉnh; đi từ Bắc vô Nam Trung bộ là ta cứ lần lượt vượt ra "một dèo, một đèo, lại một đèo": đèo Ba Dội, đèo Ngang, đèo Hải Vân, đèo Cù Mông, đèo Cả... ấy là ta chỉ kể các đèo lớn, chứ thật ra còn nhiều đèo khác, chẳng hạn đèo Hoàng Mai - Khe nước lạnh - Lèn Hai Vai khoảng giữa Thanh Nghệ, đèo Lý Hòa - núi Lễ Đế (hay núi Ma Cô - tên này có ghi trong sử) ở giữa Quảng Bình, đèo Bình Đê ở khoảng giữa Quảng Ngãi và Bình Định... Dưới chân đèo là các sông lớn nhỏ, đều chảy ngang theo chiều Tây - Đông ra biển, sông ngắn, nước xanh biếc, ít phù sa, châu thổ hẹp, nhiều cửa sông sâu, tạo thành vịnh cảng là nơi đậu thuyền (landing) rất tốt. Vận động tạo sơn còn "ném" ra biển xa các đảo và quần đảo. Chưa kể các quần đảo san hô xa khơi (Hoàng Sa, Trường Sa), chỉ nói các đảo gần bờ như Hòn Mê - Biện Sơn - Nghi Sơn (Thanh), Song Ngư, Hòn Mát (Nghệ Tĩnh), Hòn Cỏ - Hòn La (2 Hòn La), Hòn Nồm (2 Hòn Chùa), Hòn Gió (Quảng Bình), Cồn Cỏ (Quảng Trị), Cù Lao Chàm (Quảng Nam), Lý Sơn (Quảng Ngãi), Phú Quý (Phú Yên), Hòn Tre (Khánh Hòa)... tạo ra những "bình phong" ngăn chặn bớt sóng gió biển Đông. Bờ biển miền Bắc "lõm" vào đất liền thành vịnh Hạ Long và Bái Tử Long, kỳ quan di sản văn hóa thế giới năm 1994, song lại bị đảo Hải Nam"thút nút" ở bên ngoài. Chất văn hóa biển của Giao Châu - Đại Việt buổi đầu là nhạt. Bắt đầu từ miền Trung, đường bờ biển Việt Nam "ưỡn" cong, "lồi" ra phía biển Đông, hứng gió bão sóng thần thật đấy, song "chất biển" trong văn hóa Chămpa ngày trước, văn hóa các vùng Trung bộ Việt Nam ngày nay rất mặn mòi, như chượp, mắm ruốc, mắm nêm, nước mắm, các loại đặc sản miền Trung. Luồng cá biển cũng chạy gần bờ miền Trung hơn miền Bắc. Miền Trung lại có mùa mưa lệch pha với hai đầu Bắc Nam đất nước (mùa khô Bắc - Nam là từ cuối tháng 10 đến đầu tháng 4). Ở miền Trung mùa hè (tháng 4 - tháng 10) khô nóng, lại gặp gió Tây (gió phơn) rất khô nóng thổi từ Lào qua (xưa bà con ta gọi là "gió Lào") nên, nói như một câu ca dân gian Quảng Trị: "Tháng ba, tháng bốn, tháng khốn, tháng nạn...". Bốn năm liền, từ 1992 đến 1995, cứ vào tháng 7 - tháng 8 tôi vô công tác Quảng Trị, Quảng Bình và hưởng trọn 30/30 ngày nắng gió Tây ngoài cồn cát nóng khô. Càng nóng càng ăn cay, và đấy là một bản sắc văn hóa ăn Chămpa - Trung bộ (Hoàng Phủ Ngọc Tường đã tìm cách giải thích hiện tượng này). 4. Để dễ hình dung, tôi đã mô hình hóa miền Trung thành hình hộp chữ nhật đứng - cạnh Tây là núi đồi - cạnh Đông là biển, với các đèo - sông, chia nó thành các xứ - vùng hình chữ nhật ngang. Từ đó với phương pháp tiếp cận tổng thể (system analysis), tôi "nhìn" miền Trung như một phức sinh thái (multiplex), với 7 hằng số địa lý sau: a) NÚI ĐỒI là sự ngăn cách mà cũng là sự nối tiếp: ĐÈO chính là cái gạch nối: Đèo nối Đông Tây: - Mụ Giạ (Nghệ Tĩnh) - Cha Lo (Quảng Bình) - Lao Bảo (Quảng Trị) - nay là cửa khẩu Quốc tế - Đèo Kiền Quảng Nam, đèo An Khê (Bình Định) qua Gialai và Kontum, Daklak, Dakmil... Đèo nối Bắc - Nam: Đèo Ngang chẳng hạn, mà nhà thơ PTD nói vui: núi ngang (T-Đ), đèo dọc chứ (B-N), sao gọi Đèo Ngang? Hay ở đó có câu của cổ nhân (Bùi Dương Lịch): Thạch thành Lâm Ấp trúc Lục lộ Tử An bình (Lũy đá Lâm Ấp xây Đường bộ Tử An đắp) - Ngô Tử An thời Lê Hoàn được sai làm đường vượt đèo Ngang sang miền Địa lý của Chiêm Thành: "Mùa thu, tháng Tám, Nhâm Thìn (992), sai Phụ quốc là Ngô Tử An đem 3 vạn người đi mở đường bộ từ cửa biển Nam giới đến châu Địa lý" (Toàn thư, Bản kỷ, q.I). Hè 1995, tôi đã di dọc dài lần theo cái gọi là "Lâm Ấp thế lũy" này, từ Hoành Sơn quan (Đông) đến vùng núi Chóp Chài, Quảng Lưu - Quảng Trạch (Tây); Dân gian cũng có người gọi là "Lũy Hoàn vương" - Lũy này là đắp nối các đỉnh của dải đồi trước núi Hoành Sơn về phía Nam (phía Quảng Bình), kè đá tảng rất to chắc, bề mặt có nơi đo được 25m, cao 3-5m (tuy nay bị phá đã nhiều). Sách Tấn thư (q.95) chép năm Vĩnh Hòa thứ 3 (347) vua Lâm Ấp là Phạm Văn đánh Nhật Nam, thông báo với thứ sử Giao Châu Chu Phiên (Phồn) đòi lấy Hoành Sơn làm phân giới, Phạm Văn sai lấy đá đắp lũy và cũng bắt đầu xây thành Khu Túc trên sông Thọ Linh (sông Giang theo Đào Duy Anh). Thơ văn Nguyễn Hàm Ninh (giữa XIX) nói về núi Chóp Chài và núi Vọng Bái ở Quảng Lưu, Quảng Trạch có câu: "Tảng đá vua Lồi còn sót lại[2] Việc công hầu giành giật núi Thành Thang" Thời Trịnh - Nguyễn phân tranh, chúa Nguyễn Nam sông Gianh) sử dụng - cải tạo lại thành Cao Lao (≈ thiềng Kẻ Hạ ≈ thành Khu Túc (theo đoán định của Đào Duy Anh), còn ở Bắc Bố Chính (Bắc sông Gianh), chúa Trịnh cải tạo sử dụng lại hệ lũy Lâm Ấp và núi Vọng Bái. Cũng thơ văn Nguyễn Hàm Ninh viết: Cột cờ chúa Trịnh đổ rồi Dấu dinh lũy còn chơn vơn trên hòn Vọng Bái (Vọng Bái, nay thuộc thôn Tam Đa, xã Quảng Lưu, Quảng Trạch). Thời chống Pháp, chống Mỹ, đây là chiến khu Trung Thuần, với các tướng lĩnh Trần Hường, Đồng Sỹ Nguyên... Các nhà quân sự, từ Chămpa, qua Trịnh - Nguyễn đến ngày nay đều "nhìn" ra tầm quan trọng của các vị trí chốt trên các địa hình vùng Đèo Ngang là việc thường của binh pháp. Theo cán bộ và dân gian Quảng Bình, khoảng năm 1970, tướng quân Võ Nguyên Giáp cũng đã vô đây tổ chức các binh đoàn để chuẩn bị chiến dịch Đường 9 - Nam Lào (tháng 3-1971). b) Chúng ta cũng nên "nhìn" SÔNG - BIỂN như đã "nhìn" NÚI - ĐỒI - ĐÈO, đó là cái nhìn biện chứng, vừa thấy mặt cắt ngăn vừa thấy mặt nối tiếp. Do một trăm năm nay, từ thời thực dân Pháp, với tư duy giao thông bộ, hễ cứ thấy miền nào bị sông ngăn (mà họ lại ít xây dựng cầu đường) là nhà cầm quyền chia đôi bờ sông thành hai đơn vị hành chính khác nhau: ở Bắc: Sơn Tây/Vĩnh - Phúc Yên, Thái Bình/Nam Định (qua sông Hồng)... Bắc Giang/Bắc Ninh (qua sông Cầu)... Ở miền Trung: Nghệ/Tĩnh (qua sông Lam), Bình/Trị (qua sông Sa Lung), Trị/Thiên (qua sông Ô Lâu), v.v... Thật ra, qua tư duy giao thông thủy của bản sắc văn hóa sông nước của việt Nam và miền Trung, đôi bờ sông chỉ là hai nửa của một, từ một làng, một huyện đến một tỉnh, xứ... Từ Chămpa đến Đại Việt - Việt Nam chẳng hạn, đôi bờ sông Thu Bồn - sông Chợ Củi chỉ là hai nửa của một Amaravati - Quảng Nam, đôi bờ sông Côn chỉ là hai nửa của một Vijaya - Bình Định... Sông không chỉ được "nối" bằng các bến đò ngang và hình ảnh "các cô lái đò" đã vào rất sâu folklore và văn hóa Việt Nam. Sông còn là sự nối tiếp Núi - Biển bằng các con đò dọc, bằng bè mảng... Tôi rất thích câu ca dao của hai cảng Hội An, Thi Nại - hai cảng rất cổ từ thời Chămpa đến nay: Ai về nhắn với nậu nguồn Măng le (mít non) chở xuống, cá chuồn gửi lên. Hè 1994, tôi lên công tác ở một huyện trung du xứ Quảng và làm ra cái vẻ có "hiểu biết" về kinh tế, tôi hỏi cán bộ huyện: "Sao các đồng chí không học lối nuôi "cá lồng" dọc sông của miền Bắc?" và được trả lời: "Có đấy, nhưng thất bại vì dân tôi quen ăn đồ hải sản rồi, mà ngày nào chả có thuyền ngược lên đây mua bán hải sản!" Sự ngu ngốc này của tôi có cội nguồn lịch sử: Tôi là người Hà Nội, thuộc châu thổ Bắc bộ đã ở quá xa biển (# 100km) và ở thế hệ bố - mẹ - ông - bà tôi, hầu hết người Hà Nội đều không thích/không ăn được đồ biển, từ cá thu phải nấu lót bằng lá chè tươi (nhiều chất tanin khử mùi tanh) và "chả Sài Gòn" (nem rán) có "đệm" thêm thịt cua bể với thịt lợn, giá, miến... Qua kinh nghiệm điền dã ở miền Trung và cả Tây Nguyên, tôi thấy dân vùng này hay "xài" đồ biển. Tôi cho đó là bản sắc địa - văn hóa, được người Việt thừa kế từ người Chăm, cũng như nươc smắm, mắm nêm, chượp... và rau diếp cá (cho đến nay đa số người châu thổ Bắc bộ không thích/không ăn được rau diếp cá, họ chỉ dùng làm một vị thuốc nam). Bà tiến sĩ Pamela Gutman, Phó Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Đông Nam Á và Thái Bình Dương của Đại học Sidney (Australia) có thông báo cho tôi biết rằng: Các nhà khảo cổ học biển (maritime archaeology) đã tìm thấy một con tàu đắm chở các thùng nước mắm từ Chămpa sang bán cho Roma cổ đại. Tưởng cũng nên nhắc lại rằng trong một cuốn sách của L. Ferrand về các nguồn tài liệu của Ả Rập - Ba Tư từ thế kỷ VIII - đến thế kỷ XIV, khách thương hồ quốc tế đều gọi biển Đông là biển Chămpa. Biển là cái gạch nối giữa không gian văn hóa Sa Huỳnh - Chămpa - Óc Eo với thế giới Đông Nam Á hải đảo - Mã Lai và các không gian văn hóa biển khác, từ Thái Bình Dương qua Ấn Độ dương và v.v.... c- Ngoài NÚI - ĐỒI - ĐÈO - SÔNG - BIỂN, Chămpa cổ miền Trung nay còn có CỒN - BÀU - ĐẦM PHÁ... Để tiện theo dõi có hệ thống, tôi và bạn tôi là GS Mai Đình Yên sẽ đề cập đến các hệ sinh thái ở ngay sau đây. 5. a) Những nghiên cứu mới nhất (xem Mai Đình Yên, Trần Quốc Vượng và các tác giả khác, Môi trường học, Đại học Quốc gia Hà Nội, 1994) đã phân loại các hệ sinh thái tự nhiên làm 3 nhóm: - Nhóm các hệ sinh thái trên cạn. - Nhóm các hệ sinh thái ở nước. - Nhóm các hệ sinh thái ngập nước. Như đã nói ở phần trên (mục 4) miền Trung nay - Chămpa cổ - nằm hẹp giữa núi và Biển, có đầy đủ các kiểu sinh thái trên cạn chính, như: - Hệ sinh thái núi cao; hệ sinh thái hang động. - Hệ sinh thái núi trung bình và thấp. - Hệ sinh thái đồi gò. - Hệ sinh thái châu thổ (đồng bằng). - Hệ sinh thái ven biển. - Hệ sinh thái các đảo. Với cấu trúc đặc trưng là các thảm thực vật - thành phần quan trọng của quần xã rất phồn tạp (GS.TS Thái Văn Trừng, nhà lâm - sinh học tài danh, từ 1978 đã phân thành 19 kiểu thảm thực vật). Các hệ sinh thái ở nước cũng được phân thành các nhóm, các kiểu khác nhau như sau: + Nhóm hệ sinh thái nước ngọt, nước đọng. - Ao - Vũng - Hồ - Đầm (miền Trung gọi là Bàu) - Ruộng nước - Đập nước (Chămpa, theo Ấn Độ, gọi là Barak) - Đất ngập nước Đất ngập nước, từ Quảng Bình đến Nam - Ngãi... nằm giữa hai dải cồn cát Đông/Tây (theo L. Cadieriè) hay Đại/Tiểu Trường Sa (theo Lê Quý Đôn). Dưới chân các Cồn (Dune), thường có các Bàu (Stew) hay các rạch nước. Các nhà khảo cổ thường phát hiện được các di chỉ cư trú ở ven bàu và di chỉ mộ táng ở trên cồn. Vài ví dụ về văn hóa Bàu Tró và Sa Huỳnh - tiền Chămpa: Quảng Bình - Bàu Khê, Bàu Tró, Cồn Nền, Ba Đồn, Cường (Khương) Hà... Quảng Trị - Bàu Đông, Cồ
0 Rating 985 views 1 like 0 Comments
Read more
By: On September 21, 2014
TỪ PANDURANGA ĐẾN PHỦ BÌNH THUẬN (mối quan hệ Đàng Trong và Champa thế kỷ XVII) ĐỔNG THÀNH DANH (bài viết đăng trên tạp chí Xưa và Nay, số 450, tháng 8/ 2014, tr. 32 – 35) v     Đặt vấn đề             Lịch sử quá trình mở cõi về phương Nam của người Việt và mối quan hệ giao lưu giữa Đại Việt và Champa trên mọi bình diện ghi nhận những sự kiện quan trọng vào giai đoạn thế kỷ thứ XVII – XVIII. Nhưng cho đến nay, những sự kiện đó vẫn được ít ai biết đến hoặc chỉ được nhắc đến một cách rất sơ lược, đó là lý do tạo ra những nhận thức còn nhiều hạn chế và sai lầm về một giai đoạn đầy biến động trong tiến trình mở cõi của dân tộc Việt Nam, giai đoạn mạt kỳ của vương quốc Champa, cũng như mối bang giao hai nước trong giai đoạn ấy.             Những hạn chế trên có nguyên nhân của nó. Xuất phát từ những ghi nhận ít ỏi của các cổ sử Việt Nam viết về Champa sau năm 1471 (tức là năm Lê Thánh Tông chính phạt Champa, đánh đến tận kinh đô Vijaya) các nhà khoa học khi khai thác các nguồn tài liệu này thường đưa ra hai mốc niên đại đánh dấu cho sự suy vong của vương quốc Champa đó là 1471 (G. Coedes và G. Maspero)[1] và 1692 (Lê Thành Khôi)[2].             Nhưng trên thực tế, vương quốc Champa vẫn còn tồn tại sau năm 1471, vua Lê Thánh Tông chỉ sát nhập vùng đất phía Bắc đèo Cù Mông vào lãnh thổ Đại Việt (sau này vùng đất mới này được vua Thánh Tông đặt là thừa tuyên Quảng Nam hay là xứ Quảng Nam thời Nguyễn Hoàng), còn phần đất phía Nam đèo Cù Mông được chia ra làm ba nước Hoa Anh, Nam Bàn và Đại Chiêm. Vùng đất Đại Chiêm chính là vương quốc Champa bị thu hẹp lại ở hai xứ Kauthara (Khánh Hòa nay) và Panduranga (Ninh – Bình Thuận nay) do Bồ Trì Trì (một hàng tướng người Chăm) làm vua. Chính vì thế, Champa vẫn còn là một quốc gia độc lập, nhưng lệ thuộc vào Đại Việt dưới thân phận chư hầu[3].              Xa hơn thế nữa, dù năm 1692, biên niên sử triều Nguyễn là Đại Nam Thực Lục ghi nhận về việc Chúa Nguyễn sát nhập vùng lãnh thổ cuối cùng của Champa (Panduranga – Champa)[4]. Nhưng, trên thực tế nếu đối chiếu với văn bản hoàng gia Panduranga – Champa, vương quốc này vẫn còn tồn tại trong các vùng tự trị riêng biệt xen lẫn với phủ Bình Thuận của xứ Đàng Trong, được các văn bản của chúa Nguyễn ghi nhận dưới tên gọi trấn Thuận Thành.             Chính vì những lẽ ấy, trong bài viết này, chúng tôi xin trình bày một cách khái quát về vương quốc Champa sau năm 1471, đặc biệt là những diễn biến quan trọng trong mối bang giao Đại Việt và Champa thời kỳ chúa Nguyễn ở Đàng Trong thế kỷ thứ XVII. Một giai đoạn lịch sử được ghi nhận với sự hoàn thành việc sát nhập lãnh thổ Champa (tiểu quốc Panduranga) vào xứ Đàng Trong và sự hình thành trấn Thuận Thành, phủ Bình Thuận. Hầu từ đó, minh định và làm sáng tỏ các vấn đề lịch sử vẫn còn ít được quan tâm và hiểu biết đầy đủ.   1.      Vương quốc Panduranga – Champa trước năm 1692 Sau cuộc chiến tranh Đại Việt – Champa năm 1471, vua Lê Thánh Tông lấy phần đất từ phía Nam sông Thu Bồn đến phía Bắc đèo Cù Mông (tức là vùng Thừa tuyên Quảng Nam thời Lê, xứ Quảng Nam thời Nguyễn Hoàng vào trấn thủ Thuận - Quảng). Phần đất còn lại của Champa ở phía Nam được chia làm ba vùng : Đại Chiêm, Nam Bàn và Hoa Anh[5]. Trong đó, Đại Chiêm lả lãnh thổ của của Champa bao gồm tiểu quốc Kauthara, Panduranga và sau này còn có thêm tiểu quốc Aiaru ở phía Bắc Kauthara, tức là lãnh thổ của nước Hoa Anh trước kia. Năm 1611, Nguyễn Hoàng sau khi vào trấn thủ Thuận - Quảng sai Văn Phong đánh Champa và lấy đất Aiaru lập ra dinh Phú Yên[6]. Sau biến cố này lãnh thổ Champa thu hẹp vùng đất phía Nam Đại Lãnh, biên niên sử của hoàng gia Panduranga – Champa còn ghi lại niên biểu các vị vua thuộc thời kỳ này. Trong đó, có triều đại Po Mưh Taha với vị vua Po Rome nổi tiếng (1627 -  1653). Đây là vị vua có công giúp nhân dân Champa xây dựng đặp thủy lợi Maren (Ninh Thuận), xây dựng mối đoàn kết giữa các tôn giáo Champa và các cộng đồng dân tộc miền núi vùng cao với miền đồng bằng Champa, xây dựng một nền văn hóa Champa bản địa rực rỡ. Dưới thời kỳ trị vì của vị vua này, nền thương mại của Champa tiếp tục phát triển, Champa tiếp tục xuất khẩu các mặt hàng quý hiếm như kỳ Nam, trầm hương và nhiều hương liệu khác, trong thời kỳ này Champa  không chỉ giao thương với các quốc gia trong khu vực mà còn bắt đầu giao thương với các thuyền buôn phương Tây như Hòa Lan, Bồ Đầu Nha…[7]. Xây dựng được một quốc gia có nền văn hóa rực rỡ và có nền kinh tế phát triển, vua Po Rome và các vị vua kế vị liền tính ngay đến chuyện lấy lại vùng đất cũ. Trong giai đoạn đầu Champa đã cố gắng tìm kiếm cho mình một ý thức hệ tôn giáo, chính trị mới thay thế ý thức hệ Hindu giáo có nguồn gốc Ấn Độ bằng ý thức hệ Hồi giáo. Thông qua đường thương mại, vua Po Rome đã tiếp xúc với ý thức hệ mới này từ các nước Hải Đảo (Mã Lai) và du nhập nó vào Champa. Mặt khác, thông qua mối quan hệ này ông muốn tạo một liên minh quân sự với các tiểu quốc ở Mã Lai hầu xây dựng thực lực quân sự - chính trị nhầm làm đối trọng với chúa Nguyễn ở phía Bắc, không phải ngẫu nhiên mà thời kỳ này vũ khí là mặt hàng giao thương phổ biến giữa Champa với nước ngoài…[8]. Đây có thể là giai đoạn huy hoàng cuối cùng của nền văn mình này trước khi họ chính thức tính toán đến một kế hoạch hầu chiếm lại vùng đất Aiaru xưa (nay đã thuộc xứ Đàng Trong). Năm 1653,  Po Nraop (sử Việt gọi là Bà Tấm hay Bà Thấm) có lẽ là vị vua trị vì sau Po Rome, đã thực hiện thay ông tham vọng của mình hầu chiếm lại vùng đất cũ. Nhưng cuộc phản công này đã thất bại, hoặc chỉ là những dấu hiệu quấy phá nhỏ lẻ ở vùng biên giới. Nhưng đó cũng là cái cớ cho chúa Nguyễn cử binh chinh phạt Champa. Cùng năm đó, chúa Nguyễn sai quân chinh phạt Champa, sát nhập vùng Kauthara – Champa vào xứ Đàng Trong, đặt thành dinh Thái Khang[9]. Đến đây, lãnh thổ Champa chỉ còn thu hẹp lại ở vùng Panduranga. Từ lúc ấy, vương quốc Panduranga cũng chính là vương quốc Champa bị thu hẹp và được gọi là Panduranga – Champa. Nếu như trước năm 165 3, hoạt động ngoại thương của Champa còn phát triển thì sau niên đại này họ hoàn toàn bị co cụm và cô lập, chúa Nguyễn đã kiểm soát toàn bộ bờ biển và từ đây những lưu dân Việt cũng bắt đầu tiến dần về Nam thông qua đường biển đến xứ Gia Định- Đồng Nai để khai phá. Không chịu khuất phục trước chúa Nguyễn, dù vẫn thường xuyên tỏ ra quy thuận, các ông vua Champa vẫn chờ cơ hội phản công. Các vua Champa sau này, tiếp tục nỗ lực tìm kiếm những liên minh quân sự với các nước trong khu vực hầu làm đối trọng với xứ Đàng Trong. Năm 1682, một giáo sĩ Pháp ở Ayudhya đã báo cáo cho tòa sứ về việc nhà vua Champa đã dâng một lá thư thỉnh nguyện về sự liên kết giữa hai nước cho nhà vua Xiêm, đây là một chỉ dẫn thú vị cho bằng chứng về việc người Champa vẫn cố gắng trong nỗ lực tìm kiếm đồng mình trong những giai đoạn cuối cùng này[10].  Một tài liệu khác cho thấy sự cố gắng tìm kiếm một liên minh quân sự với vùng Malacca của vua chúa Champa trong giai đoạn hậu kỳ này, thông qua một tài liệu ghi nhận của William Dampier, nhà thám hiểm người Anh này cho ta biết ngày 13 tháng 5 năm 1687, một đoàn thuyền Champa ghé tại Pulo Ubi (Xiêm) để dừng chân từ đó tiếp tục đến Malacca[11]. 2.      Từ trấn Thuận Thành đến phủ Bình Thuận hay quá trình sát nhập và ổn định vùng đất mới (1692 – 1697) Khi đã nhận thấy mình đủ sức chống lại chúa Nguyễn, vua Champa lúc bấy giờ là Po Soat (1660 -1692) mà sử Việt gọi là Kế Bà Tranh hay Bà Tranh[12],  quyết định tập hợp quân lính, dựng đồn lũy và tấn công vào phủ Diên Ninh thuộc dinh Bình Khang (trước là dinh Thái Khang) với nỗ lực lấy lại vùng đất này. Chúa Nguyễn Phúc Chu cử Nguyễn Hữu Cảnh, lúc bấy giờ đang là Cai cơ trấn thủ ở dinh Bình Khang, tập hợp quân đội đẩy lui cuộc nổi loạn và lấy cớ đó, chúa Nguyễn tiếp tục cử binh vào lãnh thổ cuối cùng của Champa ở Panduranga. Đại Nam Thực Lục chép chi tiết về sự kiện này như sau: “…Mùa thu, tháng 8, vua nước Chiêm Thành là Bà Tranh làm phản, họp quân đắp lũy, cướp giết cư dân ở phủ Diên Ninh. Dinh Bình Khang đem việc báo lên. Chúa sai Cai cơ Nguyễn Hữu Kính (con Nguyễn Hữu Dật bấy giờ gọi là Lễ tài hầu; chữ Tài, có chỗ viết là Thành, lại là Hòa) làm Thống binh, lấy văn chức Nguyễn Đình Quang làm Tham mưu suất lãnh quân Chính dinh…Quý dậu, năm thứ 2 [1693], mùa xuân, tháng giêng, bọn Thống binh Nguyễn Hữu Kính đánh bại Chiêm Thành, Bà Tranh bỏ thành chạy. Tháng 3, Nguyễn Hữu Kính bắt được Bà Tranh và bầy tôi. Chúa sai đổi nước ấy làm trấn Thuận Thành…”[13].       Sau chiến thắng này, lãnh thổ Panduranga – Champa hoàn toàn sát nhập vào lãnh thổ của xứ Đàng Trong, chúa Nguyễn đổi khu vực này thành danh xưng trấn Thuận Thành, chia vùng đất mới này làm 3 khu vực riêng biệt, do các vị tướng đã tham gia cuộc hành quân cai quản. Theo đó, khu vực Phố Hài (Pajai) do Cai đội Nguyễn Trí Thắng nắm giữ, Cai cơ Nguyễn Tân Lễ giữ Phan Rí (Parik), Cai đội Chu Kim Thắng giữ Phan Rang (Parang)[14]. Tháng 8 năm 1693, chúa Nguyễn đổi trấn Thuận Thành thành phủ Bình Thuận, như vậy chúa Nguyễn, chính thức sát nhập phần lãnh thổ mới này vào xứ Đàng Trong. Nhưng do điều kiện của một vùng đất mới tiếp nhận, còn có đông người bản địa cư tụ và tạo điều kiện thuận lợi cho lưu dân Việt vào định cư sau này. Chúa Nguyễn (với sự tham mưu của Nguyễn Hữu Cảnh) thực hiện chủ trương sử dụng quan lại người Chăm ở địa phương, chúa Nguyễn lấy Tả trà viên Kế Bà Tử (Po Saktiraydapatih) em của Kế Bà Tranh làm Khám lý, ba người con Bà Ân làm Đề đốc, Đề lãnh và Cai phủ, bắt mặc quần áo theo lối người kinh và sai về để vỗ yên lòng dân[15]. Mặc dù vậy, do buổi ban đầu tiếp xúc và có nhiều cách biệt, nhân dân bản địa vẫn chưa chấp nhận sự cai trị của chúa Nguyễn và các quan lại người Việt, điều này khiến họ nhanh chống dấy lên một phong trào đấu tranh phản kháng vào tháng 12 năm 1693[16]. Trước làn sống đấu tranh quyết liệt và dựa vào khẩn cầu của Kế Bà Tử, tháng 8 năm 1694, chúa Nguyễn Phúc Chu quyết định hủy bỏ phủ Bình Thuận và tái lập lại trấn Thuận Thành, phong cho Kế Bà Tử làm Thuận Thành vương, hằng năm dâng cống cho chúa Nguyễn như một phiên quốc phụ thuộc[17]. Sau một thời gian nhận thấy tình hình đã ổn định, người bản địa không còn chống đối, những lưu dân người Việt đã vào lập làng, xóm ở vùng đất mới ngày một đông. Năm 1697, chúa Nguyễn lại đặt phủ Bình Thuận, chia phủ Bình Thuân ra làm hai huyện là An Phước và Hòa Đa. Bên cạnh đó, nhầm tránh tạo xáo trộn và tránh những xung đột như năm 1693, chúa Nguyễn vẫn duy trì trấn Thuận Thành, một khu vực hành chính tự trị của người Chăm, trực thuộc phủ Bình Thuận. Trấn Thuận Thành này, khác với trấn Thuận Thành năm 1694. Nếu trấn Thuận Thành của năm 1694 là một đơn vị hành chính tương đương với phủ Bình Thuận, còn trấn Thuận Thành của năm 1697, chỉ là một đơn vi hành chính tự trị riêng biệt của người Chăm, nằm rãi rác và xem lẫn với các khu định cư của người Việt trực thuộc phủ Bình Thuận. Đây là một quy chế tổ chức hành chính hết sức đặc biệt trong hoàn cảnh mới tiếp quản vùng đất mới, trong điều kiện cộng đồng người Việt đến định cư và khai phá, sống xen lẫn với các khu vực của người Chăm bản địa. Đại Nam Thực Lục, tài liệu duy nhất nói về trấn Thuận Thành không cung cấp nhiều chi tiết về khu vực hành chính đặc biệt này. Nhưng biên niên sử Champa cho thấy trấn Thuận Thành, sau năm 1697, chỉ là cách triều đình chúa Nguyễn gọi về vương quốc Panduranga – Champa với một triều đình, luật pháp, quân đội riêng…vẫn được duy trì, lệ thuộc vào phủ Bình Thuận của xứ Đàng Trong và tồn tại cho đến thời cải cách hành chính của Minh Mạng (1832 – 1833)[18]. Mặc khác, những tài liệu trích dẫn của phương Tây cũng cho thấy sự hiện diện của đặc khu hành chính tự trị của người Chăm này trong giai đoạn thế kỷ XVIII. Tài liệu của một chiến thuyền Pháp đã nhắc đến một triều đình người Chăm đóng đô ở Bal Chanar (Phan Rí) vào năm 1745. Họ còn miêu tả bên cạnh các ông vua ngươi Chăm này là một viên quan cố vấn người việc có vai trò quan trọng trong mọi quyết định của hoàng gia[19].   Nếu như đối chiếu và so sánh biên niên sử của chúa Nguyễn và của người Chăm Panduranga – Champa, cũng như những tài liệu của các thuyền bè phương Tây, chúng ta có thể nhận thấy rõ dấu hiệu hiện diện của mô hình đặc biệt này trong giai đoạn 1697 đến 1832. Đây là một đặc khu hành chính được hình thành trong giai đoạn người Việt vừa mới tiếp quản vùng đất mới, di dân Việt mới đến định cư ở vùng đất mới, cư dân người Chăm bản địa chưa quen sự thống trị của tộc người khác, hai dân tộc bước đầu cộng cư chắc chắn sẽ có nhiều hiểu nhầm và mâu thuẫn. Do đó, việc hình thành trấn Thuận Thành có vai trò chuyển tiếp trước khi chính thức sát nhập các địa hạt của người Chăm vào lãnh thổ Bình Thuận một cách ổn định không tạo nên những mâu thuẫn và xung đột giữa hai cộng đồng. Chính vì những lẽ ấy, vai trò của trấn Thuận Thành trong lịch sử mở cõi của người Việt và mối quan hệ giao lưu, hòa hảo giữa hai dân tộc có một vai trò và vị trí rất quan trọng, nó cần được lịch sử ghi nhận một cách chi tiết và công minh. v     Kết Luận Bài viết này của chúng tôi vừa phác thảo về một giai đoạn đầy biến động trong hành trình mở cõi của người Việt về đất phương Nam và mối giao lưu giữa hai cộng đồng tộc người Việt – Chăm thế kỷ XVII. Nó ghi nhận lại một giai đoạn trong lịch sử hai dân tộc với những xung đột, giao tranh, nhưng bên cạnh đó và hơn hết nữa là mối quan hệ giao lưu, cộng cư giữa hai cộng động tộc người, sự hình thành phủ Bình Thuận và trấn Thuận Thành lệ thuộc nó là một sự kiện lịch sử có thật cần được ghi nhận. Từ sự kiện ấy, lịch sử của vùng đất Ninh – Bình Thuận (ngày nay) sẽ được khắc họa một cách sinh động, từ đó chúng ta có thể nhận thức rõ ràng và đầy đủ về một giai đoạn chuyển tiếp từ xứ Panduranga (Champa) sang phủ Bình Thuận (Đàng Trong). Đó là một thời kỳ mà hai dân tộc Việt – Chăm cùng cộng cư, lao động, tiếp biến và trao đổi các giá trị văn hóa tạo nên một bản sắc văn hóa phong phú và đa dạng của địa phương nói riêng và của cộng đồng các dân tộc Việt Nam nói chung. v     Tài liệu tham khảo 1.      Abdullah Zakaria bin Ghazali, “Historical And Cultural relations between The Malay World And Indochina In Malay” đăng trong Pinisule Indochioise Et Monde Malais, EFEO, Kuala Lumpur, (2003). 2.      Coedes (G), Les Etats hinduisés d’Indochine et d’Indonésie, De Boccard, Paris, 1964. 3.      Dampier (William), A New Voyage Round the World, The Argonaut Press, London, 1927. 4.      Dohamide – Dorohiem, Dân tộc Chàm lược sử, Saigon, 1965. 5.      Đào Duy Anh, Đất nước Việt Nam qua các đời, Nxb. Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 2005. 6.      Danny Wong Tze Ken, The Nguyen and Champa during 17 and 18 century, IOC – Champa, San Jose, 2007. 7.      Lê Thành Khôi, Le Vietnam: Histoire et Civilisation, Edit de Minuit, Paris, 1955. 8.      Lafont (P-B), “On relations between Champa and Southeast Asia”, trongProceedings of the Seminar On Champa, Paris, (1988). 9.      Maspero (G), Le Royaume de Champa, Van Oest, Paris, 1928. 10.Nhiều tác giả, Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Nxb. Hà Nội, Hà Nội, 2003. 11.Po Dharma, Le Panduranga(Campa) 1802-1835, EFEO, Paris, 1987. 12.Quốc Sử Quán Triều Nguyễn,  Đại Nam Thực Lục – Tiền Biên, tập 1, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2002.   [1]
