Select
Tag Cloud

Anything in here will be replaced on browsers that support the canvas element

  • Yahoo
  • Google
  • Live
  • Live
By: On April 12, 2017
  Hoa Kỳ là một nước lớn nhưng có những giai đoạn trong lịch sử vì hai chính đảng, Dân Chủ và Cộng Hoà, không chịu nhượng bộ nhau nên đã xảy ra những cuộc khủng hoảng chính trị gây tổn hại không ít cho quốc gia. Do đó vào thập niên cuối của thế kỷ 20 họ muốn đi tìm một nền tảng chính trị ổn định hơn, bằng cách theo thể chế trung dung. Nghĩa là tìm kiếm một chính trị gia ôn hoà không quá thiên về phía cực nào, bên tả cũng như hữu. Nên trong một bài xã luận trên tuần báo Business Week, khi nói về cuộc bầu cử tổng thống, một tác giả đã nhấn mạnh là trong năm 1996 cử tri muốn lãnh đạo của họ phải theo hướng ôn hoà. Năm 1992, Bill Clinton đã đánh bại George Herbert Walker Bush chỉ sau một nhiệm kỳ làm tổng thống, bằng cách mô tả mình là một chính trị gia mới của đảng Dân Chủ, một người ôn hoà, một ứng cử viên đến từ ngoài Washington không bị những phê phái chính trị ở thủ đô ảnh hưởng. Lúc ấy ông đang là thống đốc của tiểu bang Arkansas và hứa là sẽ làm giảm nhẹ đi những chính sách cồng kềnh quá tốn kém của quốc gia. Nhưng khi nắm được chính quyền trong tay, thì ông lại rơi vào thế chẳng khác gì các chính trị gia tiền nhiệm của mình gặp, ấy là bị các nhóm lợi ích ảnh hưởng lôi kéo đi theo chủ nghĩa tự do quá trớn của bên tả. Kết quả là đã đem đến sự thảm hoạ lớn lao cho đảng Dân Chủ. Do đó mà chỉ hai năm sau nhiệm kỳ thứ nhất của Tổng thống Bill Clinton, đảng Cộng Hoà đã thắng lớn trong kỳ bầu cử vào năm 1994. Đây là lần đầu tiên trong bốn mươi năm đảng Cộng Hoà nắm quyền kiểm soát cả hai viện của Quốc Hội. Chủ tịch Hạ Viện Newt Gingrich thuộc đảng Cộng Hoà, một người trực tính đòi xoá bỏ chính sách welfare của nhà nước, nghĩa là xoá bỏ chương trình phúc lợi xã hội quá lớn lao của đảng Dân Chủ. Tuy nhiên, không bao lâu sau đảng Cộng Hoà cũng sớm nhận thức về sự ngạo mạn quá cực đoan của mình, nó cũng là mồ chôn của chính họ. Sự bất đồng của hai chính đảng đã dẫn đến việc đóng cửa các cơ quan nhà nước liên bang hai lần, từ ngày 14 đến 19 tháng 11 năm 1995 và từ 16 tháng 12 năm 1995 đến ngày 6 tháng 1 năm 1996. Trong 26 ngày ấy đã làm tốn mất ngân sách quốc gia hết 1 tỉ 4 đô-la Mỹ, chưa kể đến những mất mát khác. Trong cơn khủng hoảng, Tổng thống Bill Clinton đã làm một việc ngay cả đảng Cộng Hoà phải ngạc nhiên, ấy là ông chuyển hướng từ phía cực tả về thế trung dung. Ngay trong bài diễn văn “State of the Union” của năm ấy, ông đã kết nạp chương trình cải cách phúc lợi xã hội và cân bằng ngân sách quốc gia của Cộng Hoà vào trong chính sách. Cuộc đấu đá giữa hai đảng Dân Chủ nắm quyền kiểm soát Cơ Quan Hành Pháp và Cộng Hoà nắm quyền kiểm soát Cơ Quan Lập Pháp vào những năm từ 1994 đến đầu năm 1996 là cao điểm. Cuộc khủng hoảng trên một phần do chính sách của hai chính đảng khác xa nhau và một phần là do hai vị lãnh đạo của hai đảng thời ấy quá cực đoan. Sau cuộc khủng hoảng lịch sử này, Tổng thống Bill Clinton của Dân Chủ và Chủ tịch Quốc Hội Newt Gingrich của Cộng Hoà đã chịu nhân nhượng nhau, làm việc hướng về quyền lợi đích thực của quốc gia. Nhờ vậy họ đã cùng tìm ra những giải pháp tốt đẹp, để đem lại những phúc lợi lớn lao cho toàn dân. Đây là bài học mà chúng ta nên học, bài học này có thể áp dụng cho tất cả mọi tầng lớp từ chính quyền lớn như Mỹ đến cộng đồng nhỏ như người Chăm chúng ta. Ấy là hợp tác với nhau để cùng đem lại quyền lợi thiết thực chung cho cộng đồng và dân tộc chúng ta. Dĩ nhiên là khi làm việc chúng ta không tránh khỏi những bất đồng, nhưng mỗi khi sự bất đồng đến chúng ta hãy ngồi lại để tìm ra phương cách tốt đẹp. Hầu tránh bớt đi những căng thẳng, giảm thiểu đi những bất đồng. Những dị biệt về chính kiến, quan điểm và ngay cả phương pháp làm việc có thể san bằng được nếu chúng ta chịu ngồi lại bàn bạc và làm việc chung với nhau. Ao ước lớn lao của hầu hết người Chăm là làm sao người mình có thể làm việc chung với nhau, hầu giải toả những bất hoà. Sau cuộc khủng hoảng đó Tổng thống Bill Clinton và Chủ tịch Quốc Hội Newt Gingrich đã cùng làm việc chung với nhau, nhờ đó họ đã cùng nhau với bao thế hệ kế tiếp thừa hưởng cái phương pháp làm việc tốt đẹp, giúp đưa đất nước Hoa Kỳ đến vị thế siêu cường quốc như bây giờ. Cuộc khủng hoảng sau kỳ hội thảo về “Lịch Sử Ngôn Ngữ và Chữ Viết Chăm” diễn ra trong hai ngày là 21 và 22 tháng 9 năm 2006 tại Kuala Lumpur Malaysia đến nay đã hơn 10 năm mà những nhà trí thức Chăm chưa tìm ra giải pháp. Hơn 10 năm nay với biết bao bài viết bình luận và tranh luận với nhau trên nhiều diễn đàn, nhất là trên mạng xã hội. Nhưng kết cuộc thì cũng chỉ là những cuộc tranh luận kéo dài, dường như không có hồi kết. Làm cho nhiều người cứ mãi băn khoăn, là với ngần ấy thời giờ, công sức và trí tuệ thì tại sao mình không nghĩ đến cách ít tốn kém hơn, bớt ồn ào hơn. Ấy là đến gặp nhau để tay bắt mặt mừng, bốn mắt nhìn nhau nói lên cái trăn trở, cái ưu tư và ngay cả cái bất đồng của mình cho nhau nghe một cách trực tiếp và rõ ràng. Để từ đó mà mình với nhau cùng tìm ra giải pháp, nếu như một lần không xong thì cứ tiếp tục thêm lần khác nữa. Tại Hoa Kỳ, trong toà nhà Quốc Hội, nơi mà tôi đã có những lần đặt chân đến, người Mỹ họ vì đại cuộc mà những chính trị gia có khi tranh luận với nhau một cách hăng say. Nhưng dù sao đi nữa, những ngôn từ mà họ dùng để tranh luận với nhau có chừng mực và đầy sự thuyết phục. Nếu chúng ta học được nơi người để áp dụng cho chính mình, thì những trao đổi giữa mình với nhau dù là thuộc đề tài nóng hổi chăng nữa cũng ít gay gắt hơn. Vì cuối cùng chúng ta cũng phải làm việc với nhau, nếu như ai đó thực sự có còn quan tâm đến số phận chung của người Chăm, để có thể cùng giải quyết những vấn đề còn nổi cổm khác trong xã hội chúng ta. Đồng bào Chăm của chúng ta trải dài qua bao thế kỷ, đã sinh ra và lớn lên trong những hoàn cảnh thật là đau thương và thiếu thốn mọi bề. Chúng ta thật không có gì nhiều để ban cho hoặc giúp đỡ, nhưng điều chúng ta có thể làm được là hãy yêu thương nhau hòng hàn gắn lại những thương đau. Nếu như vấn đề Ngôn Ngữ và Chữ Viết Chăm đã được giải quyết ổn thoả, thì hãy gát qua một bên để làm công việc khác. Còn không, thì hãy cứ tiếp tục trao đổi với nhau, nhưng theo phương cách ít ồn ào và ôn hoà nhất. Hầu đem lại phần nào sự đoàn kết và yên vui cho mọi người Chăm. Dù sống ở đâu, trên chính quê hương xưa cũ hay nơi xứ lạ quê người.   CHÂN THÀNH     tác giả gởi bài qua info@nguoicham.com    
0 Rating 479 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On March 30, 2017
  Pgs. Ts. Po Dharma (Viện Viễn Ðông Pháp) Sakkarai Dak Rai Patao là biên niên sử duy nhất viết bằng tiếng Akhar Thrah Chăm liên quan đến lịch sử của tiểu vương quốc Panduranga, chứ không phải là biên niên sử của vua chúa liêng bang Champa đóng đô ở Vijaya. Tiếc rằng, những yếu tố cơ bản lịch sử trong tư liệu có giá trị này đã bị hiểu lầm và sửa đổi theo nhãn quan riêng tư của một số nhà nghiên cứu hay nhà viết lách trong nhiều bài viết đăng tải trên tập san và báo chí viết bằng tiếng Việt ở Việt Nam cũng như ở hải ngoại gần 40 năm qua. Chỉ cần nhìn lai các bài viết sai lầm về Po Klaong Garai, Po Binnasuar và Po Saong Nhung Ceng, ba nhân vật được ghi trong biên niên sử này, chúng ta đã thấy rằng Sakkarai Dak Rai Patao đã bị thêu dệt tùy theo quan điểm của mỗi tác giả để rồi trở thành nạn nhân của làn sóng nghiên cứu về văn hóa Chăm hôm nay. Một số tác giả cho rằng Po Klaong Garai là vị vua thật sự trị vì vào năm (1151-1295). Họ còn cho rằng Po Klaong Garai là Jaya Indravarman IV vua của liên bang Champa (1147-1160), nhưng họ không bao giờ cho biết tại sao. Tiếc rằng, trong tác phẩm Sakkarai Dak Rai Patao, Po Klaong Garai chỉ là vua huyền sử, một vị thần linh tự sinh ra (éngkat) và được xếp vào triều đại thứ 5 trong danh sách các vua huyền sử này. Sau mấy năm trì vị ở trần gian, Po Klaong Garai trở về trời (nao mâng rup). Po Binnasuar (hay Po Binthuer) cũng là nhân vật được phô trương trong nhiều bài viết. Một số người tự phỏng đoán rằng Po Binnasuar (1316-1361 hay 1328-1373) là quốc vương Chế Bồng Nga (1360-1390). Tiếc rằng, Po Binnasuar và Chế Bồng Nga là hai vị vua khác nhau. Po Binnasuar là vua của tiểu vương quốc Panduranga, gốc làng Bính Nghĩa, Phan Rang lên ngôi năm 1316 hay 1328. Ðền của ngài vẫn còn thờ phượng ở gần làng Bính Nghĩa này. Ngược lại, Chế Bồng Nga là quốc vương của liên bang Champa đóng đô ở Vijaya (Ðồ Bàn), lên ngôi năm 1360. Cuối cùng, Po Saong Nhung Ceng (1799-1822) là quốc vương Panduranga đã chết tại Phan Rí vì bệnh già yếu vào năm 1822 mà cả thư tịch cổ Việt Nam cũng đã chứng minh biến cố này. Ngược lại, một số nhà viết lách cứ cho rằng ngài chạy sang Cao Miên lánh nạn vào năm 1822.  Nguyên nhân của sự sai lầm  Ðiều mà chúng tôi muốn khẳng định ở đây đó là những sai lầm này chỉ xuất hiện trên mặt sách báo viết bằng tiếng Việt và nó bắt nguồn từ ngày ra đời tác phẩm Dân Tộc Chàm Lịch Sử của Dorohiem và Dohamide xuất bản vào năm 1965. Thế thì đâu là nguyên nhân chính đã đưa các nhà nghiên cứu hay người viết lách bằng tiếng Việt vấp phải lỗi lầm vô cùng tai hại cho lịch sử Champa nói chung và lịch sử của tiểu vương quốc Panduranga nói riêng. Ðể trả lời cho câu hỏi này, chúng tôi xin trình bày sơ lược xuất xứ của các bài nghiên cứu về Sakkarai Dak Rai Patao kể từ cuối thế kỷ thứ 19 cho đến hôm nay. Người nghiên cứu đầu tiên về Sakkarai Dak Rai Patao là E. Aymonier (1890: 145-206). Trong bài nghiên cứu này, E. Aymonier tự đặt bao câu hỏi có chăng Sakkarai Dak Rai Patao chỉ là cốt truyện huyền sử, hoang đường nếu cho rằng tác phẩm này là biên niên sử của vương quốc Champa? Vì rằng danh sách vua chúa ghi trong Sakkarai Dak Rai Patao không có gì liên hệ đến vua chúa Champa đóng đô ở Viyaja, từ niên đại lên ngôi, tên tuổi, thủ đô, v.v. Trong bài viết của mình, E. Aymonier chỉ nêu ra câu hỏi, đặt lại vấn đề liên quan đến xuất xứ của tư liệu này, nhưng ông không tìm ra một câu để giải đáp. Mười lăm năm sau, nhà nghiên cứu Pháp là E. Durand (1905: 377-382) trở lại nghiên cứu tác phẩm Sakkarai Dak Rai Patao. Trong phần kết luận, E. Durand cho rằng đây không phải là cốt truyện huyền sử và hoang đường, mà cũng không phải là biên niên sử của liên bang Champa như E. Aymonier đã nêu ra, mà là biên niên sử của tiểu vương quốc Panduranga ở miền nam, chỉ có thế thôi. Bài nghiên cứu của E. Durand vào năm 1905 đã trở thành một yếu tố lịch sử mà các chuyên gia ở phương Tây đều công nhận cho đến hôm nay. Theo quan điểm của E. Durand, Panduranga không phải là một đơn vị hành chánh tương đương với “Tỉnh” ở Việt Nam, mà là một tiểu vương quốc nằm trong liên bang Champa. Chính vì thế, tiểu vương quốc này cũng có một cơ cấu hành chánh riêng, chính trị và quân sự  riêng, kể cả biên niên sử riêng, đó là Sakkarai Dak Rai Patao. Năm 1978, tác phẩm Sakkarai Dak Rai Patao trở thành bài luận án phó tiến sĩ của tôi ở đại học Sorbonne, Paris. Trong bài luận án này, tôi cũng chứng minh rằng Sakkarai Dak Rai Patao là biên niên sử của Panduranga, một tiểu vương quốc của liên bang Champa. Không đọc đến bài nghiên cứu của E. Durand viết vào năm 1905 và những bài bài viết khác đăng tải trong các sách báo khoa học ở phương Tây, và cũng không cần nghiên cứu sâu đậm nội dung của biên niên sử viết bằng tiếng Chăm akhar thrah này, Dorohiem và Dohamide (Dân Tộc Chăm Lược Sử, 1965) chỉ dựa vào bài nghiên cứu bằng tiếng Pháp của E. Aymonier xuất bản vào năm 1980 để phát họa nội dung Sakkarai Dak Rai Patao theo cảm hứng riêng tư của mình. Trong tác phẩm này, Dorohiem và Dohamide, vì vô tình hay là cố ý, đã sửa đổi hoàn toàn quan điểm của E. Aymonier để thay vào đó một quan điểm mới lạ nhưng rất là phi lịch sử, cho rằng Sakkarai Dak Rai Patao là biên niên sử của vương quốc Champa, nhưng Dorohiem và Dohamide không đưa ra một dữ kiện lịch sử nào để minh chứng nội dung bài viết của mình. Ðúng ra, phong cách “sửa đổi yếu tố lịch sử” này chỉ thường xuất hiện trong các bài viết của người viết lách hơn là của nhà khoa học dưới thời Việt Nam Cộng Hòa. Sau ngày ra đời tác phẩm Dorohiem và Dohamide vào năm 1965, một số nhà nghiên cứu hay một vài người viết lách chỉ dựa vào tác phẩm bằng tiếng Việt mang tựa đề là Dân Tộc Chàm Lược Sử,  để rồi lặp đi lặp lại bao sự sai lầm lịch sử trong bài viết của Dorohiem và Dohamide. Thế là, tác phẩm Sakkarai Dak Rai Patao Cham, kể từ năm 1965, đã trở thành nạn nhân của quan điểm sai lầm do Dorohiem và Dohamide đưa ra, chứ không phải là nạn nhân của các nhà viết lách nữa. Ðể làm sáng tỏ lại vấn đề liên quan đến nội dung của tác phẩm lịch sử có giá trị này, chúng tôi muốn đặt lại vấn đề ở đây có chăng Sakkarai Dak Rai Patao là một tác phẩm huyền thoại như E. Aymonier đã đề nghị vào năm 1890 hay là biên niên sử của vương quốc Champa như Dorohiem và Dohamide đã phỏng đoán vào năm 1965 hay là biên niên sử thật sự của tiểu vương quốc Panduranga như E. Durand đã đưa ra vào năm 1905?  Sơ lược lịch sử Panduranga  Cũng nhờ các bia ký Champa, tư liệu cổ Việt Nam và Trung Hoa, các nhà nghiên cứu phương Tây đã phác họa lịch sử vương quốc Champa một cách tổng thể từ thế thế kỷ thứ 2 đến năm 1471, cũng là năm đánh dấu cho sự thất thủ Vijaya, tức là thành Ðồ Bàn (G. Maspero: 1928); G. Coedes: 1964; Po Dharma: 1978, 1987). Sau năm 1471, các bia ký Champa không còn xuất hiện nữa. Dựa vào sự biến mất của bia ký, các nhà nghiên cứu không còn quan tâm đến lịch sử cận đại của Champa sau thế kỷ thứ 15. Tiếc rằng, người ta đã quên rằng dân tộc Chăm ở khu vực Phan Rang và Phan Rí vẫn còn lưu trữ rất nhiều văn bản cổ viết bằng tiếng Chăm liên quan đến lịch sử và nền văn minh Champa sau năm 1471 (Po Dharma: 1987; P-B. Lafont: 1980). Trong kho tàng văn chương lịch sử này, Sak Karay Dak Rai Patao là văn bản duy nhất nói về biên niên sử của vua chúa Panduranga. Ai cũng biết, kể từ đầu thế kỷ thứ 20, các nhà nghiên cứu phương Tây (L. Finot: 1903; G. Coedes: 1964; P-B. Lafont: 1980; Po Dharma: 1987; B. Gay: 1988)  đã phân tích một cách khoa học và có hệ thống những nền tảng tổ chức chính trị và hành chánh Champa để rồi đưa ra một kết  luận chung đó là Champa không phải là một quốc gia tập quyền, thống nhất như thể chế chính trị ở Trung Hoa hay ở Việt Nam, mà là một vương quốc liên bang (fédération) và đôi lúc cũng là một liên hiệp quốc gia (confédération), rất gần gũi với thể chế liên bang Mã Lai hôm nay. Liên bang Champa tập trung 5 tiểu vương quốc trong đó có Indrapura, Amaravati, Vijaya, Kauthara và Panduranga. Ðứng đầu của quốc gia liên bang Champa là quốc vương mang tôn hiệu Rajadiraja (tức là vua của vua), chứ không phải là Patao như Dohamide và Dorohiêm (2004, tr. 263) đưa ra. Quốc vương này còn mang một tôn hiệu khác đó là Po Tana Raya (lãnh chúa toàn diện đất đai) để cai trị quốc gia với «cây lộng duy nhất››, biểu hiện cho uy quyền hoàng gia Champa. Thủ đô liên bang lúc ban đầu đặt tại Indrapura (Quảng Nam) sau đó dời về Vijaya (Bình định) kể từ năm 1000. Nằm ở cực nam của lãnh thổ liên bang Champa, Panduranga là một tiểu vương quốc có một thể chế hành chánh, chính trị và quân sự riêng biệt. Sự hình thành tiểu vương quốc này đã có từ lâu đời. Vì rằng vào năm 1050, bia ký đã nói đến cuộc vùng dậy của nhân dân Panduranga chống lai chính quyền trung ương Champa ở miền bắc. Ðể trả lời cho thái độ bất qui phục này, quốc vương Champa là Jaya Paramesvaravarman I đứng ra chỉ trích kịch liệt thái độ ương ngạnh của nhân dân Panduranga mà ngài gọi họ là «dân tộc phóng đãng (vicieux), ác tâm (malfsaisant), khinh bạc (frivole), luôn luôn phản động chống lai triều đình trung ương» (Maspero, 1928: 37 ; Po Dharma, 1987 : 57). Nhằm phá tan yêu sách đòi tự trị ở miền nam và đưa dân tộc Panduranga phải tôn trọng uy quyền triều đình trung ương, quốc vương liên bang Champa thường biến tiểu vương quốc Pandurang thành một lãnh thổ đặc hữu (apanage) đặt dưới quyền cai trị của một thái tử (yuvaraja) do quốc vương liên bang Champa chỉ định (Finot, 1909: 205-209, Maspero, 1928: 137). Sự hiện diện của thái tử này cũng không ngăn cấm nổi Panduranga trở lại con đường cũ : thua keo này bày keo khác. Vì rằng, Panduranga vẫn là nơi phát sinh một số biến cố chính trị lớn vào thế kỷ thứ 11. Biến cố thứ nhất đó là một nhân vật quan trọng trong triều đình của Panduranga đứng ra kêu gọi nhân dân tách rời ra khỏi liên bang Champa, rồi tự phong mình làm vua ở miền nam, dù rằng vương triều này chỉ kéo dài trong vòng 13 năm. Hết tìm cách xây dựng một quốc gia tự trị, Panduranga còn là nơi trú ẩn dành cho một số nhân vật chính trị từ trung ương ở Vijaya chạy sang lánh nạn (Finot, 1909: 205-209; Maspero, 1928: 137). Với bản chất cương quyết của nhân dân Panduranga đấu tranh cho bằng được quy chế tự trị ở miền nam, một số quốc vương liên bang Champa không còn cách nào khác là công nhận nền tự trị của Panduranga ở miền nam. Ðiển hình nhất là vào thế kỷ thứ 10, tư liệu Trung Hoa cho rằng mặc dù Panduranga vẫn là lãnh thổ trực thuộc liên bang Champa, nhưng tiểu vương quốc này vừa triều cống vua liêng bang Champa ở miền bắc, vừa gởi triều cống đến Trung Hoa như một quốc gia độc lập (Pelliot, 1903: 649). Ngoài yêu sách tự trị, vua chúa Panduranga cũng thường xác nhận họ có một thị tộc riêng biệt. Ðiển hình là vào cuối thế kỷ thứ 11, quốc vương liên bang Champa là Sri Harivarman IV (1074-1081) tự cho mình là người xuất thân từ thị tộc cây câu (Narikela) của dòng thân mẫu ở Panduranga, một thị tộc tinh khiết của chủng tộc Champa. Thân phụ của ngài thuộc thị tộc cây dừa (Kramula) ở Vijaya. Hai thị tộc này thường dùng đến bạo lực để chinh phục uy quyền ở liên bang Champa trong nhiều thế kỷ (Maspero, 1928: 43). Hết sự khác biệt về thị tộc, Panduranga thường đeo đuổi tư thế độc lập của mình về phương diện chính trị đối với miền bắc. Chính vì thế, Panduranga thường không hỗ trợ quân sự cho Vijaya, một khi tiểu vương quốc phía bắc này bị ngoai bang xâm chiếm. Vào năm 1145, vua Cao Miên xua quân xâm chiếm Vijaya và giết chết vua liên bang Champa là Indravarman III. Trước sự tấn công của ngoại bang, Panduranga không hề gởi quân để giúp đỡ quốc vương Champa ở phương bắc. Thêm vào đó, Panduranga còn đón nhận hoàng tử của tiểu vương quốc Vijaya là Rudravarman IV cùng với đứa con trai là Srivanandana chạy sang lánh nạn trên lãnh thổ của mình một khi quân Cao Miên phá hủy thủ đô Vijaya vào năm 1145. Ngoài sự tiếp đón nồng hậu này, dân chúng Pandurang còn tôn vinh hoàng tử Srivanandana lên làm vua Champa