0 Rating 1k+ views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On September 19, 2014
L?CH S?-N?N V?N MINH CHAMPA Tr
0 Rating 9.8k+ views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On September 12, 2014
Một ngôi đền Hindu bằng đá ong tại Thung lũng Bujang, bang Kedah, Malaysia, thế kỷ 11-12. Địa danh Amaravati xuất hiện trong văn khắc Chàm vào cuối thế kỷ 11 (1081)(1) để chỉ vùng đất bao gồm Quảng Nam và Đà Nẵng ngày nay với hai cửa biển lớn là Cửa Đại và Cửa Hàn. Amaravati được xem là trung tâm của vương quốc Chămpa trong nhiều thế kỷ nơi sở hữu một cảng-thị sầm uất trên “con đường tơ lụa trên biển” là Đại Chiêm Hải Khẩu. Đế chế Chola và mối quan hệ Nam Ấn-Chămpa trong các thế kỷ 11-13 Mối quan hệ hải thương giữa tiểu lục địa Ấn Độ/Nam Ấn và miền Trung Việt Nam/Chămpa đã xảy ra rất sớm từ các thế kỷ đầu Công nguyên. Văn hóa nghệ thuật Nam Ấn đã ảnh hưởng sâu sắc đến văn hóa Chămpa trong nhiều thế kỷ. Chẳng hạn niên đại dùng trong văn bia Chămpa từ thế kỷ 7 tính theo lịch Saka của Nam Ấn; những pho tượng Phật bằng đồng sớm nhất của Chămpa tìm thấy ở Đồng Dương, Quảng Nam, thế kỷ 6-7, thuộc trường phái Amaravati hoặc Andhnapura cũng xuất xứ từ Nam Ấn. Đặc biệt, vào thế kỷ 11 khi đế chế Chola kiểm soát con đường hải thương nối liền Nam Ấn và Đông Nam Á trải dài cho đến vùng Hoa Nam thì mối quan hệ hải thương giữa thương nhân Tamil và cảng-thị Tuyền Châu tỉnh Phúc Kiến rất thịnh đạt, họ đã xây dựng nhiều ngôi đền Ấn giáo tại Tuyền Châu từ thế kỷ 11 - 13 để phục vụ cho cộng đồng thương nhân Tamil và cho các tín đồ Ấn Độ giáo sinh sống tại đây, mà ngày nay vẫn còn hơn 300 vết tích của kiến trúc và điêu khắc Hindu tồn tại ở cảng-thị này(2); trong bối cảnh đó, các cảng-thị Chămpa đương thời chắc hẳn phải đóng một vai trò quan trọng ở vị trí trung chuyển trên tuyến hàng hải nhộn nhịp nối liền giữa hai vùng đất. Đài thờ thể hiện bốn con voi trước một tòa sen bố cục bằng các đường kỷ hà; loại đài thờ này phổ biến trong nghệ thuật Chàm vào thế kỷ 11-12. Hiện trưng bày tại Bảo tàng Văn hóa Sa Huỳnh-Chămpa, Trà Kiệu, Duy Xuyên, Quảng Nam. Đền-tháp Ấn giáo và Phật giáo của Chămpa được xây dựng để thể hiện quyền lực của hoàng gia và để thu hút sự chiêm bái của thương nhân quốc tế trên hải trình từ Nam Á cho đến Đông Á. Ngọn núi thiêng Mahaparvata/Hòn Đền của Mỹ Sơn được ngưỡng vọng từ xa trên một vùng biển rộng từ Đà Nẵng đến Cù lao Chàm và Hội An, đó là cột mốc của tiểu quốc Amaravati Chămpa đối với các nhà du hành ven biển. Văn hóa truyền thống Ấn Độ rất chú trọng việc cúng dường để xây dựng các công trình tôn giáo, đặc biệt, phong tục này được khuyến khích dưới vương triều Chola ở miền Nam Ấn từ thế kỷ 9-13. Các thương nhân người Tamil của vương triều hùng mạnh này đã cúng dường rộng rãi để xây dựng nhiều đền-tháp Phật giáo và Ấn giáo cho khách hành hương tại đây. Ngôi đền Phật giáo nổi tiếng ở Nagapattinam tại Nam Ấn được xây dưới triều vua Narashimhavarman II vào cuối thế kỷ thứ 7 (khoảng 695-722) và được cúng dường lớn để tôn tạo dưới triều vua Chola Rajaraja I vào năm 1006, ngôi đền này được xây dành cho thương nhân ngoại quốc cùng với nhiều ngôi đền Ấn giáo ở Tuyền Châu vào thế kỷ 12-13. Những hoạt động tôn giáo của thương nhân Tamil đã tạo nên những ảnh hưởng văn hóa sâu sắc đến các vương quốc Đông Nam Á đương thời, kể cả Chămpa(3). Theo những ghi chép của Mã Hoan trong sách Doanh Nhai Thắng Lãm (Khảo sát tổng quát các bờ đại dương) được soạn thảo khoảng năm 1434-1436, cho biết rằng vua Chămpa đương thời là người Chola hoặc thuộc dòng dõi Ấn Độ.(4) Để tạo dựng những công trình tôn giáo quy mô rất tốn kém trong khắp vương quốc, các vương triều Chămpa có thể đã nhận được sự cúng dường rộng rãi của tầng lớp quý tộc và thương nhân nước ngoài lưu trú tại các cảng-thị của vương quốc này. Gần đây, những phát hiện tại nhóm tháp G của Mỹ Sơn đã cung cấp những chứng cứ để tìm hiểu về việc cúng dường tôn tạo đền đài Ấn giáo của Chămpa. Trong các cuộc khai quật để phục vụ trùng tu tại nhóm tháp G của Mỹ Sơn, các chuyên gia người Ý đã phát hiện được ba viên gạch-trang-trí-góc-tháp có khắc ký tự chữ Hán là “Trần” (陳);(5) những viên gạch này hiện trưng bày tại Bảo tàng Mỹ Sơn. Chữ “Trần” này có nhiều khả năng là tính danh của một thương nhân Hoa kiều lưu trú tại Champapura (Đại Chiêm Hải Khẩu/Chiêm Thành [?]), người đã cúng dường để góp phần xây dựng ngôi đền quốc gia của vua Jaya Harivarman. Việc cúng dường để xây dựng ngôi đền chính của nhà vua tại thánh đô của vương quốc cũng chính là để thể hiện uy tín của các thương nhân ngoại quốc đối với cộng đồng của họ. Tại các cảng-thị của Chămpa từng có nhiều cộng đồng thương nhân nước ngoài sinh sống(6), trong đó thương nhân Hoa kiều có thể đã đóng một vai trò đáng kể. Điều này có thể được khẳng định thêm khi mà nhóm tháp Mỹ Sơn G được xây dựng vào giữa thế kỷ 12, đây chính là thời kỳ sôi nổi của hoạt động giao thương giữa hai miền Hoa Nam và Nam Ấn, mà, Chămpa là một trung tâm chuyển tiếp như sẽ đề cập ở phần sau. Theo các nhà nghiên cứu, những thương nhân nước ngoài sinh sống tại các cảng-thị lớn của Chămpa có thể bao gồm người Ả Rập, Tamil, Bắc Ấn, Trung Hoa, Mã Lai, Khmer, Việt… cho nên tiếng Chăm đã tiếp thu nhiều từ vựng của các ngôn ngữ này(7). Đài thờ duy nhất bằng sa thạch có bố cục vuông thể hiện tòa sen bằng những đường kỷ hà, phát hiện tại Thung lũng Bujang, bang Kedah, Malaysia, thế kỷ 11.Ảnh: T.K.P Năm 2006, tôi đã có dịp đến khảo sát tại di tích Thung lũng Bujang thuộc bang Kedah ở phía tây-bắc bán đảo Malaysia. Đây là một di tích Ấn giáo và Phật giáo phong phú nhất của Malaysia được phát triển trong nhiều thế kỷ, từ thế kỷ 8-13. Di tích này tọa lạc ở một cửa sông lớn giữ vai trò của một cảng-thị trọng yếu trên những tuyến hải thương ở Ấn Độ dương. Vào năm 1025, vua Chola Rajendra I đã từng chinh phục cảng-thị này và đặt tên cho nó là Kadaram (Kedah)(8). Tại đây, tôi đã nghiên cứu một đài thờ vuông bằng sa thạch có bố cục và trang trí tương tự nhiều tác phẩm điêu khắc của Chămpa trong thế kỷ 11-12. Loại đài thờ này thể hiện một tòa sen cách điệu bằng nhiều đường gờ, chỉ xuất hiện phổ biến trong nghệ thuật Chàm vào thế kỷ 11-12, mà tiêu biểu là Đài thờ Vũ nữ Trà Kiệu (trưng bày tại Bảo tàng Điêu khắc Chăm-Đà Nẵng), Đài thờ bốn con voi Duy Trinh (trưng bày tại Bảo tàng Văn hóa Sa Huỳnh-Chămpa tại Trà Kiệu); một số đế tháp bằng sa thạch bố cục tòa sen của các nhóm tháp Mỹ Sơn. Những đài thờ vuông hình tòa sen của Thung lũng Bujang và của Chămpa đã nêu trên là chứng cứ sinh động cho mối quan hệ nghệ thuật trong vùng Đông Nam Á thông qua ảnh hưởng nghệ thuật của Chola. Vai trò trung chuyển của Amaravati trên tuyến hàng hải Hoa Nam - Nam Ấn Một sự kiện kinh tế lớn đã xảy ra vào đầu thế kỷ 11 đã khuếch trương mối quan hệ hải thương giữa hai miền Nam Ấn và Hoa Nam, đó là chính sách tài chính tân tiến và kỹ nghệ đúc tiền đồng cùng với chính sách hải thương cởi mở của triều Nam Tống (1127-1279). Tất cả đã ảnh hưởng tích cực đến sự phát triển thương mại toàn vùng Đông Nam Á mà trực tiếp là Chămpa, vốn là cơ sở trao đổi hàng hóa cao cấp gần gũi nhất với vùng Hoa Nam(9). Là trung gian lớn trong mối quan hệ hải thương, phát huy được tối đa lợi thế của hệ thống cảng-thị ven biển như những trạm trung chuyển hàng hóa và cung cấp các mặt hàng lâm sản quý cho thị trường quốc tế, trong thời kỳ này nền kinh tế Chămpa rất thịnh đạt. Nhờ đó, kỹ thuật xây dựng đền-tháp Chàm được cải thiện hoàn hảo dưới ảnh hưởng nghệ thuật của Chola, điều này được chứng minh bởi các nhóm đền-tháp Ấn giáo to lớn xây dựng tại Châu Amaravati Chămpa, như các tháp Mỹ Sơn B1, C1, D2, E4, Chiên Đàn, Khương Mỹ, Bằng An… Một hiện tượng đáng ngạc nhiên, những yếu tố ảnh hưởng của nghệ thuật Chola đã xuất hiện trong nghệ thuật Chàm vào các thế kỷ 11-13 nhưng cho đến nay vẫn chưa có một minh văn nào bằng tiếng Tamil được phát hiện trong lãnh thổ Chămpa. Trong khi đã có nhiều minh văn của ngôn ngữ này được tìm thấy tại hầu hết các vương quốc cổ ở Đông Nam Á và ở Tuyền Châu, Phúc Kiến. Vào giữa thập niên 1990, đoàn nghiên cứu của giáo sư Noboru Karashima, gồm nhiều chuyên gia về ngôn ngữ và văn tự Tamil thuộc Đại học Tokyo, Nhật Bản, đã đến khảo sát tại miền Trung Việt Nam để tìm kiếm các văn bia Tamil, nhưng lúc đó ông chưa tìm được một tiêu bản nào. Có thể kỳ vọng rằng trong tương lai, những phát hiện mới về khảo cổ học Chămpa sẽ bao gồm những minh văn bằng tiếng Tamil để góp phần làm sáng tỏ hơn mối quan hệ Chola-Chămpa vào thế kỷ 11-13 khi nó đóng một vai trò tích cực trong sự phát triển kinh tế-xã hội của vương quốc Chămpa đương thời. TRẦN KỲ PHƯƠNG (1) Majumdar, R.C., 1985, Champa: History and Culture of an Indian Colonial Kingdom in the Far East, 2nd -16th Centuries A.D., [Lịch sử và Văn hóa của một Vương quốc Ấn Độ Thuộc địa ở Viễn Đông, thế kỷ 2-16], Book III, The Inscriptions of Champa, tr. 167, Gian Publishing House, Delhi. (2) Guy, John, 2001, ‘Tamil Merchant Guilds and the Quanzhou Trade’[‘Phường hội Thương nhân Tamil và Thương mại Tuyền Châu’], The Emporium of the World: Maritime Quanzhou, 1000-1400 [Trung tâm Thương mại Thế giới: Hải thương Tuyền Châu, 1000-1400] , tr. 296-302[283-307], (chủ biên) Angela Schottenhammer, Brill, Leiden-Boston-Koln. (3) Ray, Himanshu Prabha, 2014, ‘Maritime Landscapes and Coastal Architecture: The Long Coastline of India’[‘Những Cảnh quan Hải thương và Kiến trúc Ven biển: Duyên hải dài của Ấn Độ’], Mausam: Maritime Cultural Landscapes Across the Indian Ocean [Gió Mùa: Những Cảnh quan Văn hóa Hải thương Xuyên Ấn Độ Dương], tr. 1-18, (chủ biên, Himanshu Prabha Ray), National Monuments Authority, New Dehli. (4) Ma Huan, 1970, Ying-yai sheng-lan, "The Overall Survey of the Ocean's Shores" [1433] [Doanh Nhai Thắng Lãm, “Khảo sát Tổng quát các Bờ Đại dương”], tr. 79, chú thích 6, translated from the Chinese text edited by Feng Ch'eng-Chün with introduction, notes and appendices by J. V. G. Mills, Cambridge. (5) Zolese, Patrizia, 2009, ‘Results of the Archaeological Investigations at Mỹ Sơn G Group (1997-2007)’[‘Những kết quả thăm dò khảo cổ học tại Nhóm tháp G Mỹ Sơn (1997-2007)’], Champa and the Archaeology of Mỹ Sơn (Vietnam), tr. 197-237, (chủ biên, Andrew Hardy, Mauro Cucarzi và Patrizia Zolese), NUS Press, Singapore. (6) Hardy, Andrew, 2009, ‘Eaglewood and the Economic History of Champa and Central Vietnam’[‘Trầm hương và Lịch sử Kinh tế miền Trung Việt Nam’], Champa and the Archaeology of Mỹ Sơn (Vietnam), tr. 111 [107-26], (chủ biên, Andrew Hardy, Mauro Cucarzi và Patrizia Zolese), NUS Press, Singapore. (7) Maspero, Georges, 1928, Le Royaume de Champa [Vương quốc Chămpa], tr. 7, chú thích 4, Paris et Bruxelles, G. Van Oest. (8) Christie, Wisseman, 1998, ‘The Medieval Tamil-language Inscriptions in Southeast Asia and China’ [Những văn bia tiếng Tamil thời trung cổ ở Đông Nam Á và Trung Hoa], Journal of Southeast Asian Studies, 29 (2), September 1998, tr. 254 [239-268] (9) Wade, G., 2009, ‘An Early Age of Commerce in Southeast Asia, 900-1300 CE’[‘Một Thời kỳ Thương mại Sớm ở Đông Nam Á, 900-1300 CN’], Journal of Southeast Asian Studies, 40 (2), June 2009, tr. 222-31[221-265]. theo baodanang.vn
0 Rating 264 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On August 6, 2014
Trần Can Không là nhà nghiên cứu, chuyên viên về lịch sử, văn minh, văn hóa các dân tộc sinh sống trên mảnh đất hình chữ S nầy, tôi xin mạo muội có vài ý kiến nhân cuộc đàm thoại với một nhà nghiên cứu Pháp, Regina Nether-Legrand, vào năm 2008, tại Hội An về đề tài: Ai là những người thừa kế văn hóa Chăm? * Lm. Nguyễn Trường Thăng đang trong bệnh viện. Năm 2008, lúc còn làm cha quản xứ Hội An, một ngày có một phụ nữ Pháp đến thăm và muốn tìm hiểu về văn hóa Chăm mà theo cô, qua sự gợi ý của nhiều người, linh mục Antôn cũng có một chút hiểu biết. Cuộc trò chuyện thật thú vị vì cô cho biết đã sang Việt Nam mấy lần tìm tài liệu để hoàn thành một luận án về ngành Bảo tàng học. Thời gian trôi qua và một ngày tôi nhận được bản thảo luận án gồm hai tập. Cô cho biết chưa có thời gian để bảo vệ. Chắc hôm nay cô đã bảo vệ thành công. Đề tài luận án khá dài: Bảo tàng học về những bộ Sưu tầm Champa trong ba bảo tàng Việt Nam: Bảo tàng Lịch sử quốc gia Việt Nam: Bảo tàng Điêu khắc Chăm Đà Nẵng; Bảo tàng Lịch sử Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh. Một nghiên cứu so sánh: những giai đoạn hiện đại và thời thuộc địa. (La Muséographie des Collections du Champa dans trois musées vietnamiens: La Musée National d’Histoire du Vietnam; le Musée de Sculpture Cham de Da Nang; le Musée d’Histoire Vietnamienne de Hochiminh-Ville). Une étude comparative: les périodes contemporaine et coloniale). Trong luận án đó cô Regina Nether –Legrand có nhiều lần nhắc đến linh mục Antôn và đề cao bộ sưu tập Trà Kiệu mà cô gọi là Musée de Tra Kieu (Bảo tàng Trà Kiệu). “Tôi cũng muốn nói vài chữ về Bảo tàng Trà Kiệu vì cái mẫu nầy xem ra đáng nêu gương… Đây không hề là một sáng kiến mới mẻ. Những hiện vật mà người dân Trà Kiệu khi làm đất tình cờ tìm được đã hơn 20 năm rồi. Cha Antôn Nguyễn Trường Thăng đã bắt đầu sưu tập chúng. Những người quy tụ quanh vùng đổ nát trong giai đoạn đầu theo như Cha Antôn nói thường là người công giáo, vì nói chung chung thì người Việt mê tín và sợ các âm hồn. Họ tránh xa áp lực của chiến tranh. Họ đã tìm gặp nhưng hiện vật Chăm nầy đang khi làm đất. Một số hiện vật đã được tặng cho Cha Antôn, số khác thì ngài mua. Đất nước lúc đó đang trãi qua một tình trạng khó khăn. Sưu tập những hiện vật nầy cũng là cách thức làm sống lại sự vĩ đại của Trà Kiệu.. Than ôi, điều kiện hiện nay của thị trường nghệ thuật ngăn cản Cha Antôn tiếp tục sưu tầm, nhưng cái bảo tàng nhỏ của Cha còn đó. Theo cha Antôn, sự độc đáo của nó chính là đời sống thường thật của người dân Champa. ..”. (J’ai envie de dire deux mots sur le Musée de Tra Kieu, car l’exemple me semble édifiant. Il ne s’agit nullement pas d’une initiative récente. Les premiers objets ont ete trouvés par hasard par les habitants de Tra Kieu lorsqu’ils travaillaient la terre, il y a plus de vingt ans. Le Pere Antoine Nguyen Truong Thang a commencé a les collectionner. Ceux qui dans une première phase se sont installés dans las proximités des ruines seraient surtout des catholiques, au dire du Pere Antoine, car les Vietnamiens en general sont superstitieux et ont peur des âmes. Ils fuyaient la pression de la guerre. En travaillant la terre ils ont trouvé des objets du Champa. Certains de ces objets ont été offert au Pere Antoine, il a achetés d’autres. Le pays traversait alors une situation difficile. Collectionner ces objets c’était en quelque sorte faire revivre la grandeur de Tra Kieu… Hélas, les conditions actuelles du marche de l’art empêchent la Père Antoine de continuer sa collection, mais son petit musée est la. Sa spécifité, selon le Pere Antoine, est la vie quotidienne des habitants du Champa.) Trong cuộc tiếp xúc hôm đó có nhiều điều thú vị nhưng chuyện so sánh giữa các bảo tàng về văn hóa Chăm xưa và nay thì linh mục Antôn không quan tâm lắm, nhưng khi nêu lên vấn đề “ai là thừa kế văn hóa Chăm”, một câu hỏi khá hóc búa, linh mục tham gia góp ý khá hăng say. Theo như cô quan sát và nhiều chuyên gia nhận xét thì hình như người Kinh nhìn văn hóa Chăm tựa một cái gì đó tuy độc đáo nhưng riêng lẻ của một nhóm thiểu số, không liên hệ gì đến văn hóa Việt (kinh), một nền văn minh suy tàn và đã biến mất trong lịch sử. Bảo tàng Chăm hay một phần trong bảo tàng lịch sử được coi như nơi tham quan của khách du lịch, hay các nhà nghiên cứu thích đồ cổ. Một nền văn hóa đã mai một với thời gian và xem ra không có người thừa kế. Đến đây thì linh mục Antôn nhổm dậy và không đồng tình. Lúc nhỏ, linh mục hãnh diện là người Việt, về cha ông đã “mang gươm đi mở nước’ và thích thú đọc các bảng gia phả đất Quảng, tự hào với hai từ “bình Chiêm”. Càng lớn lên, linh mục không còn hứng thú với những ý tưởng đó. Người việt, người Chăm không có thể thay đổi lịch sử, cũng như Hoa Kỳ, Australia không quay lại sống lịch sử ba trăm năm về trước được. Tuy nhiên không nên có thái độ một chiều phóng đại, tự cao coi thường “bên thua cuộc”. Việc đại đoàn kết dân tộc, 54 dân tộc trên quê hương Việt Nam, sẽ không bao giờ giải quyết được nếu “bên thắng cuộc” cứ tiếp tục hành xử cao ngạo , khinh thường những kẻ chiến bại. Trước câu hỏi: Ai là những người kế thừa văn hóa Chăm. Linh mục Antôn đã trả lời với cô: Chúng tôi đây, cư dân Miền Trung từ Hà Tĩnh trở vào. Tuy người Chăm phải rút lui khỏi nhiều vùng đất sau chiến tranh Chiêm Việt, nhưng không phải là toàn thể người Chăm. Nông dân tiếp tục công việc đồng áng, ngư dân tiếp tục đánh bắt, tiều phu đốn gỗ trong rừng… nhất là những nơi chiến sự không lan tới. Trước khi chiến tranh xảy ra giữa hai dân tộc, đã có người Việt sinh sống tại vùng đất Champa. Nhóm đầu là những người bị truy lùng vì lý do chính trị, hình sự phải trốn tránh hay do bị đày ải đến vùng biên cương đã đào thoát sang nước bạn. Nhóm khác xa rời quê hương vì vì lý do kinh tế, bị bắt làm nô lệ hay có máu phiêu lưu. Xa lìa miền Bắc như vậy chắc chắn họ không thể mang theo vợ con Rồi chiến tranh Chiêm Việt xảy ra vào các triều Lý, Trần, Lê, Nguyễn, số tù nhân hai bên có khi lên số hàng vạn, sau khi được tha, họ phải định cư tại chỗ và chuyện chồng Việt vợ Chăm ở miền Nam hay chồng Chăm vợ Bắc là chuyện bình thường, dễ hiểu. Do đó việc dân chúng miền Trung mang mình ít nhiều huyết thống Champa, hay quanh Hoa Lư cũng như Hà Nội, qua những cung nữ, tù binh, nhạc công, thợ thủ công… mà nhà Lý, Nhà Trần đưa về, “gen Chăm” không phải ít. Không chỉ là máu huyết mà còn bao chất liệu văn hóa, văn minh Chăm đi vào truyền thống Việt Nam. Về âm nhạc, vũ điệu … người ta bàn nhiều đến các điệu dân ca và cung đình Huế. Về kiến trúc, tiếp xúc với các cổ vật gốm Champa Trà Kiệu quá nhiều, khi đến Hoa Lư lần đầu và sau đó đến Văn Miếu nhìn những viên gạch, ngói … tôi ngờ ngợ không biết phải chăng là của người Việt hay từ những thợ Chăm. Sau nầy các phát hiện tại Hoàng Thành Thăng Long càng nhấn mạnh đến ảnh hưởng Chăm trong các vật liệu xây dựng và trang trí. Gốm sành miền Bắc sao giống quá những đồ sành trước thế kỷ 11 của Trà Kiệu. Về kỹ thuật vận chuyển đưởng sông đường biển: ghe bầu miền Trung rất khác với các con thuyền miền Bắc. Về ẩm thực với các loại nước mắm, mắm, bánh tét, mì Quảng… dấu ấn Chăm quá rõ. Cả trong kiến trúc nhà rường, ngói âm dương, nhà tranh … trong cách gọi trâu bò v.v. ảnh hưởng Champa đâu ít. Rồi giọng nói, ê a kinh kệ cũng có nhiều điểm tượng đồng. Tuy do ảnh hưởng tôn giáo và văn hóa Ấn Độ phía Nam và Trung Hoa phía Bắc có khác biệt, dân tộc kinh đa số ít quan tâm đến những gia sản vật chất và phi vật chất của các nhóm thiểu số nhưng tiếp tục hành xử như thế thì sẽ làm nghèo đi nền văn hóa nhiều nhóm dân tộc tích tụ từ hàng ngàn năm trên đất nước nầy. Sau nầy trong luận án của cô Regina Legrand có ghi “Theo Cha Antôn Nguyễn Trường Thăng, sáng lập bảo tàng tư nhân cổ vật Champa nhà thờ Trà Kiệu thì không chắc là những kẻ thực dân đất đai Champa đã mang gia đình theo, ít nhất là trong giai đoạn đầu tiến hành việc thực dân, vì những điều kiện khắc nghiệt. Họ đã lập gia đình khác với những phụ nữ Champa. Linh mục chắc chắn là mình có máu Chăm trong huyết quản và ước tính những ai có tổ tiên gốc gác miền Trung cũng như vậy. Những lời nầy xem ra được phóng đại, nhưng có thể dùng để cân bằng cái phiên bản chính thức của các bảo tàng Việt Nam. Theo đó thì hiện nay trên những vùng đất xưa của Champa là đại bộ phận người Việt hay Kinh, nơi đây nơi kia là những ốc đảo biệt lập của các dân tộc thiểu số, trong đó có người Chăm. Chân lý phải nằm đâu đó giữa hai thái cực nầy .”. “Selon la Pere Antoine Nguyen Truong Thang, fondateur du musée privée d’antiquités du Champa de l”Eglise de Tra Kieu, il est peu probable que les colonisateurs des territoires du Champa aient emmenées leurs familles, du moins dans la premiere phase du processus de colonisation, car les conditions étaient rudes.Ils auraient fondé d’autres familles avec des femmes du Champa. Il est sur d’avoir du sang Cham dans ses veines et il estime que tous ceux dont les ancêtres sont issus du centre du Vietnam l’ont aussi. Ces propos sont peut – être exagéres, mais ils serviraient a équilibrer la version officielle presentée dans les musées vietnamiens, selon laquelle il y aurait actuellement dans les anciens territoires du Champa une large majorité des viêts ou khin, avec ici et la, quelques ilôts isolés d’ethnies minoritaires, dont des cham. La vérité doit se trouver quelque part entre ces deux extrêmes”. Có thể nhiều người Kinh cực đoan sẽ không chấp nhận lối giải thích nầy nhưng qua năm tháng, giả thuyết trên càng ngày sáng tỏ. Từ những bài viết của tác giả Nguyễn Văn Xuân, cũng như nhiều nhà nghiên cứu; từ những hiện vật khai quật tại Hoàng Thành Thăng Long; từ tác phẩm “Có 500 năm như thế” của Hồ Trung Tú…; đến bài viết về Chùa Champa vùng quanh Hà Nội của ban Tôn giáo Chính phủ; chúng ta nên nhìn nhận sự thật là trong huyết quản người Việt có dòng máu người Chăm. Các cô, các cậu Hà Nội chân dài, nét đẹp thanh tú ít nhiều pha Tàu, pha Pháp; dân miền Nam cũng mang dòng máu Chân Lạp, Khmer, nhà Minh…, các dân tộc Tây nguyên cũng vậy. Mai mốt dân Việt hải ngoại quay về đất tổ, màu mắt, màu da, vóc dáng … chắc rất đa dạng như dân Israel sau 2000 năm ly hương. Nên xem đó là chuyện bình thường, đừng kỳ thị nếu họ không đánh mất bản sắc quê hương, tự hào dân tộc. Trân trọng những nền văn minh, văn hóa đó chỉ làm giàu thêm cho văn hóa, văn minh đất Việt nầy. Không có đàn đá, trống đồng, không có cồng chiêng, đàn đáy, đàn trưng …nền âm nhạc chúng ta sẽ nghèo đi. Không có các loại váy, hoa văn thổ cẩm, vòng kiềng hoa tai các dân tộc anh em … trang phục, trang sức Việt Nam sẽ bị hạn chế. Rồi ẩm thực, rồi phong tục tập quán … hãy chọn những món ngon, cái hay cái đẹp .. chúng sẽ làm giàu cho đất nước Việt Nam. Trong luận án của mình, cô Regina Legrand có tóm tắt ý kiến của Gs Lefèvre Vincent: muốn nhận là thừa kế di sản cần có: + sự hiện hữu các di tích; + sự hiện hữu của người thừa kế; + các nhà thừa kế phải ý thức nhìn nhận giá trị di sản. + thể hiện sự ý thức nhìn nhận đó qua việc bảo dưỡng và nghiên cứu. (Lefevre, Vincent (2006), Y-a-t-il un patrimoine cham?, in: “ Cahiers de Mariemont 34, L’Art du Champa, Musee Royal de Mariemont, Morlanwelz, 2006, trích từ bài viết của Regina Legrand) Hai điểm đầu: hiện hữu di tích, hiện hữu người thừa kế quá rõ. Về hai điểm sau: người thừa kế nhìn nhận giá trị di sản và bảo dưỡng nghiên cứu; người Việt, nhất là người Việt gốc Chăm, cần tăng cường thêm ý thức vì xem ra hiện nay đa số người Việt (kinh) ít lưu tâm đã đành mà người Chăm chính gốc xem ra cũng hờ hững. Trong giai đoạn toàn cầu hóa mọi việc, kể cả văn hóa hôm nay, thời điểm mà các nền văn hóa lớn muốn áp đặt, chèn ép, triệt tiêu các nhóm thiểu số, nếu dân tộc Việt Nam tiếp tục suy nghĩ nông cạn bằng cách loại trừ những nhóm thiểu số tại quê hương, không nhận ra những đóng góp giá trị của các nền văn hóa đó thì tự mình làm nghèo đi di sản và không góp phần làm phong phú thêm di sản vật thể cũng như phi vật thể của thế giới. Người dân Việt Nam và miền Trung nói riêng sao lại hững hờ, hãy can đảm thừa nhận mình là những người thừa kế văn hóa Chăm trong việc tiếp thu, bảo dưỡng và làm phong phú thêm những giá trị đã được toàn thế giới công nhận. Source: facebook.com
0 Rating 304 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On May 29, 2014
------ar{Y% --ad~T pd~y _C                              \\\\\ K~D% mkL \\\\\   mkL _d ZK E~bR h~% tp~K I{n%aAN C# j;$ ,, s% Il{_m% , al{m~% _g* _p`@H p@H tb~K ZK tn;$ t_nY E@P bK ,   Pn&@C _Q. twK t`N af{K dh*K , ht~K qN _d tN{ pdR kD% k*K an{t rN$ , dh*K xrK t&@K-t&K a#-P# prN \d] ,,   l{k~w al{N pn&@C b{Z~% t@L ad] , k~D% s`. m\k;% , MT hdH h=d _\p hn{. F&@L =QH _\EH \g@P k~l{_dU , s% b@L p=tH m\E~. tO/ _BU _rU s/ d_n   s% BP x% C# hdH aO h~% Il{_m% , h~% pn&@C a=mK _d h~% ad# dR% =QK _q h~% adT cOT , h~% _F% p_t   h~% s% h)H \t~H A$ kj@P , h~% FK _k`@U ad{H : uT , p~N , p~N , =P ,, al{N F% ad] h_d. l{b{K x=\h , =j& _OH mD{L-klL _b*   F% E@P bK x=I Q&% pQ{K , k*H _p`@H d} s% t\nK lZ{K l{N tp{N ,, al&{C tp&{C x$ hdH w@K m{N , ky&% m_N% xK =R xN} tZ{N a&K pj^ ,,   gn~. g@P w@H _p*> F% G@H , s% m=EK bL jw K% nrH _x@H mL/ ,, ad] w@Y d$ d_gK =j& C/ , g{lL# t@L t~K G&@H G/ uE~ML ,,   =R dh)w _A% rOH aE@N pj@N , urK N{ \kH hdH \g@P ng@R yT cK ,, pN tZ{N oT m_nT ET t`K , oN t_bN an{T a_lg E}-rsK m_h@H x=R ,,   g{n~P md% _d h_d. mn~x g*c ad&{x y/ p=\b V~% m{N ,, xm{ xML \g~K ZK j`~. al{N , mn&{x uR/_A% rOH l{h{K tZ{N t=K S~P pl~P .   d~N y% t@L ht~K md% g{n~P , al{N F% ad] as~N b{lN ht~K awg s`. ,, O$ h&K aQ{H b{Z} hR] mL# , \p;N yw% A$ kd$ y~w dL# \k~/ \k;C ,,   B{Q{ b{=Y _d L/ c=l& _Q. _pC oH b{=W& xlK ht`N ,, A< d&% _b Q&% xlw , aO~K cK G@H G/ mn~H mn;/ ,,   x=I t\k;% m=sK ad] a;. , k~K a_k \k;n x_L< ad] dl# s/ mg{K , Pt&H W~~@P jnK pA{K dL# af{K h~% ht} ,,   adT cOT anK k~M] c# b{n} , ad# dr7 pq# an[T bEK rE} hpK aw-l&H ,, _FK x_l< _\cU d} ak _\E     aL/ c_lY j~U c_OY =QH b}Z~% ,, ad] k*< A{. ap@H mT% t@L t~% F% dh*K an{T ad] _\p hg t\k;% D~g =D h*n h*K al&H _F% ,,   t\k;% p&@C g*$ aqK adT _B% , adT k~M]-xH l{k]-_d^w%m_N% , _d^w%xm=lK , _pC r_L% ad] _Q> oH tl=K ,,, _b*   O/ a_b Mv~. a`% b{Z~N MT b@N mIN s/ad] ,, _d F% BP X% C# , Il{_M% \d] _QU t_gK .   ZK E~b@R A$ h~% rK _rK , Pn&@C _Q. a=mK h~% B&@H w@K dL# u=R ,,,   ,,,xl# ad] _s _n< l{k~w _fL _p`@H m=R p@H s/bc , k*w as~N kQH k=QY m/ h~ g{lC , h~ p_t   ad] x=I m{K-w% ab{H \d] , pcH g@P bC m\j~% mL# hR] oH _k* =xH bC m=R b* Mt =cK _m   K*w aE~N hn[ f&@L _s j/ oH aw@R \g~K _G aw d&% _b E~b@R km@Y A&K =l& F% V~% m~t&] m~DR ,   aAR W# j{H b{Z~% ar ML , b{Q} b{=Y s`. m=EK AL dML an{T rN# ,, ,,, my~T km@Y j$ \g~% p_t \g~K ZK P$ kd$ F% u=R prN C$ dh*K ,,   F% IN%aAN C# yT cK oH md# , _d ------ g{n~. g@P _rH d&H Il_m% , _j`@N p=d O$ ab{H oH _d% aAN tp~K ,, Mn&{x x$ bC h)H \t~H , Ad~h a`% g`~. a_lg s`. m/g~h hr] p_g^ ,,   Th% _n< j/pA{KD_n _p`@H k% b`% ut m/ m[H e t_gK p_t _s yK y~. j~. p_t> p\t} p\t% prN dh*K ,,   l{k] xg =j O&K amH p\MK , k~M] jg krg Et t`K t_gK E&@L g% ,, h~% s% uR% r{y% aZN : tN Q%- p\d~T p\=d& F% uT b`% _c   t&@K t&K s% af`N ar{y% j# j} , =l& w@K =R C# s% gq} ad~T pd~Y , Al{N kM@Y a`@K =j& r~w r} , =jK s% r{b~w as~N t@L urK xn} _d   ,,,\E~w ad~w tL/ drH a_lg tN} , a@N =Z mn&{X h*] j# j} _g` hdH pj^ d} \g@P gl%L# , b*@K xl{H b{r~w u=r an[K rN# t&] h=T F% m_n%xK ,,   k*K w@R ab{H kD% JK k*K , h_d. jnK k# m=b kd$ adK u=R b{r~w ,, mn&@X hd`{P ab{H \g~K b=W& r~w , tnH r{y% , _\c   \g~. ktL mV} md@H ab{H \d] , hjN aZ{N tb~K r{_E =g* r$ l{h{K , ac@K c@N _d C[ k*K \E~H apN tm% t\nK l{Z{K _\p@w h`% ,,   L{m;N k*K r# dn;N –d_N< s~% a`% , B*K tm% _\c D~N y% \E~w d~w a@K l{F% , An;K mn&{X ZK _F% O$ _R% h)L dh*K ,,   _F% _gN d{ a_Lg _\p M{N s~bR k*H d} o xlK t`N akL ,, =r hd`{P pcH g@P O&H akR , _d   R{y%akL h~% d&{X d} h=gK , _B* hr] hd] hd`{P md% m=R h~ , ky*% _y       ---\\\\--d`} IN \d% tw _y`@w --\\\\
0 Rating 243 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On May 24, 2014
Nhà nghiên cứu khoa học người Pháp Etienne Aymorier vào năm 1885 đã khai quật dưới lòng đất tại làng Võ cạnh Nha Trang khám phá ra một văn bia (khắc chữ trên phiến đá Granit) bằng Phạm ngữ (Snskrit) có niên đại vào cuối thế kỷ thứ II sau công nguyên. Trên văn bia ấy có ghi rõ công trạng của một vị vua Sri-Mara, người đã khai sáng ra một triều đại Vương Quốc Champa đầu tiên. Ðối chiếu với sách Thủy Kinh chú Trung Hoa đã nói ở đoạn trên, ta thấy sử liệu của Trung Hoa và bia ký đã khai quật được hoàn toàn giống nhau về không gian và thời gian lập quốc.Nhân vật Sri-Mara chính là Khu Liên.   Trên văn bia Phạm ngữ của SambhuVarman (Phạm Phàn Chí) vào thế kỷ thứ XI có khắc tên một quốc gia cổ mà trong sách Tân đường Thư có đề cập đến Âu Dương Tu,Tổng kỳ đã phiên âm ra Hán ngữ là Chiêm Bà tức Champa ngày xưa.Người champa xuất thân từ người tiền thân nam đảo cổ Malayo Polynésien ,tiền thân của tộc người nam đảo ngày nay,sống trên dãi bờ biển trải dài bắc: từ đảo hải nam trung quốc, nam:bà rịa-vũng tàu ngày nay.Đông giáp biển champa( biển đông), tây giáp tây lào. Người champa định cư trên dãi đất này từ đầu những năm 2000 trước công nguyên.Tài liệu chính xác nhất là những gì còn lại của nền văn hóa sa huỳnh. Từ thông tin đầu tiên trong Niên giám 1909 của tập san Trường Viễn Đông bác cổ về việc phát hiện “một kho chum khoảng 200 chiếc nằm cách mặt đất không sâu, trong một cồn cát ven vùng biển Sa Huỳnh” (huyện Đức Phổ tỉnh Quảng Ngãi), đến nay hàng trăm di tích của nền văn hóa này đã được tìm thấy khắp các tỉnh ven biển miền Trung từ Thừa Thiên Huế đến Bình Thuận. Diện mạo của văn hóa Sa Huỳnh, từ nguồn gốc đến các giai đoạn phát triển, từ loại hình di tích di vật đến đặc trưng văn hóa… ngày càng rõ nét .Suốt 100 năm qua là một cuộc tìm kiếm không mệt mỏi của các nhà khảo cổ, các nhà nghiên cứu về một nền văn minh cách chúng ta hàng nghìn năm. M.Vinet - một nhà khảo cổ người Pháp - phát hiện những mộ chum đầu tiên vào năm 1909 và cũng là nơi xuất hiện những hiện vật có niên đại sớm nhất của văn hóa Sa Huỳnh. Thật ra thuật ngữ “văn hóa Sa Huỳnh” không phải có ngay sau khi ông M.Vinet phát hiện khu mộ chum này mà phải đợi một thời gian dài sau đó, khi bà La Barre - vợ một viên thuế quan Pháp ở Sa Huỳnh - vốn ham thích trang sức đá quý và thủy tinh trong chum nên đã huy động dân đào khu mộ chum ở Phú Khương và Thạnh Đức, mỗi nơi thu được 120 chiếc.Đến năm 1934, một nhà khảo cổ học khác tên M.Colani tiếp tục mở rộng không gian ra các vùng lân cận như Phú Lu, Đồng Phú (Quảng Ngãi), Tăng Long, Phú Nhuận (Bình Định). Hàng trăm mộ chum tương tự cũng được phát hiện qua đợt khai quật này. Năm 1935, bà M.Colani đã công bố những phát hiện của mình cùng các đồng nghiệp trước đó tại một cuộc hội nghị tiền sử Viễn Đông ở Manila (Philippines). Báo cáo của M.Colani lập tức thu hút sự chú ý của các nhà khảo cổ. Cái tên Sa Huỳnh cùng thuật ngữ “văn hóa Sa Huỳnh” bắt đầu hình thành và liên tục mời gọi tất cả giới khảo cổ. Tuy nhiên, hai cuộc chiến tranh suốt 30 năm sau đó đã không cho phép họ thực hiện ý định của mình mà phải đợi đến sau ngày giải phóng miền Nam, các nhà khảo cổ VN mới làm tiếp những dang dở trước đó .Nền văn hóa Sa Huỳnh ở miền Trung được giới khảo cổ phát hiện từ hơn nhiều năm trước.10 nhà khoa học Đức - Việt tiến hành khai quật di chỉ Lai Nghi ở Điện Bàn, Quảng Nam. Kết quả lần này cùng với hai đợt tiến hành năm trước đã cho ra bức tranh văn hóa Sa Huỳnh chi tiết hơn.Từ trước năm 1975, các nhà khoa học đã phát hiện ở vùng Sa Huỳnh (Quảng Ngãi) một di chỉ chứng minh tại đây đã từng tồn tại một nền văn hóa phát triển đồng thời với văn hóa Đông Sơn ở phía Bắc và văn hóa Óc Eo ở miền Nam, có niên đại cách đây ít nhất 2.400-3.000 năm. Di vật tìm thấy là đồ tùy táng chôn theo người chết được hỏa táng, đặt trong các mộ chum bằng đất nung và chưa xác định được chủ nhân, vì vậy giới khảo cổ tạm gọi đó là nền văn hóa Sa Huỳnh. Do hầu hết các di chỉ đều là mộ táng, lại tập trung ở vùng duyên hải nên giới nghiên cứu đoán định rằng chủ nhân của chúng cư trú tại các hòn đảo trên Thái Bình Dương, có tục hỏa táng và chôn ở đất liền. Do hoàn cảnh chiến tranh, những phát hiện về văn hóa Sa Huỳnh cũng chỉ dừng lại đó. Riêng tại Quảng Nam, từ những năm sau 1985, Viện Khảo cổ học Việt Nam kết hợp với bảo tàng tỉnh đã đưa lên từ trong lòng đất những kho tàng khảo cổ có liên quan đến nền văn hóa này. Các di vật xuất hiện ở nhiều nơi, đặc biệt dày đặc ở Hội An, Điện Bàn.Năm 1993-1995 với sự tài trợ của Tổ chức Toyota Foundation (Nhật Bản), Đại học Tổng hợp Hà Nội đã thực hiện một cuộc khai quật khảo cổ lớn tại Hội An. Phạm vi khảo cổ trên bình diện 70 km2, kéo dài dọc theo sông Thu Bồn. Kết quả có ý nghĩa từ cuộc khai quật này là ở đâu có dấu vết văn hóa Sa Huỳnh thì nơi đó có vết tích của văn hóa Chăm Pa. Có thể nhận định đã có sự kế thừa nào đó về mặt địa lý giữa cư dân hai nền văn hóa...Ngoài ra, sự kiện tìm thấy 2 đồng tiền Ngũ Thù, Vương Mãng niên đại thế kỷ 1, 2 trước công nguyên, cùng các loại gốm văn in hình học kiểu Hán Hoa Nam tại Hậu Xá, đã xác định một quan hệ giao lưu giữa chủ nhân văn hóa Sa Huỳnh với bên ngoài. Đồng thời, nhiều hiện vật cũng cho thấy thấp thoáng những di chỉ cư trú nằm cùng tầng văn hóa với văn hóa Sa Huỳnh... Tuy vậy với chừng đó chưa thể xác nhận được chủ nhân văn hóa Sa Huỳnh từ đâu đến; có quan hệ kế thừa với vương quốc Chăm Pa cổ đại sau này hay không? Đợt khảo sát lần này của Viện Khảo cổ học Quốc gia Đức cùng Đại học Quốc gia Hà Nội tại di chỉ Lai Nghi (giáp ranh với Hội An) là để làm sáng tỏ những nghi vấn đó.Có một "trung tâm thương mại" Hội An cổ đại.Tiến sĩ Andreas Reinecke, Trưởng đoàn khai quật Viện Khảo cổ chung và so sánh thuộc Viện Khảo cổ học quốc gia Đức, cho biết, kết quả thu được từ khai quật tại Lai Nghi rất lớn và có ý nghĩa rất quan trọng. Trong ba đợt đào, nhóm đã phát hiện khoảng 40 địa điểm có văn hóa Sa Huỳnh, với 62 mẫu mộ chum và mộ đất cùng hơn 10.000 di vật có giá trị. Trong đó số hạt cườm trang sức nhiều chưa từng có từ trước đến nay với 200 loại hạt chuỗi, chế tác bằng 5 loại đá khác nhau; giá trị là hai mề đay (medal) bằng đá đỏ hình chim nước và hổ chế tác rất tinh xảo, lần đầu tiên được tìm thấy tại các di chỉ ở Đông Nam Á.Giá trị nữa là 5 bộ đồ đồng (2 gương soi thời Hán), khuyên tai vàng chưa bao giờ tìm được ở Việt Nam (di chỉ giồng Cá Vồ có, nhưng loại nhỏ, có hình dáng khác) Nhiều loại trong đó chứng tỏ rằng nghề tiểu thủ công của cư dân vùng này rất phát triển. Ví dụ hai chiếc lọ gốm gần như nguyên vẹn được trang trí hoa văn tia mặt trời (thường thấy trên mặt trống đồng Đông Sơn) lạ mắt, rất đẹp bằng ba màu đỏ đen và trắng, gần như chưa từng phát hiện từ trước đến nay tại các hố khai quật văn hóa Sa Huỳnh... Những gì tìm được tại đây, có thể khẳng định rằng Lai Nghi sẽ là một trung tâm khảo cổ lớn nhất về văn hóa Sa Huỳnh của Việt Nam. A. Reinecke nhận định "chưa có gì xác nhận có một mối liên hệ giữa văn hóa Sa Huỳnh muộn với văn hóa Champa sớm, nhưng khả năng đã có một bộ phận cư dân văn hóa Sa Huỳnh tiếp tục sống và phát triển trong văn hóa Champa. Bây giờ chúng tôi chưa có điều kiện so sánh giữa hai nền văn hóa này. Song có một điều chắn chắn là, qua sự tương đồng của một số hiện vật tìm thấy tại đây với di chỉ tại một số hòn đảo trên vùng biển Đông Nam Á (ví dụ khuyên tai ba mấu và hai đầu thú).2.500 năm trước đã có cư dân từ đó đến miền Trung Việt Nam. Tuy vậy phát hiện trong đợt khai quật khảo cổ này hầu hết là di chỉ mộ táng có niên đại từ thế kỷ 2 trước Công nguyên đến 300 năm sau Công nguyên. Có 3 di chỉ cư trú, nhưng chưa có niên đại chắc chắn, do vậy chưa thể coi đó là của văn hóa Sa Huỳnh. Có thể thời kỳ này người ta làm nhà bằng tranh tre, gỗ nên không để lại vết tích. Quan trọng hơn cả là qua những hiện vật tìm được có thể nói rằng trong thời kỳ này, Hội An đã là một trung tâm kinh tế lớn thu hút từ vùng núi dọc sông Thu Bồn, xuống duyên hải, từ văn hóa Đông Sơn và từ Trung Hoa đến Ấn Độ".Văn hóa Sa Huỳnh phát triển từ sơ kỳ đồng thau đến sơ kỳ đồ sắt, từ khoảng 2000 năm đến những thế kỷ trước Công nguyên. Quá trình hội tụ những nguồn gốc khác nhau đã tiến tới giai đoạn phát triển cực thịnh của văn hóa này vào khoảng 2.500 – 2.000 năm cách ngày nay. Chủ nhân của văn hóa Sa Huỳnh có quan hệ cội nguồn với các văn hóa hậu kỳ đá mới – sơ kỳ đồng thau ven biển, được coi là những người Tiền Mã Lai - Đa đảo (Proto Malayo Polynesien). Trong quá trình hình thành văn hóa Sa Huỳnh có những liên hệ với những nhóm cư dân cùng thời là những người “Tiền Môn – Khmer” hay Tiền Nam Á. Ngoài ra suốt quá trình phát triển văn hóa này còn có nhiều mối quan hệ giao lưu rộng rãi với những văn hóa thời kim khí ở Đông Nam Á. Qua đó có thể thấy chủ nhân văn hóa Sa Huỳnh nói tiếng Nam Đảo hay Malayo Polynesien nhiều hơn yếu tố Nam Á.Đặc trưng cơ bản của văn hóa Sa Huỳnh là táng thức mộ chum, vò suốt từ giai đoạn sớm đến muộn, tuy ở một vài địa điểm vẫn có sự hiện diện của mộ huyệt đất. Các khu mộ phân bố tập trung ở những cồn cát ven biển, lan dần ra các đảo ven bờ, ngoài ra còn phân bố ở vùng đồng bằng và miền núi phía tây. Di tích là những khu mộ táng rộng lớn gồm hàng chục, hàng trăm chum, vò gốm chôn đứng trong địa tầng. Loại hình chum, vò chủ yếu hình trụ, hình trứng, hình cầu đáy bằng có nắp đậy hình nón cụt hay hình lồng bàn. Đặc biệt trong các mộ táng chum, vò thuộc văn hóa Sa Huỳnh ít tìm thấy di cốt hay than tro hỏa táng, vì vậy theo các nhà nghiên cứu táng tục của cư dân Sa Huỳnh có thể là “chôn tượng trưng”.Trong chum/vò chứa nhiều đồ tùy táng gồm các chất liệu đá,gốm,sắt,đá quý,thủy tinh rất đa dạng về loại hình:công cụ lao động, vũ khí, đồ dùng sinh hoạt, trang sức.Đặc trưng về di vật là sự phổ biến của công cụ lao động bằng sắt,đồ gốm tô màu trang trí nhiều đồ án hoa văn khắc vạch,đồ trang sức bằng đá ngọc,mã não,thủy tinh vòng,hạt chuỗi,khuyên tai ba mấu,khuyên tai hai đầu thú… Chủ nhân văn hóa Sa Huỳnh có nền kinh tế đa thành phần, gồm trồng trọt trên nương rẫy và khai thác sản phẩm rừng núi, trồng lúa ở đồng bằng, phát triển các nghề thủ công, đánh bắt cá ven biển và trao đổi buôn bán với những tộc người trong khu vực Đông Nam Á và xa hơn, với Trung Quốc và Ấn Độ. Những di tích văn hóa Sa Huỳnh ven biển đã có thể từng là những “tiền cảng thị” (như khu vực Hội An với di tích Hậu Xá chẳng hạn). Dù rằng việc sản xuất gốm để xuất khẩu ở Đông Nam Á ,đặc biệt là ở Đại Việt và Xiêm, phát triển khá mạnh mẽ vào thế kỷ XIV – XV, thường là với sự khởi đầu bất ngờ của kỹ thuật Trung Quốc và kết thúc với kỹ thuật bản địa. Tuy nhiên, lịch sử hải thương của khu vực Đông Nam Á, kết hợp với những kết quả trong nghiên cứu khảo cổ học ở các quốc gia Đông Nam Á trong thời gian gần đây, đã phần nào bổ sung cho chúng ta những tư liệu quan trọng về sự xuất hiện của những sản phẩm gốm thương mại có nguồn gốc Đông Nam Á . Về đồ gốm thì hầu như tất cả các ghi chép về Champa trong Chufanchi (1225), Dauyi Zhilue (giữa thế kỷ XIV) và Yingua Shenglan (1416) đều chỉ nói đến việc nhập các đồ sứ Trung Quốc. Những tài liệu trên hầu như không nhắc đến những sản phẩm gốm ở Đông Nam Á.Lệnh cấm hoàn toàn các chuyến đi và buôn bán vải hải ngoại được ban hành năm 1371 (năm thứ 3 niên hiệu Hồng Vũ) trong thời kỳ đầu thời nhà Minh. Sau đó, nó lại được tái ban hành vài lần và cuối cùng bị bãi bỏ năm 1471 (năm thứ 6 niên hiệu Long Khánh).   Nó ngăn cấm nghiêm ngặt những chuyến đi và buôn bán hải ngoại của người Trung Quốc. Kết quả là,buôn bán gốm từ Trung Quốc bị hạn chế lớn trong thời kỳ này. Gốm Thái Lan, Việt Nam và Champa xuất hiện ở các vùng bờ biển xung quanh biển nam Trung Quốc như để thay thế đồ gốm Trung Quốc. Di chỉ tiêu biểu của thời kỳ này là tàu đắm ngoài khơi đảo Palawan, được khai quật năm 1995. Đồ gốm Champa bao gồm đĩa celadon, bát men nâu với thân chiết yêu và các vò men nâu của lò Gò Sành.Trong những năm gần đây, tại các lò gốm Gò Sành và một vài lò gốm khác, tất cả đều ở quanh thủ đô Vijaya thuộc tỉnh Bình Định ngày nay, các nhà khảo cổ học đã tìm thấy những đồ gốm xuất khẩu như đĩa men và bát men celadon và các hũ sành được sản xuất trong những thế kỷ XIV-XVII mà không hề có sự phát triển trước đó của kỹ thuật bản địa. Những mảnh vỡ của đồ gốm Gò Sành đã được khai quật thấy ở Ai Cập, đảo Tioman ở Ma-lai-xia; Santa Ana và Calatagan ở Phi-lip-pin… và thường được tìm thấy cùng với những đồ sứ Trung Quốc. Có tiếng vang nhất là việc tìm thấy hàng trăm đồ gốm tráng men celadon của Gò Sành trong con tàu đắm gần hòn đảo Pandaran ở Phi-lip-pin.  Không nghi ngờ gì nữa, những sản phẩm này bắt đầu có trước khi Đại Việt đánh chiếm Vijaya, thế nhưng những người thợ thủ công thuộc tộc người nào thì còn chưa rõ. Chắc hẳn Champa cũng đã bị cuốn vào trào lưu sản xuất đồ gốm thương mại chung ở Đông Nam Á lục địa vào thời kỳ cuối Nguyên (1260-1368) và đầu Minh (1368-1644), khi mà việc xuất khẩu đồ sứ Trung Quốc bị giảm mạnh vì khủng hoảng kinh tế và do lệnh cấm buôn bán với nước ngoài.Với việc phân phối rộng khắp bằng đường biển qua Ấn Độ Dương, đồ gốm Champa được khai quật từ địa điểm A1-Từ trên bán đảo Sinai ở Hy Lạp, từ thành phố cảng thời trung cổ của Julfar trong phạm vi của Ras al -Khaimab ở tiểu vương quốc Arập, từ di chỉ Juara trên đảo Tioman ở đảo Ma-lai-xia và từ di chỉ mộ táng ở bán đảo Calatagan và tàu đắm ở ngoài biển khơi của đảo Pandanan, Phi-lip-pin. Đồ gốm Champa được xuất khẩu ra nước ngoài vào khoảng thế kỷ XV và việc sản xuất đồ gốm ở Gò Sành phát triển rất rực rỡ vào thời gian ấy. Trong bất kỳ trường hợp nào, thì rõ ràng là kinh đô Champa đã có một mạng lưới buôn bán vào thế kỷ XV, bao gồm cả Hy Lạp, Các Tiểu vương quốc Arập, Ma-lai-xia, quần đảo Phi-lip-pin.Thực tế này đã xác nhận sự rộng lớn của mạng lưới buôn bán của VQ Champa trên biển.