ở miền nam lấy vương hiệu là Jaya Harivarman I (Maspero, 1928: 156-157). Thế là vương quốc Champa bị chia đôi thành hai miền rõ rệt. Vijaya đặt dưới quyền chỉ huy của quân đội Cao Miên và Panduranga thì có Jaya Harivarman I. Với sự hỗ trợ của quân đội Panduranga, vua Jaya Harivarman I xuất quân ra bắc vào năm 1149 tấn công Vijaya và giết được tổng tư lệnh quân viễn chinh Cao Miên là hoàng tử Harideva, tức là em rể của vua nước này (Maspero, 1928: 156). Năm 1190, vua Cao Miên là Jayavarman VII giao quyền cho hoàng tử Champa là Sri Vidryanandana sang lánh nạn ở Cao Miên từ năm 1182, đem quân tấn công Vijaya lần thứ hai, bắt được vua Champa là Jaya Indravarman IV đưa về Cao Miên. Một khi thắng trận, vua Cao Miên phong cho em rể của mình lên làm quốc vương Vijaya (Nagara Vijaya) với vương hiệu là Suryajayavarman. Riêng về hoàng tử Sri Vidryanandana, ngài trở lại Panduranga, tự phong cho mình là quốc vương của tiểu vương quốc này với vương hiệu là Sri Suryavarmadeva, đặt thủ đô tại Rajapura (Phan Rang). Thế là vương quốc Champa lai bị chia đôi một lần nữa. Miền bắc do quân Cao Miên trấn giữ. Tiểu vương quốc Panduranga do hoàng tử Sri Suryavarman lãnh đao (Maspero, 1928: 166). Vì không chấp nhận tiểu vương quốc Vijaya bị cai trị bởi ngoại bang, hoàng tử Champa tên là Rasupati vùng dậy vào năm 1191 đánh đuổi quân xâm lược Cao Miên sau đó lên ngôi lấy vương hiệu là Jaya Indravarman V. Ðể trả thù cho cuộc vùng dậy này, vua Cao Miên chấp nhận trả tự do cho cựu quốc vương Jaya Indravarman IV bị bắt giam tại vương quốc này vào năm 1190. Từ vương quốc Cao Miên, cựu quốc vương Jaya Indravarman IV ghé sang Panduranga cầu cứu quân sự hầu chiếm lại ngai vàng ở phương bắc. Một khi đã nhận lời giúp đỡ, vua Panduranga là Sri Suryavarman xua quân sang miền bắc, đánh đuổi quân xâm lược Cao Miên ra khỏi Vijaya. Lợi dụng sự chiến thắng này, vua Panduranga phế truất cựu vương quốc Jaya Indravarman IV ra khỏi ngai vàng, tự phong mình làm quốc vương liên bang Champa kiêm cả chức vua của tiểu vương quốc Panduranga kể từ năm 1192 (Maspero, 1928:165-166). Một năm sau, tức là vào năm 1193, vua Cao Miên Jayavarman VII xuất quân sang chinh phạt Sri Suryavarman ở Vijaya. Bị thất trận vào năm 1203, Sri Suryavarman chạy sang Ðại Việt lánh nạn. Nắm chủ tình hình, vua Cao Miên chiếm lại thủ đô Vijaya và đặt nền cai trị ở miền bắc Champa trong xuốt 17 năm, từ 1203 đến 1220 (Maspero, 1928: 167) Sự đô hộ của Cao Miên ở Champa vào những năm 1203 và 1220 đã đánh dấu một biến cố quan trọng trong văn chương lịch sử ở Champa. Chính trong thời điểm này mà tác phẩm Sakkaray Dak Ray Patao đã ra đời với vị vua đầu tiên là Sri Agarang trị vì vào năm 1193 hay 1205 tùy theo dị bản. Tiếc rằng, không tư liệu nào có thể giúp chúng tôi để nhận diện rằng sự ra đời của Sakkaray Dak Ray Patao ở Panduranga có liên hệ gì với chính sách đô hộ Cao Miên ở Vijaya, miền bắc của Champa? Ðây chỉ là một vấn đề đặt ra nhưng không ai có thể trả lời câu hỏi này (Po Dharma, 1978). Một khi đã thoát thân ra khỏi nền đô hộ của Cao Miên vào những thập niên đầu của thế kỷ thứ 13, vương quốc Champa lại vướng vào một tai họa khác đó là chính sách Nam Tiến của Ðại Việt. Sau khi thôn tính dần dần một số đất đai ở phía bắc của Champa, Ðại Việt quyết định nuốt trọn thủ đô Vijaya vào năm 1471 và dời biên giới của mình đến đèo Cù Mông, phía bắc Phú Yên. Sự thất thủ thành Ðồ Bàn đã đưa bản đồ dân cư Champa vào một khúc quanh mới. Vì rằng, kể từ năm 1471, Champa bị thu hẹp lại trong lãnh thổ của tiểu vương quốc Panduranga ở miền nam mà thôi (Po Dharma, 1987, I, tr. 61-62). Sau khi Vijaya bị thất thủ, tướng Bố Trì Trì sang lánh nạn ở Panduranga, chiếm giữ một phần năm đất đai của tiểu vương quốc này để thành lập một quốc gia riêng biệt. Ngài cũng xin vua Lê Thánh Tông công nhận sự tấn phong của mình và biên niên sử Minh Chê của Trung Hoa vẫn còn nói đến sự liên hệ với Champa của Bố Trì Trì giữa năm 1478 và 1543 (Maspero, 1928: 240). Từ ngày thất thủ thành Ðồ Bàn vào năm 1471 đến năm 1611, tức là gần 140 năm, người ta cứ tuởng rằng chiến tranh không còn tái diễn nữa giữa hai nước láng giềng thù địch, đó là Champa và Ðại Việt. Tiếc rằng sự hòa bình này chỉ là một giấc mơ huyền ảo. Năm 1611, nhà Nguyễn bắt đầu phất cờ Nam Tiến, mà Phú Yên là nạn nhân đầu tiên của chính sách xâm lược này. Năm 1653 quân nhà Nguyễn chiếm đóng Kauthara (Nha Trang) và năm 1658 tràn sang khu vực Sài Gòn tức là đất đai của Cao Miên thời đó (Po Dharma (1987, I: 64-66). Ba mươi chín năm sau ngày thất thủ Kauthara (1653), nhà Nguyễn quyết định nút trọn lãnh thổ Champa còn lại vào năm 1692, thay đổi danh xưng Chiêm Thành thành Trấn Thuận Thành và thành lập phủ người Việt đầu tiên mang tên là phủ Bình Thuận trong biên giới của tiểu vương quốc Panduranga. Ðể trả lời cho chính sách xâm lược này, nhân dân Champa vùng dậy đánh đuổi quân xâm luợc nhà Nguyễn vào năm 1693. Vì không kháng cự nổi, nhà Nguyễn chấp nhận trao trả lại nền độc lập cho Champa vào năm 1694 với điều kiện là Panduranga phải công nhân sự hiện diện của phủ Bình Thuận ở tiểu vương quốc này nhằm quản lý các cư dân Việt sống ở Champa thời đó (Po Dharma, 1987, I: 67-71). Phủ Bình Thuận là đơn vị hành chánh trực thuộc nhà Nguyễn tập trung các làng xã người Việt nằm rải rác trong lãnh thổ Champa. Sự ra đời của phủ Bình Thuận đã thay đổi hoàn toàn địa bàn dân cư Panduranga thời đó. Vì lãnh thổ này không dành riêng cho dân tộc Champa nữa mà là cả cư dân Việt. Mô hình dân cư quá phức tạp này đã đưa hai cộng đồng Chăm và cư dân Việt đến sự xung đột thường xuyên trong những năm kế tiếp (Po Dharma, 1987, I: 70-71). Vào thập niên của cuối thế kỷ thứ 18, Panduranga lại trở thành một bãi chiến trường đẫm máu giữa hai thế lực thù địch người Việt, đó là chiến tranh giữa Tây Sơn và Nguyễn Ánh. Thế thì sự sống còn của Panduranga hoàn toàn tùy thuộc vào kết quả của chiến tranh này. Năm 1802, Nguyễn Ánh thống nhất sơn hà, lên ngôi lấy hiệu là Gia Long. Ðể đền đáp công lao cho một số người Chăm dấn thân vào phong trào chống Tây Sơn, Gia Long quyết định tái lập lại vương hiệu Panduranga và phong cho Po Saong Nhung Ceng, một chiến sĩ gốc người Chăm (tức là tổ tiên của Bà Thềm ở Phan Rí) đã từng theo ông trong buổi ban đầu chống quân Tây Sơn, lên làm vua của tiểu vương quốc này (Po Dharma (1987, I: 83-99). Và Po Saong Nhung Ceng cũng là vị vua cuối cùng nằm trong danh sách của Sakkaray Dak Rai Patao. Những biến cố mà chúng tôi đã nêu ra đã cho độc giả thấy rằng Panduranga có một quy chế chính trị và quân sự rất là đặc biệt trong quá trình lịch sử của Champa. Dù rằng đã mấy lần vùng dậy chống triều đình trung ương để đòi nền tự trị ở miền nam, xuất quân đánh đuổi kẻ xâm lược Cao Miên ra khỏi Vijaya ở miền bắc, gởi cả phái đoàn ngoại giao sang triều cống Trung Hoa như một quốc gia độc lập, có vua chúa và quân đội riêng, Panduranga vẫn là một đơn vị hành chánh của Champa. Nhưng đơn vị hành chánh này không thể hiểu là một “Tỉnh” của Champa như một số người thường hiểu lầm từ ngày ra đời tác phẩm của Dorohiêm và Dohamide vào năm 1965, mà là một tiểu vương quốc nằm trong liên bang Champa. Dựa vào yếu tố chính trị và hành chánh này, các nhà khoa học thường định nghĩa rằng Champa không phải là một quốc gia thống nhất và tập quyền như thể chế Việt Nam, mà một vương quốc liên bang. Ðây là một thể chế thông dụng mà người ta còn thấy ở liên bang Mã Lai hôm nay tập trung 9 tiểu vương quốc (Dupuis, 1972) hay liên bang Lào trong thời phong kiến tập trung 4 tiểu vương quốc như Luang Prabang, Vientian, Xieng Khoang và Champasak (Saveng Phinith, 1987: 6). Kể từ năm 1905, thể chế liên bang Champa đã trở thành một yếu tố lịch sử mà không ai có thể chối cãi được, ngoại trừ ba nhà nghiên cứu duy nhất trên thế giới đó là Lương Ninh, Dohamide và Dorohiêm. Trong bài viết của Lương Ninh xuất bản vào năm 2004, tác giả cho rằng «nếu đem lý thuyết Mandala (liên bang) áp dụng ở Champa, thì tác giả chỉ đồng ý một nữa›› mà thôi. Ðây là lối lý luận khập khiễng. Ngược lại, Dohamide và Dorohiêm thì phủ nhận hoàn toàn thể chế liên bang Champa trong tác phẩm Bangsa Champa xuất bản vào năm 2004. Không cần đưa ra một nguồn tư liệu nào để minh chứng cho quan điểm của mình, Dohamide và Dorohiêm tự phỏng đoán rằng vương quốc Champa hợp thành một cơ cấu quốc gia thống nhất. Chúng tôi khỏi bàn quan điểm này, vì đây chỉ là lối suy diễn dựa vào cảm hứng riêng tư và lý luận phi khoa học của Dohamide và Dorohiem mà thôi. Một khi đã công nhận Panduranga không phải là một “Tỉnh” của Champa như Dohamide và Dorohiem đã hiểu lầm từ năm 1965, mà là một tiểu vương quốc trong liên bang Champa, thế thì Panduranga cũng có quyền hưởng được quy chế pháp lý để có một biên niên sử riêng của mình, đó Sakkarai Dak Rai Patao.  Nội dung của biên niên sử  Trong thư viện của Pháp hiện còn lưu trữ 12 dị bản khác nhau của tác phẩm Sakkaray Dak Rai Patao. Trong tổng số này, có 10 dị bản viết bằng tiếng Chăm ở Việt Nam và 2 dị bản viết bằng tiếng Chăm ở Cao Miên. Sakkaray Dak Rai Patao viết bằng chữ Chăm Cao Miên cho rằng đây là biên niên sử của Nagar Panang-Panik, tức là biên niên sử của tiểu vương quốc nằm trong khu vực Phan Rang và Phan Rí, hay là  Panduranga. Ngược lai, Sakkaray Dak Rai Patao viết bằng chữ Chăm Việt Nam chỉ ghi rằng đây là biên niên sử Patao Chăm (vua chúa Chăm), nhưng không cho biết rõ Patao Chăm này thuộc về Panduranga hay vua chúa Champa đóng đô ở Vijaya. Nếu nói rằng Sakkaray Dak Rai Patao là biên niên sử của liên bang Champa thì không thể chấp nhận được. Vì rằng, hầu hết các lai lịch, “nghĩa trang” thuộc dòng thân mẫu (Kút) và đền tháp của vua chúa trong Sakkaray Dak Rai Patao đều nằm ở khu vực Phan Rang và Phan Rí hôm nay. Ðiều đáng chú ý nữa đó là các thủ đô như Bal Sri Banây, Bal Hanguw, Bal Anguai, Bal Batsinâng, Bal Pangdarang đều nằm trong lãnh thổ của Panduranga. Các danh xưng của vua chúa trong Sakkaray Dak Rai Patao đều khởi đầu bằng cụm từ «Po», như Po Romé, Po Klaong Haluw, v.v. chứ không phải khởi đầu bằng cụm từ «Jaya, Sri›› như Jaya Indravarman, Sri Sinhavarman, v.v. được sử dụng bởi các vua chúa liên bang Champa đóng đô ở Vijaya. Thêm vào đó, người ta chưa bao giờ tìm thấy một bản văn nào viết bằng Akhar Thrah Chăm phát xuất từ khu vực Panduranga lại nhắc đến một số kỷ niệm xa xưa ở khu vực Champa miền bắc (từ Bình Định cho đến Quảng Bình), ngoại trừ vài danh từ địa phương như Huê (tức là Huế), Mbin Ngai (tức là Quảng Ngãi), v. v., vì rằng các địa danh này chỉ xuất hiện trong văn chương Chăm vào thời Nguyễn mà thôi. Chính vì thế, một số người Chăm cho rằng Harek Kah Harek Dhei dùng trong bản văn Chăm nằm ở Quảng Bình là hoàn toàn phi khoa học, vì địa danh này chỉ nằm ở khu vực Aia Ru (tỉnh Phú Yên) tức là địa đầu của tiểu vương quốc Panduranga. Càng không thể được nếu cho rằng công chúa Bia Mih Ai trong tác  phẩm Nai Mai Mang Makah là công chúa Mị E, vợ của Jaya Sinhavarman II,  tức là Sạ Ðẩu (1044-), v.v., vì tác phẩm Nai Mai Mang Makah chỉ viết vào thế kỷ thứ XVIII (Po Dharma, 2000). Tác phẩm Sakkaray Dak Rai Patao có tổng số 38 vị vua và được chia làm hai phần rõ rệt.  Thời kỳ tiền sử
0 Rating 454 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On March 24, 2017
  Thời gian gần đây trong cộng động mạng xã hội của người Chăm đã lan truyền đi lá thư của Thầy Nguyễn Văn Tỷ gởi cho Hội Đồng Sư Cả Hồi Giáo Bani, dấy lên làn sóng bình luận xôn xao trái chiều, gây ảnh hưởng thật tai hại làm mất hoà khí giữa người Chăm với nhau trong cùng tập thể. Tôi đã đọc qua thư của Thầy Nguyễn Văn Tỷ viết, Biên Bản của Hội Đồng Sư Cả Hồi Giáo Bani làm và xem hết video cuộc họp của Hội Đồng Sư Cả phần 1. Đang chờ thêm video của phần tiếp theo, cũng có đọc nhiều bài bình luận của nhiều người khác nhau viết liên quan đến vấn đề này. Theo tình mà xét thì Thầy Nguyễn Văn Tỷ không nên viết thư như vậy, vì Tiến sĩ Thành Phần cũng là người anh em cùng dòng tộc Champa. Có gì thì tốt nhất anh em nên đóng cửa lại mà nói chuyện, trình bày cho nhau nghe ngọn ngành của câu chuyện một cách rõ ràng trong tình thân. Bất cứ một cộng đồng nào, hễ làm việc chung với nhau thì sẽ không thể nào tránh khỏi những bất đồng, những ý kiến trái ngược và ngay cả những việc làm không cùng một cách như nhau. Trong những trường hợp như thế, nếu như xảy ra, tốt hơn hết là chúng ta hãy đến và ngồi lại với nhau. Khi đến với nhau chúng ta cũng phải có tấm lòng cởi mở để có thể chịu khó lắng nghe, dù là phải nghe những điều thật khó nghe chăng nữa! Vì thường những điều khó nghe ấy lại là những điều mấu chốt nhất, gây ra cớ sự bất hoà giữa mình với nhau khi làm việc, dù có chung một mục đích. Nên đã là người có tâm huyết muốn làm việc cho cộng đồng, nhất là cộng đồng Champa. Chúng ta hãy cố bình tâm, ngay cả kiên nhẫn chịu khó lắng nghe nhau. Trao đổi với nhau một cách chân thành, nói cho nhau nghe những điều mình muốn nói, nhưng trong sự hoà nhã đầy tình yêu thương. Xét về lý thì trên nguyên tắc đáng lẽ ra lá thư của Thầy Nguyễn Văn Tỷ chỉ Hội Đồng Sư Cả Hồi Giáo Bani là nơi nhận trước hết, để trong tình anh em cùng trách nhiệm đối với giáo dân trong cộng đồng, mà liệu cách giải quyết sự cố bất hoà giữa mình với nhau sao cho được ổn thoả tốt đẹp. Trừ khi Hội Đồng Sư Cả không thể giải quyết được, thì lúc ấy những ý kiến dư luận bên ngoài mới xen lẫn vào. Tiếc thay là lá thư kia đã lọt ra ngoài cho nhiều người biết, trong khi Hội Đồng Sư Cả chưa kịp mời anh chị em lại để cùng bàn bạc với nhau hầu có thể tìm ra phương cách nào. Nay sự việc đã được người ngoài biết, mà một khi vài người ngoài biết thì sẽ thêm có nhiều người hơn nữa biết. Nhất là trong thời đại công nghệ thông tin đại chúng bây giờ, nó chẳng khác nào như con dao hai lưỡi. Khi chuyện tốt mau có nhiều người biết, thì chuyện xấu cũng sẽ nhanh như vậy. Dĩ nhiên chúng ta không thể lấy lại được những gì đã vừa xảy ra trong tầm mắt, nhưng điều chúng ta có thể làm là học cái kinh nghiệm đau thương ấy để có thể làm tốt hơn ở tương lai. Chúng ta không thể làm đầy lại bát nước đã đổ, nhưng có thể làm nó ngưng không phải đổ thêm ra nhiều. Cách tốt nhất để làm được việc ấy, là hãy cố tạo cơ hội tốt đẹp để anh em mình ngồi lại với nhau. Nếu Thầy Nguyễn Văn Tỷ và Tiến sĩ Thành Phần là những người bình thường như bao nhiêu người khác thì không nói gì, đàng này hai người đều là những khuôn mặt được nhiều người biết. Xin Thầy Nguyễn Văn Tỷ và Tiến sĩ Thành Phần nên cho nhau cơ hội. Đến để giải bày cho nhau những bức xúc mà anh em không thể, hoặc chưa thể nói ra. Ngay cả lá thư được viết ra cũng có cái nguyên do của nó, do đó hai vị cần đến và nên nói chuyện với nhau như anh em của ngày nào. Làm việc cho cộng đồng đúng nghĩa là người phục vụ vô vụ lợi, là người của quần chúng thì không thể tránh được những sự cố ngoài ý muốn xảy ra cho mình. Nên xin hai vị chớ lấy làm nặng lòng mà hãy chấp nhận nó, như là một phần không thể thiếu trên hành trình của một người phục vụ. Hãy vì sự đoàn kết của cộng đồng Chăm mà gạt bỏ đi cái riêng tư của chính mình, làm được như vậy hai vị sẽ đánh tan đi bao dư luận không mấy tốt đẹp của những ngày vừa qua. Có thế thì thế hệ đàn em của chúng ta sau này mới noi theo và cộng đồng người Chăm hôm nay mới nể phục. CHÂN THÀNH   bài gởi qua info@nguoicham.com
0 Rating 217 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On March 23, 2017
  1. Trung tuần tháng 2 hoặc tháng 3 âm lịch, người Việt có tục cúng đất, từ Đèo Ngang đổ ra gọi là cúng Thổ công và từ Đèo Ngang vô trong gọi là cúng Tá thổ. Cũng là cúng đất, nhưng người xứ Bắc Đèo Ngang cúng Thần Đất của chính họ, nên gọi là cúng Thổ công. Ngược lại, người miền Nam Đèo Ngang cúng Thần Đất của người Chăm nên gọi là cúng Tá thổ (借 土, mượn đất), ai cúng thì được "kỳ yên" (an lành), ai quên cúng thì chịu quả báo. Nói thêm, cúng Tá thổ tức là nghi lễ của những lưu dân người Việt xin mượn đất người Chăm, dẫu rằng mượn hơn 700 năm mà vẫn chưa trả! Vì mượn nhưng chẳng bao giờ trả nên Tổ tiên của những lưu dân người Việt đến từ miền Thanh Nghệ Tĩnh đã có một thái độ hết sức khiêm nhường, bởi họ luôn tâm niệm rằng những linh hồn Chăm mới là chủ nhân của miền đất mà họ đang "tá túc". Vị Thần Đất của người Chăm, thường được hóa thân thành Bà Ngũ Hành, Bà Chúa Ngọc, Bà Hời, Bà Vú ... được những lưu dân người Việt mời về "đồng lai cộng hưởng" bằng những lễ vật rất Chăm như củ khoai lang, chén mắm cái, đĩa đậu phộng, bát cơm nấu từ gạo Chiêm ... và đặc biệt phải có tam sinh, tức là một con cua cái sống, một tợ thịt heo sống và một hột vịt sống. Bái tất, lễ vật được đem treo ở những cây đa hay giữa ngã ba làng cho các linh hồn Chăm thụ hưởng. Tính độc đáo của lễ cúng "Tá thổ", cúng cho chủ đất cũ, chính là lối ứng xử hết sức nhân văn của người chiến thắng (Việt) đối với người chiến bại (Chăm). 2. Gần đây, đọc bài "Khóc ở Mỹ Sơn" trên tường của chị Kiều Kiều Maily, rồi đọc thêm bài "Không khóc ở Mỹ Sơn" của anh Inra Sara mà mình khóc òa. Lẽ nào con cháu của những người "mượn đất" lại đối xử với con cháu của "chủ đất" tệ đến thế sao? Người Việt đã "mượn" hết tất cả đất của người Chăm rồi, bây giờ con cháu người Chăm về hành hương đất tổ Mỹ Sơn thì bị người Việt bắt trả tiền mua vé! Cái cảm giác "uất nghẹn" này thì tôi đã nếm. Bà cố nội của tôi là người tộc Trần ở Hội An. Cách đây 5 năm, tôi về nhà thờ tộc Trần (21 Lê Lợi, Hội An) để thắp ba cây nhang thì bị chặn ở ngoài cổng. Người ta bắt tôi phải mua vé mới được vào. Ô hô, con cháu đi cúng bái ông bà tổ tiên mà còn phải mua vé hay sao? 3. Ngày Cồn Dầu bị san ủi cũng là ngày núi Phước Tường bị sạt lở. Có tâm linh gì không, hay là người ta phá núi quá nhiều nên chỉ sau mấy trận mưa mà Phước Tường sạt lở? Cách đây hơn ngàn năm, thời Champa (vương triều Đồng Dương), trên mảnh đất Đà Nẵng ngày nay, đã có một tòa thành gọi là Rudrapura उत्तरकाण्ड, thành phố Thần Bão tố (*). Núi thiêng của thành là ngọn Phước Tường, sông Thiêng của thành là dòng Cẩm Lệ, đất Thiêng của thành là Cồn Dầu. Thành Rudrapura có nội cảng Nại Hiên Tây và có tiền cảng Nại Hiên Đông, ngay bãi Tiên Sa, dưới chân núi Sơn Trà. Đất Quảng Đà vốn là đất Chăm, thiêng lắm. Cách đây vài năm, có ông lãnh đạo thành Đà ăn đất vô hậu, phá núi tàn canh nên bị quả báo, ung thư tủy sống. Ổng tốn hơn 3 triệu USD sang Mỹ chữa bệnh mà có mua được mạng sống đâu? Cái đó gọi là quả báo nhãn tiền. Nay, có bọn lãnh đạo khốn nạn nào đó đan tâm phá nát bãi Tiên Sa, băm sạch núi Sơn Trà cho thỏa lòng tham. Coi chừng có ngày bị ung thư ... Houston, 22/3/17ĐBT theo facebook.com