Đồ gốm không giống với vải lụa, vẫn tồn tại trong các di chỉ mà không bị phân hủy và biến mất, thậm chí ngay cả khi chúng bị vỡ thành từng mảnh nhỏ. Khi các khu vực (lò) và niên đại sản xuất của một số đồ gốm khai quật đã được xác định, chúng sẽ là tư liệu quý giá để làm rõ niên đại và đặc trưng của chính các di chỉNằm ở vị trí trung độ trên con đường giao lưu quốc tế đông-tây, Trung Quốc với Ấn Độ và xa hơn, tới Địa Trung Hải, Đông Nam Á sớm trở thành một đầu mối mậu dịch hàng hải quốc tế. Từ đầu công nguyên, những con thuyền của cư dân trong vùng, thuyền của người Ấn, người Hoa cùng với nền văn hóa của họ đã thường xuyên qua lại vùng Đông Nam Á. Trên con đường giao lưu đó, Champa chiếm lĩnh một trong những vị trí quan trọng và thuận lợi nhất. Các cảng của Champa đóng vai trò như những cảng cuối cùng trước khi những con thuyền vượt qua vịnh Bắc Bộ vào vùng biển Trung Hoa và là nơi dừng chân đầu tiên khi từ Trung Quốc đến Malacca, Vịnh Thái Lan hay gần hơn là tới vùng hạ lưu châu thổ sông Mê Kông mà 7 thế kỷ đầu công nguyên thuộc vương quốc Phù Nam. Có thể thấy hầu hết các tuyến đường biển đến Trung Hoa hay từ Trung Hoa đi qua Ấn Độ đều rẽ qua các cảng biển Champa. Từ một đầu mối giao thông quan trọng, bờ biển Champa đã sớm trở thành một đầu mối giao thương, nơi trao đổi sản vật và sản phẩm với những thuyền bạn bè qua lại. Champa hùng mạnh nhất vào khoàng năm 800 đến năm 1000. Trong khoảng thời điểm đó, Người Chăm rất nổi tiếng trong việc buôn bán các loại gia vị và tơ lụa với các nước như Trung Quốc, Nusantara ( Indonesia, Malaysia, brunei…ngày nay) và nước Abbasiah ở Baghdad (Bát Đa- xứ 1001 đêm).Vào khoảng năm 800, người Chăm được biết đến với tài đi biển rất gỏi và những thương nhân tài ba. Theo ông Tan Sri Prof. Emeritus Dr. Ismail Hussein,chủ tịch hội nhà văn Malaysia gọi tắt là (GAPENA) có nói. Vùng biển mà ngày nay được gọi là Biển Nam Trung Quốc thật sự trước kia được gọi là Biển Champa, nó từng là một vùng thương mại và vận chuyển quan trọng của người Chăm. Sự hùng cường về thương mại và vận chuyển của đế chế Champa nhanh chóng được nổi tiếng và rất nhiều người biết đến không chỉ ở Nusantara mà là toàn thể thế giới lúc bấy giờ, dẫn đến vùng biển này được gọi với tên Biển Champa. Người Champa “có cái nhìn về biển đúng đắn, biết tham dự và dấn thân tích cực vào luồng thương mại quốc tế “,tận dụng những lợi thế đó để phát triển vương quốc của mình thành một cường quốc trong khu vực. Hoạt động thương mại biển đã góp phần quan trọng vào quá trình tồn tại và phát triển của vương quốc Champa trong khoảng thời gian từ cuối thế kỷ X đến thế kỷ XV.Quan hệ thương mại của vương quốc Champa từ nửa cuối thế kỉ X đến thế kỉ XV Trong suốt quá trình phát triển của mình, vương triều Vijaya đã dày công xây dựng các mối quan hệ với các quốc gia vùng hải đảo. Vương quốc Champa ngày càng dự nhập mạnh mẽ vào sự phát triển chung của lịch sử khu vực. Những mối quan hệ được dày công xây dựng, một mặt nhằm củng cố vị thế của Champa đối với lịch sử khu vực,mặt khác tạo ra những tiền đề thuận lợi để Champa mở rộng thương mại và dự nhập ngày càng mạnh mẽ hơn vào nền hải thương khu vực, nhằm bù lấp cho những thiếu hụt của nền kinh tế trong nước.Các vua Champa rất có ý thức trong việc buôn bán với người nước ngoài, tạo điều kiện lợi dụng và trọng dụng họ. Sau khi Quảng Đông bị phá hủy (758), việc làm ăn với thương nhân người Hoa gặp khó khăn. Trên thực tế, từ 877 đến 951, Champa không có quan hệ bang giao gì với Trung Quốc vì sự hỗn loạn cuối thời Đường. Trong thời gian đó, họ kịp thời mở của làm ăn với thương nhân Hồi giáo Arập đang ngang dọc khắp thế giới Đông-Tây. Khi Quảng Đông được mở cửa lại dưới triều Hậu Chu (951-959) và sau đó là triều Tống (960 –1279), vua Đồng Đường liền xúc tiến lại mối quan hệ giữa hai nước thông qua những nhà buôn Hồi giáo ở Panduranga. Người Hồi giáo là những người quản lý của khu buôn bán ở Panduranga. Những thương nhân Hồi giáo này đã có những liên hệ mật thiết với Vương triều Champa, được tiếp xúc thường xuyên với vua Chăm và được vua Chăm trọng dụng. Những bằng chứng mà P.Y.Manguin (1979) đã đưa ra cho thấy, trong những người thuộc đoàn sứ giả Champa sang Trung Quốc vào năm 951 và những năm sau đó, có người mang tên bắt đầu bằng chữ Pu hay Bu biến âm từ chữ Arập Abu. Năm 958, người đại diện chính thức của vua Champa là người Hồi giáo có tên là Abu Hasan (P’s Ho San ). Ông đã thay mặt vua Champa là Indravarman III (917-960) tặng hoàng đế Trung Hoa nước hoa hồng, cây đèn “ngọn lửa Hy Lạp “ và những viên đá quý. Năm 961, Abu Hasan trở lại Trung Hoa mang theo thư của vị vua mới là Java Indravarman I, kèm theo những tặng phẩm được liệt kê ra như gỗ trầm, ngà voi, vải lụa... và đặc biệt có 20 hũ Arập. Tất cả những tặng phẩm trên có những thứ là của Champa, nhưng nhiều tặng phẩm như “nước hoa hồng“, ”đèn Hy Lạp “ là hàng của Arập thì chắc chắn là sản phẩm thương mại được các thương nhân Hồi giáo Arập đem đến trao đổi ở các cảng Chăm. Đó đều là những sản phẩm thương mại có được từ các thương cảng của Champa .Về những mặt hàng buôn bán xuất khẩu của Champa trong thời kỳ này, chúng ta có thể tham khảo các loại hàng hóa đã được trao đổi và mua bán tại cảng -thị Hội An và các cảng–thị khác ở miền Trung như Thanh Hà (Thừa Thiên- Huế ), Nước Mặn, Thị Nại (Bình Định )... trong các thế kỷ XVII-XVIII; vì sự phồn vinh của các cảng–thị này đương thời có thể được xem như sự tái sinh của các cảng - thị Champa vào những thế kỷ trước đó. Về các loại sản vật ở miền Trung Việt Nam vào thế kỷ XVI có thể tham khảo trong Ô Châu Cận Lục : “... ngà voi, sừng tê, trầm hương, bạch ngọc hương, tô nhủ hương, biện hương, thổ cẩm trắng, thổ cẩm xanh, da trâu, nhựa thông, sừng trâu, da hươu, nhung nai, da hươu cái, lông đuôi chim công. Lông đuôi chim trĩ, hồ tiêu, mật ong, sáp vàng, dây mây ...” .Những loại sản vật này, mà phần lớn đều là lâm sản nên có thể được xem là những đặc sản của Champa vào những thế kỷ trước đó, được thu nhập bởi cư dân miền ngược rồi đem trao đổi với cư dân miền xuôi. Điều đó cho thấy mối liên hệ khá chặt chẽ giữa các vương triều Champa với các tộc người miền núi mà sợi dây liên kết có lẽ là những dòng sông chảy từ thượng nguồn ra biển rất phổ biến ở miền Trung Việt Nam. Việc giữ mối liên hệ bền chặt và lâu dài giữa các vương triều Champa với các tộc người miền núi đảm bảo cho vương quốc Champa có thể duy trì được một sự cân bằng tương đối trong việc phát triển kinh tế, giữa kinh tế biển, kinh tế nông nghiệp và kinh tế lâm nghiệp. Điều này còn có ý nghĩa hơn nữa khi chúng có thể đảm bảo những sản phẩm thương mại cho vương quốc Champa, để Champa có thể duy trì những mối quan hệ thương mại, buôn bán với các quốc gia trong khu vực.Các nhà nghiên cứu đã giải thích hệ thống chính trị - kinh tế của vương quốc Champa theo một mô hình được gọi “hệ thống trao đổi ven sông“. Theo mô hình này, ”hệ thống trao đổi ven sông“, có một vùng duyên hải để làm cơ sở cho một trung tâm thương mại, thường tọa lạc ở một cửa sông. Đây cũng là trung tâm giao dịch hải thương quốc tế và là điểm kết nối giữa các của sông khác của các vùng lân cận. Cũng có những trung tâm thượng nguồn, đó là những điểm tập trung ban đầu của các nguồn hàng có nguồn gốc từ những nơi ở xa sông nước. Những nguồn hàng này được sản xuất ở các vùng mà các dân cư sống trong các bản làng ở miền thượng du hoặc thượng nguồn không họp chợ. Sau đó nguồn hàng này được tập kết về các trung tâm ở ven biển.Mỗi Mandala có riêng một hệ thống trao đổi ven sông như vậy.Biên niên sử Trung Quốc từ thời kỳ Bắc Tống (960-1127) đã chỉ ra rằng vào cuối thế kỷ X đã hình thành những tuyến đường biển nối liền những địa điểm cư trú vùng biển ở quần đảo Phi-lip-pin, bờ biển Bắc của Đảo Borneo và Champa. Tống sử cho biết rằng vào năm 977, nhà cầm quyền Brunei đã gửi quà biếu đến đế chế Trung Hoa và sứ giả của phái đoàn thông báo với triều đình của đế chế rằng May-i (đảo Midoro) cách Borneo một khoảng 30 ngày đi thuyền. Năm 1003, phái đoàn được ghi lại sớm nhất mang quà biếu của Phi-lip-pin đi đến Trung Quốc từ Butuan. Tống sử mô tả chính thể này ở đông bắc Mindanao như là “một đất nước nhỏ trong biển ở phía Đông của Champa, xa hơn May-i, có quan hệ thường xuyên với Champa nhưng rất hiếm khi với Trung Quốc. Nhiều thế kỷ sau, hàng hóa thương mại được chuyên chở từ miền Trung Việt Nam dọc theo tuyến phía Bắc của Borneo, như được chứng minh bởi lô hàng trên con tàu Pandanan, ở phía Tây Nam Phi-lip-pin.Chúng ta không tìm ra được những bằng chứng về mối quan hệ trực tiếp giữa Phi-lip-pin và Trung Quốc, ít ra cho đến đầu nhà Minh. Nhưng với Champa thì thường xuyên và khá độc đáo. Dường như Champa đã đóng vai trò độc quyền trong quan hệ với Phi-lip-pin một thời gian dài (từ trước thế kỷ X đến XIII ). Do đó, thương mại và cống nạp của Phi-lip-pin đến được Trung Quốc là thông qua Champa. ”Con đường của đồ gốm thương mại Quảng Đông có lẽ từ Trung Quốc tới Champa và rồi tới Butuan”. Champa đóng vai trò trung gian là trạm trung chuyển đồ gốm giữa Trung Quốc với những miền định cư ở rìa phía Đông của biển Nam Trung Quốc như Ma-i, đảo Borneo và BuTuan. William Scott cũng đã đưa ra những cứ liệu lịch sử để minh chứng cho nhận xét của Peter Burns và Roxanna Brown, trên cơ sở những ghi chép của Tống Sử: “Đoàn triều cống đầu tiên đến Trung Quốc dường như đi từ Buutan ngày 17-3-1001”. Năm 1007, Butuan thỉnh cầu với Hoàng đế Trung Hoa để được nhận một vị trí tương tự như Champa, nhưng lời thỉnh cầu bị từ chối với lý do là Butuan ở dưới trướng Champa. Chỉ vào khoảng thế kỷ XIII thì con đường liên hệ trực tiếp LuZon và Fujian mới trở nên phổ biến, trước đó tất cả các việc buôn bán với Trung Quốc đều đi bằng con đường của Champa. Nhiều khả năng, những con thuyền chạy trên vùng biển Butuan-Champa là thuyền của Champa, bởi trong thời kỳ này nghề đóng thuyền và đi biển của Champa đã rất phát triển và thủy thủ Champa là những người dày dạn kinh nghiệm. Chămpa đã lợi dụng vị trí trung gian của mình giữa Phi-lip-pin và Trung Hoa để xúc tiến những hoạt động thương mại.Biển Champa có thể được xem là“sân chơi” ủa các tộc người Malayo Polynésien. Dấu vết của sự kiện này vẫn được tìm thấy ở những vùng đất đai mà ngay nay người Mã Lai vẫn đang nấm quyền sở hữu,cụ thể là tiểu bang Kelantan của Malaysia.    Sự nổi tiếng về thông thương qua lại giữa Champa và Malaysia lúc bấy giờ mạnh đến nổi khiến vùng đất này (bang Kelantan) được gọi là “ nơi dừng chân của Chepa”. “ Chepa” ở đây là Champa phát âm theo giọng địa phương của người Kelantan-Pattani. Có lẽ chúng ta hãy nên trả lịch sử về cho lịch sử. Và những đứa con Melayo-polynesian(cụ thể là sắc dân Chăm.Cũng như phần lớn các quốc gia Đông Nam Á khác trong lịch sử, Champa đã chủ động dự nhập mạnh mẽ vào hệ thống thương mại khu vực để bù lấp những thiếu hụt của nền kinh tế nước mình, biến tiềm năng kinh tế bên ngoài thành bộ phận kinh tế quan trọng của mình. Có thể thấy rằng Champa có những mặt hàng có giá trị, đáp ứng được nhu cầu của các thị trường Trung Quốc và Tây Á. Champa với các thế mạnh của mình về vị trí địa lý,đội tàu thuyền hùng hậu, cũng như những mặt hàng thương mại có giá trị, không những đã trở thành một trạm trung chuyển hàng hóa (Entrepôt)cho các thị trường lớn trên thế giới, mà còn là nguồn cung cấp hàng hóa quan trọng cho nền thương mại khu vực và thế giới.Hoạt động thương mại thực sự trở thành một thế mạnh và là nền tảng cho toàn bộ nền kinh tế Champa. Một nguồn hàng bí mật mà người Champa thu mua từ Butuan (Phi-lip-pin) suốt nhiều thế kỷ mà các thương nhân Trung Hoa không hề hay biết. Vương quốc Champa đã có thể giấu Trung Quốc vị trí chính xác của Butuan. Champa muốn giữ bí mật vì đây là nơi sản xuất vàng có quy mô lớn và rất quan trọng. Những cuộc khai quật ở Butuan đưa ra được những bằng chứng về việc sản xuất vàng trên quy mô lớn, cả vàng thường và vàng thau, đã cho phép chúng ta thấy Champa là một nguồn vàng bí mật mà Trung Quốc không biết. Những mối liên hệ và quan hệ thương mại giữa Champa và Butuan chắc chắn đã có trước ít nhất là từ thế kỷ X.Với việc khai thác tối đa những nguồn lợi vốn là thế mạnh của mình, cùng với việc dự nhập mạnh mẽ vào luồng thương mại khu vực và quốc tế, Champa trong một thời gian dài trở thành một cường quốc thương mại trong khu vực, đóng vai trò là một trung tâm liên vùng – trung tâm thu gom và phân phối hàng hóa với chức năng trung chuyển giữa trung tâm liên thế giới với các vùng. Từ đây, chúng ta thấy một phần nào câu hỏi trong lịch sử champa: vì sao champa lại có vàng nhiều, trong khi đất nước họ không có mỏ khai thác vàng.Mật độ phân bố và quy mô các di tích tháp champa cho biết đó là những khu vực tụ cư đông đúc và lâu đời, một xã hội sức có nền sản xuất khá phát triển và do đó, vào giai đoạn cuối của nền văn hóa này có thể đã hình thành một hình thái “nhà nước sơ khai” kiểu liên minh bộ lạc. Cùng trên địa bàn mà sau này hình thành nhà nước Lâm Ấp – vương quốc Champa, mối quan hệ giữa văn hóa Sa Huỳnh và văn hóa Champa được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm.Những năm gần đây,nhiều cuộc khai quật khảo cổ học đã được tiến hành nhằm tìm hiểu mối quan hệ này.Địa bàn quan trọng là tỉnh Quảng Nam vì đây được xem là trung tâm của văn hóa Sa Huỳnh và văn hóa Champa. Trong nhiều di tích các nhà khảo cổ đã tìm thấy những mảnh gốm vừa mang đặc điểm của gốm Sa Huỳnh và cả đặ
0 Rating 474 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On May 24, 2014
Lời giới thiệu Trong quá khứ,trên dãy đất Việt Nam này có sự tồn tại một nền văn minh champa: Vương quốc Champa.Vương quốc champa có lãnh thổ trải dài từ mũi hoành sơn phía bắc,nam giáp sông đồng nai,tây giáp nam lào,đông giáp biển đông,thuộc miền trung ngày nay. Hầu hết lãnh thổ trải dài theo dãy trường sơn và biển đông,có những cánh đồng nhỏ nằm dọc theo những con sông đổ ra biển, phía tây dãy trường sơn là những bình nguyên tây nguyên rộng lớn.Khí hậu có hai mùa mưa và nắng rõ rệt.Vương quốc Champa chuyên canh cây lúa, đậu,ngô,mía…dọc theo những con sông từ tây nguyên đổ ra biển. Vùng tây nguyên có những tài nguyên quí giá như trầm, hương,mun, tre… Ngoài ra tây nguyên champa còn cung cấp nhiều khoáng sản quí như:vàng,bạc, đồng , sắt. Động vật gồm:voi,tê giác,sư tử,hưu trắng…nhiều vô kể.Vương quốc champa hiện tại tuy nó đã bị sát nhập vào nước Việt Nam,nhưng chúng ta không thể phủ nhận sự ảnh hưởng của nền văn hóa champa,trong quá khứ cũng như hiện tại,đối với tổng thể văn hóa 54 dân tộc anh em việt nam.Nhất là văn hóa tộc người Champa có ảnh hưởng rất lớn.Văn hóa champa đã phát triển một nền văn minh rực rở,bậc nhất đông nam á suốt gần 18 thế kỷ.Bởi quá trình tồn tại, định hình lịch sử và văn hóa phát triển,có bề dày đáng kể trên năm ngàn năm (Từ người champa cổ Bàu trá thời đại đá,văn hóa sa huỳnh thời đại kim khí, cho đến ngày hôm nay).Vì muốn thảo thêm vài nét vẽ cho bức tranh lịch sử, văn hóa nền văn minh champa còn bỏ ngõ,nên tôi một người con trong dòng tộc champa mạo muội đặt vấn đề cho đề tài này.Tôi không muốn phê phán hiện tại và quá khứ,tôi chỉ muốn người và người nhìn thực chất về bản sắc và văn hóa của nền văn minh champa,giờ đã chôn chặc vào lòng đất khô cằn,bão lũ miền trung đầy nhân bản và nhân văn.Trải dài hàng ngàn năm lịch sử, thăng trầm trong vinh quang,khổ đau,tủi hờn rồi thất bại.Thế là họ bắt đầu hình thành sự khác biệt,dù rằng họ cùng một nguồn cội,có chung một dòng máu. Thời gian thấm thoát trôi,đã qua rồi cái thời gánh con vượt dãi Trường Sơn,cái thời dong buồm thách thức con sóng dữ của biển cả để đi tránh cơn binh đao. Giờ đây họ đã được yên vui sống trên mảnh đất được gọi nôm na là quê hương thứ hai ,mặc dù có những nơi họ sống trước kia từng là làng quê, đất tổ,là đất nước của họ.Còn gì xót lại ở họ ngoài dòng máu đỏ và chút ít ngữ vựng trong ngôn từ.Các tôn giáo lớn trong khu vực du nhập ngày càng mạnh, làm đảo lộn trật tự xã hội champa có từ lâu đời.Xung đột giữa ấn giáo,đạo hồi và nho giáo lên đến đỉnh điểm. Phân biệt tôn giáo đã làm mất đi tính tự hào dân tộc, mất đi sự đoàn kết thiết yếu để bảo vệ dân tộc champa.sao con người không quan tâm đến nó để kéo lại gần sau hàng thế kỉ xa cách.xin đừng đổ thừa tôn giáo, tính phân biệt luôn không chấp nhận những gì hơi xa lạ đối với mình.Một cộng đồng tan rã,bị dẫm nát qua thời gian theo dòng lịch sử đau buồn,cần lắm những bàn tay xoa dịu để chữa lành vết thương bao năm tháng…   Từ nhỏ,nhìn chung quanh là những tháp chăm u sầu,lở lói với thời gian,lòng tôi luôn hiếu kì về vương quốc Champa,hay là bản thể con cháu họ trà champa. Sự hiếu kì pha lẫn lãn mạn và nuối tiếc một nền văn minh đã tàn lụi, có lẽ một phần bị ảnh hưởng từ tập thơ “Điêu tàn”của Chế Lan Viên? Vì đây là vấn đề lớn trong khoa học,tôi không đủ khả năng xây dựng lại diện mạo của nó,nên chỉ cố gắng phác họa vài nét mà thôi.Tôi nghĩ rằng đề tài này sẽ góp thêm một hạt cát vào bễ cát tri thức mênh mông của loài người hiện tại trong quá trình tìm hiểu, phân tích,phác thảo bức tranh nền văn văn minh tộc người Champa Malayo Polynésien,trong tổng thể nền văn hóa dân tộc việt nam một cách khoa học và nhân văn.Đặc biệt việc nghiên cứu giá trị của một nền văn minh bị bỏ ngõ,mai một rất nhiều trong hệ thống văn hóa,thì việc tìm hiểu dân tộc người Champa chính là điều cần yếu,có ý nghĩa cấp thiết góp phần làm rõ hơn bản sắc văn hóa Việt Nam,đông nam á Malayo Polynésien,để chúng ta có phương pháp bảo tồn, phát huy giá trị của nó trong công cuộc xây dựng nền văn hóa Việt Nam và đông nam á ngày nay.Qui luật của lịch sử nhân loại là sự sinh tồn và biến đổi một cách biến chuyển liên tục. Sự sụp đổ hoàn toàn của Vương Quốc Champa vào năm1832, cho dù bất cứ nguyên nhân nào,cũng đều nằm trong qui luật tất yếu của lịch sử.Tuy nhiên,nếu một dân tộc đã có một lịch sử, cho dù quốc gia đó không còn nữa,lịch sử dân tộc đó vẫn luôn luôn còn hiện diện trong tiến trình của lịch sử nhân loại,và ít ra vẫn còn trong ký ức của dân tộc đó lưu truyền từ đời này sang đời khác và mãi mãi cho đến tận cùng… của lịch sử nhân loại.Nếu một dân tộc đã có một lịch sử,một nền văn minh đặc thù, đương nhiên đã có một cội nguồn.Nói đến cội nguồn là nói đến những gì rất xa và cũng rất gần.Rất xa vì cội nguồn đã có từ chốn hồng hoang, từ trong mịt mờ của tiền sử.Rất gần vì cội nguồn luôn luôn có trong tâm tưởng của bất cứ ai còn biết nhớ đến tổ tiên, biết yêu thương những người cùng chung huyết thống của chủng tộc.Nói huyết thống vì người ta có thể thay đổi tư duy,có thể thay đổi hoàn cảnh, có thể thay đổi đức tin, nhưng không thể thay đổi được dòng máu đồng chủng đang luân lưu chảy trong khắp châu thân của mỗi một con người. Đề tài này chắc chắn rằng sẽ còn nhiều sai xót và không ít người không đồng ý,vì lịch sử đã qua là “bất di, bất dịch”,trong khi sử liệu về vương quốc champa quá ít và đang dần chôn vùi theo thời gian.Tác phẫm lược sử nền văn minh champa ra đời được viết trong gần 16 năm, từ năm 1996 đến 2012 do tìm hiểu nhiều nguồn sử liệu, tài liệu khảo cổ,thực địa tập quán văn hóa, tham khảo,khảo sát liên quan quá nhiều nghành,nhiều tôn giáo trong khi sử liệu champa còn lại quá ít.Do đó cũng không cho phép ghi lại những tài liệu trích dẫn một cách tỉ mỉ. Bù lại những trích dẫn quan trọng điều có ghi ngay trong bài viết. Tôi mong rằng mọi độc giả khi đọc sẽ bỏ qua phần này.Nếu có gì thiếu xót trong bài viết tôi rất mong mọi người rộng lòng tha thứ.Tôi mong rằng nhiều người sẽ cùng đóng góp và xây dựng cho hoàn chỉnh thêm.                                                                                                                                                                               Đồ bàn 20/12/2012                                                                                            Trà thanh toàn     -Cội nguồn của tiến trình lịch sử Champa Từ trong mịt mờ của tiền sử,khi những thành tựu tiên tiến khoa học hôm nay chưa giúp được nhân loại vén lên bức màn tiến hóa của vũ trụ,chưa giúp nhân loại hiểu biết hết về xuất xứ của mình,từ đâu mà ra,từ đâu mà đến.Con người thường nêu lên sự hiện hữu của mình trên hành tinh này bằng những truyền thuyết. Mà truyền thuyết là cái bóng của sự thật,được dân gian tưởng tượng và thêu dệt bằng những chi tiết ly kỳ,làm cho truyền thuyết trở nên hoang đường. Do đó trong truyền thuyết có sự hoang đường và cũng có bóng dáng” của sự thật.Nói đến truyền thuyết của giai thoại,của lịch sử,là nói đến bóng dáng của giai thoại đến bóng dáng của lịch sử. Giữa lịch sử và truyền thuyết vẫn có liên quan mật thiết với nhau như hình với bóng,mà hình nào thì bóng đó.Ví dụ như dân tộc champa theo chế độ mẫu hệ từ xã hội nguyên thủy cho đến ngày nay vẫn còn. Trong khi đó theo truyền thuyết,người mẹ xứ sở là Nữ Thần Po Nưgar.    Do đó cái hình là chế độ mẫu hệ,còn cái bóng là Nữ Thần Po Inư Nưgar theo truyền thuyết. Ðể trình bày câu hỏi:Ai sanh ra tổ tiên Champa và họ từ đâu đến? Thật là vấn đề nan giải, ngoài sự hiểu biết và cách nghĩ của chính hậu duệ người Champa?Vì tâm có hướng về cội nguồn,thì nguồn sẽ có trong tâm. Người Champa quan niệm do trời và đất là Thủy tổ sinh ra tổ tiên của họ.Trời (Dyaus) ở ngôi Cha,mang dương tính.Ðất(tanưh amaik) ở ngôi Mẹ mang âm tính.Sự tác hợp giữa Trời và Ðất là sự giao hòa khí dương và khí âm đã tạo thành vạn vật và sản sinh ra thủy tổ dân tộc Champa.Do đó dân tộc Champa chấp nhận thuyết âm dương,sự kiện này cũng phù hợp với biểu tượng Linga (dương tính),Yoni (âm tính) Thần Shiva được thờ tại các đền Tháp Champa. Đây là quan niệm chung cho các chủng tộc trên thế giới. Nguồn gốc tổ tiên champa: Từ kết quả sự khai quật của các nhà khảo cổ đã khám phá nền văn hóa Sa huỳnh trên phần đất Vương Quốc Champa cổ cũng đã xác định được tổ tiên Champa là cư dân địa phương trên vùng đất này ngay từ thời tiền sử.Công trình khai quật này được diễn tiến như sau:Từ năm 1909 Vinet một viên chức người Pháp tình cờ phát hiện được (tại Ðức Phổ – Quảng Ngãi), tiếp theo đó từ 1923-1951 như Labarre, Henry Parmentier và nhà Nữ Tiền Sử học tất cả là người Pháp lần lượt đến Sa Huỳnh và những địa điểm khác nhau thuộc lãnh địa Vương Quốc Champa cổ trước đây, từ Quảng Bình đến Đồng nai để khai quật khám phá được nhiều mộ Chum khác. Mộ chum hay là kho chum cao chừng 0m,80 làm bằng đất nung, trong kho Chum chứa những dụng cụ cần thiết để làm vườn, phá rẩy, chặt cây, nấu nướng như: nồi đất, rựa v.v..và những vật dụng khác. Sau năm 1951 vì chiến tranh Việt Nam, nên công việc khảo cổ bị khựng lại cho đến sau năm 1975, công tác khảo cổ được tiếp tục với người Tây Phương ,cùng với các nhà khảo cổ Việt Nam trở lại Sa Huỳnh, tiếp tục đào bới lớp đất cũ của vùng cư trú Champa cổ và đào ra nhiều kho Chum mới dọc theo ven biển miền Trung, với những đồi cát trắng phau nối tiếp nhau trong gió lộng của miền biển cả. Những kho Chum được đào lên chứa nhiều di tích văn hóa Sa Huỳnh, với trình độ phát triển khác nhau, được các nhà nghiên cứu khoa cổ học chia thành hai nhóm , vào 2 giai đoạn khác nhau:Thời kỳ Tiền Sa Huỳnh hay là Tiền Champa:Di tích văn hóa cư ngụ sớm nhất của văn hóa tiền Sa Huỳnh là thời đại đồ đá, đồng thau có niên đại cách ngày nay khoảng hơn năm ngàn năm. Thời kỳ Sa Huỳnh sắt:Ðây là thời kỳ các dụng cụ mưu sinh được làm bằng sắt như: lưỡi dao, kiếm ngắn,dao quắm,lao,rựa thuổng,xà beng,liềm hái,đục v.v..  những đồ sắt này là dụng cụ khai phá,chặt, tìm kế sinh nhai và có loại dùng làm vũ khí như: lao,kiếm,dao…  Văn hóa Sa Huỳnh sắt là văn hóa nối liền với thời kỳ tiền Sa Huỳnh(không sắt), gắn liền với vùng đất mà cư dân đó chính là thần dân của nước champa và chính là cộng đồng dân cư của đất Nhật Nam,nơi Khu Liên đã dấy binh lập quốc đầu tiên,với danh xưng Lâm Ấp.Cư dân vùng Văn hóa Sa Huỳnh vào thời đó thường dùng khoan tai hai đầu thú (hình hai đầu con dê) là biểu tượng của văn hóa Sa Huỳnh.Trên địa bàn sinh cư của vùng văn hóa Sa Huỳnh trước đây (tức vùng miền Trung nước Việt bây giờ)đều có nuôi nhiều đàn dê và cho đến ngày nay ta thấy các làng Champa tại tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận có nuôi Dê, các lễ cúng giỗ,cúng Yang có dùng thịt Dê để cúng. Trong các di tích văn hóa Sa Huỳnh,ngoài những kỹ thuật chế tác đồ trang sức bằng thủy tinh hai đầu thú(Dê),những cư dân thuộc vùng Vương Quốc Cổ Champa còn sở trường về công nghệ đồ gốm,mà các nhà khảo cổ học khai quật được trong những mộ Chum ở dưới lòng đất miền Trung việt nam ngày nay, đều có hình loại làm bằng chất liệu đất sét pha cát,hoặc pha tạp với những chất khác thường gọi là Gấu thô màu đỏ nâu,xám đen,có khi vàng nhạt,đỏ nhạt giống như những loại đồ gốm các làng champa ở Hựu An,Phan Lý Chăm Bình Thuận và làng Bàu Trúc,An Phước,Ninh Thuận ngày nay. Champa đã biến mất cách đây gần 3 thế kỷ,nay chỉ còn để lại các di tích Chăm rải rác ở các tỉnh Trung phần Việt Nam, như Trà Kiệu, Mỹ Sơn, Đồng Dương, Khương Mỹ, Tháp Mẫm.. Viện bảo tàng Champa,do nhà nghiên cứu Pháp Parmentier thành lập năm 1919,đã thu thập các bảo vật,như tượng,bệ,công trình kiến trúc,điêu khắc của các đền, cung điện..từ nhiều nơi để tồn giữ.Nhưng tại đây,trải qua nhiều biến cố lịch sử, các di sản đặc sắc của văn minh Champa cũng không thoát qua nhiều sự mất mát,lưu lạc. Ngày 9 tháng 12 năm 1946,trong những ngày đầu của chiến tranh Việt-Pháp,giữa sự hổn loạn và thiếu an ninh ở Đà Nẵng,viện bảo tàng đã bị xâm nhập.Rất nhiều bảo vật cũng như tư liệu trong thư viện đã bị đánh cắp.Hơn một năm sau,vào năm 1948, Trường Viễn Đông bác cổ đã gởi ông Manukus đến để hồi phục lại viện bảo tàng.Hơn 150 bảo vật này đã được tìm lại từ nhà dân,trại lính,phi trường và tận ở Lào (Savanakhet).Năm 1954, Viện bảo tàng là nơi trú ngụ của khoảng 300 người dân di tản chiến tranh.Năm Mậu Thân 1968,trong trận đánh chiếm lại Huế,Viện bảo tàng này đã trở thành trại tập trung và là nơi ăn ở của quân đội Nam Việt Nam.Giữa những sự xô bồ, hỗn độn,va chạm và không có sự bảo vệ và bảo trì như vậy,thì sự hư hại,hay mất mác các tượng đá, các công trình điêu khắc tất nhiên đã xảy ra.Gần đây trong năm 1996,các nhân viên viện bảo tàng đã tình cờ tìm ra được 157 mảnh cổ vật đã được chôn dưới lòng đất trong khuôn viên của viện bảo tàng.Champa đã biến mất qua những cơn bão lịch sử,nhưng di sản của nền văn minh này cũng đã chịu đựng nhiều sự cố không may mắn.Một số phận hẫm hiu của nền văn minh Champa? Trải qua nhiều thế kỷ,các ngôi tháp Champa ở nhiều nơi bị hư hại và đổ nát bỡi thời gian và do thiên nhiên tác động.Theo Lê Quí Đôn,Ngô Thế Lân,vào thế kỷ 18, đã để lại bài thơ,Chà bàn cố thành hoài cổ,cho thấy tình trạng sơ sát,bỏ hoang của các tháp,điện đài của vương quốc Champa cách đây hơn 300 năm. Bóng tà dừng ngựa đứng Man mác nỗi hư vong Lăng uyển làm chùa Phật; Cung đình thành ruộng cày Núi tàn trơ tháp cổ; Nước cũ hiện thành hoang Thần đạo nguyên vô cứ; Cửa tây tràn khắc bia(bản dịch) Không khác chi tình trạng hiện nay của nhiều tháp cổ khắp miền trung Việt Nam.Trong cuộc chiến vừa qua,di tích Đồng Dương hầu như bị huỷ hoại hoàn toàn do bom đạn. Một mất mác to lớn đối với những thế hệ về sau. Hầu như tất cả những gì ta biết về văn minh Champa là đứng từ góc độ của người không phải dân tôc Champa.Ngày nay,trong sách giáo khoa Đại học của giáo sư D.Hall về lịch sử Đông Nam Á,ta có thể biết tổng quát về lịch sử đất nước Champa.Tuy vậy phần lớn dữ kiện từ sách của Hall là dựa vào những công trình nghiên cứu tiên phong các học giả Pháp như G.Coedes, H.Parmentier và H.Maspero ở đầu thế kỷ 20. Nói chung về khảo cổ và sử của các nước Champa,Campuchia và một số nước khác ở Đông Nam Á thì chỉ vào đầu thế kỷ 20 người ta mới biết được nhiều mà thôi.Trước đó không mấy ai biết nhiều về Campuchia có một nền văn minh Angkor rực rỡ,cả sử của Nam Dương cũng mù tịt cho đến khi Coedes khám phá ra vương quốc Sri Vijaya ở Sumatra,còn sử của Champa thì mù mờ,chỉ biết qua tư liệu của các nước láng giềng như Việt Nam(Đại Việt sử ký toàn thư)hay của Trung quốc(Tống sử, Minh sử..)đến khi Finot,Parmentier,Majumdar và Maspero khám phá ra bằng phương pháp có hệ thống. cả trong sử của Ấn độ,trước đây hoàng đế Ashoka chả ai biết nhiều,chỉ nghe tên trong vài kinh điển Phật giáo, đến khi Princep khám phá ra qua bia ký là có thật,một nhà vua hiền triết chuộng đạo Phật với một vương quốc rộng lớn. Hiện nay nghiên cứu về nền minh và văn hóa Champa đã được quan tâm và đã có một số công trình nghiên cứu có giá trị được xuất bản gần đây ở Việt Nam. Đây là một dấu hiệu đáng mừng cho sự nghiên cứu Champa học ở Việt nam. Trước đây, trong các thập niên 1970 và sau 1975,có sự dè dặt trong sự nghiên cứu Champa học,vì ngành này đa số là do các nhà nghiên cứu nước ngoài,chủ yếu là Pháp,khai phá và phát triển với sự cộng tác của một số cộng tác viên Champa và Việt.Sự dè dặt nghi kỵ của người Việt về mục đích chính trị đối với các công trình nghiên cứu Champa học không phải là không có lý do.Vì đã có nhiều thế lực chính trị lợi dụng để chia rẽ, hay muốn tách rời địa phận để độc lập làm khó khăn cho Việt Nam trong những năm chiến tranh chống thực dân, giảm đi tiềm năng và bước tiến của lịch sử.Nhưng sự dè dặt và nghi ngờ này nếu đi quá cũng có hệ quả là lãnh vực Chăm học,“sân chơi”chỉ dành cho lực lượng người nước ngoài nghiên cứu,mà Việt Nam thì chỉ có lưa thưa vài người. Khi tôi đề cấp đến sở thích về nghiên cứu văn minh Champa thì mọi người đổi thái độ và hơi dè dặt lo âu.Cuối thập niên 1990,tổ chức Toyota Foundation đã tài trợ cho Gs Trần Kỳ Phương xuất bản bộ sách tổng hợp về sự hiểu biết hiện nay về văn minh Champa ở Việt Nam,như trước đây họ đã tài trợ cho bộ sách về văn minh Đông Sơn do Gs Hà Văn Tấn xuất bản.Không may là sự việc đã không thành. Ngày nay Việt nam đã khác nhiều và tự tin hơn về đất nước mình qua sự chuyển mình về kinh tế và tiềm năng trong tương lai.Tư duy cũng đã thay đổi từ thời chiến qua thời bình, mặc dầu có những khó khăn trong những năm chuyển tiếp. Sự vững tin này cũng thể hiện trong lãnh vực văn hóa,văn học và nghiên cứu trong những năm gần đây. Viện Nghiên cứu Đông Nam Á đã thành lập.Việt Nam ngày nay là thành viên của tổ chức ASEAN. Cộng đồng Champa ở Việt Nam là gạch nối với các thành viên Indonesia, Mã Lai cùng tôn giáo và liên hệ ngôn ngữ.Các nước này đã có những chương trình hoạt động văn hóa, nghiên cứu chung với cộng đồng Champa.Sợi dây liên hệ giữa Việt Nam và Đông Nam Á sẽ càng đan kết và thắt chặc. Lần đầu tiên sau nhiều năm qua đã có một hội nghị Champa học vào tháng 8/2004 ở Singapore qui tụ một số học giả từ nhiều nước như Việt Nam, Singapore,Nhật, Anh Mỹ,Pháp.Nhiều báo cáo,khám phá mới có giá trị đã được thông báo:những hiểu biết về văn minh Sa Huỳnh và Champa qua địa điểm khảo cổ Trà Kiệu,liên hệ giữa ngôn ngữ Champa và các ngôn ngữ dân tộc ở Tây Nguyên.Một điểm đáng chú ý trong các bản báo cáo là các tài liệu Trung quốc trước kia chưa được quan tâm đến nay đã được một số học giả nghiên cứu: Minh sử,Tống hội yếu tập cao và Cửu Phiên Chí. “Tổng hội yếu tập cao” có nhiều thông tin về Champa từ 960-1180 như sự liên hệ của Champa với triều đình Tống, Chân Lạp, Srivijaya, Đại Việt(thuộc Giao Châu thời bị Trung quốc đô hộ và sau khi độc lập năm 960) nông lâm nghiệp, thương mại hàng hải... Tiếp nối công trình bỏ dỡ của Boisselier khi ông này mất, Emmanuel Guillon năm 2002 đã xuất bản tác phẩm về nghệ thuật Champa qua những bảo vật ở viện bảo tàng Đà Nẵng. Sách có giá trị tham khảo, tổng hợp sự hiểu biết từ trước đến nay kể cả những khám phá các di vật khảo cổ mới thu thập được. Ở Việt Nam,các sách về văn hóa,văn học,nghệ thuật Champa của Ngô Văn Doanh,Trần Kỳ Phương, Pgs ts:Po Dharma, Inrasara...với những hiểu biết mới cũng đã được xuất bản.Lãnh vực Chăm học như có luồng sinh khí mới mở đầu cho thời kỳ Phục hưng trong nghiên cứu mà trước đây đã bị bỏ quên,ít được quan tâm trong một thời gian dài,sau những công trình khám phá tiên phong của các học giả Pháp trong giai đoạn nữa đầu thế kỷ 20. -Indrapura vùng đất từ Đèo Ngang, Hoành Sơn đến đèo Hải Vân (Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên) là vùng giao điểm của hai văn minh từ hướng Bắc và hướng Nam hải đảo. Đây là vùng đất "đệm" của hai nền văn minh Ấn-Hoa. Di tích Champa trong vùng này còn ở Mỹ Đức, Quảng Bình, Hà Trung, Thạch An, Bích La cũng như ở dãi cồn ở Cửa Tùng, Cửa Việt. Di tích Tháp Champa được tìm thấy ở An Xá (Do Linh), Cam Giang, Cam Lộ, Cổ Thành Ái Tử và Trà Liên. Tại vùng này, người ta cũng tìm được nhiều đồ gốm xưa của văn hoá Champa và Trung quốc từ thời Đường, Tống, Minh.. chứng tỏ xưa kia ở đây cũng có thể là nơi có các hải cảng thương mại sầm uất không kém cảng Hội An về sau này. Xa hơn nữa vào thời tiền sử, vùng này là nơi chuyển tiếp của giao lưu văn hóa Sa Huỳnh và văn minh Đông Sơn qua Đèo Ngang. Nơi đây còn có các di tích văn hóa Sa Huỳnh ở Cồn Bàu, đảo Cồn Cỏ, Cổ Trai ở Cửa Tùng. Đồ đồng Đông Sơn đã được tìm thấy ở Tam Mỹ, Phú Hòa và mới đây tận mãi Bình Định, còn những khuyên tai hai đầu thú và các hạt chuổi thuỷ tinh thuộc văn hoá Sa Huỳnh, thì tìm thấy được ở Xuân An, Làng Vạc (Nghệ An, Hà Tĩnh).Văn hoá Sa Huỳnh được các nhà khảo cổ Việt Nam và nước ngoài cho là có không gian chính từ Quảng Nam đến Đồng Nai. Tháng 8, 2001 ở Thừa Thiên, Huế, tình cờ tìm được một ngôi tháp Chăm nhỏ, đỉnh tháp đã mất, thân tháp cao khoảng gần 2m.Theo Ngô Văn Doanh,ngôi tháp này(gọi là tháp Mỹ Khánh) có niên đại ở thế kỷ 8.Như vậy là ngôi tháp Chăm cổ nhất hiện còn thuộc phong cách Mỹ Sơn E1. Trong chiến tranh chống Mông cổ dưới đời vua Trần Nhân Tông, liên minh Champa-Việt đã thành công đẩy lui hiểm họa xâm lăng từ phương bắc qua đường bộ và thủy. Từ sự liên kết này qua chính sách chiến lược sáng suốt của vua Trần Nhân Tông, mà Jaya Simhavarman III(Chế Mân)cũng đã đồng ý theo lời đề nghị của thượng hoàng Nhân Tông, trong dịp ông rời nơi tu dưỡng ở núi Yên Tử đi viếng Champa,để lấy công chúa Trần Huyền Trân, em gái của vua Trần Anh Tông.Trong hôn nhân Champa-Việt này, lãnh thổ Champa là châu Ô và châu Rí(Quảng Trị và Thừa Thiên)đã được nhượng tặng cho Đại Việt.Trong thời trị vì của vua Chế Mân,quyền lực Champa rất mạnh trãi rộng đến tận Tây Nguyên nam phần.Tháp Yang Prong ở Tây Nguyên và tháp Jaya Simha lingesvara (tháp Pô Klaung Garai) nổi tiếng ở Phan Rang là do chính Chế Mân xây dựng.Tuy nhiên sau khi Nhân Tông và Jaya Simhavarman mất, vua Anh Tông hoàn toàn thay đổi chánh sách.Chiến tranh Champa-Việt trở lại khốc liệt hơn khi Champa đòi lại vùng đất đã nhượng. Theo Minh sử,một trong những lý do nhà Minh đã gởi tướng Trương Phụ xâm lăng Đại Việt là Đại Việt đã nhiều lần xâm phạm lãnh thổ Champa.Sứ giả Champa lúc này đã dùng chiến thuật ngoại giao rất có tác dụng. Họ đã báo cáo thường xuyên rất nhiều lần và nhờ nhà Minh trợ giúp quân sự hay mua võ khí để đánh trả Đại Việt.Nhưng cũng chính sự chiếm đóng đô hộ Đại Việt của nhà Minh,trong một thời gian đã đưa đến các nguyên nhân dẫn đến sự suy tàn của vương quốc Champa, sau khi Đại Việt dành lại được độc lập.Theo Wade thì có 2 nguyên nhân chính: Sự chiếm đóng và quản lý của nhà Minh ở Đại Việt và các quận ở Indrapura đã mở rộng phạm vi Đại Việt,khi quân Minh rút đi Sự chuyển giao kỷ thuật quân sự (súng ống) của nhà Minh vào Đại Việt. Ðến thời Lê Thánh Tông, vương quốc Champa hoàn toàn bị mất thế trong tương quan lực lượng quân sự. Champa bắt đầu tàn lụi sau khi thủ phủ Vijaya bị tàn phá với dân số một phần bị tiêu diệt và bị bắt làm tù binh mang về Đại Việt. Theo Shiro Momoki, qua các tư liệu như “Tống hội yếu tập cao”, “Chư Phiên Chí” thì Champa vào thế kỷ 10 đến 11 vẫn còn các cơ cấu xã hội, chính quyền ở phía bắc đèo Hải Vân. Như vậy quan điểm cho rằng người Việt liên tục mở rộng xuống phía Nam từ thế kỷ 10 là không đúng. Ngay cả ở thế kỷ 14, Champa không suy tàn như ta nghĩ, mà vẫn phát triển hoạt động thương mại với Trung Quốc và các nước trong vùng. Vải bông, đồ gốm Chăm xuất khẩu đến các nước Đông Nam Á hải đảo. Cửa Thị Nại là cảng quan trọng ở biển Nam mà Kublai Khan coi là cảng tiếp nối từ cảng Quảng Châu đến cảng Qui lam ở nam Ấn Độ. Như vậy sự nam tiến của Đại Việt sau 1390 chỉ có thể được coi như là một chiến thắng len lỏi từ sau lưng. -Amaravati Từ đèo Hải Vân (Quảng Nam) xuống phía nam đến giáp Bình Định là vùng trọng điểm của văn minh Champa với các di tích lớn như Mỹ Sơn, Trà Kiệu, Đồng Dương, Khương Mỹ,Chiên Đàn.Nơi đây ở Đồng Dương đã tìm thấy tượng phật đồng rất đẹp đầy mỹ thuật (hiện còn tàng trữ ở viện bảo tàng Thành phố SG). Đặc biệt các tượng điêu khắc,kiến trúc ở đền Đồng Dương chịu ảnh hưởng của Phật giáo đại thừa. Trong tất cả các di tich Chăm, nghệ thuật Chăm Đồng Dương là độc đáo sáng tạo và là nơi duy nhất có chịu ảnh hưởng tư tưởng từ Trung quốc phương bắc. Di tích Đồng Dương hầu như đã bị huỷ diệt hoàn toàn trong cuộc chiến tranh vừa qua.Trà Kiệu hay Simhapura (Thành phố sư tử, từ chữ Simha, Singha nghĩa là sư tử và pura là thành phố) là kinh đô xưa nhất của Champa ở Amaravati.Trước cả 2 thành phố "sư tử"khác ở Đông Nam Á là Singapore (Lion City, từ Singha và pura) và Singburi (Singha và buri (thành phố)), gần Ayuthaya, Thái Lan. Xưa kia sư tử còn hiện diện ở Cận Đông và Bắc Ấn (các vua người Assyria thường đi săn bắn sư tử như trên các bia khắc đền đã mô tả), sau này sư tử Á châu tuyệt chủng chỉ còn lại sư tử ở Phi Châu.Theo Ngô Văn Doanh thì từ Trà Kiệu hiện nay là biến âm từ chữ Chăm cổ ya – sông, nước và chữ Phạn: keo - ngọc, mà người Việt gọi là thành Sông Ngọc để chỉ thành phố Simhapura. Mariko Yamagata, Ian Glover, Nguyễn Kim Dung của nhóm nghiên cứu Việt-Anh-Nhật khai quật ở Trà Kiệu (1997-2000) và ở Gò Cam (2000) gần sông Thu Bồn, cách thành cổ Trà Kiệu 3.5km về phía Đông. Tại đây đã tìm thấy các hủ đất giống các hiện vật ở Trà Kiệu, các đồ gốm, đồng, dấu ấn thời Hán, di tích nhà gổ cổ nhất (được xác định khoảng ). Dưới tầng khai quật trên là các di vật thuộc văn hóa Sa Huỳnh, cho thấy có sự liên tục và người Chăm là hậu duệ của người Sa Huỳnh. Địa điểm Gò Cam gần ba di tích mộ chôn Sa Huỳnh: Gò Miếu Ông, Gò Mã Voi, Gò Vàng. Ông Yamagata cho rằng Trà Kiệu và Gò Cam xuất hiện sau sự suy tàn của văn hóa Sa Huỳnh. Tầng cuối nhất của địa điểm khảo cổ Hoàn Châu (Trà Kiệu) và Gò Cam được thẩm dịnh ở nửa đầu thế kỷ 2. Mỹ Sơn là di tích Champa lớn nhất, nằm trong thung lũng, dọc theo một con suối. Nơi đây có nhiều đền, tháp, bia ký được nhiều triều đại trong lịch sử Champa xây dựng. Nhờ bia ký tìm được mà người ta biết được là người sáng lập ra Mỹ Sơn vào thế kỷ thứ 4 là vua Bhadravarman I .Dù thủ đô có dời hay ở nơi nào khác do thời cuộc, các vua chúa Champa vẫn hướng về Mỹ Sơn để tưởng nhớ và xây đền thờ. Thánh địa Mỹ Sơn vì thế có nhiều kiến trúc khác nhau theo các phong thái riêng của mỗi thời.. Phần lớn những công trình kiến trúc hiện còn ở Mỹ Sơn được xây dựng vào thế kỷ thứ 10 có chung một phong cách kiến trúc được các nhà nghiên cứu gọi chung là phong cách Mỹ Sơn A1.Trước phong cách Mỹ Sơn A1 là các nhóm tháp thuộc thế kỷ 8 đến 9.Qua lịch trình phát triển kiến trúc Champa thì trong 2 thế kỷ 8 và 9,có ba phong cách khác nhau  phong cách Mỹ SơnE1,phong cách Hoà Lai và phong cách Đồng Dương. Trong cuộc chiến tranh Việt-Mỹ vừa qua, đền Mỹ Sơn A1 và vài di tích lân cận đã bị phá huỷ khi trúng bom máy bay Mỹ trong một phi vụ oanh kích. Vào năm 1988, trong một công trình thủy lợi, người ta tình cờ khám phá ra di tích tháp An Mỹ, Tam Kỳ với nhiều điêu khắc đá như bộ linga-yoni, trang trí kiến trúc (đỉnh, cột tháp), mảnh vở của tấm bia… Niên đại được thẩm định vào đầu thế kỷ 10, thuộc phong cách chuyển tiếp từ Đồng Dương đến Mỹ Sơn A1. Vào năm 1997, tỉnh Quảng Nam và chính phủ Việt Nam đã đề nghị và xin Liên Hiệp Quốc đưa Trà Kiệu, Mỹ Sơn và Đồng Dương lên danh sách những di sản của thế giới (World Heritage list) để bảo tồn. Đây là những di tích văn hóa xưa nhất ở Trung Việt Nam, lâu hơn Huế hơn 12 thế kỷ. Hiện nay quần thể Mỹ Sơn được công nhận là một di sản văn hoá thế giới. Đồng Dương(Indrapura)một thời là kinh đô Champa dưới triều đại Indrapura. Triều đại Indrapura,do vua Indravarman II sáng lập,bắt đầu từ năm 875.Các đền tháp phong cách Mỹ Sơn A1 đều được xây dựng dưới triều đại Indrapura. Sau hơn một thế kỷ phát triển, kinh thành Indrapura bị tiêu hủy trong trận chiến với vua Lê Đại Hành vào năm 982.Năm 1000,vua Champa HarivarmanII rời hẳn thủ đô về Vijaya ở phía Nam. Một số người Champa cũng đã di cư qua đảo Hải Nam (và hiện nay họ vẫn còn) sau cuộc chinh phạt của Lê Hoàn vào Amaravati. Một tướng của Lê Hoàn là Lưu Kỳ Tông, phản lại nhà Lê, tự xưng vương ở Amaravati (986-988) đã cai trị hà khắc,huỷ diệt đền đài và nhiều bia ký ở Mỹ Sơn,nên một số người Champa đã chạy đến đảo Hải Nam (Trung Quốc).Theo sử gia Maspero vì bị mất nhiều bia ký (tk8-10),nên trong giai đoạn này lịch sử Champa không được biết nhiều. -Vijaya Mặc dầu Indrapura và Amaravati vẫn là lãnh thổ Champa khi dời đô về Vijaya vào năm 1000,Indrapura và Amaravati đã trở thành các tỉnh ngoại vi, không còn chiếm vị trí quan trọng về kinh tế,chính trị c&#
0 Rating 448 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On May 8, 2014
Đặt vấn đề: Vương quốc Champa, một quốc gia từng tồn tại trong lịch sử từ khoảng giai đoạn 192 đến năm 1832, trên khoảng không gian kéo dài từ Quảng Bình (ở phía Bắc) cho đến Biên Hòa (ở phía Nam) thuộc khu vực miền Trung Việt Nam ngày nay. Cho đến cuối thế kỷ thứ XX, sự hiện diện của vương quốc này ở khu vực Tây Nguyên (Cao Nguyên Trung phần) vẫn là một vấn đề gây tranh cãi giữa các nhà khoa học. Điều này cũng dẫn đến sự ngộ nhận của nhiều nhà nghiên cứu về thành phần các sắc dân cùng cấu tạo nên vương quốc Champa. Bởi vì, một khi phủ nhận Tây Nguyên như một phần của vương quốc này, thì họ cũng đã phủ nhận các dân tộc ở Tây Nguyên là một thực thể của vương quốc đó. Những nhận định ở trên xuất phát từ các nhà nghiên cứu đầu tiên về vương quốc Champa và người Chăm. Trong những năm 1885 – 1890, trong các tác phẩm của mình, E. Aymonier liên tục sử dụng các thuật ngữ như “Les Cham” hoặc “Cham” để chỉ cho người Chăm và chỉ luôn cho thần dân của vương quốc Champa, dùng danh từ “Nagar Cham” (xứ sở của người Chăm) để chỉ cho vương quốc Champa…. Cụ thể, khi nghiên cứu về biên niên sử Panduranga – Champa, E. Aymonier cho rằng đây chỉ là một cảu chuyện hoang đường và mang tính thần thoại, trong biên niên sử này có các thuật ngữ như “Nagar Cham”, mà E. Aymonier cho là vương quốc Chăm, và các ông vua trong biên niên sử (tiếng Chăm ghi là Patao Chăm) cũng là vua của vương quốc Champa trong nghĩa rộng của nó…[1]. Vì thế mà sau này có những hiểu nhầm cho rằng, Po Kloang Girai (vua của tiểu quốc Panduranga) trong biên niên sử trên là Chế Mân (vua của vương quốc Champa) hay Po Binnasuar (trong biên niên sử) với Chê Bồng Nga… Sử dụng những thuật ngữ như trên và không giải thích kèm theo, E. Aymonier đã đánh đồng xứ sở của người Chăm với vương quốc Champa, đánh đồng người Chăm với thần dân của vương quốc Champa xưa, đánh đồng vua Chăm với vua Champa, đây là một sai lầm về thuật ngữ và nhận định. Điều này vô hình chung sẽ tạo một ấn tượng sai lệch về vương quốc Champa và để lại tiền lệ cho các nhà nghiên cứu sau này, từ đó họ tiếp tục có những nhận định đó và sẽ tạo thành một thói quen cho những người không chuyên khi muốn tìm hiểu và nghiên cứu về vương quốc Champa, đây là một điều rất nguy hiểm. Người đầu tiên phê bình quan điểm của E. Aymonier là E. Durand. Vào năm 1905, trong một bài viết mang tựa đề Notes sur les Chams, ngay tại phần III mang tên La Chronique Royale, E.Durand khi phản đối quan điểm của E. Aymonier về biên niên sử hoàng gia Panduranga – Champa[2]. Đồng thời, ông cũng phê bình và phản đối quan điểm của E. Aymonier về việc sử dụng thuật ngữ “Nagar Cham” để chỉ “vương quốc Champa”. Bởi vì, E.Durand và sau đó là Po Dharma (1979)[3] cho rằng, biên niên sử Panduranga – Champa là biên niên sử ghi tên những vị vua có thật, chứ không phải là thần thoại, chỉ có điều, đó không phải là biên niên của vương quốc Champa, mà là biên niên của tiểu quốc Panduranga. Các thuật ngữ “Nagar Cham” là do người đương thời khi sử dụng chữ Chăm hiện đại (Akhar thrah) viết vào biên niên sử, người Chăm bấy giờ, xem vương quốc Champa và vương quốc Chăm (tức là vương quốc của người Chăm) là một và thuật ngữ “Patao Cham” (sử dụng trong biên niên sử) không phải để chỉ vua của vương quốc Champa mà để chỉ những ông vua của tiểu quốc Panduranga. Theo quan điểm này, các nhà nghiên cứu trên cho rằng vương quốc Champa cổ và tiểu quốc Panduranga là hai thực thể khác nhau, vương quốc Champa cổ không phải là vương quốc của riêng người Chăm vốn tập trung ở xứ Panduranga mà là vương quốc đa sắc tộc. Năm 1910, trong tác phẩm Le Royaume Champa (tái bản 1928), G. Maspero dù cho rằng vương quốc Champa là đa chủng, nhưng lại xem dân tộc Chăm là dân tộc giữ quyền chính trị quan trọng hơn các dân tộc khác trong vương quốc và ông còn cho rằng tên tộc Chăm là bắt nguồn từ Champa mà ra[4].  L. Finot, nhà nghiên cứu đầu tiên lên tiếng phản đối quan điểm trên của G. Maspero vào năm 1928. Theo L.Finot, khi nghiên cứu các bia ký ở Đông Dương, ông không thấy bia ký nào đề cập đến “dân tộc Chăm” hay “vương quốc Chăm” mà chỉ có “dân tộc Champa” (Urang Champa), “vua Champa” (Raja Champa) và “vương quốc Champa” (Nagara Champa). Như vậy, hoàn toàn không có căn cứ để cho rằng hai thuật ngữ “Chăm” và “Champa” là một, “Champa” là một từ tiếng Phạn để chỉ vương quốc “Champa”, còn “Chăm” chỉ là từ địa phương để chỉ người Chăm ở khu vực Panduranga[5]. Những sai lầm trên của E.Aymonier và G.Maspero dù đã được các học giả như E.Durand, L.Finot phê bình…Nhưng những nhà nghiên cứu sau này, đặc biệt là các nhà nghiên cứu trong nước, vẫn luôn vấp phải những sai lầm tương tự. Dorohiem và Dohamide, trong tác phẩm Dân tộc Chàm lược sử đã mắc phải những sai lầm đó, trong cuốn sách này, ngay từ tên gọi chúng ta có thể thấy tác giả đã nhập chung khái niệm “dân tộc Chàm” và “vương quốc Champa cổ”. Thay vào đó, hai tác giả lại đồng hóa các dân tộc ở Tây Nguyên – Trường Sơn với người Chăm: “Nhóm Chàm miền Đồng bằng và nhómChàm Cao Nguyên”[6]. Hai tác giả còn xem người Chăm là người xâm lược và thống trị các sắc dân thiểu số ở Tây Nguyên và Trung bộ: “ Nền văn minh Champa không tự hạn định phạm vị trong vương quốc Champa, mà còn vươn ra ngoài biên-cương, ảnh hưởng đối với một số Dân-tộc Cao-Nguyên Trung-phần”[7]. Gần đây nhất, GS. Lương Ninh lại có quan điểm tương tự, trong tác phẩm Lịch sử vương quốc Champa . Trong đó, ông có viết: “ Nếu coi đó [Champa] là nhà nước liên minh đa sắc tộc thì đã không phản ánh đúng thực tế lịch sử”[8]… Những quan điểm trên của Dorohiem và Dohamide, và sau đó là Lương Ninh…đã gặp phải sự phản ứng từ nhiều học giả như P-B-lafont, Po Dharma B. Gay[9]…, và gần đây là Dominique Nguyen, M.S Bertrand…[10] Như vậy, xuất phát từ những ngộ nhận về thuật ngữ của E. Aymonier, những sai lầm về nhận định của G.Maspero. Các nhà khoa học sau này như Dohamide, Dorohiem, Lương Ninh…đã nhìn nhận vương quốc Champa như một quốc gia của người Chăm, họ xem người Chăm là chủ nhân của vương quốc đó, thay vào đó, họ giải thích người Chăm như là những kẻ xâm lược ngoại tộc đã thống trị và đô hộ những dân tộc khác ở Tây Nguyên – Trường Sơn. Cho dù, nhiều học giả đã đưa ra những quan điểm, những cứ liệu lịch sử để phủ nhận các nhận định trên ngay từ những năm đầu thế kỷ XX, nhưng các nhà nghiên cứu lịch sử Champa sau này lại mắc phải những sai lầm đó. Chúng tôi thực hiện bài viết này, dựa trên cơ sở tổng hợp các nguồn tư liệu, các nhận định đã nêu ở trên. Cũng như, góp thêm nhiều tư liệu, chứng cứ khác (cùng với các nhà nghiên cứu như E. Durand, L.Finot, Po Dharma, P.B.Lafont B.Gay,  sau đó là Dominique Nguyen…) với hy vọng làm sáng tỏ thêm một vấn đề bản thể của vương quốc Champa, như là một vương quốc đa dân tộc, chứ không phải là vương quốc của riêng người Chăm. Trong đó, các dân tộc bình đẳng và có vai trò quan trọng như nhau trong việc cấu thành nên toàn bộ thực thể của vương quốc này, chứ không có sự xâm lược hay bất bình đẳng giữa các tộc người như một số ý kiến đã nhận định. Nguồn tư liệu khảo cổ học và dân tộc học, ngôn ngữ học. Để đi đến nhận định về vấn đề đa dân tộc của vương quốc Champa, chúng ta cần chứng minh tầm ảnh hưởng về lãnh thổ và chính quyền của vương quốc Champa đến khu vực Tây Nguyên, từ đó khẳng định Tây Nguyên và các dân tộc bản địa ở đó là một phần thuộc vương quốc Champa. Tây Nguyên, ngày nay là địa bàn cư trú của nhiều sắc dân thiểu số khác nhau nhưng chủ yếu họ thuộc hai nhóm chính là nhóm Môn – Khmer như Bana, Xơ-Đăng, Giẻ-triêng, Mnông, Mạ, Kaho…Thứ hai là nhóm Mã Lai – Đa đảo (Malaya – Polynesienne) gồm các dân tộc Giarai, Churu, Ê-đê, Raglai, nhóm thứ hai này chiếm đa số về dân số và địa bàn cư trú (người Chăm ở miền Trung cũng thuộc nhóm này).  