0 Rating 1.1k+ views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On December 20, 2016
[Phản biện sách] Văn hoá Sa Huỳnh với Đông Nam Á (phần 2) Chamstudies.net xin trân trọng giới thiệu phần tiếp theo về phản biện văn hoá Sa Huỳnh với Đông Nam Á của một nhà nghiên cứu trẻ. Đổng Thành Danh  Trung tâm Nghiên Cứu Văn Hoá Chăm tỉnh Ninh Thuận   Sách Văn hóa Sa Huỳnh với Đông Nam Á của nhóm tác giả Nguyễn Văn Chừng, Dương Minh Chính, Lê Văn Công, Lê Sơn, Nguyễn Văn Thanh, Lê Quốc Ân, Nguyễn Quốc Chiến được ấn hành bởi nhà xuất bản Hồng Đức (Hà Nội) vào năm 2015. Cuốn sách có 283 trang, ngoài lời giới thiệu (của Pgs. Ts. Phan An thuộc Viện hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam), lời nói đầu của Ts. Lê Sơn (thuộc nhóm tác giả), mục lục và phụ lục thì có 4 chương chính: Chương 1: Những vương quốc hùng mạnh đã từng tồn tại trên dãi đất Việt Nam trong quá khứ. Chương 2: Ba trung tâm văn hóa thời cổ Đông Sơn, Sa Huỳnh, Óc Eo. Chương 3: Người Sa Huỳnh. Chương 4: Nước Việt Thường Thị, nước Lâm Ấp. Cuốn sách là một công trình chuyên khảo của nhóm tác giả về nền văn hóa Sa Huỳnh và lịch sử miền Trung Trung Bộ trong các thế kỷ đầu thiên niên kỷ I sau Công nguyên. Trong đó, các tác giả tổng hợp các nguồn tư liệu về khảo cổ học, sử học để chứng minh rằng văn hóa Sa Huỳnh nằm trong địa phận nước Việt (trang 9) và lãnh thổ của người Việt cho đến thế kỷ thứ III sau Công nguyên kéo dài đến tận đèo Cả (hoặc núi Thạch Bi) (trang 10 – 11). Tuy nhiên, công trình của nhóm tác giả chứa đựng nhiều hạn chế và sai lệch về mặt học thuật cần được chỉnh sửa và bổ sung, bài viết này sẽ trình bày một số những sai lầm và thiếu sót về khoa học của cuốn sách hầu cung cấp một cách nhìn chân xác về lịch sử. Tiêu chí của một công trình nghiên cứu khoa học Xét về tiêu chí của một công trình khoa học mang tính hàn lâm, đủ khả năng đứng vững trước các phản biện khoa học, tôi nhận thấy cuốn sách này vấp phải một số các nhược điểm sau đây: Về bố cục và nội dung của cuốn sách Như đã nói, cuốn sách có 283 trang, nhưng bố cục phân chia không đồng đều, chương thì quá nhiều (chương 3 có đến 48 trang), chương thì quá ít (chương 4 chỉ có 11 trang), hai chương còn lại (chương 1, 2) mỗi chương có khoảng 20 trang. Thêm vào đó, phần nội dung chính (gồm 4 chương) chỉ có 103 trang (từ trang 27 đến trang 130), nhưng phần phụ lục lại chiếm đến 147 trang (từ trang 131 đến trang 278). Thông thường trong một bài nghiên cứu khoa học nghiêm túc phần phụ lục không thể có số lượng lớn hơn phần nội dung chính của công trình được. Đây chính là nhược điểm lớn nhất của cuốn sách khi so sánh với các công trình khoa học thực thụ. Về mặt nội dung, cuộc sách này chỉ là một công trình khảo cứu mang tính tổng hợp, tập hợp lại các nguồn tư liệu đã có trước đó về Sa Huỳnh. Trong phần Sa Huỳnh một thế kỷ phát hiện và nghiên cứu (từ trang 15 – 26), nhóm tác giả chỉ tiến hành công tác tổng hợp các quan điểm của một số các học giả, nhà nghiên cứu về Sa Huỳnh như một bài tường thuật về Hội thảo 100 năm phát hiện và nghiên cứu văn hóa Sa Huỳnh chứ chưa đi vào nghiên cứu. Trong chương 1, nhóm tác giả chủ yếu sao chép lại bài viết về Phù Nam – Chân Lạp của Phạm Đức Mạnh (trang 27 – 30) và G. Maspero về Champa (trang 30 – 48). Riêng phần nội dung chính về Sa Huỳnh được trình bày trong các chương 2 – 3 cũng có vấn đề, cụ thể phần II của chương 2 có mụcNhững tương đồng và dị biệt giữa văn hóa Đông Sơn và Văn hóa Sa Huỳnh (trang 57 – 66) mà nội dung hoàn toàn giống với bài viết của Ts. Dương Văn Sáu trước đó[1]? Tương tự,mục tiếp theo làGiao lưu giữa văn hóa Đông Sơn và Văn hóa Sa Huỳnh (từ trang 66 – 69) cũng có nội dung sao y nguyên bản từ bài viết Giao lưu giữa văn hóa Đông Sơn và văn hóa Sa Huỳnh qua tư liệu khảo cổ học của tác giả Nguyễn Văn Tiến đăng trên trang mạng của Đại học văn hóa[2]. Chương 3 mang tựa Người Sa Huỳnh, chiếm khối lượng lớn trong phần nội dung, tuy nhiên chủ yếu tổng kết lại các kết quả khai quật và nghiên cứu trước đó, chủ yếu trình bày khái quát quá trình phát hiện và nghiên cứu Sa Huỳnh cũng như khảo tả một số di tích Sa Huỳnh ở Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định (Trung Trung Bộ). Ở chương 4, các tác giả đề cập đến Việt Thường Thị và Lâm Ấp có 11 trang, là phần tác giả trình bày quan điểm của mình rằng chủ nhân của văn hóa Sa Huỳnh không phải là Champa (trang 120) và biên giới nước ta thời Hai Bà Trưng đến tận núi Thạch Bi (trang 123), nhưng đến một nửa nội dung là trích dẫn và sao lục nguyên văn các công trình của Maspero, Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Hán Thư, Nam sử, ngoài ra còn trích dẫn một đoạn ngắn trong Tấn thư (trang 128)… Tuy nhiên, điều đáng nói là ở phần cuối chương lại đặt thêm một phần phụ lục (dịch tư liệu tiếng Hán và tiếng Pháp của B. Boroutte) thay vì đặt ở phần phụ lục lớn ở cuối sách, như vậy cuốn sách có hai phần phụ lục: phụ lục của chương 4 và phụ lục của toàn bộ cuốn sách, chúng tôi chưa hề thấy một cuốn sách nào có phần đặt bố cục kỳ lạ như vậy! Cònriêng về phần phụ lục (của toàn bộ sách) dù chiếm số lượng nhiều, nhưng đó lại không phải là phần do các tác giả tự nghiên cứu hay phân tích mà chủ yếu lại là phần dịch toàn văn các bài viết của một số các học giả nước ngoài về văn hóa Sa Huỳnh (trừ phụ lục 6 là bài giới thiệu ngắn về bảo tàng Sa huỳnh ở Hội An). Cuối cùng là phần Giới thiệuThư mục tham khảo về văn hóa Sa huỳnh (trang 279 – 282) với 48 danh mục tài liệu, chúng tôi không hề biết các giả nêu danh mục này ra để làm gì vì nhóm tác giả không hề tham khảo hay có một trích dẫn nào đối với hầu hết các bài viết ấy. Về nguồn tư liệu tham khảo và trích dẫn Cuốn sách viết về nền văn hóa Sa Huỳnh và khảo cổ học miền Trung, nhưng chủ yếu sử dụng các nguồn tư liệu đã cũ của các học giả phương Tây đầu thế kỷ XX Như L. Malleret, L. Colani,H. Parmentier, W. Solheim II, O. Jansé, J. Chidanel… mà không tham khảo hay có một trích dẫn nào với các bài viết, các phát hiện mới về Sa Huỳnh[3]. Trong chương 2 và 3 là chương chủ yếu viết về Sa Huỳnh và khảo cổ miền Trung, nhưng tác giả không hề có một trích dẫn các sách, tạp chí hay các công trình nghiên cứu khoa học kể trên, mà chủ yếu sao lại một số bài viết của Colani, Malleret (trang 82), của nhóm tác giả Phan Xuân Biên, Phan An, Phan Văn Dốp (trang 115 – 118),còn lại hầu hết đều viết chay, không thấy có trích dẫn nguồn nào. Ngoài Sa Huỳnh và khảo cổ học miền Trung các tác giả còn giành sự quan tâm đến chủ đề vương quốc Lâm Ấp và Champa (chương 1 và chương 4), chính vì thế các tác giả chủ yếu sử dụng các nguồn tài liệu sơ cấp như Hán Thư, Tấn Thư, Nam sử, Đại Việt Sử Ký Toàn thư, thứ cấp như Le RoyaumeChampa của G. Maspero, Essaid’Histoire des Populations Mongtagnardes du Sud-Indochinois của B. Bourotte, Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim. Tuy nhiên, đây chỉ là mục danh mục tài liệu rất hạn chế và chứa đựng nhiều sai sót về Lâm Ấp và Champa mà các tác giả sử dụng làm nguồn tham khảo. Xét về các nguồn tài liệu sơ cấp là Hán Thư, Nam sử và Đại Việt Sử ký Toàn thư, Tấn thư ta thấy đây chỉ là một vài trong số rất nhiều sử liệu cổ mà nội dung liên quan đến Lâm Ấp – Champa, bản thân nội dung hay tính xác thực của các nguồn tư liệu sơ cấp (của Trung Hoa và Đại Việt) luôn cần phải cân nhắc kỹ lưỡng, chính bản thân các tác giả của cuốn sách này cũng thừa nhận điều đó: “Tuy nhiên, nên biết là các tư liệu cổ sử đều thiếu các tư liệu xác thực và thường ghi chép rất khái lược, có khi thiếu mạch lạc” (trang 119). Như vậy, thay vì sử dụng thêm nhiều tư liệu sơ cấp khác của cổ sử Trung Hoa như Thủy Kinh Chú, Hải Ngoại ký sự, Tống Thư, Nam Tề Thư, Lương Thư, Trần thư, Tùy Thư, Cựu Đường Thư, Tân Đường thư[4]… hay các cổ sử Việt như Việt sử lược, Lĩnh Nam chích quái,…. để cùng đối chiếu, so sánh nhận diện đúng bản chất lịch sử thì các tác giả chỉ sử dụng bốn văn bản trên để chứng minh cho các luận điểm của mình. Đối với các nguồn tư liệu thứ cấp, nhóm tác giả này lại sử dụng các nguồn tư liệu ít ỏi, bản thân các công trình đó lại rất cũ, chứa đựng nhiều sai lệch và thiếu sót về Lâm Ấp và Champa, nhất là cuốn sách về Champa của Maspero đã được L. Aurousseau và L. Finot phê bình[5]. Mặt khác từ sau công trình của Maspero, nhiều công trình khác đã ra đời cũng giành sự quan tâm đến chủ đề này với nhiều nội dung và quan điểm mới, như các cuốn sách của R. Stein, G. Coedes. Po Dharma, Lafont[6], chưa kể đến hàng trăm công trình, bài viết nghiên cứu về Champa khác… Trong cuốn sách mà chúng tôi đang phản biện, tên tuổi và tác phẩm của các nhà nghiên cứu ở trên hầu như không được nhắc đến, điều đó cho thấy, các tác giả không cập nhật các nghiên cứu mới nhất về lịch sử Lâm Ấp và Champa trong mấy chục năm gần đây, từ đó tác giả sử dụng các quan điểm rất lạc hậu của Maspero, Bourotte hầu chứng minh các lập luận của mình. Tiểu kết Từ việc phân chia bố cục không đồng đều, phi khoa học, nội dung mang tính tường thuật, khái quát, chủ yếu tổng hợp, sao chép các tư liệu, bài viết đi trước cho đến cách thức sử dụng và trích dẫn các nguồn tư liệu một cách thiếu chuyên môn, nhiều chương (như chương 2, 3) không hề có tư liệu tham khảo, phần lớn viết chay, nhiều chương có trích dẫn nhưng sử dụng ít nguồn tư liệu, trong đó nhiều tư liệu đã lỗi thời, hàm chứa nhiều sai sót về học thuật, mà không hề có sự phân tích, đánh giá. Chính vì vậy, tôi cho rằng, cuốn sách Văn hóa Sa Huỳnh với Đông Nam Á không thể được xem là một tác phẩm khoa học nghiêm túc, càng không thể được sử dụng để làm nguồn tham khảo cho các nghiên cứu sau này. Các quan điểm và nhận định của nhóm tác giả Dù không thể hội đủ các tiêu chuẩn cơ bản của một tác phẩm nghiên cứu khoa học, từ cách phân chia bố cục, nội dung cho đến cách sử dụng và trích dẫn nguồn tài liệu, nhưng các tác giả của cuốn sách vẫn đưa ra nhiều quan điểm về khảo cổ và lịch sử Sa Huỳnh, Champa và Trung Trung bộ. Cho nên, chắc hẳn rằng các quan điểm và nhận định của các tác giả đưa ra sẽ có nhiều thiên kiến, chủ quan thậm chí thiếu tính đúng đắn về khoa học, gây hậu quả tiêu cực cho nhận thức lịch sử trong tương lai. Trong phần này tôi sẽ phản bác và đính chính một số quan điểm ý kiến như vậy trong cuốn sách. Như đã nói, ngay từ lời nói đầu các tác giả muốn chứng minh rằng: “Vào thời Hai Bà Trưng, địa giới phía Nam nước ta… là núi Thạch Bi, ranh giới hai tỉnh Phú Yên, Khánh Hòa ngày nay” và “Sa Huỳnh nằm trong địa phận nước ta trước khi bị quân Chàm xâm chiếm” (trang 9). Nhóm tác giả chủ yếu giành chương 1 (phần về Champa) và chương 4 để chứng minh cho luận điểm trên của mình, chính vì vậy phản biện của chúng tôi sẽ chủ yếu phân tích hai chương này. Trước hết để chứng minh quan điểm của mình các tác giả tiến hành các bước: 1. Xác định chủ nhân, phạm vi của văn hóa Sa huỳnh; 2. Xác định ranh giới Việt cổ và Champa cổ (Lâm Ấp) dưới thời Hai Bà Trưng (tức thế kỷ I SCN). Chủ nhân và phạm vi (không – thời gian) của văn hóa Sa Huỳnh Để chứng minh cho quan điểm thứ nhất nhóm tác giả giành nhiều quan tâm đến nền văn hóa Sa Huỳnh, một nền văn hóa thời tiền nhà nước (tiền sử, sơ sử) ở miền Trung Việt Nam. Theo đó, các tác giả tìm lập luận chứng minh rằng chủ nhân của nền văn hóa Sa huỳnh ở Trung Trung Bộ (từ Quảng Nam đến Phú Yên) là người Việt, chứ không phải là người tiền Champa (những người đã lập nên nhà nước Champa sau này). Tức là họ cũng đồng thời phủ nhận sự chuyển biến liên tục từ Tiền Sa huỳnh – Sa Huỳnh – tiền Champa (Lâm Ấp và các chính thể tương đương) – Champa đã được nhiều nhà khảo cổ thừa nhận. Quan điểm này được thể hiện ở các câu văn sau: “… Miền Trung Trung Bộ, từ đèo Cả đến đèo Hải Vân không hề là đất bản địa của dân tộc Chàm như nhiều người lầm tưởng. Chính ngành khảo cổ đã khẳng định điều đó. Tác giả John G. Chidainel trong bài viết “một số đồ gốm Sa Huỳnh và những mối liên quan với các di chỉ khảo cổ khác ở Đông Nam Á cho rằng: ‘Nền văn hóa này không chia sẽ những ảnh hưởng của Trung Quốc và Ấn Độ, thường thấy tại bản đảo Ấn Trung vào thời đầu của kỷ nguyên Kitôgiáo. Mặc dù không xác định được những mối liên hệ bản chất giữa người Sa Huỳnh với người Chàm nguyên thủy nhưng những phương thức chôn cất của họ hướng tới một điểm sẽ kết nối với những người chủ của mộ cự thạch Thượng Lào’.(Xem Phụ lục 5) Nhà khảo cổ trứ danh thế giới, làm Trưởng Ban Khảo cổ của Viện Viễn Đông Bác Cổ, ngài Henri Parmentier trong bài viết “Những hố chum ở Sa Huỳnh”, Parmentier nhấn mạnh: ‘Qua các di vật tìm được ở Sa Huỳnh thiếu tất cả các chứng tích về nền văn minh Chàm’ và ‘Sự độc lập hoàn toàn của các trang trí với nghệ thuật xa xưa, xưa hơn nghệ thuật Chàm, không cho phép gắn các hố khảo cổ này với người Chàm’”(trang 10). Ở chương 4, các tác giả cũng viết: “…Ngày nay dưới ánh sáng của Khảo cổ học đang phát triển thì những năm vào thế kỷ III trước CN cho biết vùng này đã hình thành một loại nhà nước sơ khai. Nhà nước ấy nhất định không phải là tổ tiên của người Champa, vì theo Parmentier thì: ‘Qua các di vật tìm được ở Sa Huỳnh thiếu tất cả các chứng tích về nền văn minh Chàm’ và ‘Sự độc lập hoàn toàn của các trang trí với nghệ thuật xa xưa, xưa hơn nghệ thuật Chàm, không cho phép gắn các hố khảo cổ này với người Chàm’…” (Trang 120). Chỉ có ngần ấy tư liệu, chỉ viện dẫn hai nhà nghiên cứu phương Tây (chưa tính là lập lại hai lần bài viết của Parmentier) nhưng tác giả muôn phủ nhận người tiền Champa là chủ nhân của nền văn hóa Sa Huỳnh.Như chúng tôi đã đề cập, những nghiên cứu của J. Chidainel và H. Parmentier là những nghiên cứu rất xưa, trong thời điểm mà các phát hiện về Sa Huỳnh vẫn còn ở giai đoạn đầu tiên, hàng chục năm sau khi các bài viết này ra đời, nhiều phát hiện mới về Sa Huỳnh cũng xuất hiện, thay đổi nhiều nhận thức về nền văn hóa ấy, và từng ấy thời gian nhiều bài viết, công trình nghiên cứu mới đã ra đời. Tuy nhiên, nhóm tác giả dường như không cập nhật chúng, đây là lỗi nghiêm trọng nhất của một công trình khoa học. Trong thực tế, những phát hiện mới đã làm thay đổi các nhận thức cơ bản về chủ nhân và phạm vi của văn hóa Sa huỳnh của các học giả phương Tây trước đây. Theo các nghiên cứu mới, chủ nhân của văn hóa Sa Huỳnh chính là người bản địa,chính họ đã đóng góp vào sự chuyển biến từ Sa Huỳnh sang giai đoạn hình thành các nhà nước sơ khai ở miền Trung như Lâm Ấp và sau này là Champa, phạm vi của nền văn hóa này không chỉ bó hẹp ở Trung Trung Bộ (Quảng Nam đến Phú Yên) mà còn đến tận Nam Trung Bộ (Khánh Hòa đến Bình Thuận)[7]. Quá trình chuyển biến từ Sa Huỳnh – Lâm Ấp – Champa là một quá trình liên tục, chủ yếu chuyển biến từ tác động nội sinh hơn là các tác nhân cơ học bên ngoài, tức từ Sa huỳnh sang tiền Champa không hề có sự can thiệp từ bên ngoài, do đó chủ nhân của văn hóa Sa Huỳnh là những người tiền Champa[8]. Ranh giới và địa giới của hai nước Việt cổ và Champa đầu công nguyên. Một khi đã phủ nhận vai trò hậu duệ của người Champa đối với nên văn hóa cổ Sa Huỳnh, nhất là ở miền Trung Trung Bộ (mà theo các tác giả là từ Quảng Nam đến Phú Yên),các tác giả tìm cách chứng minh lãnh thổ của người Việt, trước thế kỷ II – III SCN, kéo dài đến núi Thạch Bi, trong khi nước Champa được hình thành ở phía Nam Thạch Bi, chỉ từ sau khi lập quốc họ mới mở rộng cương vực lên phía Bắc đến dãy Hoành Sơn (Quảng Bình) và xác lập cương vực hai nước ở đó cho đến khi nhà nước Đại Cồ Việt hình thành (thế kỷ X). Quan điểm này của các tác giả được thể hiện rõ nhất qua các đoạn sau: “…Vào thời Hai Bà Trưng, địa giới phía Nam nước ta ở đâu? Trước đây chưa ai xác định được. Chúng tôi nghiên cứu tư liệu chữ Hán cổ và tiếng Pháp, đã chứng minh ranh giới ấy là núi Thạch Bi, ranh giới của hai tỉnh Phú Yên và Khánh Hòa ngày nay…” (trang 9). “…Xác định núi Thạch Bi là ranh giới phía Nam nước ta thời Hai Bà Trưng là một đóng góp mới. khảo cổ học củng cố cho phát hiện ấy…” (trang 11). “
0 Rating 1k+ views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On December 13, 2016