Trước hết, sự hiện diện của hàng loạt các công trình đền, tháp của Champa như Hapal Bia (Komtum), Yang Prong (gần Buôn Ma Thuột) do vua Jaya Sinhavarman III (Chế Mân) xây dựng vào cuối thế kỷ thứ XIII, Yang Mum ở Cheo Reo, Pleiku xây dựng vào khoảng cuối thế kỷ thứ 14 và đến đầu thế kỷ 15, và một loạt các công trình khác ở thung lũng Ia Ayun và thượng nguồn sông Ba như Drang Lai, Rong Yang…, mà chắc chắn là do các vị vua Champa xây dựng, cho thấy rằng, Tây Nguyên là một phần của lãnh thổ Champa. Gần đây, các nhà khoa học đã phát hiện và bước đầu nghiên cứu về thánh địa Cát Tiên (Lâm Đồng) tức là phía Nam Tây Nguyên, dù có nhiều quan điểm khác nhau về chủ nhân của thánh địa này như là người Mạ (Trần Quốc Vượng), Phù Nam (Lê Đình Phụng), Thủy Chân Lạp (Ngô Văn Doanh)[11]. Nhưng, tác giả Sakaya đã đưa ra một số tư liệu thuyết phục để chúng tôi tin rằng chủ nhân của khu thánh địa này là vương quốc Champa[12]. Nếu thật vậy, cương vực của vương quốc Champa còn nối dài đến tận miền Nam Tây Nguyên và lan sang khu vực Đồng Nai Thượng, nơi vốn là địa bàn cứ trú của cộng đồng người Mạ. Một minh chứng khác cho thấy mối liên hệ giữa các sắc dân Tây Nguyên chính là những kho tàng của vua, chúa Champa hoặc tiểu quốc Panduranga do các sắc dân thiểu số ở Tây Nguyên lưu giữ và bảo tồn như kho tàng tư liệu lịch sử Văn bản hoàng gia Champa được một người Pháp là P. Villaume tìm thấy vào năm 1902 tại làng Lavang của người Kaho Lâm Đồng và sau đó được E.M Durand giới thiệu vào năm 1907 trên tập san của Viện viễn Đông Bác cổ (BEFEO)[13]… Về các tài liệu dân tộc học, trong quá trình điền dã ở các vùng đồng bào Tây Nguyên, thông qua các câu truyện dân gian, các truyền thuyết được các người già kể lại, các nhà dân tộc học đã tìm ra nhiều chi tiết thu vị để chứng minh mối liên hệ giữa Tây Nguyên và Champa, trong đó có mối quan hệ buôn bán, trao đổi học hỏi, kết hôn giữa các cộng đồng tộc người, cũng như quá trình đoàn kết chống giặc ngoại xâm…. Người Chăm (thuật ngữ mà các sắc dân Tây Nguyên chỉ chung cho những cư dân miền đồng bằng và ven biển Champa xưa kia) đã sớm xuất hiện trong những truyền thuyết, sử thi của cộng động các dân tộc thiểu số ở đây. Đa phần trong các câu truyện đó, người Chăm được nhắc đến nhiều nhất và được xem như là anh em với họ, những câu truyện kể cho ta thấy về việc họ được người Chăm dạy cho cách làm nông, chăn nuôi và thủ công, thay vào đó các cư dân Tây Nguyên cung cấp và trao đổi các sản phẩm rừng như Ngà voi, sừng tê cho họ… Cụ thể, truyền thuyết về Du Droe, hai người con gái Tây Nguyên có chồng được người Chăm cử làm người đứng đầu vùng đất của họ và trở thành những nhân vật quan trọng, giàu có và sung sướng; truyền thuyết về Tu dam Tong được người Chăm ban cho nhiều ân huệ. Về sau, những cuộc hôn nhân giữa người Chàm và người Tây Nguyên thắt chặt các mối quan hệ giữa họ với nhau. Chúng ta đã nói rằng cuộc hôn nhân đầu tiên giữa Chöi Köho và Nai Tölui có phần không hay; nhưng việc đó được nhanh chóng chấp nhận. Câu chuyện rất đẹp về Gliu Glah mô tả mối tình giữa một thủ lĩnh Chàm và một cô gái Tây Nguyên…[14]. Ngoài ra, hiện nay tại địa phận Lâm Đồng còn có nhiều chi tiết về sự liên kết của quân đội Champa và các sắc dân bản địa để chống lại sự xâm lược của Khmer trong thế kỷ XII-XIII như mộ lính Khmer ở làng Kran Gok (Lâm Đồng) mà cư dân địa phương gọi là “Kút Kur”. Hay ngay trong sử thi Udaj – Ujac của người Raglai còn ghi nhận nhiều chi tiết về cuộc kháng chiến của người Chăm, Raglai, Kaho, Churu…chống lại người Khmer mà họ gọi là “Kur”, ngoài ra trong các truyền thuyết của các dân tộc khác ở Tây Nguyên cũng có những chủ đề tương tự…[15]. Một câu truyện khác cũng thể hiện sử gắn bó của người các dân tộc Tây Nguyên với người Chăm, trong các trận chiến chống ngoại xâm, liên quan đến một vị tên “Sankah” (hoặc là tên biệt hiệu) của một vị vua hoặc tướng Champa trong một trận chiến với người Việt. Câu truyện như sau: “…Sankah, thủ lĩnh Chàm, đi đánh những kẻ xâm lược; nhưng ông phải gọi người Tây Nguyên giúp, vì các đội quân Chàm của ông không đủ. Ông mời họ làm phụ tá trong quân đội của ông; ông mời những người Cau Srê, người Mạ, người Noang, người Raglay, tất cả các làng…”[16]. Đứng trên phương diện ngôn ngữ học, khi tham khảo các bia ký và sử liệu Trung Hoa cổ hay các nhật ký của thương thuyền phương Tây. L.Finot và sau đó là B. Gay và P-Y.Manguin cũng đã chứng mình rằng chưa bao giờ xuất hiện các thuật ngữ “Chăm” trên bất kỳ nguồn nào tư liệu nào, thay vào đó để chỉ trên bia ký chỉ xuất hiện các thuật ngữ “Nagara Champa” để chỉ vương quốc Champa, “Urang Champa” để chỉ người Champa, hay “Raja Champa” để chỉ vua Champ. Các thương thuyền phương Tây cũng chỉ sử dụng các thuật ngữ như “Campa”, “Champa”, hay “Tchampa” để chỉ vương quốc Champa, và sử dụng “Champois” và “Champien” để chỉ thần dân vương quốc này chứ không bao giờ sử dụng các “Chăm”[17]. Ngoài ra, các tài liệu tiếng Hán viết về Champa cũng chỉ sử dụng các thuật ngữ “Chiêm Thành Quốc”, “Chiêm Thành Vương” và “Chiêm Thành Minh” (dân Champa)…chứ chưa hề sử dụng thuật ngữ “Chăm” hay “người Chăm”[18]…. Như vậy, không có lý do gì để đánh đồng thuật ngữ “Champa” và “Chăm”, “Champa” là thuật ngữ để chỉ chung cho vương quốc ở miền Trung Việt Nam, gồm nhiều dân tộc, còn  “Chăm” chỉ là tên để gọi một dân tộc tập trung ở khu vực Phan Rang, Phan Rí… Nguồn tư liệu lịch sử (thông qua các sử liệu như bia ký, thư tịch cổ, tài liệu ghi chép…). Lịch sử vương quốc Champa cung cấp nhiều tư liệu cho thấy vương quốc này đã hiện diện ở khu vực Tây Nguyên từ rất sớm, nó càng thể hiện sự gắn bó mật thiết giữa người Chăm và các dân tộc khác ở khu vực Tây Nguyên, sự gắn bó này cho phép chúng ta khẳng định người Chăm hay các dân tộc khác ở miền Trung và Tây Nguyên xưa kia đều là những thành phần không thể tách rời của vương quốc Champa. Trước hết, ngay từ giai đoạn đầu ra đời của vương quốc Champa, trong giai đoạn chuyển tiếp từ Lâm Ấp sang Hoàn vương và Champa, các thư tịch cổ của Trung Hoa đã xuất hiện những ghi chép cho thấy mối quan hệ buôn bán, trao đổi hàng hóa  giữa người miền núi (Tây Nguyên và Trường Sơn) với cư dân Champa đồng bằng. Theo những nguồn tư liệu này, trong danh sách các sản phẩm cống nạp cho triều đình Trung Quốc của Champa, ngoài các sản phẩm từ biển, còn có nhiều thứ quý hiến và là đặc trưng của rừng như voi, sừng tê và một số loại gỗ quý…Cụ thể, sử liệu ghi nhận vào năm 340, Champa lần đầu tiên cống voi cho Thiên triều, rồi rãi rác sau đó cũng vậy, đến năm 630, Champa lại dâng cho Trung Hoa đá quý, voi thuần dưỡng…, năm 642 là 11 sừng tê giác, rồi các năm 711, 731, 749…đến tận năm 992, họ dâng đến 300 ngà voi, 2000 cân hương liệu và 100 cân gỗ đàn hương, năm 1018, dâng 72 ngà voi, 86 sừng tê, 100 cân kỳ nam và 200 cân hương liệu…[19]. Những sản phẩm này chắc chắn không thể tìm thấy nhiều ở vùng đồng bằng, mà phải lấy từ Tây Nguyên, hầu như là hầu hết Tây Nguyên mới có thể cung cấp một số lượng lớn như thế này. Tiếp đến, theo các bia ký Phạn ngữ được tìm thấy ở Vat Luang (Lào) và các bút ký của thương thuyền Tây phương viếng thăm nước Lào vào thế kỷ thứ 18, thì từ khoảng thế kỷ thứ V, vương quốc Champa đã mở rộng biên giới của mình đến tận khu vực Champasak (Nam Lào) và bao gồm cả khu vực Tây Nguyên. Một bia ký Phật giáo khác có niên đại khoảng 914, được tìm thấy ở Kon Klor (Komtum) cũng xác nhận lãnh thổ Champa bao gồm vùng cao nguyên Komtum[20]. Một loạt các bia ký khác, nhiều nhất là ở Mỹ Sơn đã được nhiều học giả nghiên cứu, phiên dịch đã cho thấy sự hiện diện của thuật ngữ Kiratas (các dân tộc miền cao) để chỉ chung cho các tộc người Tây Nguyên hay các thuật ngữ Vrla, Radaiy (Rade), Mada (Bana)…để chỉ một số tộc người ở Tây Nguyên và ghi nhận vai trò của họ trong suốt tiến trình lịch sử của vương quốc này. Theo đó, một bia ký ghi nhận sự kiện diễn ra vào giữa thế kỷ thứ XII, mà trong đó có sử dụng các thuật ngữ Kiratas, Vrla, Radaiy, Mada…cho thấy sự hiện diện và vai trò quan trọng của các dân tộc Tây Nguyên trong lịch sử vương quốc Champa. Xuất phát từ một cuộc tranh giành quyền lực giữa hai thế lực ở Champa, mà có sự can thiệp của vương quốc Khmer thời bấy giờ. Cụ thể, vào năm 1149, vương quốc Khmer, dưới thời Suyrayavarman II, đã thiết lập một chính quyền phụ thuộc của mình ở Bắc Champa, do Harideva (em rể quốc vương Khmer). Không chấp nhận điều này, quốc vương của tiểu quốc Panduranga – Champa, ở phía Nam, Jaya Harivarman I đã tiến đánh Vijaya, thắng lợi và thống nhất vương quốc Champa. Sau chiến thắng này, quốc vương Panduranga, thay vì phải rút về Panduranga để lại ngai vàng cho Vangsaraja (em rể ông), thì lại tuyên bố lên ngôi và thống trị cả vương quốc Champa. Không chấp nhận sự việc trên, hoàng tử Vangsaraja đã đứng lên lãnh đạo cư dân ở Vijaya, Amaravati chống lại quốc vương Jaya Harivarman I. Trong đó, có một nhóm quân Kiratas tham gia vào hàng ngũ của Vangsaraja, năm 1151, vua Jaya Harivarman I đã tấn công đoàn quân này và dẫn đến sự thất bại của hoàng tử Vangsaraja, khiến ông phải lưu vong sang Đại Việt[21]. Sự hiện diện của các dân tộc Bắc Tây Nguyên, mà đương thời là thần dân của vương quốc Vijaya – Champa, trong đoàn quân chống lại Jaya Harivarman I của hoàng tử Vangsaraja đã cho thấy họ là một thành phần quan trọng của vương quốc Champa, đây không phải là một cuộc vùng dậy để chống lại sư thống trị của Champa, như một số nhà nghiên cứu thường hiểu nhầm, mà là vì họ không chấp nhận sự thống trị của một quốc vương cướp ngôi, vốn là quốc vương của Panduranga, trong khi ủng hộ người đáng ra phải thừa kế ngai vàng, hoàng tử Vangsaraja. Đương thời, không chỉ có người Kiratas, mà còn có đông đảo nhân dân ở khắp Vijaya, Amaravati…chống lại hành động cướp ngôi của Jaya Sinharvarman I, ủng hộ hoàng tử Vagsaraja. Do đó, Kiratas là những người tham gia vào đoàn quân nổi dậy với tư cách là một thần dân của vương quốc Vijaya – Champa, để chống lại một ông vua, mà theo họ là không chính danh, chứ không phải để chống lại Champa nói chung. Cũng theo các bia ký ở Champa, nhật ký du hành của Marco Polo trong thế kỷ thứ XIII hay trong Nguyên sử (sử liệu của Trung Hoa), liên quan đến cuộc xâm lược Champa của Mông Cổ vào những năm 1282 – 1284, họ cũng xác nhận rằng: lãnh thổ Champa thời đó còn kéo dài đến cả khu vực cao nguyên Komtum và Pleiku[22]. Cũng theo những tài liệu này, khi tiến hành cuộc kháng chiến chống xâm lược của Mông Cổ, vua Champa Indravarman I và hoàng tử Rarijit đã quyết định rút khỏi đồng bằng và chọn khu vực Tây Nguyên làm hậu cứ kháng chiến lâu dài[23]. Bản thân, các cư dân thuộc các dân tộc Tây Nguyên cũng sát cánh bên cạnh triều đình Champa và tham gia vào đoàn quân kháng chiến chống lại Mông Cổ của vương quốc Champa. Việc chọn Tây Nguyên là hậu cứ kháng chiến chống Mông Cổ của triều đình Champa là một xác nhận rằng Tây Nguyên thuộc lãnh thổ Champa. Sự hiện diện của các dân tộc Tây Nguyên trong đoàn quân kháng chiến cũng minh chứng rằng họ là thần dân của vương quốc Champa và có trách nhiệm đối với sự nghiệp bảo vệ tổ quốc Champa. Những cứ liệu trên cung cấp đầy đủ chi tiết để chứng minh Tây Nguyên là một phần lãnh thổ của vương quốc Champa, các dân tộc Tây Nguyên là thần dân của vương quốc Champa. Nhưng, những chi tiết trên chưa đủ để cho thấy vai trò của họ trong vai trò cấu thành vương quốc Champa, từ đó dẫn đến những ngộ nhận của các nhà nghiên cứu về vai trò của các dân tộc Tây Nguyên trong vương quốc, trong khi họ lại cho rằng người Chăm là dân tộc có vai trò quan trọng như là chủ nhân chính của vương quốc này. Nguy hại hơn, còn có người cho rằng người Chăm là thế lực thống trị và đô hộ các dân tộc ở Tây Nguyên, như những truyền thuyết của các dân tộc Môn – Khmer (Bana, Mạ, Kơho, sedang…) vẫn thường kể lại. Ngay cả nhiều người Chăm, đến cuối thế kỷ trước, vẫn hẳn tưởng rằng họ là chủ nhân chính yếu của vương quốc Champa và xem từ “Chăm” trong tên dân tộc mình như là một biến âm của “Champa” mà ra…Và đến lược mình, các nhà nghiên cứu người Pháp như E.Aymonier, G.Maspero…cũng có những cảm tưởng như vậy. Những ngộ nhận trên đã phản ánh
0 Rating 365 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On April 28, 2014
GIAI ĐOẠN 1400 – 1471 1.Chủ trương, chính sách đối ngoại của hai bên. Chế Bồng Nga Chết, tướng của Chăm Pa là La khải (La Ngai) thu nhặt tan quân mà rút về từ bỏ cả những vùng đất mà trước kia Chế Bồng Nga đã chiếm được (như vậy lúc này lãnh thổ của Đại Việt trở lại phần biên giới ở Thuận Châu, Hóa Châu). Khi đã rút về nước La Khải tự xưng vương (giành ngôi hai người con của Chế Bồng Nga là Chế Mả-Nô Đả-Nam và Chế San-Nô, hai người này trốn sang cầu cứu Đại Việt và được Đại Việt bổ dụng) tức là Jaya Simhavarman[1] [2]. Đến năm 1401 Jaya Simhavarman V lên nối ngôi,mà sử Việt gọi là Ba Đích Lai[3]. Trong khi đó ở phía Đại Việt Hồ Quý Ly được sự ủng hộ của Nghệ Tông nên quyền lực ngày càng củng cố, sau khi mà Nghệ Tông mất năm 1395 thì nhà Trần Hoàn toàn bị Qúy Ly thao túng.Đó là thời cơ để Qúy Ly lật đổ nhà Trần, lập ra nhà Hồ vào năm 1400. Qúy Ly lấy tên nước là Đại Ngu[4]. Vừa lên ngôi Hồ Qúy Ly liền thực hiện chính sách liên tục gây chiến tranh với Chăm Pa để chiếm đất và giành lại thế quyền chủ động trong mối quan hệ với Chăm Pa, chủ trương của ông là muốn khôi phục lại vị thế cường quốc trước Chăm Pa, mở rộng đất đai. Nên liên tục trong các năm 1401-1407, Nhà Hồ đã ba lần Nam Tiến đánh Chăm Pa.Về Phía Chăm Pa lúc này trở nên yếu thế họ chỉ biết chống cự, trong cuộc hành quân của quân Hồ năm 1402, vua Chăm Pa buộc phải dâng đất Chiêm Động và Cổ Lũy (nam Quảng Nam và bắc Quảng Ngãi) mà Chăm Pa gọi là Amaravati, để quân Nhà Hồ lui quân[5]. Khi nhà Hồ bị nhà Minh xâm lược, Chăm Pa mới giành lại phần đất này. Năm 1406, với danh nghĩa “phù Trần diệt Hồ”, nhà Minh mang quân sang đánh Đại Ngu. Sau một số trận kháng cự, sang năm 1407, cha con Hồ Quý Ly, Hồ Hán Thương bị bắt, Nhà Hồ sụp đổ, kể từ đó Nhà Minh thống trị nước Việt suốt 20 năm. Năm 1418 đất Lam Sơn (Thanh Hóa) có người hào chủ tân là Lê Lợi cầm quân khởi nghĩa sau mười năm thì thắng lợi hoàn toàn đẩy lui quân Minh về nước. Năm 1428 Lê Lợi lên ngôi hoàng đế tức Lê Thái Tổ, thành lập nên Nhà Lê Sơ, lấy tên nước là Đại Việt, đống đô ở Thăng Long. Ngay sau đó cả hai nước Đại Việt và Chăm Pa lập lại mối quan hệ hòa bình, điều này được đánh dấu bằng sự kiện vua Chăm Pa vào năm 1427 khi mà Lê Lợi đang dựng cờ khởi nghĩa, xưng là Bình Định Vương có sứ giả Chiêm Thành sang tiếp kiến vương, cống sản vật. Bình Định Vương lúc bấy giờ thiết yến sứ giả rồi lại sai cho ngựa và lụa về,Bình Định Vương lại sai Hà Lật (thiêm tri xu mật viện) đi theo đoàn sang thăm Chăm Pa[6]. Sau đó vào năm 1434 Lê Thái Tổ Băng hà, Lê Thái Tông lên thay, năm 1443 Thái Tông mất, Nhân Tông lên ngôi. Năm 1459 Lạng Sơn Vương Lê Nghi Dân cướp ngôi vua Nhân Tông, không bao lâu thì các đại thần như Nguyễn Xí, Đinh Liệt đem quân phế Nghi Dân mà lập Lê Thánh Tông lên ngôi, một ông vua mà lịch sử ghi nhận là anh minh. Chăm Pa vào năm 1441 khi vua Ba Đích Lai qua đời, Ma Ha Bì Cái nối ngôi ông vua này đã chủ trương gia tăng các cuộc đánh phá Đại Việt, vua Đại Việt là Lê Nhân Tông đã cho quân đánh Chăm Pa vào năm 1446, bắt Ma Ha Bì Cái và đưa Ma Ha Qúy Lai lên ngôi, ông vua này đã gửi lễ vật sang Đại Việt vào năm 1447, quan hệ hai nước lại tốt đẹp. Nhưng không đước bao lâu thì Qúy Lai bị Ma Ha Quý Đô cướp ngôi vào năm 1449.Qúy Đô lại bị ám sát Trà Duyệt lên ngôi vàò năm 1457, sang năm 1460 Trà Duyệt lại nhường ngôi cho Trà Toàn. Trước các hoặc động đánh phá của vua Chăm pa Bì Cái, Lê Nhân Tông chủ trương chinh phạt Chăm Pa và không chế ngôi vua của vương quốc này, sang đến đời Thánh Tông ông lại liên tục yêu cầu Chăm Pa phải dâng thêm cống vật và phụng sự cho vua Lê như với “Thiên Triều”.Vua Trà Toàn không thực hiện điều đó và còn liên tục đem quân sang xâm lấn Đại Việt vào các năm 1468,1469. Để trả lời cho những thái độ này cũa Trà Toàn vua Lê Thánh Tông quyết định chinh phạt Chăm Pa vào năm 1470[7]. Tóm lại từ năm 1400 đến năm 1471, chủ trương và chính sách ngoại giao với nhau giữa hai quốc gia hết sức phức tạp từ những chính sách thù địch, chiến tranh vào thời Nhà Hồ, rồi quan hệ hòa bình và giao hảo khi nhà Lê mới thành lập. Cho đến khi Ma Ha Bì Cái lên ngôi vua liên tục đánh phá nước Việt, tào cớ để vua Lê Nhân Tông can thiệp vào Chăm Pa. Cuối cùng là chính sách của vua Lê Thánh Tông chủ trương coi Đại Việt như thuộc quốc, khiến cho vua Chăm Pa trà Toàn liên tục đánh phá nước Đại Việt, dẫn đến cuộc hành quân của vua Lê vào năm 1471 để đánh Chăm Pa, cuộc chiến sẽ làm cho lãnh thổ vương quốc Chăm Pa càng thu hẹp, nơi mà nó chỉ còn tồn tại với danh nghĩa là chư hầu của Đại Việt,cũng chính ở phần lãnh thổ bé nhỏ còn lại đó sẻ ghi nhận sự hấp hối của nó cho đến ngày vương quốc này cáo chung mãi mãi. 2. Các sự kiện bang giao tiêu biểu Giao tranh thời nhà Hồ (1400-1407). Vào khoảng năm 1401 khi vừa lên ngôi và lập ra nhà Hồ, Qúy Ly sai Hồ Tùng đi đánh Chăm Pa, nghe lời Đình Đại Trung, cho quân bộ đi đường núi, tách xa hẳn quân thủy, gặp khi nước lũ, tướng sĩ ở giữa đường hết lượng đến 3 ngày, phải nướng cả áo giáp bằng da để ăn. Quân trở về, Tùng do đi đường hiểm, lỡ mất quân cơ, đáng phải xử chém. Nhưng vì có công lao hồi còn tiềm để được tha tội chết, đề làm xã binh[8]. Khoảng năm 1401 do sức ép từ nhà Minh Hồ Qúy Lý phải nhường ngôi lại cho con mình tức là Hồ Hán Thương và trở thành thái thượng hoàng. Nhà Hồ phế nhà Trần mà xưng Đế diều này khiên cho dân chúng đương thời rất nhiều người không phục, đặc biệt nhất là triều đại này phải chịu sức ép rất lớn từ Nhà Minh, mà lúc đó do Minh Thành Tổ (niên hiệu Vĩnh Lạc). Chính lúc này nhà Minh không chỉ can thiệp vào nội tình nước Đại Ngu, mà còn sẽ chi phối mạnh mối quan hệ Việt-Chăm Pa. Thất bại trong lần tiến quân trước năm 1402 Hán Thương lại sai Đỗ Mãn làm đô tướng, Nguyễn Vị và Nguyễn Bằng Cử làm chiêu thảo sứ, đem đại quân sang đánh. Khi đại binh kéo đến biên giới, Đinh Đại Trung làm tiên phong, gặp tướng Chăm Pa là Chế Thất Nan (Chế Tra Nan), hai bên giao chiến ác liệt. Vua Chăm Pa là Ba Đích Lại hoảng sợ, sai Bố Điền đem dâng các sản vật địa phương và dâng đất Chiêm Động; để xin cho rút quân.Quý Ly bắt Chăm Pa phải dâng cả đất Cổ Lũy nữa. Rồi Qúy Ly đem hai đất ấy chia làm 4 châu là: Thăng, Hoa, Tư và Nghĩa (từ Đà Nẵng đến Quảng Ngãi)[9]. Đây là một tổn thất rất lớn của Chăm Pa vì họ đã lại phải từ bỏ thêm một phần đất nữa, mà người Chăm Pa gọi là Amaravati (một tiểu quốc của Chăm Pa). từ nay Chăm Pa mất những vùng đất ruộng màu mở phì nhiêu với khoáng sản phong phú, rời bỏ kinh Đô cũ của nước Chăm Pa mấy thế kỷ trước, nơi đã tích trữ biết bao nhiêu tài sản châu báu. Vua Chăm Pa là Ba Đích Lai không từ bỏ như vậy, ông đã cố gửi sứ sang cầu viện vua Minh, báo về việc Đại Ngu sang xâm lấn nước mình, vua Thành Tổ mới cử sứ giả sang gập vua nhà Hồ, nhưng nhà Hồ Hán Thương đã dùng nhiều vật cống cho Thiên Triều vua nhà Minh lờ qua chuyện này(1). Nhà Hồ quyết trả thù Chăm Pa về việc này. Năm 1403, Hồ Hán Thương bổ dụng Phạm Nguyên Côi làm đô tướng quân thủy, Hồ Vấn làm phó; Đỗ Mẫn làm đô tướng quân bộ, Đỗ Nguyên Thác làm phó. Quân thủy, quân bộ tất cả 20 vạn, đều phải chịu dưới quyền điều khiển của Nguyên Côi Khi quân đã đến Chăm Pa, sắm sửa nhiều khí giới chiến đấu, bao vây thành Chà Bàn, vì quân đi đã chín tháng, bị hết lương ăn, lại không hạ được thành, nên phải kéo về[10]. Đây chính là cuộc giao chiến cuối cùng họ sẽ không còn tồn tại bao lâu nữa, trong những năm 1405-1407 họ phải liên tục kháng chiến chống nhà Minh cho đên ngày mà nhà Minh đặt được nền đô hộ lên đất nước của người Việt (người đứng đầu trong cuộc xâm lược Đại Ngu chính là hai tướng Trương Phù và Mộc Thạch). Về phía nam đây chính là cơ may hiếm có của nước Chăm Pa họ vừa thoát được một cuộc chiến tranh xâm lược của Nhà Hồ và có cơ hội chăm Pa lại toàn bộ Amaravati (từ Đà Nẵng đến Quảng Ngãi) vào năm 1407, khi mà nhà Hồ vừa sụp đổ. Ba Đích Lai rất biết ơn vua Minh ông liên tục cử sứ thần sang cống lễ vật cho Thành Tổ trong các năm 1409,1410,1412. Sau khi tiêu diệt nhà Hồ và những nổ lực kháng chiến của nhà Hậu Trần, Trương Phù nghĩ đến việt phải đoại lại khu vực mà nhà Hồ đã chiếm được, khi biến loạn Chăm Pa lấy lại vào năm 1407, Trương Phù xin vua Minh cho Chinh phạt Chăm Pa, nhưng Minh Thành Tổ không chấp nhận, từ đó người Chăm Pa đều đặn dâng cống cho vua Minh. [11]. Triều đại nhà Hồ và sau đó là 20 năm thuộc Minh tuy chỉ là một giai đoạn ngắn nhưng chính trong thời kỳ này những sự kiện quan trọng đã diễn ra giữa hại quốc gia láng giềng này. Bên cạnh đó mối quan hệ này càng trở nên phức tạp khi có bàn tay dính liên hệ của Nhà Minh vương triều đang âm mưu thôn tính Đại Ngu, dưới chiêu bài “phù Trần” khi mà nhà Hồ đang phải đối mặt với những áp lực từ trong nước không được sự ủng hộ của dân chúng, nho sĩ đương thời. Đó là nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ của nó vào năm 1407. Vua Lê Thánh Tông chinh phục thành Đồ Bàn và mở mang bờ cõi (1470-1471). Dưới ách thống trị của Nhà Minh dân chúng Đại Việt bị bóc lột và đàn áp, khổ sở vô cùng.Những phong trào khởi nghĩa chống lại Nhà Minh bùng nổ, Năm 1418 đất Lam Sơn (Thanh Hóa) có người hào chủ tân là Lê Lợi cầm quân khởi nghĩa sau mười năm thì thắng lợi hoàn toàn đẩy lui quân Minh, khôi phục độc lập, lập ra nhà Lê Sơ. Trong giai đoạn đầu Nhà Lê được thành lập quan hệ hai nước trở nên tốt đẹp, vua Chăm Pa lúc bấy giờ vẫn là Ba Đích Lai. Năm 1434 vua Lê Thái Tổ băng hà, Thái Tông còn nhỏ lên nối