  Ở Quảng Nam, có một làng gần như 100% là người gốc Chăm. Đó là làng Đồng Dương nằm trên địa bàn xã Bình Định, huyện Thăng Bình. Từ thời xa xưa, trong cộng đồng người Chăm Đồng Dương đã lưu truyền truyền thuyết khá hấp dẫn và lý thú về nguồn gốc của làng Chăm độc nhất ở Quảng Nam này! Những di tích còn sót lại của người Chăm ở xứ Quảng. Truyền thuyết thuật lại rằng thời xa xưa, không biết vì lý do gì giữa hai nước Chiêm và Việt nổ ra chiến tranh. Vua Việt tiến đánh quân Chiêm ở tận Đồng Dương. Ở vào thế chống đỡ, không còn cách nào khác, tướng Chiêm mới huy động cả thảy tám mươi con ngựa chiến. Đuôi ngựa được cột thêm vào một tàu lá cau. Bốn chân cột thêm bốn cái lục lạc. Khi hai bên lâm trận, mùa tháng Sáu, trời nắng chang chang nên khói bụi bay mù trời. Rồi lục lạc cũng huyên náo. Sau ba ngày ba đêm, thấy khó có thể cầm cự, quân Chiêm phải kéo cờ trắng đầu hàng. Đặc biệt, trong đám hàng binh, vua Việt phát hiện có một nàng công chúa xinh đẹp. Ngài bèn bắt về để làm vợ cho một vị hoàng tử. Nhưng, ngài hoàn toàn không biết nàng công chúa này đã có thai. Tương truyền rằng vì thế cho nên mới có dòng họ Trà nối nghiệp ở Đồng Dương bây giờ. Người ta kể rằng, sau đó, công chúa về Nghệ An làm vợ hoàng tử và sinh ra một đứa con trai. Tất nhiên, đó là một người Chiêm. "Chim có tổ người có tông", lớn lên, có lẽ do mẹ là công chúa Chiêm cho biết nguồn gốc nên người con mới lần vào Điện Bàn, coi như tìm về quê cha đất tổ. Đầu tiên, ông đến làng La Huân, nay thuộc xã Điện Thọ. Nghề nghiệp chính của ông là làm thầy... phù thuỷ. Tức pháp sư. Tên nôm na của pháp sư là ông Hai Lánh. Đã là pháp sư, dĩ nhiên, theo truyền thuyết ông rất giỏi pháp thuật, có thể kêu mây gọi gió. Làng La Huân bấy giờ nghèo lắm. Dân nghèo nên không có tiền đóng góp. Tất nhiên, đình làng chỉ là đình tranh. Mỗi năm có chuyện họp hội, làm lễ ở đình làng, người dân thường kêu ca về sự nghèo khó, khốn khổ của mình, rằng "Khổ quá, coi cái làng La Qua bên cạnh, họ giàu, đình là đình ngói. Còn mình chỉ đình tranh. Trời mưa gặp cúng lễ thì biết tránh mô cho khỏi ướt". Cứ mỗi lần có chuyện cúng, ông Hai Lánh thường nghe bà con than thở. Thấy vậy, ông mới buột miệng nói "Muốn có đình ngói thì ta đổi đình ngói". Tưởng nói chơi, hoá ra ông lại làm thật. Tối hôm ấy, ông lấy đậu xanh ngâm cho ra mộng. Mộng từ hạt nứt ra, nên còn gọi là cựa. Đến tối, ông đứng trước bàn thờ, khói hương nghi ngút, mới lầm rầm trong miệng làm phép. Tức thì, bao nhiêu hạt đậu đều biến thành âm binh. Ông bèn sai âm binh đi khiêng đình tranh La Huân sang làng La Qua để đổi đình ngói La Qua. Mọi việc diễn ra gần như hoàn hảo. Sáng ra, dân hai làng thức dậy, nghe bảo có chuyện lạ ở đình, kéo nhau rần rần đi coi. "Quái, răng lại thế ni?". Ở La Huân, đình tranh trở thành đình ngói còn ở La Qua đình ngói lại biến thành đình tranh. Lý trưởng và các vị chức sắc trong làng tức lắm, mới nhìn kỹ và phát hiện đình tranh có một dây bầu. "Đình ni đích thị là đình của làng La Huân rồi". Họ bèn đi kiện lên trên. Với chứng cứ rành rành, ông Hai Lánh bị vua bắt giam vào ngục. Các nghệ nhân dân gian người Chăm. Ảnh tư liệu. Không biết ông bị giam bao lâu thì đến ngày lễ quốc khánh năm nọ, triều đình cần làm "phường môn", tức cổng ngõ, sao cho đẹp. Biết ông là thầy phù thuỷ có tài, vua bèn sai quân lính lôi ông từ ngục ra, bảo "Nghe nói nhà ngươi có tài, ngươi phải trổ tài để trẫm xem thử". Ông thưa vua xin thắt hai con rồng gọi là "lưỡng long tranh nguyệt". Vua sai người đem lụa để ông thắt. Thoáng chốc, ông đã thắt xong một con rồng rất đẹp. Ông bảo rồng này chưa làm mắt, làm mũi. Vua thấy ông tài quá, bèn cho ông tự do đi lại, không phải giam vào ngục. Nhưng ngay tối hôm đó, ông lẻn ngồi lên lưng con rồng vừa thắt xong, hô biến. Tức thì con rồng biến thành con rồng thật. Rồng bay lên, đưa ông về đất Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam. Đến Bình Trung, ông thả chiếc giày bên trái để báo tin. Rồi ông vào Đồng Dương. Cũng từ đây, ông Hai Lánh bắt đầu cuộc đời lang bạt để trốn tránh sự truy lùng của triều đình. Đặc biệt, khi đến Đồng Dương, ông lấy vợ và sinh ra hai người con đặt tên là Trà Huyền An và Trà Huyền Chơn, tên tục gọi là ông Chóng và ông Đụn. Sau đó, ông tiếp tục đến khu vực Hòn Tàu, nay thuộc địa phận huyện Quế Sơn để gầy dựng sự nghiệp. Không ngờ, ông gặp một con cọp dữ. Thế là ông đánh nhau với cọp. Điều trớ trêu là sức người sức cọp gần như ngang bằng với nhau nên hai bên cứ giằng co. Cọp thua thế hơn, chạy lên Trà Linh. Ông đuổi theo. Lần này, ông đánh đến ba ngày ba đêm. Cọp ra máu nhiều, đâm khát nước, mới mò ra bờ suối để uống một hơi dài rồi chết ngay tại chỗ. Ông Hai Lánh bấy giờ cũng sức cùng lực cạn và chết theo. Dân làng Trà Linh tiếc thương, mới chôn thi thể ông. Từ sự tích này mà hiện nay ở Trà Linh còn hai mả, mả ông Hai Lánh và mả... cọp. Tương truyền, mả ông rất thiêng. Đàn bà, con gái không dám đi ngang. Tuy nhiên, có một điều kỳ lạ là họ Trà dù chiếm hơn 90% dân số toàn thôn, tức trên 130 hộ nhưng trong văn tế cùng tiền hiền làng hồi trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945, những ông này lại đứng sau hai người Kinh có công lập làng. Nguyên văn văn cúng, theo trí nhớ của ông Trà Díu là "... Tiền hiền khai khẩn, hậu hiền khai canh/ Tiền tổ, hậu tổ/ Tiền năng sư bách nhãn, hậu năng sư bách nhãn/ Tiền quế công chi vị, hậu quế công chi vị/ Châu Văn Tuý, Trịnh Khắc Thiệt, Trà tộc, ông Chóng, ông Đụn, Trà Huyền An, Trà Huyền Chơn, các chư tộc phái...". Trong đó, Châu Văn Tuý và Trịnh Khắc Thiệt là hai người đứng đầu đơn lập làng. Càng đặc biệt hơn khi hai ông tiền hiền làng là Châu Văn Tuý và Trịnh Khắc Thiệt đều không có con cháu nối nghiệp. Có thể nói, truyền thuyết nói trên là một trong những truyền thuyết suy nguyên (mythologie étiologique) nhằm suy đoán, giải thích nguồn gốc họ Trà ở làng Đồng Dương hiện nay. Ngay cái tên nhân vật Hai Lánh, thiển nghĩ, đó cũng chỉ là một cách gọi đầy ngụ ý, thể hiện rõ cuộc đời lang bạt của một người có lai lịch đầy bí hiểm mà thôi! Theo news.zing.vn  
0 Rating 538 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On November 30, 2016
  VÌ CON KHÁC HỌ “Đồ dân tộc, tránh xa nó ra, bẩn thỉu”. Vâng! Tôi là một đứa dân tộc- là sản phẩm của một cuộc hôn nhân không tình yêu bởi phong tục tập quán củ dân tộc.Hồi nhỏ tôi đã nghe những câu nói như vậy cả trăm nghìn lần chỉ vì tôi là người dân tộc thiểu số. Khi nghe vâỵ tôi hỏi mẹ : “ Tại sao mấy bạn người Kinh lại nói con bẩn hả mẹ?” Mẹ chỉ cười bảo : “ VÌ CON KHÁC HỌ.” Khi lớn lên một chút tôi hiểu đó là sự miệt thị của một số người dành cho người dân tộc thiểu số như tôi. Sự xa lánh với tôi không có gì xa lạ, tôi sống cách biệt bạn bè, nói đúng hơn là không ai chơi với tôi-một đứa dân tộc. Ý thức được bản thân tôi vẫn âm ỉ ngọn lửa nghị lực trong mình. Những bữa ăn sắn, ăn ngô, củ mài mẹ đào trong rừng khiến tôi càng có động lực mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Mẹ tôi bị bệnh tim từ hồi mẹ còn trẻ, đã mấy chục năm mẹ phải sống với nó, mẹ ngất đi, tỉnh lại, đi bệnh viện như cơm bữa, tôi thương mẹ, nhưng nhà không có tiền chữa bệnh cho mẹ nên xin bệnh viện về nhà.Tiền mua thuốc cũng không có nên mẹ chỉ uống thuốc tự mẹ lấy về cất, hoặc ai cho thuốc gì về bệnh tim thì mẹ uống. Thế nhưng, khi khỏe lại, vì muốn có tiền cho bốn anh em tôi ăn học, mẹ lại đi làm thuê, đi bộ cả ngày trời vào rừng sâu hái nấm để bán, mẹ làm đủ nghề chỉ một điều duy nhất để chúng tôi có tiền học. Ba tôi thì bị bệnh đau lưng, những hôm đi cày thuê về ba lại đau nhức không làm được gì nặng. Lên cấp 2, mẹ tôi ốm nặng hơn, không chỉ những cơn đau vì bệnh tim hành hạ mẹ mà còn cả những dấu hiệu về thần kinh không ổn định. Mẹ tự nói, tự cười, mẹ đi lang thang khắp xóm,hết nói hết cười lại ngất đi. Có lẽ vì tình yêu của mẹ dành cho anh em chúng tôi quá lớn nên mẹ không cho phép mình ốm lâu như vậy, sức khỏe của mẹ dần ổn định hơn. Tôi đi học một buổi, một buổi chăn bò và đi mót mì, mót lúa, đi làm thuê để có tiền mua quần áo, bút thước.Tôi không có tiền để học thêm như các bạn người Kinh nên tôi tự mượn số sách ít ỏi của thư viện trường và hỏi mượn thêm của thầy cô để học.Tôi tự hứa với bản thân mình sẽ nỗ lực hết sức, sẽ “ KHÁC” họ như chính lời mẹ tôi nói.Và rồi tôi đã dùng lời hứa của mình để đạt được món quà dành tặng ba mẹ là Tấm giấy chứng nhận giải ba học sinh giỏi cấp huyện, giải nhì học sinh giỏi cấp tỉnh môn Ngữ Văn và giải khuyến khích môn Giải toán trên máy tính cầm tay hồi lớp 9.Thật hạnh phúc vì đó là món quà lớn nhất tôi làm được để dành tặng ba mẹ từ nhỏ đến giờ. Lên cấp ba, mỗi lần nghỉ hè, tôi lại lắng xắng tìm việc làm thêm, tôi bắt đầu kì nghỉ hè đầu tiên của mình ở cấp 3 là trông em bé, sau đó là chạy bàn cà phê, rửa chén trong quán ăn,bán tạp hóa… Vất vả nhưng tôi thấy thật vui vì đỡ được ba mẹ,lại có tiền trang trải học tập. Lên 12, tôi lại ôn thi học sinh giỏi môn Địa Lí, tôi đạt giải ba cấp tỉnh khối 12, và 12 năm liền tôi là học sinh khá, giỏi. Tôi đăng kí thi Đại học khối C, tôi chọn nhành Sư phạm Văn của Đại học sư phạm Huế. Ngày tôi chuẩn bị đi thi Đại Học là ngày ba tôi phải đi cày thuê nhiều hơn để có tiền cho tôi đi. Cũng bởi vậy mà lưng ba lại đau nặng hơn. Cầm 1 triệu đồng mồ hôi nước mắt của ba một mình từ Kon Tum ra Huế tôi đã khóc, khóc vì thương ba,vì sự vất vả hi sinh của ba,khóc vì tủi thân khi chúng bạn cùng thi có ba mẹ, người thân bên cạnh.Tôi tự đi, tự thuê trọ, tự lo ăn uống,tự thi, tự về.Và rồi tôi cầm trên tay mình tờ giấy báo nhập học của trường Đại Học Sư Phạm Huế với 23 điểm cả điểm cộng niềm hạnh phúc như vỡ òa. Vừa vui vừa lo lắng, vì sợ không có tiền đi học. Lẽ nào mình phải kết thúc ước mơ ở đây sao? Không, không thể!Nhưng mà học thì lấy đâu ra tiền để học nhỉ? Hàng ngàn câu hỏi cứ chạy trong tâm trí tôi,ám ảnh tôi.Nhưng rồi tôi nghĩ mọi chuyện sẽ có cách giải quyết, ba mẹ tôi an ủi, động viên tôi cố gắng.Tôi xuống thành phố Huế học, tôi vừa học vừa làm thêm. Lên năm 2, anh trai tôi mất, khó khăn lại chồng chất khó khăn, mẹ tôi vì thế mà sức khỏe kém đi nhiều. Đã nhiều lần tôi có ý định nghỉ học nhưng tôi biết có rất nhiều trẻ em người dân tộc thiểu số như tôi muốn đi học mà không được đi học,không được học thêm nên tôi không thể bỏ và vì tôi có ước mơ, tôi đam mê và muốn trở thành một giáo viên thực sự.Tôi muốn làm chút gì đó cho trẻ em nghèo vùng sâu, vùng xa. Tôi sẽ dạy học cho các em miễn phí để tiếp tục đánh thức ước mơ của các em, giúp các em sống tốt.Tôi tin mình sẽ làm được, tôi không cho phép mình gục ngã trước bất kì điều gì, tôi sẽ đứng vững trên đôi chân của mình. Tôi không thể từ bỏ ước mơ của mình chỉ vì khó khăn. Mẹ tôi nói tôi khác họ vì tôi là người dân tộc thiểu số. Vâng, tôi tự hào về điều đó và tự hào về những gì tôi làm được, những gì tôi cố gắng. Từ tận sâu trong đáy lòng tôi muốn cảm ơn mẹ đã mang đến cho con nhận thức, thông điệp : “ VÌ CON KHÁC HỌ” để con biết con phải làm gì và nên làm gì,cảm ơn ba đã yêu thương, ủng hộ con, cảm ơn sự nghiệt ngã của cuộc sống đã giúp tôi có được “tôi” hiện tại.Cảm ơn những người bạn chê tôi là người dân tộc đã cho tôi nghị lực, niềm tin, ý chí.Và tôi tự hào vì “TÔI LÀ NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ”. Theo moreyou.com.vn
0 Rating 138 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On August 31, 2016
Vua Chế Bồng Nga tài ba của Champa đã bảy lần chiếm thành Thăng Long, bị chết như thế nào?----------------------------" VUA CHẾ BỒNG NGA TỬ TRẬN "(Nguồn: facebook Pham Vinh Loc) -Chúng giết con tôi, xin bệ hạ báo thù! -Được rồi, bà hãy yên tâm. Chế Bồng Nga ôn tồn phủ dụ người đàn bà đang vật vã gào khóc dưới ngai vàng. Vua Chăm cho gọi Mục Bà Ma vào nghe tâu trình. -Lúc trước ngươi đi đòi lại đất Hoá Châu thì nhà Trần thái độ ra sao? -Cương quyết không trả. -Đã bắt Huyền Trân công chúa đem về, lại không trả của hồi môn, ngang ngược! Chế Bồng Nga quát lớn. Nay nhân dịp mẹ của Dương Nhật Lễ sang méc việc Trần Nghệ Tông cướp ngôi con trai và báo cáo sự rệu rã của quân đội Đại Việt, Chế Bồng Nga quyết ý xuất quân bình định thiên hạ. Chăm Pa là một nước lớn và có nền văn hiến lâu đời. Họ là những kiến trúc sư xuất sắc và thuỷ thủ lành nghề với những chiến thuyền hải tặc hoành hành suốt biển Đông. Một giống dân quật cường, phản kháng mạnh mẽ ách đô hộ của Trung Quốc nhưng cuối cùng lại bị Đại Nam tiêu diệt, thật là đáng tiếc. Nhưng bài này đang nói đến thời kỳ hoàng kim của họ dưới sự thống lĩnh của đại vương Chế Bồng Nga. -Cướp hết, thẳng tay cướp, ta cho phép! Quân Chăm rẽ sóng vượt biển tiến vào địa phận nước Việt, cập bến cửa Đại An và binh lính đổ bộ, tràn về kinh thành. Chế Bồng Nga cười lớn khi bước vào Thăng Long, thì ra vua quan nhà Trần bỏ chạy sạch sẽ cả rồi. Lính Chăm toả ra khắp vương đô như đàn kiến, kẻ khuân vàng người vác bạc, phóng hoả đốt cung điện lẫn sách vở. Chán chê thì hốt đàn bà con nít đem về nước. Sau vụ đó Chế Bồng Nga thấy dễ ăn quá nên tiếp tục lặp lại và lần này cũng y như cũ, khoắng được một mẻ đem về. Nhà Trần sợ hãi gần như tê liệt. -Ngày nay người An Nam lại đem binh sang chiếm đất chúng tôi, cướp bóc nhân dân tôi. Vì thế thần xin bệ hạ giúp cho vũ khí, nhạc khí và nhạc sư để người An Nam thấy Chiêm Thành là phiên thuộc của bệ hạ mà không quấy nhiễu nữa. Chế Bồng Nga vu khống cho vua Minh nghe và tiếp tục chinh phạt lần thứ ba. Trần Duệ Tông nổi giận: -Lần này ta phải đánh một trận sạch không kình ngạc, đánh hai trận tan tác chim muông! Khống chế Chiêm Thành mãi mãi. Ông vua mới này anh hùng nhưng nóng máu, muốn dẹp yên một lần này cho xong chuyện luôn. Quân Trần 12 vạn người hùng hậu vượt biển tới cửa Thị Nại ở Quy Nhơn, nơi 400 năm sau Nguyễn Phúc Ánh huỷ diệt đoàn thuyền lừng danh của Tây Sơn. Mục Bà Ma giả đầu hàng, đến cấp báo: -Thưa hoàng thượng, Chế Bồng Nga đã bỏ chạy khỏi Đồ Bàn! Nay thành trống rỗng, đánh gấp ắt lấy được. Duệ Tông cười: -Nó sợ ta đây mà, chuẩn bị chiếm thủ đô Đồ Bàn. Đại tướng Đỗ Lễ can: -Nó hàng là vì muốn bảo toàn đất nước. Quân ta đi vào sâu để đánh phá thành là việc bất đắc dĩ, vậy xin hãy sai một người mang thư đến hỏi tội để xem thật giả ra sao, cũng như kế của Hàn Tín phá nước Yên thuở xưa, không phải khó nhọc mà vẫn thành công. Cổ nhân nói lòng giặc khó lường, thần xin bệ hạ hãy xét kĩ lại. Duệ Tông gắt: -Ta mình mặc giáp, tay cầm gươm, dãi gió dầm mưa, lội sông trèo núi, vào sâu trong đất giặc, không một người nào dám chống lại thì đó là trời giúp. Huống chi nay vua giặc nghe tiếng bỏ trốn, không có lòng đánh lại. Cổ nhân nói "Dụng binh quý ở nhanh chóng". Nay lại dùng dằng không tiến nhanh, thế là trời cho mà không lấy, để nó lại có mưu khác thì hối không kịp! Đỗ Lễ cay đắng bỏ ra ngoài ngửa mặt lên trời than rằng: -Nhà Trần nguy mất. Duệ Tông bực mình liền phát áo đàn bà cho Đỗ Lễ mặc, rồi tiếp tục tiến binh. Vua mặc áo đen, cưỡi ngựa hắc bạch, tự mình xung phong dẫn tất cả vào Đồ Bàn. Kinh thành Chăm Pa yên ắng, tựa hồ một thành phố chết. Vua ngạc nhiên: -Chúng nó đâu cả rồi? Bỗng pháo lệnh nổ vang lên, từ bốn phương tám hướng phục binh đổ ra, cắt quân Trần thành từng đoạn như xâu cá. Máu phun đầy một bãi đất. Đội vệ vương đổ xô lại hộ giá, vua Duệ Tông hoảng hốt khi chiến sự đổi chiều. Chế Bồng Nga tay xách đại đao, mình mặc chiến phục sặc sỡ hăng hái xông lên. Duệ Tông rút gươm sẵn sàng nghênh chiến thì bỗng tuấn mã hí vang, lồng lên hất vua té lăn. Tướng Đỗ Lễ xoay tít cây thương rồi quát: -Bồng Nga dừng tay! Duệ Tông khóc to: -Thứ lỗi vì trẫm đã làm nhục ngươi trước ba quân. -Chuyện đó không quan trọng, hoàng thượng chạy khỏi thành Đồ Bàn đi, chạy mau, bên ngoài có quân của Quý Ly đấy! Đỗ Lễ gầm lớn rồi đâm mạnh cây thương, ác chiến cùng Chế Bồng Nga mười hiệp không phân thắng bại. Quân Trần bấy giờ hoàn toàn tan vỡ, không còn ra một đội hình nào cả. Bất ngờ hàng loạt mũi dao đâm xối xả vào lưng Lễ, quốc vương Chăm Pa chém mạnh thêm nhát nữa kết liễu người anh hùng. Duệ Tông được đội vệ vương mở đường máu cho chạy về cổng thành. Chế Bồng Nga nói lớn: -Chạy đâu cho thoát? Rồi ông rút cây cung quý trên vai ra, nheo mắt nhắm. Một, hai, ba, Bồng Nga lẩm nhẩm đếm rồi buông dây. Mũi tên vẽ thành một đường cầu vồng vọt lên không trung rồi xé gió lao vùn vụt xuống trong ánh nắng cuối ngày. -Hự! Ngạnh sắc đâm thẳng vào lưng vua Trần, xuyên từ trước ra sau xé toạc lá phổi. Duệ Tông gục xuống, mắt mở lớn, lệ chảy ướt má, phun ra một đấu máu, lát sau thì tắt thở. Kết cục bi thảm như Bàng Thống bị bắn chết ở đồi Lạc Phụng ngày xưa. Đội vệ vương cũng bị bao vây và không còn người nào sống sót. 12 vạn quân bị phục kích trong thành Đồ Bàn, chết hết 10 vạn người. Một bước ngoặt cực lớn cho nhà Trần và cả lịch sử Việt Nam. Hồ Quý Ly nghe tin dữ liền bỏ chạy, tuy nhiên được Trần Nghệ Tông xá tội cho. Lại nói Chu Nguyên Chương tuy đoạt được cả thiên hạ từ tay giáo chủ Minh giáo Trương Vô Kỵ nhưng vẫn muốn mở rộng thêm về phương nam nhân nước ta có đại tang. -Thấy em chết vì việc nước, anh lại lập con của em lên ngôi, xem nhân sự đối xử tốt với nhau như thế, thì đủ biết lòng trời hãy còn tựa nước người ta. Thái sư Lý Thiên Trường can ngăn nên Chu Nguyên Chương tạm gác việc đó lại. Chế Bồng Nga sau đại thắng Đồ Bàn thì không còn ngán Đại Việt một chút nào nữa. Lập tức bắc tiến lần thứ tư, Thăng Long thất thủ và mất sạch của cải. Tuy năm đó đi về gặp bão và đắm thuyền, nhưng ít ra họ Chế đã lấy lại toàn bộ đất cũ, thu thêm Nghệ An, và vàng ngọc đủ để tiến cống Minh triều năm đó. Lần thứ năm bắc tiến, tiếp tục Bồng Nga vào được Thăng Long, lần này ông ta muốn sỉ nhục Đại Việt: -Quỳ xuống lạy rồi ta tha cho! Quan kinh doãn Lê Giốc cương quyết không quỳ và bị chém chết ngay. Bồng Nga lại được dịp tham quan "Hà Nội ba sáu phố phường", đồng thời không quên xin đểu thêm tiền bạc. Bị cướp quá nhiều lần khiến Trần Nghệ Tông cực kỳ stress, ông buộc phải sai người đem tiền bạc của mình vào núi Thiên Kiến và động Khả Lăng để giấu bớt. Lần thứ sáu bắc tiến, Chế Bồng Nga bị Hồ Quý Ly đẩy lui, nhưng vẫn giữ được các phần đất đã chiếm của Đại Việt. Quan quân nhà Trần vội vàng đem cất giấu bài vị và tượng thờ các tiên đế để phòng người Chăm phá lăng mộ trong những lần tấn công sau. Chế Bồng Nga đi Đại Việt như đi chợ, ra vào như chỗ không người, không cần visa passport gì cả, nên chuyện này sớm muộn cũng có thể xảy đến. Lần thứ bảy bắc tiến, Hồ Quý Ly giằng co với Chế Bồng Nga được tầm 20 ngày thì Bồng Nga bỏ đi. Quý Ly phấn khởi truy kích thì bất ngờ gặp phục binh, bị đánh cho tan tác ôm đầu máu bỏ chạy. Trần Nguyên Diệu đem quân ra đầu hàng. Trần Nghệ Tông khóc vì khiếp hãi: -Nguy to rồi! Ông vội vàng bỏ Thăng Long lại như mọi lần và như một thói quen. Riêng Trần Khát Chân vẫn bình tĩnh ở lại cự địch. Nếu thua lần này nữa là mất trắng, nhà Trần sẽ bị tiêu diệt hoàn toàn. Bồng Nga cùng 100 chiến thuyền hùng hậu tiến đến sông Luộc ở tỉnh Thái Bình bây giờ: -Nhà Trần tới đây là kết thúc. Bồng Nga cười và dùng bữa. Thế nhưng ông lập tức phun ra, quát: -Thằng nào nấu món này? Dở không chấp nhận được. Tên đầu bếp sợ hãi rúm người, Bồng Nga thét lôi ra đánh đòn. Toác da rách thịt, hắn khóc lóc đau đớn. Sau trận đòn thừa sống thiếu chết, tay đầu bếp bi phẫn. Đêm hôm đó hắn lẻn ra khỏi thuỷ trại Chăm Pa, rẽ thuyền nhỏ đến xin hàng quân Việt và yết kiến Trần Khát Chân. -Thuyền của Chế vương màu xanh lục, xin ông chớ nghi ngờ. -Nếu đúng là như thế thì ngươi phú quý vinh hoa cả đời hưởng không hết. Trần Khát Chân được chỉ điểm, sáng hôm sau khi Chế Bồng Nga kéo thuyền đến, lập tức ông tập trung toàn bộ hoả lực và bắn. Sau một loạt tiếng nổ long trời lở đất, con thuyền ngự nát bươm như tàu lá chuối. Chế Bồng Nga lảo đảo bước lên đầu thuyền, mình mẩy nhuộm máu, rồi ngã sấp xuống, chấm dứt cuộc đời bi tráng của vị vua giỏi nhất Chăm Pa từng có. Trần Nguyên Diệu cắt lấy đầu và trở về Đại Việt. Lại nói Nghệ Tông đang ngủ thì bị đánh thức, ông hét lên vì tưởng quân Chăm tới bắt. Trấn an mãi mới nguôi, thấy đầu Chế Bồng Nga thì cười toe toét: -Ta với Bồng Nga cầm cự đã lâu, ngày nay mới được gặp nhau, có khác gì Hán Cao Tổ thấy đầu Hạng Vũ, thiên hạ yên rồi! Tổng kết lại quá trình tiêu diệt Chăm Pa: 1. Lê Đại Hành san phẳng kinh đô Indrapura. 2. Lý Thánh Tông hạ Chế Ma Na, sáp nhập Quảng Bình và Quảng Trị. Sau đó Chiêm Thành chịu thần phục nhưng vẫn nhiều lần khởi binh đòi lại đất. 3. Trần Nhân Tông gả công chúa Huyền Trân cho Chế Mân và được tặng Huế. 4. Cha con Hồ Quý Ly chiếm lấy Đà Nẵng - Quảng Nam và Quảng Ngãi. 5. Lê Thánh Tông thân chinh hạ kinh đô Đồ Bàn, bắt vua Trà Toàn, lấy đất tới Phú Yên. 6. Nguyễn Phúc Tần tiến sâu vào Nam đến Nha Trang - Khánh Hoà. 7. Nguyễn Phúc Chu bắt vua Chiêm, chiếm đất Bình Thuận, lấy nốt Phan Rí, Phan Rang. Từ nay kể như nước Chiêm Thành bị xóa tên trên bản đồ. 8. Minh Mạng xoá sổ Thuận Thành Trấn, chấm dứt lịch sử Chăm Pa. "Ðây, những tháp gầy mòn vì mong đợiNhững đền xưa đổ nát dưới thời gianNhững sông vắng lê mình trong bóng tốiNhững tượng Chàm lở lói rỉ rên than Ðây, những cảnh ngàn sâu cây lả ngọnMuôn ma Hời sờ soạng dắt nhau điNhững rừng thẳm bóng chiều lan hỗn độnLừng hương đưa, rộn rã tiếng từ qui."        
0 Rating 3.5k+ views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On June 23, 2016
Ngô Viết Trọng Bất cứ quốc gia nào trên thế giới cũng được hình thành với một quá trình gần giống nhau. Bắt đầu là những bộ lạc nhỏ ở kề cận nhau, vì nhu cầu nào đó mà hợp lại với nhau hoặc thôn tính lẫn nhau. Dần dần các bộ lạc nhỏ yếu biến mất và các bộ lạc mạnh trở thành những tập thể xã hội lớn hơn gọi là “nước”. Các xã hội ngày xưa cứ thế mà diễn tiến như là một việc tất nhiên. Điển hình như nước Trung Hoa ngày nay là một tập hợp của hàng vạn nước nhỏ tạo nên! Xã hội Việt Nam cũng là một quần thể gồm nhiều dân tộc có tiếng nói, phong tục tập quán khác nhau hợp lại. Trong đó Việt tộc (người Kinh) chiếm đa số. Về lãnh thổ, Việt Nam là một dải đất hình chữ S nằm ven Biển Đông, chạy dài từ Ải Nam Quan đến mũi Cà Mâu. Để tạo dựng được một giang sơn như thế, Việt Nam không thể tránh khỏi việc phải thôn tính hoặc xâm lấn đất cát của một số nước láng giềng! Đó là công việc của người xưa đã phải làm để tồn tại.Trên dải đất hình chữ S Việt Nam hiện nay vẫn tồn tại nhiều chùa miếu, lăng mộ, đền tháp lâu đời của các dân tộc thiểu số nằm rải rác khắp nơi. Nổi bật là những dấu tích thành trì, những ngôi tháp cổ biểu tượng cho nền văn minh cổ của dân tộc Chiêm Thành ở miền Trung. Đặc biệt là khu Thánh địa Mỹ Sơn ở Quảng Nam đã được tổ chức quốc tế UNESCO chọn là một trong các di sản văn hóa thế giới.Khu Thánh địa Mỹ Sơn đã ghi lại dấu tích một thời vàng son của dân tộc Chiêm Thành. Thời Việt Nam còn nằm dưới ách Bắc thuộc, Chiêm Thành – tên cũ là Lâm Ấp rồi Hoàn Vương – đã nhiều phen gây bối rối cho Trung Hoa qua những vụ tranh chấp lãnh thổ, ngăn cản bước bành trướng của đế quốc to lớn này. Rất nhiều viên thứ sử, thái thú, huyện lệnh tàn ác của Trung Hoa đã mất đầu dưới tay người Chiêm. Người Chiêm cũng từng đánh vào các nước Mã Lai, Java, Chân Lạp, có lần còn đột kích luôn vào cả đảo Hải Nam để cướp ngựa nữa. Nói chung dân tộc Chiêm Thành đã có một quá khứ oanh liệt chẳng kém ai!Ngày nay thì người Chiêm đã trở thành thiểu số trong cộng đồng Việt Nam. Trong bài “Tìm Hiểu Cộng Đồng Người Chăm Tại Việt Nam”, Tiến sĩ Dân tộc học Nguyễn Văn Huy có đoạn viết:“Nhiều người sẽ hỏi dân số vương quốc Chiêm Thành xưa bây giờ ở đâu? Không lẽ họ đã bị tiêu diệt hết sao? Con số 100.000 người Chăm tại Bình Thuận và Châu Đốc có phản ánh đúng sự thật không?Câu trả lời là dân chúng gốc Chăm vẫn còn nguyên vẹn. Người Chăm đồng bằng không đi đâu cả, họ đã ở lại trên lãnh thổ cũ tại miền Trung và với thời gian đã trở thành công dân Việt Nam một cách trọn vẹn. Có thể nói không một người Việt Nam nào sống lâu đời tại miền Trung mà không mang ít nhiều dòng máu Champa trong người. Điều này cũng rất dễ khám phá, ít nhất là về hình dáng: da ngăm đen, vai ngang, mặt vuông, tóc dợn sóng, vòm mắt sâu, mắt bầu dục hai mí, mũi cao, môi dầy, miệng kín. Cũng không phải vô tình mà cách phát âm của người miền Trung khác hẳn phần còn lại của đất nước, với nhiều âm sắc thấp của người Champa. Đó là chưa kể những danh từ có nguồn gốc Champa. Cũng không phải tình cờ mà các điệu múa hát của người Chăm trở thành những điệu múa hát trong cung đình và ngoài dân gian thời Nguyễn. Nêu ra một vài trường hợp cụ thể trên để chứng minh một điều: dân cư vương quốc Champa cũ đã hội nhập hoàn toàn vào xã hội Việt Nam. Nhắc lại quá khứ của người Chăm cũng là nhắc lại quá khứ của cộng đồng người Việt tại miền Trung nói chung.”Lời nhận định của Tiến sĩ Nguyễn Văn Huy chắc không xa thực tế mấy. Những cuốn Việt sử xưa nhất đều có chép vụ tháng giêng năm Ất Tị (1365) quân Chiêm đã bắt hàng trăm thanh thiếu niên nam nữ của Đại Việt đang vui chơi Hội Xuân ở đất Bà Dương (Hóa Châu) đem về nước! Bắt về để làm gì? Nếu muốn giết đám trẻ đó, người Chiêm đủ khả năng để giết tại chỗ mà! Tiếp theo, mỗi lần Chế Bồng Nga sang đánh Đại Việt thắng trận lại bắt về không biết bao nhiêu thiếu nữ và đàn bà trẻ để làm gì nếu không phải là làm quà ban thưởng cho các quan quyền làm thê thiếp hay nô lệ? Tới năm Nhâm Ngọ (1402), nhà Hồ chiếm được xứ Động Chiêm và Cổ Lũy của Chiêm Thành, đưa lính tráng vào trước để khai khẩn đất đai tính chuyện ăn ở lâu dài. Thế nhưng năm sau, khi đưa vợ con những người này vào để đoàn tụ gia đình bằng thủy lộ, không may lại gặp bão đánh chìm thuyền bè, hầu hết số người này đều bị chết đuối. Vậy, những người lính làm di dân không may ấy sẽ tìm vợ ở đâu nếu không phải là những đàn bà Chiêm Thành? Tới thời Trịnh Nguyễn phân tranh, các chúa Nguyễn còn đưa bao nhiêu đợt tù binh bắt được của họ Trịnh vào khai khẩn đất Chiêm Thành nữa, họ cũng phải lập gia đình chứ? Nhưng họ dễ gì kiếm được đàn bà Đại Việt khi đang ở trên đất Chiêm!Thực tế như ở Thừa Thiên – Huế, chỉ điểm sơ ở các làng Vân Thê (xã Thủy Thanh), La Vân (La Chữ), An Mỹ (Thế Lại Thượng) đã có nhiều cư dân mang họ Chế. Hỏi dân địa phương họ ước tính người họ Chế trong ba làng đó đã lên tới vài ngàn người. Đó là chưa nói đến các họ khác mà vua Minh Mạng đã ban cho những người Chiêm trên toàn quốc: Bá, Đàng, Hứa, Lưu, Hán, Lộ, Mã, Châu, Ngụy, Từ, Tạ, Thiên, Ức v.v…Đến đây thiết tưởng cũng nên nói sơ về vấn đề “Họ” của người Chiêm một chút:Ngày xưa người Chiêm chưa có họ. Những người đã đạt được một địa vị quan trọng trong xã hội thường tự chọn tên một vị thần, một vị thánh, một vị vua danh tiếng, một đấng anh hùng mình tôn sùng ghép vào tên mình để tăng thêm vẻ tôn quí. Như chữ “Chế”, chữ “Trà” đứng trước tên người mang ý nghĩa như một biểu tượng về một tước vị, một giai cấp cao sang hoặc để “thiên mệnh hóa” cái địa vị đương thời của người ấy. Sau này một số người Chiêm đầu hàng các vua Việt mới được các vị vua ấy ban “họ chính thức” theo ý nghĩa Việt Nam.Đến đời vua Minh Mạng thì nước Chiêm bị sát nhập hẳn vào Việt Nam. Vua Minh Mạng đã bắt buộc những người Chiêm chưa có họ đều phải nhận cho mình một họ trong danh sách các họ do vua chỉ định để triều đình tiện việc thống kê hộ tịch.Ngày nay dân tộc Chiêm đã trở thành một bộ phận không thể tách rời của cộng đồng Việt Nam, lãnh thổ cũ của Chiêm Thành cũng đã trở thành một phần lãnh thổ Việt Nam. Vậy ta có thể coi lịch sử Chiêm Thành như một phần của lịch sử Việt Nam không? Sao lại không được nhỉ? Làm sao phủ nhận được sự liên can lịch sử của triều đại Chế Bồng Nga nước Chiêm Thành với lịch sử thời Trần mạt của Đại Việt? Người viết nghĩ cộng đồng Việt Nam cũng có thể hãnh diện với lòng chung thủy, dám hi sinh mạng sống của mình để giữ tròn trinh tiết với chồng của một vương phi Mỵ Ê, hãnh diện với những công trình văn hóa mà dân tộc Chiêm đã để lại cho đất nước Việt Nam lắm chứ!Còn nữa, nói tới dân tộc Chiêm mà quên nói tới vị vua anh hùng Chế Bồng Nga là một điều thiếu sót! Đó là một vị anh hùng đúng nghĩa, anh hùng chính hiệu!Sở dĩ người viết phải nhấn mạnh điểm anh hùng đúng nghĩa, anh hùng chính hiệu vì ngày nay người ta hay lạm dụng danh hiệu anh hùng quá đáng như anh hùng diệt tăng, anh hùng sản xuất phân xanh, anh hùng lao động v.v…! Danh hiệu này được dùng như một phần thưởng để ban phát một cách vô tội vạ! Điều mỉa mai là vẫn có lắm kẻ mê say nó đến quên mạng! Người viết còn nhớ hồi ở tù cải tạo, có một số bạn tù đói thắt ruột nhưng khi ra lao động vẫn cố gắng cuốc đất tối đa để cuối tuần được bầu làm “anh hùng lao động”! Lạm dụng đến nỗi có người phải than ngày nay là thời đại “ra ngõ gặp anh hùng”!Vậy, phải như thế nào mới xứng đáng là anh hùng chính hiệu?Theo nghĩa nguyên gốc thì anh là vua loài hoa, hùng là vua loài thú. Ngay chữ “anh” đã tự nó xác định cái ý nghĩa đẹp đẽ, thơm tho, tinh khiết của chính nó! Chữ “hùng” thì mang ý nghĩa sức mạnh, khả năng, lòng quả cảm, sự khôn khéo, sự chiến thắng…Hai chữ này đi chung với nhau nó trở thành tiếng kép để chỉ hạng người vượt trội những người khác về mặt tài năng hay đức độ, tạo nên được những thành tích phi thường có lợi cho nhân quần xã hội, ít nhất họ cũng để lại được một tấm gương sáng đẹp cho người đời soi chung.Từ ngữ anh hùng thường chỉ dùng giới hạn trong phạm vi một dân tộc, một đất nước, một liên bang thôi. Không nghe ai nói tới anh hùng quốc tế bao giờ! Để được gọi là anh hùng chính hiệu, nhân vật đó phải được dư luận quốc dân gạn lọc qua một thời gian dài mới định được!Trong bộ sách “Tam Quốc Chí” của văn hào La Quán Trung, ở hồi thứ 21, có đoạn Tào Tháo uống rượu luận anh hùng với Lưu Bị nghe rất lý thú, xin lược lại như sau:Trong khi uống rượu, Tào Tháo hỏi Lưu Bị có biết anh hùng trong thiên hạ đời nay là ai không? Lưu Bị đã nêu lên một số người đang có danh vọng, đang cát cứ một phần lãnh thổ của nước Trung Hoa đương thời, nhưng tất cả đều bị Tào Tháo bác đi. Tào Tháo cho Viên Thuật là nắm xương khô trong mả, Viên Thiệu thì mặt bạo mà gan non, thấy của thì quên mệnh, Lưu Biểu chỉ có hư danh mà không có thực tài, Tôn Sách thì dựa vào uy danh của cha, Lưu Chương là chó giữ nhà, Trương Tú, Trương Lỗ, Hàn Toại… là đám tiểu nhân lúc nhúc không đáng đếm xỉa. Tiếp đó Tào Tháo dõng dạc nói: “Người anh hùng ấy à? Anh hùng phải là người nuôi chí lớn trong tim óc, lại phải có mưu cao kế giỏi, có tài bao tàng cả máy Vũ Trụ trong lòng, có chí nuốt Trời mửa Đất, ấy mới đáng mặt anh hùng chứ!”. Lưu Bị hỏi lại: “Ai là người đáng mặt như thế?”. Tào Tháo không còn úp mở nữa, chỉ thẳng vào Lưu Bị rồi lại chỉ vào mình mà nói: “Anh hùng trong thiên hạ đời nay chỉ có sứ quân và Tháo!”. Lưu Bị nghe rụng rời cả chân tay, đôi đũa ông đang cầm cũng rơi xuống đất…Theo cách luận này thì muốn làm anh hùng quả thật là khó!Mạc Đăng Dung là một tướng có tài, khi triều Lê suy yếu, loạn lạc khắp nơi, ông ra công đánh Nam dẹp Bắc rồi cướp ngôi nhà Lê dựng nên triều nhà Mạc. Công nghiệp như thế nhưng chưa thấy sử sách nào khen ông ta là anh hùng cả! Vì sao? Vì Mạc Đăng Dung chỉ có “hùng” mà không có “anh”! Vì ông đã cam tâm dâng hiến một phần lãnh thổ của Đại Việt cho Trung Hoa để cầu chước bảo vệ ngai vàng, phản lại quyền lợi của dân tộc!Nguyễn Thân, một đại thần triều Nguyễn thời Pháp thuộc là người nhiều mưu lắm kế, giúp Pháp dẹp được rất nhiều cuộc khởi nghĩa, nhất là diệt được phong trào Văn Thân của Phan Đình Phùng. Ông là một vị tướng bách chiến bách thắng, đã được chính phủ Pháp tặng Bắc Đẩu bội tinh đệ ngũ hạng rồi Bắc Đẩu bội tinh đệ tứ hạng. Với triều Nguyễn, ông được phong Cần chính điện Đại học sĩ, Túc liệt tướng Diên Lộc quận công. Bước đường công danh như vậy là đã tột đỉnh. Thế nhưng cuối cùng ông chỉ để lại trong lòng người dân Việt vỏn vẹn cái danh hiệu “Việt gian”! Vì ông cũng chỉ có “hùng” mà không hề có “anh”, cam tâm làm tay sai cho ngoại bang, giết hại những người dân tranh đấu cho quyền lợi dân tộc!Ngược lại, các nhân vật như Triệu Thị Trinh, Trần Bình Trọng, Đặng Dung, Phan Đình Phùng, Đề Thám, Trương Định, Nguyễn Thái Học v.v… là những người không chịu khuất phục trước bọn giặc cướp nước, quyết kháng chiến tới cùng, dù thất bại họ vẫn được quốc dân nhớ ơn thờ kính, xưng tụng là những bậc anh hùng. Tên tuổi họ ngàn năm vẫn sáng ngời trong sử sách!Trở lại chuyện vua Chế Bồng Nga: Khi ông lên ngôi vua thì nước Chiêm vừa trải qua một trận dịch hạch khủng khiếp. Ông vừa lo việc hàn gắn vết thương cũ vừa lo việc phát triển quân đội để tái chiếm những vùng đất cũ của Chiêm Thành đã bị Đại Việt xâm chiếm. Trong bước đầu ông đã thành công rất vẻ vang. Nhờ mưu trí tuyệt vời, quân đội hùng mạnh, ông đã chiến thắng Đại Việt nhiều trận oanh liệt. Nhưng ông không hề nuôi ý định thôn tính Đại Việt. Ông đã sáng suốt nhận ra được những mối nguy sẽ xảy đến nếu Chiêm Thành thôn tính Đại Việt: Thứ nhất, dân Đại Việt sẽ quật cường vùng dậy như nhiều lần trước họ đã làm với người Trung Hoa. Thứ hai, nếu Đại Việt không vùng dậy nổi thì Chiêm Thành sẽ thành ở sát cạnh Trung Hoa, chẳng khác chi con dê phải ở sát cạnh một con báo! Ông đã cố thực hiện một giải pháp khác giữ được an toàn cho nước Chiêm hơn. Ông chủ trương duy trì sự tồn tại của một nước Đại Việt để làm bình phong che chắn thế lực Trung Hoa! Dùng Trần Húc con vua Nghệ Tôn không thành, ông lại định dùng Trần Nguyên Diệu, con thứ vua Duệ Tôn làm con bài chủ cho giải pháp này! Nhưng mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên! Không ngờ cuộc đời của một vị vua anh hùng ngang dọc một thời lại bị kết thúc đau đớn chỉ vì một sơ suất nhỏ! Ông đã không thực hiện được ước nguyện. Nếu Chế Bồng Nga cẩn thận hơn một chút, không biết cục diện khu vực Đông Nam Á ngày nay sẽ ra thế nào! Phải chăng đó là sự dàn xếp của định mệnh?Người viết vốn thích đọc lịch sử nước nhà, đã từng gặp nhiều đoạn sử oái oăm. Đôi khi chỉ cần một sự rủi may nhỏ nhoi cũng đủ làm thay đổi cả một cục diện lớn. Khi đọc qua đoạn sử này người viết không thể không suy nghĩ băn khoăn. Rõ ràng nhân vật Chế Bồng Nga, về nhiều mặt không thể tách rời dòng sử Việt được. Vì thế nên người viết mạo muội gom góp một ít tài liệu viết nên thiên tiểu thuyết lịch sử Chế Bồng Nga: Anh hùng Chiêm quốc.Có một điều người viết xin thưa trước với quí độc giả: Tuy viết tiểu thuyết lịch sử chứ không phải khảo cứu lịch sử, nhưng người viết luôn chủ trương xây dựng tác phẩm của mình không đi quá xa nguồn chính sử! Tiếc rằng tài liệu về nhân vật Chế Bồng Nga trong chính sử quá hiếm và quá ngắn gọn. Về dã sử tuy có nhiều hơn nhưng thường rất mơ hồ, hoang đường nên sự gạn lọc khá khó khăn. Vì vậy, thiên tiểu thuyết lịch sử này có thể vấp nhiều lầm lỗi dễ gây sự hiểu biết sai lạc cho độc giả như nhà văn tiền bối Lan Khai từng vấp phải. Theo chính sử, nhân vật Đỗ Tử Bình là một viên quan tham lam, gian dối, sự gian dối của y đã tạo thành ngòi nổ cho trận chiến Việt – Chiêm năm 1377 mà kết quả là quân Việt đại bại, vua Trần Duệ Tôn bị giết. Thế mà trong tập tiểu thuyết lịch sử Chế Bồng Nga của nhà văn Lan Khai, nhân vật Đỗ Tử Bình lại được biến thành người giết được Chế Bồng Nga, là vị cứu tinh của nhà Trần! Thật sự người bắn hạ được Chế Bồng Nga chính là Đô tướng Trần Khát Chân, lúc đó Đỗ Tử Bình qua đời đã lâu.Hi vọng với sự tiến triển của ngành nghiên cứu sử học, trong tương lai người ta sẽ tìm thêm được những tài liệu lịch sử về nước Chiêm chính xác hơn. Mong quí độc giả ai thấy những thiếu sót trong tập sách này xin chỉ giáo cho. Người viết lúc nào cũng sẵn sàng lắng nghe và xét lại để bổ chính khi sách được tái bản.Sacramento, tháng 3 năm 2011Trân trọng kính chào quí độc giả! Sau khi quân Mông Cổ bị thất bại trong cuộc chiến tranh xâm lược hai nước Đại Việt và Chiêm Thành, hai dân tộc này đã trải qua một thời gian sống hòa bình, thân thiện bên nhau ngót hai mươi năm. Vua Đại Việt Trần Nhân Tôn cũng như vua Chiêm Chế Mân đều rất cảm kích lòng dũng cảm, ý chí bất khuất của nhau trước lũ giặc lớn Mông Cổ. Khi vua Nhân Tôn đã xuất gia, trong một lần vân du sang Chiêm Thành, ngài đã hứa gả người con gái út của ngài là Huyền Trân công chúa cho vua Chế Mân. Thế nhưng khi vua Chế Mân xin thực hiện lời hứa đó, triều đình Đại Việt lúc bấy giờ đã do vua Anh Tôn lãnh đạo lại dùng dằng không muốn chịu. Bất đắc dĩ vua Chế Mân phải dâng hai châu Ô và Rí cho Đại Việt để làm sính lễ. Việc này đã làm cả triều đình lẫn dân chúng nước Chiêm bất mãn.Năm Bính Ngọ*, Huyền Trân công chúa được vua Chế Mân phong làm hoàng hậu. Nhưng cuộc tình duyên này không được lâu dài. Vua Chế Mân sống với Huyền Trân công chúa chưa được một năm thì mất. Hoàng tộc Chiêm Thành tôn hoàng tử trưởng Chế Chí lên kế vị vua cha.Vua Anh Tôn thương em, sợ Huyền Trân sẽ bị hỏa thiêu với chồng theo tục lệ Chiêm Thành – vua mất thì các hậu, phi của vua cũng phải hỏa thiêu theo vua(?) nên sai Đại hành khiển Trần Khắc Chung lập mưu cướp bà đem về Đại Việt.Vụ cướp lại công chúa đã làm người Chiêm càng thêm bất bình. Vua Chế Chí quá tức giận, đã tìm cách chiếm lại hai châu đất cũ. Thế là tình hình giao thiệp giữa hai nước bấy giờ càng ngày càng trở nên căng thẳng. Năm Nhâm Tý*, vua Anh Tôn thân hành đem quân đánh Chiêm Thành. Vua Chế Chí thấy quân Trần quá mạnh, có ý muốn đầu hàng. Ngặt nỗi quân dân Chiêm vì quá phẫn uất, thúc ép ông phải kháng cự. Kết quả vua