ngôi người Chăm Pa lại sang cướp Hóa Châu. Người Chăm Pa lấy thuyền đến do xét thực lực Đại Việt, nhân dân Hóa Châu mới chống lại và bắt được hai người Chăm Pa, đem về làm tù Binh, rồi sau cho tha về[12]. Sau này vua Chăm Pa mới lại sai sứ sang mang thư và lễ vật sang cầu phong[13]. Không lâu sau thì Vua Chăm Pa Jaya Simhavarman V (Ba Đích Lai) băng hà vào năm 1441 thì Ma Ha Bì Cái lên nối ngôi. Trong những năm 1444,1445 ông hai lần đưa quân sang đánh phá nước láng giềng phía Bắc, vua Lê Nhân Tông (ông lên nối ngôi vua Thái Tông) phải cử các tướng Lê Bôi, Lê Khả (năm 1444), Lê Xí (năm 1445). Cuộc đánh phá liên tục này khiến cho vua Lê phải cử Lê Thụ, Lê Khả dẫn 60 vạn quân đi đánh Chăm Pa năm 1446,(trước đó Nhân Tông đã gửi sứ thần sang Nhà Minh như để dàn xếp với Nhà Minh, để họ giữ vai trò trung lập). Quân Nhà Lê tiến vào thành Vijaya (Đồ Bàn) và bắt được Bì Cái đưa về thành Thăng Long và lập người cháu của Bì Cái là Ma Ha Qúy Lai lên nối ngôi. Vừa lên ngôi ông đã mang lễ vật sang dâng cho vua Lê Nhân Tông vào năm 1447, hai năm sau năm 1449 Ma Ha Qúy Đô truất phế Qúy Lai và sai sứ sang Đại Việt, năm 1460 Trà Toàn lên ngôi, đó là vua cuối cùng của Chăm Pa đóng đô ở Vijaya. Vua Lê Thánh Tông lên ngôi năm 1460 nhiều lần yêu cầu vua Chăm Pa phải dâng thêm cống vật và đưa Đại Việt lên vị thế thượng quốc nhưng vua Trà Toàn từ chối và còn xua quân tấn công Đại Việt vào những năm 1468,1469[14] [15]. Năm 1470 Trà Toàn thân hành đem 10 vạn quân thủy,bộ cùng voi ngựa đánh Hóa Châu. Tướng trấn giữ biên thuỳ ở châu Hoá là bọn Phạm Văn Hiển đánh không nổi, phải dồn cả dân vào thành, rồi cho chạy thư cáo cấp về cho triều đình, chính lúc này vua Thánh Tông liền chớp lấy thời cơ đó làm lý do chinh phạt Chăm Pa[16]. Trước khi đem đại quân đi thân chinh vua Thánh Tông cho chuẫn bị rất kỹ về chính trị đối ngoại, lực lượng, quân nhu, tinh thần quân, dân Đại Việt[17]. Ngày 16 tháng 11 (âm lịch) vua đích thân cầm 15 vạn thủy quân xuất quân, dọc đường nếu có đi đến đền thờ nao là vua cho dâng lễ tế. Đầu tháng 12 quân của vua tới Thiết Sơn (Nghệ An), đến giữa tháng đó thì vào đất Chăm Pa và cho binh sĩ tập luyện, vẻ lại bản đồ nước Chăm Pa[18]. Ngày 5 tháng 2 (âm lịch) Trà Toàn sai em đem viên tướng và 50 ngàn quân kéo đến sát trại quân Việt, ngày hôm sau vua Thánh Tông bí mật sai Lê Hy Cát, Hoàng Nhân Thiêm và bọn Tiền phong tướng quân Lê Thế, Trịnh Văn Sái đem hơn 500 chiếc thuyền, 3 vạn tinh binh, vượt biển gấp,ngày 6 vua bí mật tiến vào cửa biển Sa Kỳ dựng lũy đắp thành để ngăn chặn lối về của giặc, nhà vua còn sai Nguyễn Đức Trung đa quân mai phục dưới chân núi. Người Chăm Pa không biết việc này. Ngày mồng 7, vua tự mình dẫn hơn 1.000 chiếc thuyền, hơn 70 vạn tinh binh ra hai cửa biển Tân Áp và Cựu Tọa. Tướng Chăm Pa tan vỡ, chạy về Chà Bàn. Chạy đến núi Mộ Nô, thì bị quân của Hy Cát đã chặn đường về, giặc cuống cuồng sợ hãi, chạy rẽ ngang trèo qua chân núi cao, xác người, ngựa và đồ quân tư đầy núi đầy đường. Bọn Lê Niệm, Ngô Hồng tung quân ra đánh, chém được một viên đại tướng Chăm Pa, còn thì đều sợ hãi tan chạy cả. Bấy giờ, vua đến Mễ Cần, tung binh tiến đánh, chém được hơn 300 thủ cấp, bắt sống hơn 60 tên. Trà Toàn nghe tin em mình thua chạy, rất sợ hãi, sai người mang biểu tới xin hàng[19]. Trong tình thế đó ông liên tục gửi thư đầu hàng vua Lê, nhưng vua Lê không chấp thuận và tiếp tục đánh vào kinh thành Chăm Pa. Ngày 27, vua tự mình đem đại quân đánh phá thành Thi Nại, chém được hơn 100 thủ cấp. Ngày 28, vua tiến vây thành Chà Bàn. Ngày 29, đến sát chân thành vây thành mấy vòng.Ngày mồng 1 tháng 3 hạ được thành Chà Bàn, bắt sống hơn 3 vạn người, chém hơn 4 vạn thủ cấp.Ngày mồng 2, vua thấy đã phá được thành Chà Bàn, liền xuống chiếu đem quân về, vua Trà Toàn bị bắt sống rồi đem quân về kinh sư[20]. Như vậy cuộc chinh phạt Chăm Pa của vua Lý Thánh Tông đã thắng lợi trận thắng này có một ý nghĩa hết sức trọng đại trong lịch sử của cả hai dân tộc. Sau trận chiến này cương vục lãnh thổ Đại Việt mở rộng hơn bao giờ hết, vua Lê Thánh Tông sáp nhập phần đất miền Bắc Chăm Pa mà ngày nay là từ vùng đèo Hải Vân-Đà Nẵng đến đèo Cù Mông (Phú Yên) vào lãnh thổ Đại Việt. Đây là lần đầu tiên mà Đại Việt mở rộng lãnh thổ lớn nhất, từ đó Đại Việt sẽ còn tiến xa hơn trong lộ trình mở cõi[21]. Chính vì thế cột mốc năm 1471 đã trở thành biểu tượng cho quá trình Nam Tiến của dân tộc và đánh dấu sự chiến thắng quan trọng của Đại Việt trước Chăm Pa trong bước đường chinh phục người láng giềng phía Nam, bởivì sau đó Chăm Pa chỉ còn mà một vùng đất chư hầu của Đại Việt và nhờ chiến thắng này mà Đại Việt sau này sẽ không cần phải khó khăn trong việc sửdụng sức mạnh quân sự để chiến thắng trước Chăm Pa mỗi khi cần cho tới ngày mà vương quốc này sụp đổ hoàn toàn năm 1697. Cũng từ lúc này phần lãnh thổ Chăm Pa đã bị mất rất lớn hơn bao giờ hết, nó đồng nghĩa với một sự suy thoái nặng nề của quốc gia này đến mức rơi vào khủng hoảng trầm trọng nhất: 60 ngàn quân và dân Chăm Pa đã chết, 30 ngàn người bị bắt làm tù binh: kinh đô, tông miếu tổ tiên bị tàn phá, lãnh thổ bị mất rất nhiều, khiến cho họ chỉ còn biết co cụm về phương Nam khô cằn, nghèo nàn; nó dẫn đến một sự suy tàn thật sự không còn cứu vãn được của vương quốc này cho đến ngày nó chính thức cáo chung với tư cách một quốc gia độc lập; sự kiện này còn đánh dấu sự suy đồi hoàn toàn của nền văn minh ấn giáo(2), thứ tôn giáo thống trị và chi phối toàn đất nước Chăm Pa, nó dẫn đến sự tan vỡ của một cơ cấu xã hội và tín ngưỡng tồn tại ở quốc gia này suốt từ khi lập quốc, nó làm cho xã hội càng rối loạn, trật tự, rạn nức các chuẩn mực, thiết chế và cơ cấu giúp xã hội tồn tại bền vững cũng bị tan vỡ, dẫn đến sự rời bỏ đất đai, xứ sở để di cư đến Chân Lạp, Mã Lai…hay còn xa hơn thế nữa, của rất đông người Chăm Pa. Thật sự phải nói rằng sự kiện này đã là một báo trước một sự chấm hết trong tương lai không xa của vương quốc Chăm Pa, vấn đề còn lại lúc này chỉ là khi nào mà điều đó sẽ đến. 3.Quan hệ: kinh tế, văn hóa-xã hội. Thương mại và buôn bán hai bên: Cho đến hôm nay những tư liệu ghi chép về thương mại và buôn bán của hai nước rất ít, trong giai đoạn từ năm 1400-1471 dù thời gian rất ngắn, thì hai nước có thể có các sự buôn bán qua lại với nhau nhưng chắc là không thể sôi động như thời kỳ Lý – Trần được bởi vì vào thời kỳ này triều đình Nhà Lê thi hành chính sách “bế quan tỏa cảng”, hạn chế trong lĩnh vực ngoại thương với nước ngoài, đối với Champa cũng không ngoại lệ[22]. Giao lưu văn hóa – xã hội: Trong thời điểm này những dấu ấn, ảnh hượng của Chăm Pa tại kinh thành Thăng Long không còn được nói đến nhiều như giai đoạn trước nữa, nhưng những dấu ấn của những thời kỳ trước ít nhiều vẫn còn những dư âm và hiện diện đâu đó trong kinh thành, như một phần tạo nên văn hóa Thăng Long nghìn năm văn vật: + Bằng chứng là vẫn còn nhiều công trình thời Lê, mang bóng dáng của Chăm Pa như Chùa Châu Lâm (hay chùa Bà Đanh) là để phục vụ nhu cầu tâm linh cho các sứ thần người Chăm Pa đến làm việc tại Thăng Long và sau này trở thành một trong những nơi thờ cúng tôn giáo của cư dân Chăm sống trên đất Việt[23]. + Ngoài ra, thì có rất nhiều nghi vấn liên quan đến ngôi chùa Bà Đá (phố Nhà Thờ, Hoàn Kiếm, Hà Nội). Tương truyền, đời Lê Thánh Tông ở làng Báo Thiên Tự Tháp có người đào được một pho tượng Phật Bà bằng đá. Người ấy liền dựng một cái miếu để thờ ngay tại nơi đào được tượng. Sau dân làng thấy thiêng mới làm thành một ngôi chùa hẳn hoi, đón sư về cúng bái.Pho tượng Bà Đá đó đã bị mất vào thời Pháp thuộc. Có nhiều các nhà nghiên cứu cho rằng, đây là bức tượng có nguồn gốc từ Phật giáo phương Nam (hay Chămpa), nhưng cho đến nay, do tượng đã bị mất chúng ta chưa thể kết luận chính xác. + Nơi thờ cúng của Hai Bà Trưng nằm ở đền Đồng Nhân, Hà Nội có lẽ cũng đặt ra những nghi vấn. Trong các lễ hội này thường xuất hiện những điệu múa Con đĩ đánh bồng. Điệu múa là cho thấy nhiều yếu tố tâm linh mang tính chất nữ thần đã hòa hợp nhanh chóng với các nữ thần linh nước Việt. Chúng ta có thể thấy Hai Bà Trưng có lẽ là hóa thân của Thiên Yana trong mắt cư dân Chăm ở Đại Việt trong thời gian đầu. Và về sau này, quá trình Việt hóa đã khiến chúng ta khó nhận diện những dấu vết Chămpa đó. Nhưng chắc rằng đã có sự hòa hợp giữa tín ngưỡng thờ Hai Bà Trưng của người Việt với tín ngưỡng thờ bà mẹ xứ sở (Thiên Yana) của người Chăm, để chúng ta ngày nay có vị nữ thần Việt đan xen với những điệu múa mang dấu ấn Chăm pa[24]. Trong khi đó khi nhìn về phía nam, chặng đường mở cõi của dân tộc ta thời kỳ này tiếp tục phát triển, năm 1402 khu vực mà người Chăm gọi là xứ Amavati, mà tiếng Việt gọi là Chiêm Động và Cổ Lũy (Quảng Nam, Đà Nẵng, Quảng Ngãi) đã thuộc về đất Việt, Hồ Qúy Ly đem đất ấy chia làm 4 châu là: Thăng, Hoa, Tư và Nghĩa. Qúy Ly lại đem dân chúng người Việt vào đây sinh sống, lao động, lập làng, ở chung với người Chăm Pa bản địa, lại còn cho ghi chữ tên quận lên những người này để họ không trốn đi nơi khác[25]. Từ đó người Việt mới đến và những người Chăm Pa ở lại đất này, chung sống với nhau hòa đồng,người Việt có sự dung hợp với văn hóa tâm linh Chăm, họ cùng tiếp tực tiếp thu các kinh nghiện sản xuất, sinh hoạt văn hóa của nhau: 
0 Rating 409 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On April 3, 2014
1. Chủ trương, chính sách đối ngoại của hai bên.           Năm 1226 nhà Lý sụp đổ, Trần Thủ Độ ép Lý Chiêu Hoàng là nữ hoàng cuối cùng của triều Lý, nhường ngôi lại cho Trần Cảnh (chồng của Chiêu Hoàng)  tức là Thái Tông nhà Trần ông vua đầu tiên khai sáng ra nhà Trần, sau đó Trần Thủ Độ còn bức tử vua Lý Huệ Tông. Tiếp tục đưa Đại Việt bước lên đỉnh cao thịnh trị như nhà Lý đã làm, nhà Trần ghi tên mình vào lịch sử với ba lần kháng chiến chống Mông Cổ hùng mạnh.            Nước Chăm Pa về Phía Nam cũng bước vào những năm tháng ổn định, sau một thể kỷ chiến tranh đẫm máu với người láng giềng Chân Lạp và chịu sự đô hộ kéo dài từ năm 1203-1220 của người Khrme. Năm 1220 vì không thể đủ sức áp đặt tiếp nền thống trị Chăm Pa và bận đối phó với nước Xiêm người Chân Lạp buộc phải rút quân khỏi Chăm Pa kết thúc cuộc chiến dài giữa hai nước. Jaya Paramecvaravarman II lên ngôi vua Chăm Pa, khôi phục lại nền độc lập của vương quốc, ông và sau đó người kế ngôi là Jaya IndravarmanVI đã ra sức tái thiết lại quốc gia[1].           Ngay từ khi Nhà Trần vừa thành lập, vua Chăm Pa đã hai lần cử sứ giả sang đưa lễ vật vào các năm 1028, 1042. Nhưng điều này không thể làm cho Trần Thái Tông vị vua khai sáng nhà Trần bỏ qua việc người Chăm Pa thường sang cướp phá Đại Việt, đã mấy lần Thái Tông yêu cầu Chăm Pa phải ngừng các cuộc đột kích đó[2]. Nhưng thay vào đó, vua Chăm Pa yêu cầu Nhà Trần phải trả lại những vùng bị mất năm 1069. Điều này khiến Trần Thái Tông phải cầm quân chinh phạt Chăm Pa[3].T ừ sau đó Chăm Pa liên tục triều cống Đại Việt từ năm 1265 đến 1282[4].           Như vậy thì trong thời điểm đầu của Nhà Trần thái độ của Chăm Pa không còn như đầu thời Lý nữa, cho dù vua Chăm Pa đã hai lần cử sứ giả sang nhưng cũng liên tục sang đánh phá Đại Việt. Họ còn chủ trương bỏ qua thái độ của vua Trần và yêu cầu phía Đại Việt phải trả lại đất, đó là một thái độ cứng rắn của vua Chăm Pa, nhầm đòi lại vùng đất đã mất. Về phía Đại Việt họ chủ trương nói chuyện ôn hòa, nhưng khi vua Chăm Pa khiêu khích thì vua Trần liền cho quân đi chinh phạt, đó là lý do để họ khẳng định sức mạnh của mình với các nước lân bang.           Từ sau năm 1252 vua Chăm Pa Indravarman V (lên ngôi năm 1257) đã cử nhiều đoàn ngoại giao gửi sang Đại Việt vào các năm 1265, 1266, 1267,1269,1270… để nhầm thắt chặt tình đoàn kết với Đại Việt[5]. Kể từ đó hai bên chủ trương giao hảo với nhau.           Sau đó không lâu cả hai nước Đại Việt và Chăm Pa phải cùng đối phó với một kẻ thù chung đó là đế quốc Nguyên – Mông ở phía bắc. Đế quốc này đã làm mưa làm gió cả lục địa Á-Âu, bành trướng đến tận Đông Âu, Trung Đông, thôn tínhcác nước ở Á Đông như Đại Kim, Đại Lý và Nhà Tống thống trị toàn Trung quốc rộng lớn lập nhà Nguyên mà Hốt Tất Liệt là ông vua đứng đầu. Khu vực Đông Nam Á chính là mục tiêu tiếp theo của quân Mông – Nguyên.           Năm 1258, 1285 và 1288 nhà Nguyên đã ba lần xâm lược Đại Việt nhưng tính thần kháng chiến bất khuất, đồng lòng của vua, tôi nhà Trần quân Mông Cổ đều thảm bại trở về[6]. Năm 1283 quân nhà Nguyên cũng sang thôn tính Chăm Pa, nhưng dân Chăm Pa dưới sự lãnh đạo của vua Indravarman V và thái tử Harijit đã kháng chiến anh dũng làm thất bại tham vọng của địch, cầm chân quân địch[7].           Biến cố đặc biệt này buộc hai nước phải liên kết với nhau để cùng chống lại kẻ thù chung, nếu Chăm Pa bị chiếm thì Đại Việt sẽ bị Nhà Nguyên bao ở hai đầu, sau khi thất bại ở Chăm Pa nhà Nguyên liền tạo ra kế sách mượn đường sang Đại Việt mà đánh xuống Chăm Pa, nếu Đại Việt đồng ý thì không những cuộc kháng chiến của nhân dân Chăm Pa sẽ thất bại, mà nước Đại Việt còn có thể bị Nhà Nguyên thừa cơ chiếm lấy, hoặc là khi đi qua lãnh thổ Đại Việt thì quân Nguyên đã thừa cơ chiến Đại Việt trước rồi.           Chính vì thế, hai nước trong giai đoạn này chủ trương liên kết vào hợp tác với nhau cùng chống lại kẻ thù chung hùng mạnh này, bỏ qua những mâu thuẫn tồn tại trong quá khứ. Đây là giai đoạn mà mối quan hệ hai nước trở nên rất mặn nồng, các ông vua hai bên (IndravarmanV với Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông).            Vua Chăm Pa Indravarman V mất vì tuổi già vào năm 1285, thái tử Harijit người có công lớn trong cuộc chiến vừa qua, lên ngôi hoàng đế mà vương hiệu Phạn ngữ là Jaya sinhavarman III mà sử Việt gọi là Chế Mân. Cũng như vua cha ông người mà luôn luôn có thái độ giao hảo với các nước láng giềng, nước lớn như nhà Nguyên thì ông tỏ ra thần phục, còn đối với Đại Việt thì họ luôn giữ tình thân hữu[8]. Ông thường sai sứ giả sang sứ Đại Việt vào năm 1293 và 1301[9].           Về phía Đại Việt thì vào năm 1293 Trần Nhân Tông truyền ngôi lại cho vua Trần Anh Tông về làm thượng hoàng và đi tu ở núi Yên Tử. Trong giai đoạn này Thượng Hoàng Nhân Tông cũng như vua Anh Tông đều chủ trương giao hảo với Chăm Pa, hai bên thường đưa sứ giả qua lại.Thượng Hoàng còn sang thăm Chăm Pa vào năm 1301[10].           Để cho mối bang giao này càng thêm bền vững cả thượng hoàng Nhân Tông đã gả công chúa Huyền Trân cho vua là Jaya sinhavarman III (Chế Mân),cho dù có bao nhiêu phản đối từ hai phía nhưng xuất phát từ tinh thần coi trọng hòa bình và quyết tâm xây dựng quan hệ thân thiện hơn của Nhân Tông và Jaya sinhavarman III (Chế Mân), cuộc hôn nhân vẫn diển ra vào năm 1306 cho dù lễ vật cưới công chúa này của vua Chăm Pa là hai châu Ô và Lý (Nam Quảng trị và Thừa Thiên huế)[11].      Nhưng cái chết của vua Jaya sinhavarman III (Chế Mân) vào năm 1307 và sự kiện nhà Trần đưa người sang cướp Huyền Trân công chúa về nước đã làm sụp đổ tất cả mối bang giao thân thiện mà Indravarman V, Jaya sinhavarman III và thượng hoàng Trần Nhân Tông đã dầy công xây dựng bị đổ vở, nó làm cho mối quan hệ thân thiện vốn chỉ được chấp vá này, lại càng rạn nức thêm và khó mà không còn hàn gắn được nữa. Vì sau đó hai bên liên tục chiến tranh cho đến năm 1471.           Các quốc vương Chăm Pa sau đó liên tục thi hành các chính sách thù địch với Đại Việt và phát động phong trào bài trừ Đại Việt ở hai châu Ô và Lý. Từ vua Chế Chí, Chế Năng, Chế A-Nan và Chế Bồng Nga liên tục phát động các cuộc chiến tranh để Bắc tiến mà mục địch là lấy lại những đất đai mà người Việt đã chiếm đoạt. Nhưng kết quả cuối cùng của các cuộc chiến này thường là chiến thắng giành cho phía Đại Việt[12].            Đại Việt đã gả công chúa Huyền Trân đổi lấy cả hai châu Ô, Lý nhưng sau đó họ lại cướp công chúa về mà không trả lại hai châu đó. Chúng ta chỉ biết lý do là sợ công chúa bị đưa lên giàn hỏa thiêu. Sau đó Đại Việt đã phải luôn đối phó lại với các cuộc tấn công từ phía Chăm Pa, nhưng chính từ những lần này uy thế của Nhà Trần lại càng mạnh họ, thừa thắng Đại Việt đã hai lần can thiệp vào ngôi vua Chăm Pa và tham vọng đô hộ Chăm Pa[13]. Cho đến khi mà nhân vật Chế Bồng Nga (lên ngôi năm 1360) xuất hiện trong suốt 30 năm sau đó nhân lúc mà Nhà Trần đang suy yếu ông liên tục phát quân đánh phá Đại Việt và bốn lần tấn công vào kinh thành Thăng Long đánh phá, chủ trương của ông là trừng phạt Đại Việt và giành lại được những đất đai đã mất.           Về phía Đại Việt, họ cũng tiến hành khánh chiến chống quân Chăm Pa từ các đờinhưng nước Đại Việt liên tục thua trận, kinh thành bị tàn phá, dân chúng bị đánh giết, vua Trần Duệ Tông tử Trận. Nhà Trần đang suy yếu: vua, quan lại, tướng sĩ bất tài chỉ biết tháo chạy mỗi khi mà quân Chăm Pa đánh đến.             Năm 1390 Nhà Trần tưởng như đang đứng trước nguy cơ sụp đổ, thì Chế Bồng Nga bị tử Trận, vương quốc Chăm Pa không có người lãnh đạo, suy yếu nhanh chống, sức mạnh của đất nước do vua Chế Bồng Nga tạo nên tan vở. Nhân thời biến động đó Tể Tướng Nhà Trần Hồ Quý Ly liền cho quân đánh Chăm Pa (vào các năm 1391 và 1396) giành lại thế chủ động trước Chăm Pa[14].           Như vậy có thể thấy từ khi mới Nhà Trần Thành lập, phía Chăm Pa chủ trương đối đầu với Đại Việt, nhưng sau năm 1252 Chăm Pa lại thực hiện chính sách ngoại giao tốt đẹp với Đại Việt, hai nước cùng kháng chiến chồng Mông-Nguyên, gắn chặt tình cảm bằng cuộc hôn nhân giữa vua Chế Mân và Huyền Trân Công Chúa. nhưng mọi thứ đều thay đổi từ sau năm 1307, các vua Chăm Pa liên tục phát binh đánh Đại Việt cho đến năm 1390 mới thôi.           Về phía Đại Việt thì lúc đầu vua Trần Thái Tông chủ trương, giao thiệp với người Chăm Pa nhưng những hành động đánh phá của Chăm Pa, buộc ông phải lên tiếng nhắc nhở Chăm Pa, cuối cùng thì phát động chiến tranh trừng trị Chăm Pa. Sau sự kiện đó cũng như phía Chăm Pa hai bên chủ trương thuận hòa, các vua nhà Trần thi hành nhiều chính sách thúc đẩy mối quan hệ hai nước. Nhưng từ sau khi Đại Việt cướp công chúa Huyền Trần về nước thì mọi sự đã thay đội Nhà Trần từ đó luôn đối chọi với các cuộc trả thù của Chăm Pa, nhân đó các vua Trần lại thừa cơ chinh phạt Chăm Pa bắt vua Chế Chí, nhúng tay vào ngôi vua Chăm Pa mà mục tiêu là biến nước này thành nước phụ thuộc vào Đại Việt.            Cho đến khi mà Chế Bồng Nga xuất hiện thì Đại Việt lại liên tục phải đối phó với các cuộc đánh chiếm của Chăm Pa, cho dù vua tôi nhà Trần đã cố gắn kháng chiến nhưng liên tục thất bại, nhà Trần không có một giải pháp nào để đối phó. Vua, tôi nhà Trần chỉ biết tháo chạy, để dân chúng bị quân Chăm Pa đánh giết.Mãi đến khi Chế Bồng Nga chết, Nhà Trần mới dần dần khôi phục lại thế chủ động của mình trước Chăm Pa.      2. Các sự kiện bang giao tiêu biểu.       Hợp tác cùng khánh chiến chống Nguyên-Mông:             Như có nói ở trên vào thời Indravarman V, năm 1882 quân nhà Nguyên sang xâm lược Chăm Pađể làm chủ khu vực hàng hải trọng yếu ở Đông Nam Á và tạo bàn đạp gọng kiềm, bao vây Đại Việt ở hai hướng Bắc và Nam trả thù cho sự thất bại năm 1258[15].Trước sức mạnh của quân Nguyên, quân và dân Chăm Pa rút vào núi rừng thực hiên cuộc kháng chiến lâu dài chống lại nhà Nguyên dưới sự lãnh đạo của ông vua Indravarman V và thái tử Harijit anh hùng. Quân Nguyên sĩ nhiều năm chiếm đóng ở Chăm Pa không quen thủy thổ, thường xuyên bị quân Chăm Pa dùng chiến thuật du kích mà đánh, nên quân Nguyên cũng bị tổn thất nặng nề[16], buộc phải thu quân về phía Bắc mà đánh Đại Việt.           Trong lúc này nhầm chi viện cho Toa Đô đang đánh Chăm Pa ở phía Nam thì vua Nguyên quyết định mượn đường sang Đại Việt, rồi đánh xuống Chăm Pa, vua tôi nhà Trần không đồng ý. Điều này khiến cho Nguyên Thế Tổ phải cử Trấn Nam Vương Thoát Hoanmượn cớ đánh Chăm Pa mà sang đánh Đại Việt vào năm 1284. Ở Phía nam đám tàn quân từ Chăm Pa của Toa Đô đánh lên phối hợp với cánh quân ở Phía bắc, tạo gọng kiềm đánh Đại Việt từ hai phía[17]. Nhà Trần trước sức mạnh của kẻ thù đã rút quân bảo toàn lực lượng mà kháng chiến lâu dài nhờ đó mà kháng chiến thắng lợi[18].Cuộc kháng chiến chống đế chế Mông – Nguyên hùng mạnh của nhân dân hai nước thắng lợi. Cuộc kháng chiến chống Mông – Nguyên của cả hai dân tộc trên là vấn đề có tính tác động qua lại, ràng buộc, phụ thuộc nhau một cách chặt chẽ. Vì rằng mục tiêu lúc đầu của cuộc chiến tranh này chính là Chăm Pa chứ không phải là Đại Việt.Nếu như Chăm Pa một nước ở trung tâm của khu vực Đông Nam Á bị thôn tính thì nhà Nguyên sẽ bắt đầu bành trướng xa hơn trên toàn Đông Nam Á, bắt đầu nắm được khu vực địa chiến lược quan trọng ở giữa Biển Đông, nắm được con đường thương mại quan trọng từ Trung Nguyên, đến khu vực Nam Á và xa hơn là Trung Đông và Bắc Phi.            Đối với Đại Việt nếu như không có Cuộc kháng chiến của nhân dân Chăm Pa thì khi mà nước này bị thôn tính, thì nhà Nguyên có thể bao vây Đại Việt từ phía nam, lẫn phía bắc.Chính cuộc kháng Chiến của Chăm Pa cũng làm suy yếu đám tàn quân của tướng Toa Đô âm mưu đánh lên Đại Việt từ phía Nam.            Mặt khác cuộc kháng chiến của Đại Việt thành công tạo điều kiện cho Chăm Pa hoàn toàn giải phóng, và cũng chính nhờ thái độ cương quyết không cho nhà Nguyên mượn đất sang đánh Chiêm Thành mà nhân dân Chăm Pa kháng chiến thành công. Đó đúng là một dấu ấn đáng ghi nhận trong tình thân hữu và bang giao tốt đẹp của hai nước, hai dân tộc. Hôn nhân giữa vua Chế Mân và Huyền Trân Công Chúa:            Ngay sau cuộc kháng chiến chống Mông-Nguyên cả hai bên đều quyết tâm xây dựng mối quan hệ giao hảo và thân thiện giữa hai dân tộc,với quyết tâm thắt chặt thêm tình đoàn kết và giao hảo tốt đẹp giữa hai quốc gia.Năm 1301 vua Chế Mân đã cử sứ giả sang tặng lễ vật cho thượng Hoàng Nhân Tông và vua Anh Tông, nhân đó đoàn sứ giả cũng mời thượng hoàng Nhân Tông sang thăm Chăm Pa[19].           Thượng hoàng sang Chăm Pa thăm thú mọi nơi, tìm hiểu phong tục tập quán của Chăm Pa, được vua Jaya sinhavarman III (Chề Mân) và nhân dân tiếp đãi nồng hậu. Thượng hoàng ở lại đó khoảng 9 tháng rồi về, trước khi về có hứa gả cho vua Chăm Pa một người con gái của mình[20]. Cho dù chịu  phản ứng của các quan  đại thần trong triều và dân chúng Đại Việt, vì thế cuộc hôn nhân này đã phải trải qua một quá trình thương thuyết lâu dài.Cho dù vậy với quyết tâm xây dựng mối quan hệ tốt đẹp hơn giữa bang giao hai nước, thượng hoàng Nhân Tông vẫn gả công chúa Huyền Trân cho vua Chế Mân.Nhưng để có cuộc hôn nhân này thì vua Chăm Pa đã phải đánh đổi hai châu Ô và Lý[21][22].            Huyền Trân Công Chúa khi sang Chăm Pa được Vua Chế Mân phong là Paramecvari, khoảng một năm sau thì vua Jaya sinhavarman III (Chế Mân) qua đời[23]. Năm 1307 vua Anh Tông sai Trần Khắc Chung và sang Chăm Pa cướp Công Chúa Huyền Trân về nước vì sợ công chúa bị đưa lên giàn hỏa thiêu cùng với vua Chăm Pa theo phong tục, Đến một năm sau thì công chúa và thế tử Đa Da mới về đến Đại Việt[24]. Hôm nay sự kiện này vẫn còn nhiều tranh luận[25].            