Chế Chí đã bị bắt sống. Vua Anh Tôn bèn hội các quan ở Đồ Bàn để bàn định việc cai trị nước Chiêm. Vua hỏi:-Nay vua Chiêm đã bị bắt, quân Chiêm đã tan rã, ta có nên nhân dịp này đặt quan lại để cai trị nước Chiêm không?Thiên tử chiêu dụ sứ Đoàn Nhữ Hài thưa:-Đánh bại quân đội một nước có thể dễ nhưng cai trị một nước thì rất khó! Muốn cai trị nước Chiêm không phải bệ hạ chỉ để lại một số quan lại là đủ! Tuy rằng có thể tuyển mộ những binh lính tại địa phương nhưng làm sao tin tưởng chúng được? Còn nếu để lại nhiều binh lính của ta thì rất bất tiện: nào giải quyết vấn đề lương thực, vấn đề tình cảm gia đình, làm sao cho lớp binh lính xa nhà ấy được yên tâm để phục vụ? Chưa hết, nếu lỡ quân Bắc lại sang xâm lấn, lực lượng ta đã bị xé mỏng, bấy giờ tính sao? Theo thiển ý của thần, bệ hạ nên lựa chọn một người nào đó trong hoàng tộc nước Chiêm, phong cho y làm chúa rồi bắt y triều cống hàng năm thì vẫn lợi hơn là cai trị nước Chiêm để rồi gánh thêm bao nhiêu mối lo âu, xin bệ hạ xét định!Các quan đều tán thành ý kiến ấy. Vua Anh Tôn nghe lời, phong cho người em Chế Chí là Chế Đà A Bà Niêm làm Á hầu để cai quản nước Chiêm, lấy hiệu là Chế Năng. Ổn định tình hình nước Chiêm xong, vua Anh Tôn cho rút quân về nước.Nhưng Chiêm Thành thần phục Đại Việt chưa bao lâu lại trở chứng. Do tinh thần phẫn nộ của dân Chiêm về mối hận Ô Rí thúc đẩy, Chế Năng lại bước theo con đường Chế Chí đã đi. Năm Mậu Ngọ* Chế Năng kéo quân xâm phạm hai châu Ô và Rí. Lúc bấy giờ ở Đại Việt vua Trần Minh Tôn đã lên thay vua Anh Tôn, ông cử Huệ Vũ vương Trần Quốc Chẩn đem quân chinh phạt Chiêm Thành. Trước khi xuất quân, vua Minh Tôn nói với Huệ Vũ:-Với uy vũ của thúc phụ, chuyến đi này nhất định phải thành công. Tuy thế, trẫm chưa biết phải xử trí thế nào khi đã chiến thắng. Thúc phụ có cao kiến gì không?Huệ Vũ đáp:-Trước đây Thượng hoàng đã chinh phạt Chiêm Thành, bắt được vua Chiêm. Thượng hoàng có hỏi ý các quan có nên chiếm đất Chiêm không, các quan đều bàn chưa nên. Lý do là sợ phải xé mỏng lực lượng của ta trong khi mối đe dọa của phương Bắc vẫn còn đó. Thượng hoàng bèn lựa một người trong hoàng tộc Chiêm phong làm chúa để y cai quản lấy nước Chiêm, buộc hàng năm triều cống Đại Việt. Lần phạt Chiêm này cũng chẳng xa cách lần trước mấy, tình hình cũng chẳng khác nhau, tôi nghĩ ta cũng nên bắt chước kế hoạch của Thượng hoàng là hơn!Vua Minh Tôn nói:-Nếu thúc phụ cũng có ý ấy, xin thúc phụ cứ tùy tiện!Huệ Vũ bèn cử Hiếu Túc hầu Lý Tất Kiến đi tiên phong. Trong trận đụng độ đầu tiên, quân Chiêm đã kháng cự rất mãnh liệt. Quân Đại Việt thua lớn, Hiếu Túc hầu Lý Tất Kiến bị tử trận. May có Điện súy Phạm Ngũ Lão tiếp ứng kịp thời quân Đại Việt mới chuyển bại thành thắng. Quân Chiêm lại tan tác chạy. Huệ Vũ thừa thế tiến thẳng vào tới Đồ Bàn. Chế Năng hoảng sợ phải dẫn cả hoàng gia chạy sang nương náu ở Java là quê mẹ của ông ta. Triều đình Chiêm Thành như rắn mất đầu, các quan lại, các lãnh chúa người đầu hàng, kẻ chạy trốn hết.Chiếm xong Đồ Bàn, Huệ Vũ bèn cho yết bảng phủ dụ chiêu an dân Chiêm. Ông kêu gọi ai làm công việc gì nay trở về với công việc nấy. Ông cũng ra lệnh cấm tuyệt quan quân Đại Việt quấy nhiễu dân Chiêm. Ai phạm tội nặng như giết người, hiếp dâm đều bị xử chém. Tội vừa như cướp bóc, trộm cắp thì phải chịu đánh đòn, trường hợp nghiêm trọng có thể bị tước quân tịch và bắt làm nô lệ. Nhờ lệnh đó, dân Chiêm có phần yên lòng, dần trở lại làm ăn như cũ.Một hôm Huệ Vũ cho đòi tất cả các quan chức lớn nhỏ cũ của nước Chiêm đã đầu hàng tập trung tại nhà hội Vĩnh Xương trong thành Đồ Bàn rồi tuyên bố:-Trước đây Trần đế đã đánh bại Chế Chí, đáng lẽ ngài đã sát nhập nước Chiêm vào lãnh thổ Đại Việt! Thế nhưng vì lòng nhân ái, ngài đã phong Chế Năng làm Á hầu để cùng các ngươi cai quản nước Chiêm! Không hiểu sao Chế Năng và các ngươi lại ôm lòng phản trắc, gây hấn tạo tình trạng bất an cho dân cả hai nước. Trần triều bất đắc dĩ lại phải ra tay trừng phạt. Nay nước Chiêm thêm một lần nữa coi như đã mất! Với quyền lực trong tay, ta sẽ đặt các quan Đại Việt cai trị dân Chiêm! Còn các ngươi, ta có thể giam vào ngục thất hoặc đày ải làm nô lệ suốt đời cho biết thân, các ngươi nghĩ thế nào?Nghe Huệ Vũ hỏi thế, các quan chức Chiêm Thành đều lộ rõ nét mặt buồn bã lo âu nhưng chẳng ai dám hé môi. Huệ Vũ nhìn khắp bọn họ một lượt rồi nói tiếp:-Ta nói như thế có phải không? Tại sao triều đình Đại Việt đã dung dưỡng các ngươi, trả quyền chức cho các ngươi, cho các ngươi tự cai trị lấy nhau, thế mà các ngươi lại a tòng với kẻ phản bội chống lại Trần triều như các ngươi đã hành động vừa rồi? Tại sao các ngươi không biết khuyên Chế Năng bỏ cái thói ăn cháo đá bát ấy? Một người khuyên y có thể không nghe nhưng nhiều người khuyên lẽ nào y lại chẳng nghe? Cũng bởi các ngươi không tốt nên y mới dễ dàng thuyết phục cùng nhau làm cái việc vong ân bội nghĩa ấy! Kinh nghiệm xương máu đã rành rành trước mắt, Đại Việt ta đâu còn dám để các ngươi tự trị? Chính các ngươi đã tự đưa dân tộc các ngươi đến chỗ diệt vong! Các ngươi còn có lời gì để nói nữa không?Không khí im lặng ngột ngạt bao trùm cả sân hội. Đám cựu quan chức Chiêm Thành hầu hết gục mặt âu sầu tuyệt vọng. Bỗng một cụ già khoảng ngoài bảy mươi lấy can đảm đứng dậy tiến lên quì lạy Huệ Vũ rồi nói với giọng tha thiết:-Bẩm Đại vương, chúng tôi đã lỡ dại phạm tội với thiên triều! Cúi xin thượng quốc mở lượng hải hà bỏ qua lỗi lầm cho lũ mán mọi lạc hậu này! Nếu Đại vương cho nước Chiêm chúng tôi được tự trị một lần nữa, dân Chiêm chúng tôi xin thề chẳng bao giờ còn dám phản bội! Nếu chúng tôi còn phạm lời thề xin trời tru đất diệt!Nghe vị cựu quan già làm thế, nhiều người khác cũng bắt chước nhau cúi lạy Huệ Vũ:-Cúi xin Đại vương mở lượng hải hà tha thứ cho dân Chiêm chúng tôi một lần nữa! Chúng tôi sẽ tuân phục thờ kính thiên triều như thờ cha mẹ, chẳng bao giờ còn dám ăn ở hai lòng!Huệ Vũ đợi đám cựu quan chức Chiêm Thành van lạy một hồi rồi mới hỏi:-Có chắc các ngươi thề không bao giờ còn phản bội thiên triều nữa không?Một thoáng hi vọng lóe lên, đám cựu quan chức Chiêm Thành đồng loạt hô lớn:-Chúng tôi xin thề! Chúng tôi xin thề! Kẻ nào sai lời xin trời tru đất diệt!Huệ Vũ lại nhìn khắp đám người Chiêm sa cơ thất thế một lượt rồi tiếp:-Thề với trời đất không phải là chuyện chơi đâu! Khi được phong tước Á hầu để cai quản dân Chiêm, Chế Năng đã long trọng thề sẽ tuyệt đối trung thành với thiên triều, thế nhưng rồi y lại phản bội lời thề! Kết quả y đã làm được cái gì? Chỉ thấy cảnh xương tan máu đổ giáng lên đầu dân Chiêm! Chính bản thân Chế Năng đã trở thành kẻ vong gia thất thổ khốn đốn ở quê người! Các ngươi phải nhớ bài học đó! May là thiên tử lòng nhân bao la nên cử ta đánh dẹp! Nếu việc này giao cho một tướng khác, chưa chắc các ngươi còn được yên lành như hôm nay! Thấy các nguơi đã biết hối hận về sự phản bội của mình ta cũng động lòng. Ta biết các ngươi chỉ vì ngây ngô dại dột nên bị Chế Năng dụ dỗ hoặc ép buộc phải làm việc quấy thôi! Vốn tình thiên tử thương dân Chiêm chẳng khác gì dân Đại Việt! Ngài đâu muốn để dân Chiêm phải buồn khổ, đau lòng! Khi ta xuất chinh, ngài đã cho phép ta được quyền tùy tình hình mà giải quyết. Để thể hiện lượng khoan hồng của thiên tử, ta sẽ cho nước Chiêm được tự trị một lần nữa, các ngươi nghĩ thế nào?Đám dân Chiêm đang âu sầu ủ rũ như vừa chợt tỉnh ngủ, họ ngơ ngác nhìn nhau như dò hỏi. Nhưng cũng chẳng có một ai lên tiếng. Huệ Vũ lại tiếp:-Quân bất hí ngôn, ta thay mặt thiên tử cho dựng lại nước Chiêm thật đấy! Triều đình Đại Việt muốn có một nước Chiêm mới mẻ biết sống thuận hòa với Đại Việt để dân chúng hai nước cùng được yên ổn làm ăn. Một nước Chiêm mới cần phải có một triều đình mới để cai trị muôn dân. Nhưng muốn có một triều đình vững mạnh phải kết hợp được thật nhiều nhân tài. Các ngươi tất biết rõ những ai hiện ở trong nước đáng mặt nhân tài. Các ngươi hãy thăm dò, vận động, tiến cử những người có tài có đức ấy đứng ra giúp nước. Nước Chiêm có lập lại được hay không là do chính các ngươi! Ta hứa khi nước Chiêm đã được tái lập quân Đại Việt sẽ rút về nước!Nghe đến đây quan dân Chiêm đồng loạt reo vui:-Đội ơn Thánh hoàng! Đội ơn Đại vương! Thánh hoàng vạn tuế, vạn vạn tuế!Huệ Vũ nở một nụ cười tươi tắn:-Đã đồng lòng như vậy, các ngươi phải gắng làm tròn bổn phận của mình! Ta sẽ tiếp tay cho các ngươi!Lúc bấy giờ có viên tù trưởng tên Hiệu cai quản vùng Nghĩa Sơn nổi tiếng là một tay anh kiệt ít người sánh kịp. Trước đây Hiệu đã cùng con là Thủ (Patalsor) từng làm tướng chỉ huy quân Chiêm đánh nhau với quân Đại Việt nhiều trận. Khi Chế Năng chạy trốn sang Java thì cha con Hiệu dẫn một số thuộc hạ ẩn thân vào chốn rừng núi để mưu đồ việc phục quốc. Nay nghe tin vua Trần cho tái lập nước Chiêm, Thủ bàn với cha:-Thưa cha, nay có tin Đại Việt cho gây dựng lại nước Chiêm, không biết có đúng không? Nghe nói họ đang kêu gọi nhân tài nước Chiêm ra lập triều đình mới, cha nghĩ mình có nên tham gia không?Tù trưởng Hiệu nói:-Tin ấy đã được thông báo nhiều nơi, tức là có thật. Chắc là họ sợ người Trung Hoa đánh vào phía Bắc nên muốn r&ua
0 Rating 640 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On April 5, 2016
Đến nay, những dòng chữ cổ được khắc trên vách đá, ghềnh thác ở thượng nguồn dòng A Vương, sát biên giới Việt - Lào, thuộc xã Lăng, huyện Tây Giang, Quảng Nam (ảnh) vẫn còn là “ẩn ngữ” đối với giới chuyên môn. Minh văn này từng được lính Pháp phát hiện, ghi chép từ năm 1938 và được chính quyền Tây Giang “phát hiện lại” từ 2010. Nhưng rất tiếc, chưa có công trình nghiên cứu, bảo vệ. Di chỉ độc đáo này đang đứng trước nguy cơ biến mất... Ẩn ngữ ở vùng biên “Nương” theo lời giới thiệu đầy vẻ thần bí của ông Bh’riu Liếc - Bí thư Huyện ủy Tây Giang, về những dòng chữ lạ, khắc trên ghềnh đá, vách núi giữa rừng núi Trường Sơn, chúng tôi ngược dòng A Vương để đến làng Achia, xã Lăng, “sờ” vào huyền thoại. Mưa chiều biên giới như trút nước, lũ dòng sông Len (chảy qua xã Lăng), chi lưu nguồn A Vương dâng đột ngột, bùn đất đục ngầu, nên phải chờ đến ngày hôm sau chúng tôi mới đến được. Cây rựa trên tay Bh’riu Clói liên tục chém bụi rậm tìm lối. Người dẫn đường vừa đi, vừa kể: “Tôi nghe ông nội kể lại, quan Pháp ở đồn Samo, sát biên giới với Lào, khi phát hiện những dòng chữ cổ này đã nhờ ông và dân làng chặt cây rừng, làm thang, bè gỗ, trèo lên vách đá, bôi đá vôi lên chữ để chụp lại ảnh. Họ ở lại Achia nhiều ngày, nhưng dân làng không biết tiếng, chỉ làm theo hướng dẫn, kể cả khi giúp họ thức ăn”. Vách đá có chữ cổ, lạ mà ông Bh’riu Clói kể phải bắc thang, giờ chỉ ngang đầu gối, bởi đất đá đã bồi lấp cả trăm năm rồi. Dòng chữ trên ghềnh đã nằm sâu trong lòng suối. Trên vách đá vôi sát bìa rừng giờ chỉ còn thấy được 3 - 5 dòng chữ, mờ nhạt bởi thời gian. Với thực trạng sa bồi đang diễn ra, di chỉ này sẽ mất tích trong vài năm tới. Trưởng phòng VHTTDL huyện Tây Giang - Nguyễn Chí Toàn, cho biết, từ 2010, chính quyền huyện “phát hiện lại” di chỉ này. Từ đó, đã mời nhiều nhà nghiên cứu, bảo tàng, nhà dân tộc học... đến khảo sát, in mẫu chữ nhờ diễn dịch, nhưng đến nay chưa giải mã được. Cũng giống như việc phát hiện trống đồng cổ ở đây, minh văn trên đá ở Achia vẫn còn là mật ngữ của cổ nhân, chưa có lý giải nào.   Cần bảo vệ trước khi quá muộn! Nhà nghiên cứu Nguyễn Thượng Hỷ - nguyên cán bộ Trung tâm Bảo tồn di tích, di sản Quảng Nam, người từng lặn lội đến đây, dùng giấy dó, mực xạ để rập phiên bản cổ ngữ này cho biết: Có 3 bản khắc trên đá tự nhiên, dạng chữ Chăm, nhưng chúng tôi không diễn dịch được nên in phiên bản về để tiếp tục nghiên cứu. Tôi đã gửi đến Bảo tàng Chăm, nhờ chuyên gia về cổ ngữ nước ngoài giúp. Tình cờ phát hiện Tiến sĩ Daoruang Wittayarait (Trường thực hành cao cấp Pháp) đã từng có bài viết về minh văn khắc đá này, đăng trên tờ Lettre de la Société des Amis du Champa Ancien năm 2004. Theo tiến sĩ Wittayarait, ông có tư liệu này từ con gái của J.Le Pichon - một vị quan ba, thanh tra đội quân ở An Nam, từng đồn trú ở hai huyện Hiên và Giằng, Quảng Nam, thời thuộc Pháp, đã chụp ảnh và ghi chép. (J.Le Pichon có rất nhiều ghi chép, hình ảnh nghiên cứu có giá trị về văn hóa Cơtu). Ghi chép của quan ba J.Le Pichon ghi rõ, đã phát hiện minh văn này từ tháng 3 - 4.1938, gần đồn Samo. Ông đã thuê lính bản địa làm giàn giáo, bôi vôi trắng để rõ chữ rồi chụp lại ảnh. Từ tư liệu này, các chuyên gia cổ ngữ đã cho rằng đây là thổ ngữ Môn-Khơme. Họ đã so sánh với các mẫu chữ trên những bia đá cổ từng phát hiện sớm ở vùng Chiêm Sơn, huyện Duy Xuyên, Quảng Nam và bia Vat Luong Kao (Nam Lào) mà đoán định cổ ngữ xếp vào niên đại thế kỷ thứ VI, thứ VII. Ghi chép của J. Le Pichon, từ năm 1938 ông đã trao đổi với linh mục Cadière, xác nhận đây là ngôn ngữ của người Chăm cổ. Tiến sĩ người Pháp này cũng đã “đọc” được nhiều từ liên quan đến đồ hiến tế như châu báu, ngọc trai, trâu, nghĩa từ thần thánh... Theo chuyên gia về người Cơtu - Nguyễn Tri Hùng (Ban Dân tộc tỉnh Quảng Nam), người Cơtu xưa là một láng giềng thân thiện với người Chăm. Từng có câu chuyện “Con đường muối” mà gần đây các nhà nghiên cứu đang tìm hiểu về việc giao thương, trao đổi của vùng đồng bằng với miền núi ở miền Trung Việt Nam, Lào, Thái Lan. Nhưng văn khắc này bước đầu chỉ là đoán định, còn là ẩn ngữ phải tiếp tục giải mã. Trước mắt, chính quyền, ngành văn hóa Quảng Nam cần phải có biện pháp bảo vệ để di chỉ văn hóa thuộc dạng hiếm quý này trước nguy cơ có thể biến mất bởi sa bồi, vì sự vô tình xâm hại của người dân. theo laodong.com.vn
0 Rating 449 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On February 10, 2016
P/s: Ảnh internet.   Góc nhìn văn học: PO RIYAK VÀ TÌNH YÊU DÂN TỘC (Quê hương)  Văn học dân gian Chăm là một mảng đề tài lớn. Hiện nay về mặt nội dung, nó được nghiên cứu và sưu tầm từ những văn bản chép tay, hoặc qua lời kể của các cụ già người Chăm. Nhưng về mặt ý nghĩa nội dung từng văn bản chưa được khai thác triệt để.  Tuổi thơ, tôi lớn lên bên cạnh ông bà, được nghe kể nhiều chuyện cổ Chăm. Ngoài ông bà, tôi còn may mắn tiếp xúc với các cụ như: Ong Giáo (Dương Tấn Thời), Thành Hoàng Long (Palei Pamblap lấy vợ Palei Baoh Dana),.. và những người bạn của ông từ các làng khác đến chơi. Mỗi lần trò chuyện họ thường kể lại các truyện cổ Chăm. Những câu chuyện huyền bí xưa thật sự lôi cuốn mình. Trong đó tôi ấn tượng nhất là "Damnay Po Rome". Giai thoại về Po Rome lấy vợ người KINH dẫn đến việc mất nước được trí thức Chăm thời đó bàn đến rất nhiều. Đặc biệt hơn, tôi nhớ rất rõ chi tiết cây Kraik (biểu tượng cây thần của vương quốc Champa), cuối truyện các cụ thường kể rằng, cây kraik hiện nay vẫn còn sống, gốc nó đang đâm chồi nảy lộc. Cây kraik huyền bí kia đã từng ám ảnh tôi một thời. Thưở ấy! Tôi cứ thắc mắc mãi, cây Kraik giờ ở đâu? Nó hình dạng như thế nào?  Đến bây giờ tôi mới thực sự hiểu, cây kraik không đâu xa xôi. Đó chính là dân tộc Chăm xưa và nay.( Giả thuyết về hình tượng cây kraik).  Tương tự với nội dung các câu chuyện huyền thoại Chăm. Po Riyak cũng được cộng đồng Chăm lưu truyền và kể lại cho con cháu. Đối với người đọc và người kể- nghe, chúng ta chỉ nắm bắt nội dung và cốt truyện về Po Riyak.  Po Riyak người am hiểu về truyền thống phong tục Chăm, sang nước Jawa học hỏi những kiến thức bên ngoài để trở về giúp đỡ nhân dân Champa. Trên đường về Ngài gặp phải tai nạn do lời nguyền của thầy. Ngài hóa linh hồn vào thân con cá voi, biến lại thân xác mới trở về quê hương (Phan Thiết). Đó là khái quát nội dụng của truyện. Vậy ý nghĩa về nội dung truyền thuyết Po Riyak nói lên điều gì? Phân tích từng chi tiết trong truyện ta thấy, Po Riyak một người am hiểu phong tục, truyền thống dân tộc, thế nhưng tinh thần hiếu học của Ngài không dừng lại ở đó, Ngài muốn vượt đại dương xa xôi đến đất khách quê người để tầm sư học đạo, học kiến thức của thế giới mong một ngày nào đó trở về giúp ích cho dân tộc, quê hương đất nước. Chi tiết thứ hai làm nổi bật tinh thần yêu dân tộc của Ngài, nhắc nhở con cháu đời sau phải ghi nhớ và noi theo. Khi người thầy dạy Po Riyak ngăn cấm, không cho Ngài trở về quê hương. Lúc nghe tin quê hương loạn lạc, dân chúng lầm than(Đại Việt xâm chiếm Champa), Ngài ăn không ngon, ngủ không yên. Dù biết việc trở về của mình sẽ gặp biết bao nguy hiểm, với lại Ngài phải mắc tội với người thầy đáng kính. Nhưng Ngài vẫn một mực kiên quyết trở về. Vì tình yêu dân tộc, yêu quê hương đất nước Ngài không còn con đường nào khác. Nếu như một người bình thường, ra đi vì danh vọng, vì cuộc sống của bản thân, thì sẽ không bao giờ có hành động hay quyết định nguy hiểm thế. Hà cớ chi Ngài không ở lại xứ người, hưởng vinh hoa phú quý và cuộc sống an nhàn hơn. Ngài ra đi vì dân tộc, và con đường Ngài chọn trở về cũng chỉ vì dân tộc thân yêu của mình. Một chỉ tiết nhỏ, mỗi lần đọc đến tôi thật sự cảm thấy xúc động. Po Riyak lén lút trở về, với hành động đầy ân nghĩa. Nếu nói rằng Po Riyak là một người ngang bướng không nghe lời thầy dạy bảo? Không! Ngài không ngang bướng, ngài luôn luôn tiếp thu những điều thầy dạy, một người học trò luôn luôn tôn kính thầy. Hành động tạ lễ "quỳ lạy". Giữa đêm khuya, Ngài đợi thầy chìm vào giấc ngủ, đến bàn tổ, nơi thầy nghỉ ngơi quỳ xuống lạy ba lạy để vĩnh biệt thầy trở về. Còn gì xúc động hơn với một người học trò có phẩm chất tốt đẹp ấy. Po Riyak đã dạy cho con cháu Chăm về tinh thần tôn sư trọng đạo mang tính nhân văn. Chúng ta có thể cảm nhận được hoàn cảnh của Po Riyak lúc này. "Một bên mang nặng nghĩa thầy, một bên xứ sở xéo gầy tim gan"(Sohaniim). Ngài phải trở về. Trên bạt ngàn sóng gió, nơi đại dương bao la, một lần bị thủy quái cướp đi sinh mạng, ngài đã biến hồn mình vào con cá Ông(cá voi), để mỗi lần người Chăm đi khơi gặp tai ương, con cá voi ấy lại ra tay cứu giúp. Còn sống ngài luôn luôn đau đáu về vận mệnh dân tộc, gặp phải tai ương Ngài vẫn còn nghĩ đến dân tộc. Còn gì  cao quý hơn, thiêng liêng hơn tinh thần ấy . Điều này càng làm nổi bật hơn tình yêu của Ngài đối với dân tộc, nhắc nhở con cháu đời đời biết ơn.  Qua truyền thuyết Po Riyak, ngoài việc dạy cho con cháu dân tộc Chăm(Champa) tình yêu dân tộc, yêu quê hương đất nước, nó còn nói lên truyền thống đạo lý uống nước nhớ nguồn. Đời đời nhớ ơn những người đã hy sinh vì dân tộc, vì quê hương Champa đổ nát. Đáng lý ra, những văn bản đó cần phải được truyền dạy lại cho thế hệ trẻ Chăm hôm nay. Nhưng tiếc thay, nó vẫn còn chìm trong mảng cổ, người đọc, người nghe ít đi. Tổ tiên dân tộc Chăm quả là người tiên đoán thần kỳ, biết rằng con cháu sau này sẽ không còn được truyền dạy trong trường lớp, lưu giữ những bài học cao quý về ngài, họ sợ nó mất đi, đành đem nó vào truyền dạy với hình thức "lễ tục". Mỗi khi đến dịp lễ tế Ngài ong Kadhar hoặc Maduen lại tụng ca ơn đức trên cho con cháu đời sau ghi nhớ. Hôm nay mấy ai còn nhớ? Dhar phuel Po Riyak. Sohaniim Japan 10/02. Nguồn: Facebook.com      
0 Rating 364 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On January 20, 2016
  Từ ngôn ngữ lạ của người Sơn Tây, Thạch Thất... nhiều nhà khoa học cho rằng, họ chính là người Chăm, bị nhà Trần bắt ra Bắc làm tù binh... Kiến giải lạ Trong quá trình tìm hiểu những bí ẩn đằng sau ngôn ngữ của người Sơn Tây, Thạch Thất, Ba Vì, Yên Sở... chúng tôi được các nhà khoa học kiến giải về nguồn gốc ngôn ngữ lạ lùng ở những nơi này. Trong số rất nhiều các suy luận và dẫn chứng, có một vấn đề được nhiều người thừa nhận, đó là vào thế kỷ XIV đã có một bộ phận người Chăm được nhà Trần áp giải từ phía Nam ra Bắc làm tù binh. Tuy nhiên, cốt lõi của các tranh luận là hiện bộ phận người Chăm này đang cư trú ở đâu? Họ chịu ảnh hưởng như thế nào trong mối giao lưu với người Việt để cho ra chất giọng lạ lùng như hiện nay. Ở góc độ nhân chủng học, PGS.TS Trình Năng Chung, Viện Khảo cổ học Việt Nam cho rằng: Khoảng thế kỷ thứ XIV, cuộc chiến tranh Việt - Chăm đã dẫn đến kết quả là chiến thắng thuộc về người Việt. Nhà Trần đã áp giải tù binh từ Nam ra Bắc, lập một số trại tù ở vùng Nghệ Tĩnh, Bình Trị Thiên và cả Hà Nội. Sau này, những nhóm tù binh Chăm này được tự do, họ đã kết hôn với người Việt, học tiếng Việt... việc giao lưu ngôn ngữ này đã làm nảy sinh ra chất giọng lơ lớ như ở vùng Yên Sở, Sơn Tây, Thạch Thất, Ba Vì... Để chứng minh cho nhận định này, các nhà sử học đã nghiên cứu ở các vùng kể trên và đưa ra những đặc điểm nhân chủng học rất thú vị. Đó là người Yên Sở, quận Hoàng Mai ngày nay và dân một số vùng Ba Vì, Sơn Tây, Thạch Thất... có đặc điểm khác người Việt như nước da ngăm đen, tóc xoăn, khuôn mặt vuông, tiếng nói lơ lớ... những đặc điểm này trùng khớp với người dân tộc Chăm ở phía Nam. Đặc điểm nhận biết về ngữ âm giữa những vùng kể trên cũng có sự tương đồng với tiếng Chăm, chẳng hạn như cách phát âm như "ngươi, nha, vang, hang..." trong khi cách phát âm phổ thông phải là "người, nhà, vàng, hàng...". Đặc điểm biến đổi về thanh điệu này chính là kết quả của quá trình tiếp xúc văn hóa, là dấu vết còn sót lại của người Chăm. Quan điểm này của các nhà sử học còn được bổ sung thêm bởi những phát hiện khảo cổ học rất trực quan, sinh động. Đó là những di chỉ khảo cổ đậm chất Chăm xen lẫn với những đặc điểm rất Việt. Chẳng hạn, người ta nhìn thấy giếng vuông là nghĩ ngay đến văn hóa Chăm, nhưng giếng vuông lại nằm xen kẽ cùng với giếng hình tròn mang đậm chất Việt... Phát hiện này cùng những nét tương đồng về thanh điệu trong ngôn ngữ người Sơn Tây, Ba Vì... với người Chăm ở phía Nam đã khiến giới nghiên cứu tiếp cận từ hướng nhân chủng học, khảo cổ học tin rằng, một bộ phận cư dân nói tiếng lơ lớ ở những vùng kể trên có nguồn gốc Chăm. Chưa đủ căn cứ Ở chiều ngược lại, một số nhà ngôn ngữ học lại cho rằng, còn nghi vấn cần phải làm rõ về nguồn gốc của người dân vùng Yên Sở, Thạch Thất, Ba Vì... PGS.TS Phạm Văn Hảo, Viện Ngôn ngữ học một mặt bày tỏ sự đồng tình với các nhà sử học và các nhà nghiên cứu văn hóa dân gian ở một số khía cạnh. "Đúng là có một bộ phận người Chăm được nhà Trần áp giải ra phía Bắc làm tù binh, phục dịch. Trước đây, trong cuốn sách "Le Thanh Hoa" của nhà nghiên cứu người Pháp Roberquain (Rô - Bơ - Canh) cũng đã chỉ ra những căn cứ vô cùng thú vị đó là: "Ở khu vực kinh đô Việt Nam, hễ nơi nào mà địa danh có chữ "Sở" thì đó là nơi giam giữ tù binh Chăm". Nếu đối chiếu với Hà Nội thì thấy có sự trùng khớp kỳ lạ, chẳng hạn như Yên Sở, Ngã Tư Sở, Quán La Sở (địa danh gần Phủ Tây Hồ ngày nay)... Đây là những địa danh nằm ngoài kinh thành xưa, nhưng cách kinh thành không xa lắm, điều này có thể khiến cho việc quản lý tù binh của nhà Trần dễ dàng hơn, nếu có biến động thì việc huy động quân đội từ trong thành ra ngoài trấn áp gần hơn...". Một nghi vấn khác, theo PGS.TS Phạm Văn Hảo đó là việc, nếu địa bàn của tù binh Chăm ở xung quanh kinh thành, vậy tại sao giọng Sơn Tây, Ba Vì có dấu ấn Chăm? Nghe có vẻ vô lý, chẳng liên quan gì đến nhau nhưng lại có thể giải thích một cách dễ hiểu, đó là sau khi được tự do, những tù binh Chăm di cư ra xa kinh thành, có thể họ đến Sơn Tây, Ba Vì, Thạch Thất hoặc những nơi khác nữa để tạo lập cuộc sống yên ổn, hòa nhập với dân bản địa, quá trình giao thoa đó tạo ra chất giọng lạ lùng của người Sơn Tây, Ba Vì... như ngày nay.   "Hiện chúng tôi vẫn tiếp tục triển khai nhiều công trình nghiên cứu về ngữ âm học. Trong đó, khu vực Sơn Tây, Ba Vì, Thạch Thất... được chú trọng đặc biệt với các công trình nghiên cứu sâu về ngữ âm, nhằm tìm ra những đặc điểm ngôn ngữ giống và khác nhau của vùng này so với những nơi khác, đồng thời truy nguyên nguồn gốc của cư dân có giọng nói khác thường".   PGS.TS Phạm Văn Hảo Mặt khác, theo PGS.TS Phạm Văn Hảo, nếu đem vùng Sơn Tây, Ba Vì... so sánh với vùng Nghệ Tĩnh, Bình Trị Thiên dưới các góc tiếp cận lịch sử, ngôn ngữ và đối chiếu, so sánh thì sẽ thấy sự phi lý, đó là giọng nói vùng Nghệ Tĩnh, Bình Trị Thiên cũng có những đặc điểm giống với giọng nói người Sơn Tây, Ba Vì... Ở dải đất miền Trung này cũng có trại giam tù binh Chăm. Vấn đề là, với số lượng tù binh ít ỏi so với người Việt như vậy thì làm sao có thể tạo ra ảnh hưởng về ngôn ngữ trên một không gian rất rộng lớn, dài hàng trăm cây số suốt từ Nghệ Tĩnh cho đến Bình Trị Thiên? Trong khi đó, phương ngữ của cư dân vùng này lại có đặc điểm gần gần gũi với người Mường... Chính vì sự chồng chéo, khó bóc tách này của ngôn ngữ, lịch sử nên rất khó để khẳng định người Sơn Tây, Ba Vì, Yên Sở có nguồn gốc là Chăm hay không", PGS.TS Phạm Văn Hảo bày tỏ. Theo reds.vn (theo  KIẾN THỨC )  
0 Rating 234 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On December 21, 2015
  Đại nhạc hội Champa 2015 Có thể nói năm 2015 là năm thành công nhất của Thanh Niên Champa hải ngoại kể từ khi rời bỏ quê hương đến định cư tại Hoa Kỳ sau năm 1975.  Cách đây không lâu, vào ngày 24/5/2015, một Nhóm Thanh Nữ Chăm đứng ra tổ chức Đại Hội Thanh Niên Champa thật hoành tráng tại trường Đại Học UC Davis California,  với chủ đề Hồi Sinh Champa - Tiếp nhận những di sản quí báu của tổ tiên từ quá khứ đến tương lai (Pahadiip Champa - Taduel krân krung krâc muk-kei mâng kal tel harei hadei). Thành quả nổi bật của Đại Hội là thu hút đông đảo người Chăm đến tham dự, trong đó có người từ Pháp quốc, Campuchia, Việt Nam và khắp các tiểu bang Hoa kỳ.  Điều cảm động nhất là đồng hương Chăm ba vùng: Campuchia, Châu đốc và Pandurangga lần đầu tiên trong lịch sử được ngồi chung trong một hội trường, có cơ hội làm quen với nhau và xác nhận chúng ta cùng nòi giống, cùng nguồn gốc văn hóa, lịch sử, nhưng bị ngăn cách địa lý trên 183 năm bởi hoàn cảnh điêu tàn của Vương quốc Champa (1832-2015). Đại Hội còn mang đến cho giới trẻ Chăm một ấn tượng sâu sắc về lịch sử và nền văn minh Champa rực rỡ, tỏa sáng một thời ở vùng Đông Nam Châu Á.  Sau đây là một số hình ảnh sinh hoạt trong ngày Đại Hội Thanh Niên Champa tại Trường Đại Học UC Davis, California để qúi độc giả cùng chia sẻ.   Kế đến, vào đầu tháng 10 năm 2015, chúng tôi lại nhận được thư mời tham dự Đại Nhạc Hội Champa sẽ tổ chức tại thành phố San Jose, California vào ngày 28 tháng 11 năm 2015 của Ban Thanh Niên Thiện Chí Chăm làm cho chúng tôi thật phấn khởi, không biết đây là sự thật hay chỉ là quãng cáo thương mại.  Không riêng gì Nhóm Cựu Học Sinh Poklaong (Hoa Kỳ) chúng tôi hồi hộp đón chờ đêm Đại Nhạc Hội Champa, nơi nào có đồng hương Chăm sinh sống chúng tôi đều nghe họ bàn đến Đại Nhạc Hội Champa.   Đồng hương Chăm tại Hoa Kỳ mong mỏi Đại Nhạc Hội Champa như nông dân Chăm ở quê nhà trông ngóng những cơn mưa đầu mùa để tưới mát cho những cánh đồng lúa khô hạn; họ mong đến dự Đại Nhạc Hội để được thưởng lãm những lời ca tiếng hát bằng lời Chăm thân thương ngọt ngào như lời mẹ ru khi lọt lòng, họ đến với Đại Nhạc Hội để được gặp lại anh em bạn bè sau bao nhiêu năm xa cách.  Dưới đây là một số hình ảnh và cảm xúc ghi lại trong Đêm Đại Nhạc Hội Champa và Kỷ Niệm 50 Năm Thành Lập Trường Trung Học Poklaong để quí độc giả, quí đồng hương xa gần không có cơ hội tham dự Đại Nhạc Hội Champa cùng chia sẻ, đặc biệt kính tặng bài viết này cho anh chị em thân hữu cựu học sinh Poklaong ở quê nhà.      Toàn Ban Văn Nghệ đang hợp ca bài Bangsa Champa, sáng tác:  Qasim Từ.              Hằng năm cứ độ tuần lễ thứ tư của tháng 11 Dương Lịch, nhân dân Hoa Kỳ lại rộn ràng lên để chuẩn bị đón mừng ngày Lễ Tạ Ơn.  Đồng hương Chăm tại Hoa Kỳ cùng hòa nhịp chia sẻ niềm vui chung với dân bản xứ, tổ chức tiệc Thanksgiving tại gia đình như mọi năm.  Đặc biệt trong dịp Lễ Tạ Ơn năm nay, Ban Thanh Niên Thiện Chí Chăm tự nguyện tổ chức Đại Nhạc Hội Champa (Adaoh Tamia Riya Champa) với chủ đề Đêm Tạ Ơn (Malam ndua phuel) vô cùng ngoạn mục tại thành phố San Jose, California Hoa kỳ.  Đồng hương Chăm đến xem khá đông từ khắp các thành phố, các tiểu bang Hoa Kỳ như:  New York, Washington, Alaska, Seattle, Oregan, Los Angeles, Sacramento, San Francisco, Modesto, v.v…  .  Họ đến Đại Nhạc Hội với tấm lòng tạ ơn đất nước Hoa Kỳ, nơi đã và đang cưu mang họ trên bước đường tìm tự do; tạ ơn Ông Bà và Tổ Tiên, nơi mà họ đã cất tiếng khóc chào đời; tạ ơn các Ca Nhạc Sĩ Chăm đã cống hiến những lời ca tiếng hát cho Đời, cho dân tộc Champa được sinh sôi, phát triển và tồn tại đến ngày nay.  Trong không khí thật vui tươi đầm ấm của Đêm Đại Nhạc Hội Tạ Ơn, khán giả được Ban Tổ Chức trình chiếu slideshow hình ảnh các Ca Nhạc Sĩ Chăm quen thuộc có những nhạc phẩm để đời như Ông Đàng Năng Quạ với các bài hát “Bhum Adei”,  “Khik Bhum Pasai”; Ông Jaya Mưrang với bài hát “Harei Pataom Mbaok”;  Ông Châu Văn Kên với bài hát “Jalan Nao”; Ông Quảng Đại Tựu với bài hát “Kak Tian Ka Anâk Nao Bac”; Ông Amưnhân với bài hát “Sep Gineng Harei Katé”. “Gặp Em Đêm Hội Ramưwan”; ngoài ra MC còn giới thiệu nhiều đến các Ca Nhạc Sĩ nổi tiếng khác như  Chế Linh và Từ Công Phụng, v.v.v…Khi nhìn lại những hình ảnh các Ca Nhạc Sĩ thân quen làm cho chúng tôi chạnh nhớ đến thời gian còn ngồi ghế học đường dưới mái Trường Trung Học Poklaong, nơi đã để lại trong tâm khảm chúng tôi biết bao nhiêu kỷ niệm thời còn là học sinh; nhớ những ngày tháng tập dợt văn nghệ cho lớp, cho trường để thi đua với các lớp bạn, hay với các trường khác trong tỉnh dưới sự hướng dẫn của Thầy Giáo kiêm Ca Nhạc Sĩ Đàng Năng Quạ.  Giờ đây Thầy đã thành người thiên cổ.    Mặc dầu tất bật với đời sống hàng ngày của xã hội Mỹ, một số anh chị em thanh niên nam nữ đã vượt qua mọi khó khăn để hội thảo, tập dợt văn nghệ hàng đêm trong thời gian chưa đầy hai tháng để cống hiến một chương trình ca múa nhạc Champa thật hấp dẫn đầy màu sắc dân tộc.  Khán giả như bị cuốn hút vào dòng chảy văn nghệ từ đầu đến cuối mà không muốn ra về.  Từ MC duyên dáng Ngọc Minh với chất giọng thánh thót trong sáng, đến MC Bá Trung Thiệu, Lưu Quang Sáng điển trai với chất giọng trầm ấm ngọt ngào, giới thiệu chương trình cả tiếng Chăm lẫn tiếng Việt rất lưu loát và chuyên nghiệp chẳng kém gì MC Nguyễn Cao Kỳ Duyên và Nguyễn Ngọc Ngạn của Trung Tâm Paris By Night.  Các diễn viên nam nữ mặc áo truyền thống Chăm thật xinh đẹp và đầy ấn tượng.  Ban Đạo Diễn đã chọn những bài hát Chăm thật đặc sắc và phong phú.  Ca sĩ nào hát cũng hay;  theo cảm xúc riêng của chúng tôi ba bài hát hay và gây xúc động nhiều nhất là bài hát “Bangsa Champa”, một sáng tác của Ca Nhạc Sĩ trẻ Qasim Từ, do toàn ban hợp ca;  bài hát “Sep Hari Bhum Cam” của Ca Nhạc Sĩ Đàng Năng Quạ, được trình bày bởi Ca Sĩ Chế Mỹ Lan và bài hát  “Harei Pataom Mbaok” của Nhạc Sĩ Jaya Mưrang do Ca Sĩ Phú Bình Khả trình bày.  Về các bài múa, chúng tôi nhận thấy múa “Ndua Buk”  (Đội Buk) thật dễ thương và duyên dáng, riêng màng múa nam nữ giao duyên cuối cùng cũng rất sống động và vui nhộn, tiếc rằng trang phục nam chưa được xinh đẹp cho lắm.                    Chương trình Đại Nhạc Hội kéo dài khoảng 3 tiếng rưởi đồng hồ, bắt đầu vào khoảng 6:00 tối đến 9:30 tối thì kết thúc, mọi người ra về nhưng lòng còn vấn vương không biết bao giờ lại được xem Đại Nhạc Hội Champa lần 2.  Qua đêm Đại Nhạc Hội Champa đầu tiên, đồng hương Chăm phải thừa nhận là chương trình rất thành công và cảm ơn Ban Tổ Chức đã tạo cơ hội cho người Chăm đến với nhau bằng tình tự dân tộc, quên đi mọi dị biệt bất đồng, thông cảm, thuận hòa và coi nhau như anh em một nhà, cùng hướng về mục tiêu chung là xây dựng một Cộng Đồng Champa lành mạnh và phát triển.   Ban Tổ Chức Đại Nhạc Hội Champa tại San Jose, California. Từ trái sang phải:  Sarip Chau, Xuan Thach, Linh Dang, Qasim Tu, Chinh Kieu, Sang Luu.   Chương trình ca múa nhạc Đêm Tạ Ơn vừa chấm dứt, Ban Tổ Chức Đại Nhạc Hội Champa kính mời toàn thể đồng hương Chăm cùng các anh chị cựu  Học Sinh Poklaong (Hoa Kỳ) đến tiền đình của hội trường để làm Lễ Kỷ Niệm 50 Thành Lập Trường Trung Học Poklaong.  Đây cũng là lần đầu tiên Thầy Trò cựu học sinh Trường Trung Học Poklaong có cuộc hội ngộ ngắn ngủi với sự tham dự của hai thầy cũ Thành Phú Bá và Lưu Quang Sang.  Mọi người tay bắt mặt mừng, tràn trề niềm vui, nước mắt rưng rưng cố nén nỗi cảm xúc dâng trào về cuộc tương phùng không hẹn mà đến. Thầy trò vui vẻ thăm hỏi, bạn bè hớn hở trò chuyện, quyến luyến nhau như không muốn tách rời. Hai thầy nay đã già, chẳng bao lâu nữa sẽ bước vào hạng U80. Còn các bạn đồng môn chúng ta ai cũng đã lên chức Ông Nội, Bà Ngoại cả rồi. Vui quá các bạn nhĩ!   