Điều này chính là lý do khiến cho mối quan hệ hữu nghị mà các vua Chăm Pa Indravarman V, Jaya sinhavarman III và vua Trần Nhân Tông đã dầy công xây dựng bị sụp đổ mà nguyên nhân chính tử Đại Việt. Chính từ đó mà mối quan hệ hai nước lại càng căng thẳng thế thì sao tránh khỏi việc Chăm Pa thường oán hận, nuôi chí báo thù và sang đánh phá Đại Việt.   Giao tranh giai đoạn 1307-1360:           Sau khi mà vua Jaya Simhavarman III (Chế Mân) từ trần thì Chế Chí lên nối ngôi, quyết tâm trả thù Đại Việt.Chế Chí thường xuyên sang đánh phá,kích động dân chúng Chăm Pa ở hai châu Ô, châu Lý nổi lên chống lại Đại Việt. năm 1212 Vua Anh Tông thân chinh đi đánh Chăm Pa, kết quả là vua Chăm Pa bị bắt và đêm về Đại Việt và chết tại Gia Lâm (Hà Nội) năm 1313. Tiếp theo đó một ông vua chưa rỏ tên Phạn ngữ mà sử Việt gọi là Chế Năng lên nối ngôi[26].            Năm 1313 nhân lúc vua Anh Tông nhường ngôi cho Trần Minh Tông, Chế Năng lại tiếp tục sang đánh Đại Việt, cố gắng chiếm lại các các khu vực ở phía Bắc, nhưng bị đánh bại vào năm 1318. Chế Năng phải sang lánh nạn tại Java (nay là Inđônêxia). Chính lúc này vua Đại Việt lại lập Chế A-nan lên ngôi vua, sự kiện này khẳng định sự can thiệp trực tiếp của nhà Trần vào chính sự của vương quốc Chăm Pa, biến Chăm Pa thành thuộc quốc. Nhưng cũng chính Chế A- nan đã có ý định lợi dụng nhà Nguyên để thoát khỏi sự ảnh hưởng của Đại Việt và vào năm 1326 nhờ đánh bại được quân đội Đại Việt mà Chăm Pa khôi phục được nền độc lập và chấm dứt nghĩa vụ chư hầu với nước Việt[27].           Năm 1342 vua Chăm Pa là Chế A-nan mất, người con rể và là tể tướng của ông là Trà Hoa Bồ Đề đã cướp quyền của người thừa kế ngôi vua là Chế Mổ ( con của Chế A-nan). Chế Mổ sang quy phụ Đại Việt và nhờ vua Trần giúp giành lại ngôi vương[28]. Thế là năm 1353 vua Trần Dụ Tông (lên ngôi năm 1341) cử đại binh đưa Chế Mổ về nước giành lại quyền lực nhưng không thành công, đua Chế Mổ về lại Đại Việt. Sau đó thì Chế Mổ chết ở nước Việt ít lâu sau đó. Thấy quân Việt bỏ về Trà Hoa Bồ Đề liền vào đánh Hóa Châu giành lại những vùng đất mà Chế Mân đã dâng cho Đại Việt nhưng không được, vua Trần đưa Trương Hán Siêu vào Hóa Châu[29]. Như vậy sau năm 1307 Chăm Pa liên tục tấn công Đại Việt, giành lấy những gì đã mất.Nhưng bấy nhiêu lần đều thất bại trước quân đội Đại Việt, vua Nhà Trần có điều kiên can thiệp vào công việc Chăm Pa cho đến khi Chế A-Nan giành lại tự chủ. Chế Bồng Nga mấy lần chinh phạt Đại Việt-chiếm cứ Thăng Long: Trần Dụ Tông (1336 – 1369) được thượng hoàng Minh Tông lập nên, làm vua từ năm 1341 đến 1369.Sau khi ông lên ngôi Thái thượng hoàng Trần Minh Tông nắm mọi quyền bính, do đó đất nước ổn định. Nhưng sau khi Thượng hoàng qua đời, Dụ Tông đích thân chấp chính từ đó Nhà Trần dần suy yếu (vua, quan thì lo hưởng khoái lạc, chính trị sa sút, dân chúng khổ sở)[30].      Về phía nước Chăm Pa thi năm 1360, vua Trà Hoa Bồ Đề qua đời, Chế Bồng Nga được triều thần tôn lên làm vua.Có người cho rằng Chế Bồng Nga là Po Binswar trong Biên Niên Sử Hoàng Gia Chăm. Chế Bồng Nga là một vị tướng tài, chỉ huy nhiều trận đánh vào lãnh thổ nhà Trần[31]. Vừa lên ngôi, ông liền tổ chức lại quân đội, chuẩn bị chiến tranh với nhà Trần, khi đó đã suy yếu rất nhiều vì những ông vua hôn quân vô đạo như Trần Dụ Tông, nhằm tái chiếm những phần lãnh thổ đã từng nhượng cho nhà Trần (1306).           Một loạt các biến cố dồn dập đã tạo ra một hố sau càng ngăn cách sự gắn kết của hai dân tộc: Cái chết của vua Chế Mân, người Việt dùng kế cướp Huyền Trân Công Chúa về nước, hai lần can thiệp vào ngôi vua Chăm Pa đầu tiên là đánh đuổi  Chế Năng và lập Chế A- nan, sau đó là đưa quân sang đánh Chăm Pa mưu lập Chế Mổ lên ngôi. Nhưng Nguyên nhân sâu xa hơn của cuộc chiến tranh giữa Đại Việt và Chăm Pa, được các nhà nghiên cứu cho rằng bắt đầu từ cái chết của vua Chăm Pa Chế Mân năm 1307. Họ cũng cho rằng từ việc nhà Trần cướp lại công chúa Huyền Trân và giam Chế Chí tới chết,từ đó Đại Việt và Chăm Pa từ đó kết thù oán mãi[32].              Năm 1361 Chế Bồng Nga phát động cuộc chiến tranh với Nhà Trần và sau đó trong những năm 1362, 1365,1266 Chăm Pa cũng sang đánh phá Đại Việt[33].Dù Nhà Trần đã đẩy lùi được quân Chăm Pa nhưng chiến sự vẫn tiếp tục:           Giao tranh 1367-1368: năm 1367, Trần Dụ Tông cử Trần Thế Hưng làm Thống quân hành khiển đồng tri, Đỗ Tử Bình làm phó, mang quân đi đánh trả đũa Chăm Pa. Năm 1368, khi quân Trần tiến vào Chiêm Động (Quảng Nam), quân Trần bị phục kích, thua trận. Trần Thế Hưng bị bắt, Đỗ Tử Bình chạy thoát, mang tàn quân chạy về nước.trước vua Chế Bồng Nga bèn sai Mục Bà Ma đi sứ sang đòi đất Hóa châu nhưng không thành[34].           Chiến sự năm 1371: Thất bại của quân đội Đại Việt năm 1367 làm cho Chế Bồng Nga đưa mức độ chiến tranh lên cao hơn vào năm 1371, k
0 Rating 437 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On March 27, 2014
MỐI QUAN HỆ GIỮA NHÀ LÝ VÀ CHAMPA Lược đồ Đại Việt – Champa thế kỷ XI 1.      Chủ trương, chính sách đối ngoại của hai bên.            Sau khi Kế Tông mất năm 989, vua Chăm Pa Harivarman II thống nhất quốc gia và lên ngôi hoàng đế. Năm 999 Yang Pu Ku Vijaya lên nối ngôi vua Chăm Pa. Nước Chăm Pa đã suy yếu rất nhiều sau các cuộc chinh phạt của nước Việt thêm vào đó cư dân phía Bắc Chăm Pa lại bị Lưu Kế Tông thống trị nhiều năm mà càng bị suy yếu trầm trọng, nhận thấy điều đó vua Chăm Pa đã cho dời đô từ Indrapura (Quảng Nam) về Vijaya để tránh sự chinh phạt của Đại Cồ Việt[1]. Kế ngôi vua Chăm Pa liên tục sau đó là bốn ông vua: Harivarman III (1010-1020), Paramecravarman II (1021-1030), Vikrantavarman IV (1030-1041) và cuối cùng là Simhavarman II mà sử Việt gọi là Sạ Đẩu[2].      Ở phía Bắc năm 1009 vua Lý Thái Tổ lên ngôi, khai lập ra nhà Lý, một năm sau vua dời đô về thành Đại La (đổi tên là Thăng Long), từ đó nhà Lý đua dân tộc bước vào một thời kì thịnh trị, phát triển lâu dài nhiều thế kỷ. Năm 1028 vua Thái Tông nối ngôi Thái Tổ, sau đó vua Lý Thánh Tông lại nối ngôi vào năm 1054      Khi mà nhà Lý mới thành lập, hai bên bắt đầu chủ trương thông sứ và giao hảo với nhau sự kiện ghi nhận đầu tiên là việc nước Chăm Pa sang tặng sư tử vào năm 1011, ngay sau khi mà Vua Lý Thái Tổ lên ngôi[3]. Điều này thể hiện sự quyết tâm cải tạo tốt mối quan hệ của phía Chăm Pa.      Thế nhưng không lâu sau không biết tại sao mà vua Thái Tổ lại sai phát quân vô cớ đánh Chăm Pa, nếu có nguyên nhân gì thì tạo sao các bộ sử không đề cập đến nhiều  về vấn đề này chỉ chép đại ý như sau:  năm 1020, Vua Lý Thái Tổ sai Khai Thiên Vương Phật Mã và Đào Thạc Phụ đem quân đi đánh Chăm Pa ở trại Bố Chính thẳng đến núi Long Tỵ, chém được tướng của chúng là Bố Linh tại trận, người Chăm Pa chết đến quá nửa[4] [5]. Như đã nói nguyên nhân của cuộc chiến này.     Chưa được sách sử Việt nói đến.Sự thiếu sót trên có thể là vì đây là cuộc chiến này một phần vì vua Lý muốn xâm lược Chăm Pa hay là tăng cường vị thế và sức mạnh quân sự của mình như vua Lê Đại Hành đã làm trước đó.     Trong những thập niên tiếp theo, quan hệ hai nước trở nên tạm bình yên và không những cuộc xung đột như trước kia nữa người Chăm Pa lại thường sang quy phục Nhà Lý[6].Chủ Trương của cả hai nước lúc này là tạm bình ổn để giao hảo với nhau. Nhưng ít lâu sau đó chiến sự giữa hai bên lại bùng phát khi vua Chăm Pa Simhavarman II (Sạ Đẩu) đưa quân sang xâm lấn biến giới vào năm 1043.       Đó chính là điều kiện để vua Lý Thái Tông quyết định chinh phạt Chăm Pa vào năm 1044.Theo sách Đại Việt Sử Ký Toàn Thư chủ trương của Nhà Lý lúc bấy giờ cho rằng từ lúc mà vua Thái Tổ mất đi, suốt 16 năm rồi, mà Chăm Pa chưa từng sai một sứ giả nào sang sứ với nước Việt lần nào, nay lại sang xâm phạm, Thái Tông mới giận quyết đem quân đi đánh Chăm Pa[7].           Nhưng sách Cương Mục lại chép: Bây giờ không nghe nói có việc người Chiêm vào lấn cướp thì không phải là bất đắc dĩ mà dùng binh, thế mà muốn phô sức mình, thích lập công nghiệp,buông thả lòng dục, giết hại mạng người! Thậm chí cướp bắt phụ nữ để chứa đầy vào hậu cung: việc này lại càng thất đức! So với Mị Ê, thật đáng thẹn chết! Huống chi khúc điệu Tây Thiên là thanh âm mất nước, gây nên sự mê muội cho con cháu đời sau! Thế thì trong sự thất đức lại càng thất đức hơn nữa! Thái Tông là bậc vua hiền mà làm như thế, thực đáng tiếc! Về phần bầy tôi bấy giờ cũng không sao tránh khỏi cái tội nống ác của vua![8].        Vậy có phải nguyên nhân mà sách Toàn Thư chép rằng nước Chiêm thường sang phá rối miền ven biển nước Việt chỉ là lý do bịa ra nhầm đổ tội cho Chăm Pa cướp phá nước ta,  rồi lấy đó làm lý do để vua Lý mới dụng binh, đó vẫn còn là ẩn số (?), nhưng có một  số các sử gia thường lấy luận điểm của sách toàn thư đưa vào các công trình của mình[9]. Điều này còn cần phải có những nhận định như thế nào cho đúng, ở đây tôi chỉ nêu mâu thuẫn của hai bộ sử được coi là giá trị nhất của Việt Nam viết, chứ không nhận định tính đúng sai của giả thuyết này.       Năm 1054 vua Lý Thánh Tông lên ngôi nối nghiệp đế của vua Lý Thái Tông, tiếp tục xây dựng quốc gia cường thịnh, trấn chỉnh quân đội.Thánh Tông chính là ông vua đã chính thức đặt quốc hiệu nước ta là Đại Cồ Việt[10].  Trong khi đó về phía Nam, nước Chăm Pa thời điểm này vua Rudravarma III (Chế Củ) ông vua này lên ngôi năm 1061.            Sau trận chiến năm 1044 thì Chăm Pa thường sai sứ sang cống Đại Việt 1055[11], 1068[12]. Nhưng cũng trong năm 1068 phía Chăm Pa lại sang tấn công biên giới Đại Việt mà chắc chắn là để trả đũa thất bại trước kia, sau một thời gian chuẩn bị[13]. Nhưng lúc này vua Lý Thánh Tông đang trị vì, ông vua mà nổi tiếng với các hành động, chính sách liên tục nhầm tăng cường sức mạnh quân sự cho Đại Việt chính vì thế đó là điều kiện để vua Thánh Tông phát binh chinh phạt Chăm Pa để trừng phạt Chăm Pa và xâm chiếm đất đai Chăm Pa vào năm 1069.      Năm 1073 vua Lý Thánh Tông Băng hà, hoàng tử Càn Đức lên ngôi tức vua Lý Nhân Tông.Ông vua này vừa lên ngôi đã phải găp phải một liên minh quân sự của Tống – Chăm Pa – Chân Lạp âm mưu xâm lược nước Việt. Quân Tống tập trung quân ở biên giới, thuyền bè trên biển và chuẩn bị đánh Đại Việt, cuộc kháng Chiến chống Tống của nhân dân Đại Việt bùng nổ[14].      Năm 1074 vua Rudravarman III (Chế Củ) mất, ngay sau đó Harivarman IV nối ngôi.Vừa lên ngôi ông vua này phải đối mặt với cuộc viễn chinh từ phương Bắc của Lý Thường Kiệt năm 1075. Ông là người mà có công tái thiết lại quốc gia đầy tan thương đổ nát và bắt đầu các cuộc khiêu khích quân sự nhầm trả thù Đại Việt vào năm 1074, Lý Thường Kiệt được cử đi đánh Chăm Pa[15].        Năm 1080 Harivarman IV truyền ngôi cho con ông là hoàng tử Văk, ông lên ngôi lấy hiệu là Indravarman II. Harivarman IV mất ít năm sau đó.Indravarman II lên ngôi khi mới 9 tuổi cho nên ông phải cần một vị hoàng thúc là hoàng thân Pan phụ chính. Nhưng người ta cũng thấy được một cuộc tranh giành quyền lực giữa hoàng tử văk và hoàng thân Pan, ông hoàng Pan có lẻ đã cướp ngôi vào năm 1081 lên ngôi với hiệu Paramabodhisattva. vào năm 1086 hoàng tử Vak lại giành lại quyền lực, lên ngôi lần thứ hai[16].      Ông vua Indravarman II lại tái lập bang giao với Trung Quốc và gửi lể vật sang cống Đại Việt năm 1091,1095,1102[17]. Nhưng vấn đề này thì lại không được hai bộ Toàn Thư và Cương Mục đề cập đến.Vấn đề này chỉ được xác nhận trong Việt Sử Lược[18].       Thời gian này nhìn chung thì các cuộc chiến quy mô giữa hai nước không còn nữa nhưng về phía Chăm Pa do đã suy yếu với các cuộc chiến tranh và đặt biệt là các cuộc căng thẳng với Chân Lạp trong thế kỷ XII, nhưng không lúc nào Chăm Pa từ bỏ quyết tâm báo thù và giành lại những phần đất đã bị vua Thánh Tông chiếm vào năm 1069. Chính vì thế lúc này chủ trương của Chăm Pa là vừa thông sứ liên tục để tỏ ra thần phục và thân thiện với Đại Việt, nhưng khi nào có điều kiện là lại phát quân đánh Đại Việt. Về phía Đại Việt thì cứ mỗi lần mà phía Chăm Pa có biến như các lần họ sang cướp phá vào năm 1074, 1103,1266 thì vua Lý lại cử các tướng quân đi đánh, dẹp Chăm Pa ổn định tình hình biên giới, nơi mà lúc nào quân Chăm Pa cũng định đánh phá[19].  Như vậy có thể thấy lúc này chủ trương của Đại Việt chỉ là đánh dẹp Chăm Pa mỗi khi có biến loạn nhầm ổn định biên giới, chủ hòa là chính.        Nhưng đó chỉ là bề ngoài nếu ta chưa xét đúng thực chất vấn đề: lúc nào Đại Việt cũng chủ trương cho rằng Chăm Pa là nước phụ thuộc, chư hầu bằng chứng là trong các nguồn sử liệu thường dùng từ ” Chiêm Thành sang cống” hay “sang dâng cống vật”; sứ giả Việt nhiều lần sang Chăm Pa đòi hỏi vua Chăm Pa phải sang cống nạp cho mình như vào năm 1094 vua Lý Thần Tông (làm vua từ năm 1072 đến 1127) “sai Hàn Lâm học sĩ Mạc Hiển Tích sang sứ Chiêm Thành đòi lễ tuế cống”[20]; nhất là chúng ta biết trước đó mượn cớ là bảo vệ biên cương bờ cõi mà nhiều lần dụng binh đánh Chăm Pa chiếm đất, tàn phá thành trì và giết dân Chúng vô tội[21].        Như vậy, tránh sao cho khỏi người Chăm Pa liên tục trả thù, cho dù chắc hẳn lúc này vương quóc này đã rất yếu so với nước Đại Việt. Vậy thì xét cho cùng những căng thẳng xung đột giữa hai nước thời kỳ này nếu như nói nguyên nhân xuất phát từ một phía (sử liệu thường đổ cho phía Chăm Pa) là điều cần phải xét lại thực chất nguyên nhân phải được phân tích và đánh giá từ cả hai phía. Tóm lại trong giai đoạn này chủ trương của cả hai bên là bề ngoài thông hiếu nhưng bên trong thì mỗi khi có điều kiện thì lại gây chiến (phía Chăm Pa thì lúc nào thuận tiện thì lại phát binh đánh Đại Việt, còn đại Việt chỉ chờ cơ hội đó là phát quân “bình Chiêm”, rồi được đà thắng thế mà chiếm đất Chăm Pa, mở rộng lãnh thổ). mà chúng ta có thể kể đến các trận đánh lớn vào năm 1044, 1069,1075,1167… 2.     Các sự kiện bang giao tiêu biểu .   2.1.         Cuộc giao chiến năm 1044 giữa hai nước:         Đại Việt Sử Ký Toàn Thư cũng chép:Vua  xuống chiếu sai đóng các chiến thuyền hiệu Long,Phượng, Ngư, Xà, Hổ, Báo, Anh Vũ hơn vài trăm chiếc… Tháng 12, xuống chiếu cho quân sĩ sửa soạn giáp binh, hẹn đến mùa xuân, tháng 2 sang năm đi đánh Chăm Pa.Vua đến hành dinh Cổ Lãm xuống chiếu rằng kẻ nào ăn cướp lúa mạ và tài vật của dân, nếu đã lấy rồi thì xử 100 trượng, nếu chưa lấy được nhưng làm cho người bị thương thì xử tội lưu… Năm ấy lại đúc tiền Minh Đạo ban cho các quan văn võ[22].     Khi đã sửa soạn xong đâu vào đó năm 1044 vua Lý Thái Tông thân chinh đi đánh Chăm Pa. Nghe tin Chăm Pa đem quân và voi bày trận ở bờ Nam sông Ngũ Bồ, vua Lý truyền cho quân bỏ thuyền lên đánh bọ 6. Quân Chăm Pa nhanh chóng thua trận, Quách Gia Di chém được đầu vua Chăm Pa là Sạ Đậu tên phạn ngữ là simhavarman II, bắt sống tướng sĩ địch hơn năm nghìn người, và tước được hơn ba mươi thớt voi đã luyện tập thuần thuộc. Người Chăm Pa bị quan quân Việt giết chết xác chất đầy nội. Vua động lòng thương, ra lệnh cấm quân sĩ tàn sát dân Chăm Pa. Rồi kéo quân vào thành Phật Thệ tức thành Vijaya (thành Đồ Bàn), bắt được gia thất của vua Chăm Pa và những cung nữ giỏi ca múa khúc điệu Ấn Độ. vua sai sứ đi khắc các làng xóm, phủ dụ nhân dân. Rồi rút về nước[23].      Tháng 9 năm đó khi quân Việt về đến phủ Trường Yên, có rồng vàng hiện ở thuyền ngự của vua Thái Tông.Khi đến hành điện Ly Nhân, sai nội nhân thị nữ Chăm bị bắt tên là Mỵ Ê là vợ của vua simhavarman II (Sạ Đậu) sang hầu thuyền vua. Mỵ Ê phẫn uất khôn xiết, ngầm lấy chăn quấn vào mình nhảy xuống sông chết.Vua khen là trinh tiết, phong là Hiệp Chính Hựu Thiện phu nhân[24].             Sự kiên này thể hiện rõ lòng trinh và tấm gương ngời sáng lịch sử, ngày nay tại Phủ Lý, Hà Nam vẫn còn đền thờ của bà. Đại Việt Sử Ký Toàn Thư có đôi dòng chép về bà như sau: «  Phu nhân giữ nghĩa không chịu nhục, chỉ theo một chồng cho đến chết, để toàn vẹn trinh tiết của người đàn bà.Người làm tôi mà thờ hai vua tức là tội nhân đối với phu nhân. Vua khen là trinh tiết, phong làm phu nhân để khuyến khích người đời sau là đáng lắm… »[25] .      Vua Thái Tông từ Chăm Pa về đến kinh sư, làm lễ cáo thắng trận ở miếu Thái Tổ, mở tiệc rượu làm lễ mừng về đến nơi.Ngày hôm ấy, bầy tôi dâng tù binh hơn 5 nghìn tên và các thứ vàng bạc châu báu. Xuống chiếu cho 5000 ngàn tù binh Chiêm đều được nhận người cùng bộ tộc, cho ở từ trấn Vĩnh Khang (nay là Tương Dương, Nghệ An) đến Đăng Châu (nay là đất Yên Bái và Lào Cai), đặt hương ấp phỏng tên gọi cũ của Chăm Pa[26].      Chiến thắng lần này trước Chăm Pa có ý nghĩa rất lớn nó làm tăng vị thế của đối với nhà Lý nước Chăm Pa và các nước lân bang, đồng thời nhờ nó mà tình hình miền nam yên ổn hẳn đến hơn 20 năm sau, Chăm Pa cũng thường xuyên đưa sứ giả và cống vật sang[27].       Như đã nói ở trên, cuộc chiến này là cuộc chiến do Đại Việt phát động nhưng chủ yếu là bắt nguồn từ sự bỏ cống nạp hằng năm và thường xuyên qua phá bờ biển Đại Việt là một lý do mà cho đến hôm nay vẫn còn mâu thuẫn ( vì bộ sách Cương Mục đã xác nhận không có việc Chăm Pa sang đánh cướp rồi vua Thái Tông mới đi chinh phạt, trong khi bộ Toàn Thư thì xác nhận như vậy[28] thì rõ rằng chúng ta chưa thể đưa ra được kết luận. Còn có những ý kiến nhận định về cuộc chiến này, trong Toàn Thư thì ca ngợi công đức của Thái Tông khi ra lệnh cho binh lính không được thảm sát dân chúng, còn bộ Cương Mục thì lại có lời trách ngầm vua Thái Tông[29].   2.2.        Vua Lý Thánh Tông chinh phạt Chăm Pa năm 1069:     Năm 1068 vua Chăm Pa lúc bấy giờ là Rudravarman III (Chế Củ) nuôi chí báo thù, bỏ triều cống sang đánh phá nước Đại Việt. Thế là vua Lý Thánh Tông quyết định đưa quân chinh phạt Chăm Pa[30]. Trước khi vua đi đánh Chăm Pa vua xuống chiếu đóng và sửa chữa nhiều chiến thuyền, nhà vua giao cho Nguyên Phi Ỷ Lan trông coi việt nước, tự cầm 5 vạn quân sang chinh phạt Chiêm Thành. Lực lượng quân sự của Lý triều tất cả có chừng 200 chiếc thuyền, Lý Thường Kiệt được làm Đại tướng đi tiên phong, em Thường Kiệt là Lý Thường Hiến giữ chức Tán kỵ Võ úy[31].        Theo sách Việt Sử Lược cho biết ngày 24 tháng 3 năm 1069 vua xuống chiếu đánh Chăm Pa, ngày 5 tháng 3, vua, các tướng và quân sĩ làm lễ thề ở Long Trì , ngày 8 tháng 3 đoàn quân hành quân theo đường biển theo gió bắc tiến vào nước Chăm Pa. Đoàn quân đi đến vùng biển Nhật Lễ vào ngày 23 tháng 3, một nhóm nhỏ của thủy quân chiêm xông ra kháng cự,Thánh Tông sai Đại liêu ban Hoàng Kiên(còn gọi là Hoảng Kiệt) dẫn quân đánh tan thuyền của quân Chăm, rồi đoàn quân tiếp tục đến cửa Tư Dung theo đường biển. Đầu tháng 4 thuyền quân ta đến cửa Thi Lị Bì Nại (cửa Thị Nại, Quy Nhơn ngày nay) mà lúc đó chính là gần kinh thành nước Chăm Pa.Vua chia quân theo hai hướng tiến vào kinh thành Đồ Bàn  (Vijaya, Bình Định)[32].       Thành Phật Thệ, ba phía Tây-Nam-Bắc có núi che chở, phía Đông giáp biển. Thủy quân của nhà Lý đổ bộ ở đây.Tướng Chăm là Bố Bì Đà La dàn trận trên bờ sông Tu Mao chặn đánh.Quân Lý xông lên giết được Bố Bì Đà La và rất nhiều binh sĩ. Lý Thường Kiệt vượt được sông Tu Mao, lại qua hai con sông nữa mới tới kinh đô Chăm Pa. Đang đêm nghe tin quân của mình bại trận ở Tu Mao, vua Chế Củ mang vợ con chạy trốn. Đêm ấy, quan quân nhà Lý tràn vào thành Phật Thệ, đến bến Đồng La, dân ở thành Phật Thệ phải xin hàng[33].       Trong khi vua Thánh Tông đang đánh Chăm Pa thì ở trong nước Nguyên Phi Ỷ Lan chấp chính với sự phụ giúp của Lý Đạo Thành tình hình đất nước ổn định, dân chúng yên vui, quốc gia thịnh trị Vua Thánh Tông đánh Chiêm Thành lâu lắm không hạ nổi, bèn đem quân trở về. Đi nửa đường đến châu Cư Liên, vua nghe thấy nhân dân khen bà Nguyên phi ở nhà giám quốc, trong nước được yên trị, Thánh Tông nói: “Người đàn bà trị nước còn làm được như thế, ta là nam nhi lại không làm dược việc gì hay sao?”[34]. Vua Thánh Tông liền quay trở lại đánh Chăm Pa. Lý Thường Kiệt đem quân theo phía Nam.Tháng 4 quân Lý tiến đến biên giới Chân Lạp (Campuchia), qua các vùng Phan Rang, Phan Thiết ngày nay mà tiếng Chăm gọi là Panduranga. Tháng 4 Lý Thường Kiệt bắt được vua Chế Củ ở biên giới Chân Lạp. Vua Chăm Pa vốn có cựu thù với nước Chân Lạp nên hết đường chạy phải ra hàng, kết quả là ông bị Lý Thường Kiệt cầm tù[35].        Tháng 5 Lý Thánh Tông ngự tiệc cùng quần thần ở cung điện của vua Chiêm, vua lại thân hành múa thuẫn và đánh cầu ở nơi thềm điện ấy.Trước khi về nước Thánh Tông còn không quên sai đếm tất cả nhà của dân ở trong và ngoài thành Phật Thệ, gồm có hơn 2.660 căn đều thiêu rụi sạch, san bằng kinh thành rồi ra lệnh rút về nước.  Ngày 17 tháng 7 năm Tân Dậu, đạo quân Nam chinh về tới Thăng Long.Vua Thánh Tông lên bộ ngự trên xe, quân thần cỡi ngựa theo sau. Vua Chăm Pa mặc áo vải trắng, đầu đội mũ làm bằng xương gai, tay bị trói sau lưng do 5 người lính Võ đô dắt. Thân thuộc, gia quyến cũng bị trói đi theo sau vua Chiêm. Mùa thu, tháng 7 tại nhà Thái Miếu, vua Lý Thánh Tông dâng trình việc thắng trận. Chiến tranh kết thúc với thắng lợi và mở rộng đất đai của nước Đại Việt[36].       Vua Rudravarman III bị bắt làm tù binh, để được thả về nước quyết định dâng  ba châu Địa Lý, Ma Linh, Bồ Chính  cho Đại Việt, vua Thánh Tông chấp nhận[37] . Kể từ đó lãnh thổ nước Việt bắt đầu được mở rộng về phía Nam, điều đó cũng đồng nghĩa là cương vực của vương quốc Chăm Pa đang dần dần suy thoái.       Như vậy cuộc Nam Chinh kéo dài gần 2 tháng trời của vua tôi nước Việt đã giành được thắng lợi quan trọng và có ý nghĩa rất là quan trọng trong tiến trình lịch sử của dân tộc Việt Nam. Nhờ cuộc chiến này Đại Việt đã thị uy được thế lực và tầm ảnh hưởng của mình đến nước Chăm Pa nói riêng và các nước lân bang nói chung. Cũng chính nhờ thắng lợi này mà lần đầu tiên lãnh thổ Đại Việt được mở rộng về phía Nam ở phần lãnh thổ mà ngày nay là các khu vực Nam Quảng Bình và Bắc Quảng Trị, Từ đó làm bàn đạp quan trọng của quá trình Nam Tiến sau này[38].       Theo một số chuyên gia nguyên cứu cho rằng nguyên nhân chiến tranh còn có thể bắt nguồn từ sự tiếp tay, hậu thuẫn của Trung Hoa lúc bấy giờ là vương triều nhà Tống. Chiến tranh bùng nổ một phần còn là vì lý do mà Chăm Pa thường lén lút thần phục Nhà Tống, thậm chí còn thường xuyên mượn danh Thiên Triều phá rối Đại Việt, trả thù cho những thất bại trong các cuộc chiến 980, 1044…[39]      Cũng từ đó báo hiệu những cuộc chiến liên tục giữa hai nước lân bang, những sự kiện bang giao như việc Chiêm Thành thường sang cống, hay hai bên thường thông sứ, giao hảo của hai nước chỉ là bề ngoài, một mối quan hệ mà lúc nào phía Chăm Pa cũng chịu mất đất, và Chăm Pa tự bấy lần không khi nào từ bỏ việc gây chiến tranh giành lại những vùng đất đã bị Đại Việt xáp nhập vào lãnh thổ. 2.3.         Những cuộc giao tranh sau này (đến hết thời Lý) của hai nước:           Như đã nói ở trên vào năm 1074, Nhà
0 Rating 1.3k+ views 0 likes 0 Comments
Read more