Sau đó các trò mời thầy đứng chụp hình chung dưới tấm biểu ngữ ghi rõ dòng chữ akhar thrah : "50 Thun Pahader Nâm Krung Sang Bac Poklaong" (Kỷ Niệm 50 Năm Thành Lập Trường Trung Học Poklaong: 1965-2015). Bao nhiêu người chụp hình, quay phim thi nhau bấm nút, ánh sáng nhấp nháy liên hồi như tia chớp đầu mùa mưa. Bà con Chăm đứng bao quanh reo hò, vỗ tay chào mừng cảnh thầy trò Poklaong đứng dưới tấm biểu ngữ gợi bao thương nhớ về dĩ vãng của một ngôi trường mà hình ảnh luôn luôn hiện diện trong tâm thức người Chăm. Mặc dù một nửa thế kỷ đã trôi qua, hình ảnh đó vẫn chưa phai nhòa bởi nhiều lý do :   -Thứ nhất : Nhà trường được vinh dự mang tên một vị vua anh minh của Vương Quốc Champa : Poklaong Girai, gọi tắt là Poklaong.  Ngài là vị vua tài ba, kinh bang tế thế, triều chế vững mạnh, dân tình no ấm thanh bình.  Kỳ tích sáng chói liên quan đến đức vua để lại cho hậu thế là cụm đền tháp mang tên ngài đang đứng sừng sững trên ngọn đồi trầu (Mbon hala) gần Palei Cang và đập nước nổi tiếng Nha Trinh, mang nước tưới khắp cánh đồng Ninh Thuận, nuôi sống dân cư địa phương hằng bao thế kỷ qua.   - Thứ hai : Trường Poklaong được xem như một trung tâm đào tạo đông đảo trí thức Chăm.  Đa phần họ là những người thành đạt hôm nay, đang sinh hoạt trên nhiều địa bàn trong nước dưới nhiều ngành nghề khác nhau như :Tiến Sĩ Giảng Viên Đại Học; Nhà Văn, Nhà Thơ đang sinh hoạt trong hàng ngũ văn học Việt Nam; Họa Sĩ, Nhạc Sĩ có tiếng tăm; Bác Sĩ, Nha Sĩ, Dược Sĩ đang hành nghề khắp nơi. Có người làm Đại Biểu Quốc Hội, Chánh Án Tòa Án Nhân Dân; nhiều người làm Giáo Viên và Hiệu Trưởng các trường trung và tiểu học.   - Thứ ba : Trường Poklaong là cơ quan phát hành Tập San Chăm đầu tiên với tên gọi Ước Vọng (Caong Takrâ).  Trong đó có nhiều trí thức Chăm tham gia viết bài với nội dung phong phú, đề cập đến nhiều vấn đề văn hóa, xã hội Chăm.  Đặc biệt những bài viết bằng chữ Chăm truyền thống (akhar thrah) rất được các chú bác lớn tuổi ưa thích.  Mãi về sau này mới có những Tập San do người Chăm làm chủ như tờ Panrang, Tagalau phát hành trong nước; tờ Vijaya, Champaka phát hành ở hải ngoại.   - Thứ tư : Có sự trùng hợp khá lý thú giữa hoàn cảnh Trường Poklaong và thân phận Vua Poklaong Girai.  Theo truyền thuyết, nhà vua xuất thân từ đứa bé mồ côi mẹ rất sớm, sống với ông bà nuôi nghèo khổ.  Ban ngày Ông Bà phải đi mò cua bắt ốc nuôi cháu lớn lên từng ngày, ban đêm ẵm cháu đi xin bú nhờ ở các bà mẹ láng giềng. Ngài trưởng thành do nỗ lực vượt qua mọi khó khăn của hoàn cảnh và đạt được danh vọng vẻ vang bằng ý chí tự lực tự cường. Trường Poklaong cũng tương tự như thế, sinh ra trong hoàn cảnh côi cút, thiếu thốn mọi thứ: lớp học không có, thầy giáo không có, tiền bạc cũng không. Ông Chính phủ chỉ cấp tờ giấy phép thành lập trường và đề cử một ông Quản Đốc  trông coi rồi phủi tay, chẳng ngó ngàng tới nữa.  May mà có Cộng Đồng Chăm, đủ mọi thành phần, dang tay nâng đỡ nhà trường từng bước đi lên. Bên cạnh đó, không thể bỏ qua sự nỗ lực làm việc của thầy trò trường Poklaong. Thấm nhuần câu châm ngôn:  " Sinh hoạt tự túc, Kỷ luật tự giác, Tháo vác tự cường" do nhà trường đề ra, học sinh Poklaong tỏ ra rất xuất sắc trong công tác tự điều hành mọi sinh hoạt của nhà trường.  Họ đã lấy câu châm ngôn này làm kim chỉ nam xuyên suốt trong quá trình học tập và rèn luyện nhân cách, đồng thời cũng là hành trang mang theo trong cuộc sống sau này.  Có thể khẳng định rằng: Trường Trung Học Poklaong sở dĩ đạt được những thành quả tốt đẹp trong sự nghiệp giáo dục của mình là do hai yếu tố: Sự nỗ lực làm việc của thầy trò trường Poklaong cộng với sự yểm trợ tích cực của đồng bào Chăm.    Thầy trò cựu Học Sinh Trung Học Poklaong (Hoa Kỳ ) chụp hình lưu niệm nhân Kỷ Niệm 50 Năm Thành Lập Trường.                      Trường Trung Học Poklaong được chính phủ Việt Nam Cộng Hòa cho phép thành lập và hoạt động kể từ năm 1965.  Sau ngày 30 tháng 04 năm 1975, chế độ Miền Nam được thay thế bởi chế độ Cộng Hòa Xã Chủ Nghĩa Việt Nam, kể từ đó Trường Trung Học Poklaong đã bị giải thể và xóa tên, thay vào đó một tên khác rất xa lạ với đồng bào Chăm.  Năm mươi năm trôi qua, Trường Poklaong chỉ còn lại là những hoài niệm trong ký ức của người Chăm vong quốc.  Không biết đến bao giờ Chính Quyền Việt Nam hiện hành xót thương cho hậu duệ Champa còn sống xót sau cuộc tàn sát của Vua Minh Mạng đối với dân tộc Chăm vào những thập niên của năm 1830, để khôi phục lại tên trường Poklaong cho Đồng Bào Chăm?!   Trên đây là vài cảm nghĩ về Trường Poklaong sau 50 năm nhìn lại.  Nhân dịp Lễ Tạ Ơn và Kỷ Niệm 50 Năm Thành lập Trường Poklaong, chúng tôi xin mãn phép thay mặt toàn thể cựu học sinh Poklaong, kính dâng lời cảm tạ đến quý thầy cũ Trường Trung Học Poklaong nói chung, đặc biệt các thầy Thành Phú Bá, thầy Đàng Năng Quạ (đã mất), thầy Lưu Quang Sang và thầy Nguyễn Văn Tỷ luôn luôn sát cánh, đồng hành với nhà trường từ khi thành lập đến lúc giải thể; đến thầy Jay Scarborough (người Mỹ) từng tận tụy dạy học và giúp đỡ nhà trường rất nhiệt tình; đến Đoàn Thanh Niên Thiện Chí Chăm, tiêu biểu là Đoàn Trưởng Quảng Văn Đủ (tức Tiến Sĩ Po Dharma) đã làm việc cật lực không kể thời gian.  Ban ngày giúp xây dựng nhà nội trú, nhà vệ sinh, đào giếng v.v.v…, ban đêm hướng dẫn học sinh học tập, làm bài; đến Cựu Thiếu Tá Dương Tấn Sở, một vị ân nhân khả kính, đóng góp công lao to lớn trong việc hình thành và phát triển Trường Trung Học Poklaong; đến các bậc phụ huynh, bà con Chăm các thôn đã ủng hộ tiền bạc xây dựng ngôi trường hai tầng lầu xinh đẹp, nhưng rất tiếc ngày nay đã bị xóa hết dấu tích.   Chúng tôi biết các bạn trong nước không dễ dàng gì tập họp nhau làm Lễ Kỷ Niệm 50 Năm Thành Lập Trường Poklaong thân yêu của chúng ta. Thôi thì, chúng ta lên mạng gặp nhau, mặc sức tâm tình, kể chuyện Poklaong ngày xưa, chia sẻ những kỷ niệm vui buồn của một thời đầy ắp mộng mơ. Chúng tôi đề nghị các bạn mạnh dạn lập hồ sơ xin chính quyền Tỉnh Ninh Thuận cho phép thành lập Hội Thân Hữu Cựu Học Sinh Poklaong để chúng ta có ngôi nhà chung sinh hoạt, lâu lâu gặp nhau tâm sự, trao đổi, học hỏi, giúp nhau thăng tiến cuộc sống. Hy vọng chính quyền sẽ không hẹp hòi, phân biệt đối xử với tổ chức xã hội dân sự này. Chúc các bạn thành công.   Qua ba sự kiện nêu trên do thanh niên Chăm hải ngoại thực hiện trong năm 2015 là điểm son  đáng hoan nghênh. Hy vọng thành tích này là tiếng gọi đàn để giới trẻ Chăm  đứng lên, nắm tay nhau tiến bước trên con đường Hồi Sinh Champa (Pahadiip Champa).   Quang cảnh Hội Trường lúc sắp bắt đầu Chương Trình Đại Nhạc Hội Champa Nhân Lễ Tạ Ơn Năm 2015. theo Champaka.info  
0 Rating 126 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On December 6, 2015
  >> vào link để nghe nhạc phẩm Đồ bàn by Chế Mỹ Lan >> trang blog Đại Nhạc Hội Champa Đến với ngày Đại Nhạc Hội, bao nhiêu ký ức đẹp cách đây đã gần 20 năm lại thi nhau ùa về. Bà con Chăm đến với nhau lần ấy vào năm 1998 nhân dịp thành lập Hội Bảo Tồn Văn Hóa Champa. Tất cả các nhân sĩ trí thức Chăm khắp mọi nơi cùng về hội ngộ. Tay bắt mặt mừng trong niềm hân hoan vô bờ bến. Lần đầu tiên cũng tổ chức tại San Jose này, lúc ấy tôi hát bài Hận Đồ Bàn của Xuân Tiên được sự dàn dựng công phu của anh Kiều Đại Vinh với những lời ngâm Ariya thống khiết của ông Châu Văn Cẫm và những dàn diễn viên phụ họa rất sầu nảo làm cho khán giả đã rơi nước mắt. Mãi đến 17 năm sau tôi mới thấy lại hình ảnh này. Cuộc đời mình sống được bao nhiêu mà mãi đến gần 20 năm xa cách mới gặp lại nhau? Có cần phải đợi đến 17 năm không nhĩ! Cám ơn Ban Tổ Chức đã tạo cơ hội cho chúng ta đến gần với nhau sau bao nhiêu năm xa cách. ĐNH đã vẽ lên một bức tranh đầy màu sắc đẹp cả nội dung lẫn hình thức. Từ xa xa, các thanh niên thiếu nữ gọi nhau í ới, tiếng chào hỏi thân quen. những nụ cười rất gần gủi tay trong tay hân hoan dìu nhau bước chân vào hội trường. Những trang phục truyền thống đủ màu sắc trong ánh nắng lung linh của một ngày đẹp trời Cali càng tô điểm rạng ngời những đóa hoa Champa rực thắm. Trên nét mặt của mọi người ai ai cũng toát lên một niềm phấn khởi tràn đầy sức sống.    Các bậc trí thức Cham hội tụ từ nhiều Tiểu Bang khác nhau. Đầu tiên là bước vào phòng chụp ảnh lưu niệm, tấm thảm đỏ được đặc ngay ngắn đưa những bước chân đến những ngọn Tháp như xa lạ như thân quen vẫy chào những đứa con Chăm về với cội nguồn. Tháp đứng sừng sững trong kiêu ngạo và huyền bí làm sao. Ai ai cũng tranh thủ chụp vài tấm hình để lưu lại kỷ niệm đẹp trong đời. Tôi lấy làm vui mừng khi các Bác, các Cô Chú của tất cả các Hội Đoàn vai kề vai cùng chụp ảnh lưu niệm . Rời khỏi phòng chụp ảnh để bước vào phòng ăn uống, không khí lại càng vui nhộn bội phần. Trong căn phòng đầy ấp những tiếng cười giòn giã. Mọi người cùng nhau ngồi thưởng thức những món ăn cổ truyền dân tộc. Ăn uống xong, tất cả cùng dìu nhau vào bên trong sân khấu. MC Từ Công Ánh, MC, Hoa Hậu Ngọc Minh xinh đẹp duyên dáng của Champa chúng ta cùng hai MC đẹp trai phong độ Bá Trung Thiệu, Lưu Quang Sáng mở đầu chương trình rất độc đáo ngoạn mục khai mạc chương trình. Tấm rèm sân khấu từ từ mở hé ra, dàn nhạc vang lên sôi động tưng bừng rộn rã. Tiếng trống Paranưng, tiếng kèn Saranai như vỡ òa trong ngất ngây hạnh phúc. Âm thanh có lúc réo rắc du dương, có khi lại cháy bừng nhộn nhịp. Những bàn tay của những nhạc cụ Chăm thả hồn vào những điệu nhạc say sưa ru hồn người về một thời xa xưa. Ánh sáng nhuộm hoàng hôn tím buồn vời vợi, tím cả thời gian và không gian. Màu tím buồn trên sân khấu khỏa lấp cả khung trời và những mãnh đời cô đơn của những đứa con Champa tha hương lạc loài tìm đến với nhau . Không gian huyền ảo từ phía xa, Tháp đứng ngẩn ngơ sâu lắng tạo nên một bức tranh hoàn hảo rất thơ mộng. Đây có lẽ là bức tranh đẹp nhất từ xưa tới nay. Tiết mục hợp ca Bangsa Champa Khaol Ita cua Cei Juk qua phần hoà âm phối nhạc của nghệ sĩ Miêu Văn Tuấn đã vang lên hùng hồn. Bangsa ilimo khoal ita, Champa muk kei pajiak pajieng, Cam bani sa pajama, pajieng mal, Ahier Awal tajuh halau klau bimong, Champa angan bingo tanâh aia….Nghe xúc động bùi ngùi làm sao ấy. Rồi lần lược những bài ca bất hữu của cố nhạc sĩ Đàng Năng Qụa, nhạc sĩ Châu Văn Kênh, nhạc sĩ Amưnhân... nghe nức nỡ lòng người. Các tiết mục múa đặc sắc và điêu luyện của các cô thiếu nữ trong những bộ trang phục truyền thống uyển chuyển tha thướt đê mê ngây dại đến hoang đường.  MC Ngọc Minh - Trung Thiệu Đại Nhạc Hội lần này gợi nhớ lại bản sắc văn hóa dân tộc qua những bài hát mang giai điệu dân gian Chăm phản ánh đời sống văn hóa xã hội Chăm, nhắc nhở con cháu về lịch sử mất mát đau thương của dân tộc. Phổ biến văn hóa lịch sử âm nhạc dân tộc đến với các cộng đồng khác nhầm xóa bỏ sự nhận định phiến diện về nghệ thuật âm nhạc Chăm. Thể hiện qua trang phục độc đáo, sự uyển chuyển nhịp nhàng của các cô thiếu nữ xinh đẹp trong những điệu múa Chăm ngây ngất đến lạ thường. Đưa khán giả từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Tôi ngồi gần MC Hạ Vân, được cô chia sẽ: “rằng cô rất khâm phục một dân tộc có nền văn hóa đầy màu sắc. Đây là lần đầu tiên cô đã có dịp chiêm ngưỡng những bông hoa xinh đẹp Champa mà từ bấy lâu nay cô chưa hề biết. Cô rất vui khi được chứng kiến tận mắt những thiếu nữ Chăm  đẹp và duyên dáng. Ai ai cũng rất thân thiện và dể mến. Cô nói rằng; cô sẽ về và chia sẽ với đài phát thanh mà cô đang làm.” ĐNH cũng là những tiếng chuông cảnh tỉnh  đến những đứa con Chăm lưu lạc khắp mọi nơi trên thế giới quay về với cội nguồn. Kế tiếp, Nhạc sĩ Từ Công Phụng đã lên góp vui cho đêm ĐNH hai bài hát do ông sáng tác. Tôi hơi thất vọng vì tưởng rằng ông sẽ nhìn khác hơn những gì tôi mong đợi. Tôi hình dung một Từ Công Phụng phong độ trong bộ trang phục cổ truyền dân tộc, nói tiếng mẹ đẻ trên sân khấu dù chỉ vỏn vẹn một câu cũng được, hoặc hát một vài câu bằng tiếng Chăm nếu có thể . Có lẽ tôi hy vọng ở nơi nhạc sĩ Chăm này nhiều hơn thế nữa, nhưng dù gì đi nữa, ông đã đến với cộng đồng của mình trong phần cuối của cuộc đời còn lại, đến để gần gũi nhau hơn đã là tốt lắm rồi. Cũng có thể nói đây là một bước khởi đầu rất đáng khích lệ. Hy vọng trong tương lai, tôi và các bạn sẽ thấy một hình ảnh Từ Công Phụng khác hơn và gần gũi hơn và Chăm hơn.  Cám ơn các cô bác anh chị em tại San Jose về sự rất nhiệt tình phục vụ quên mình. Hy sinh tất cả gia đình con cái, tập dợt nấu ăn và còn phục vụ khách phương xa. Dù rất mệt nhưng các anh chị lúc nào cũng rất vui vẻ. Ở Mỹ ai cũng rất bận rộn, các anh chị em bỏ công sức tập dợt mỗi ngày sau giờ làm việc mệt nhọc. Hy sinh đến mức đó là cùng!. Mặc dù số lượng rất ít ỏi nhưng các cô bác anh chị cùng các anh chị em Sacramento làm nên một đêm Đại Nhạc Hội như thế này là một điều tôi không thể nào ngờ được. Tôi khâm phục ban tổ chức làm việc rất nghiêm túc và kỹ luật. Một sự thành công ngoài sức tưởng tượng của tôi. Xét về hình thức lẫn nội dung đều rất chuyên nghiệp và dĩ nhiên các anh chị đã không nói suông bằng lời mà đã hy sinh rất nhiều thời gian qúi báo của mình để có được một đêm ĐNH ý nghĩa này. G. CLÉMENCEAU nói không sai. “không phải chỉ nói suông mà có thể thay đổi được một tình trạng, chính phải biết hy sinh.” Về đến nhà đã mấy ngày rồi nhưng đầu óc vẫn còn nghe dư âm Đêm nhạc hội. Vẫn còn nhớ như in những hình ảnh các anh chị chạy tới chạy lui chuẩn bị cho tiết mục kế tiếp, sửa soạn trang phục cho nhau trước khi lên sân khấu, khích lệ nhau hãy trình diễn hết mình, những cái nhìn yêu thương trìu mến dành cho nhau lúc tập dợt. Lúc nhẹ nhàng lúc căng thẳng. Lúc lại vang lên những tiếng cười giòn giã. những tiếng chào nhau tay bắt mặt mừng, những vòng tay ấm áp làm mà khó quên đến thế. Tôi đã mang về cả tình cảm anh chị dành cho tôi, đem về hơi ấm tình tự dân tộc, những nỗi niềm yêu thương da diết. Một dư âm thật khó diển tả bằng lời.  Ca nhạc sĩ Từ Công Phụng,  MC Hạ Vân - Sáng LưuThiết nghĩ, trong cuộc sống có đôi khi chúng ta chìm sâu trong sự im lặng qúa lâu. Chìm đấm đến gần như quên đi cảm giác gần gủi thân mật. Đôi khi nhìn lại chẵng có gì trầm trọng cả, chỉ là những cái không đáng kể. Đôi khi chúng ta chưa thật sự hiểu nhau hay chúng ta hiểu lầm nhau bởi không cùng hiểu một nghĩa. Georges DUHAMEL (la possession du monde) có nói: “Những danh từ là những ý tưởng… Con người thường xâu xé lẫn nhau chỉ vì những danh từ mà họ không cùng hiểu một nghĩa. Nếu họ hiểu nhau hơn, họ sẽ ngả vào lòng nhau.” Đại Nhạc Hội Champa chính là cơ hội để đưa chúng ta đến gần với nhau và hiểu nhau hơn. Đêm ĐNH đã nói lên được rằng tinh thần Champa vẫn cháy bỗng. Những đứa con Chăm đã vượt qua biên giới Đạo Giáo, Chủ nghĩa cá nhân, vượt qua Vị trí Địa Lý để đến với nhau. Hơn bao giờ hết, những đứa con Champa trên khắp mọi nơi vẫn còn đau xót cho dân tộc mình, họ vẫn còn hướng về quê hương đổ nát, cùng nhau xây dựng mái nhà Champa yêu dấu. Tất cả đã hòa quyện vào nhau trong vòng tay ấm áp. Ai có đến với ngày Đại Nhạc Hội mới chứng kiến được những cảnh các Chú các Bác cùng nắm chặt tay nhau, cùng nhau làm việc mới cảm nhận được tinh thần đoàn kết của Champa vẫn còn sâu đậm lắm. Ai cũng hăng say góp một bàn tay, chẵng phân biệt tuổi tác hay địa vị. Có lẽ đây là một bài toán mà đã bấy lâu nay chúng ta chưa giải đáp được. Bài toán chứng minh tinh thần đoàn kết dân tộc Champa của chúng ta. Chúng ta sống trên đất khách quê người , ít có cơ hội gặp mặt nhau. Chúng ta hãy biết tạo cơ hội để đến với nhau nối vòng tay lớn. Cùng nhau gìn giữ bản sắc dân tộc. Cùng cầm tay nhau hàn gắn tình đoàn kết, xóa đi những ngộ nhận đáng tiếc trong cộng đồng. Đồng thời hâm nóng lại bản sắc dân tộc. Gợi nhớ hoài cổ, hướng về cố quốc. Kết tụ dân tộc, tình yêu tốt đẹp cần thiết phát triển mọi mặt trong tương lai. Hy vọng một ngày gần trong tương lai.   Anh em diễn viên đang reo hò, vui mừng sau chương trình ĐNH kết thúc. Hãy đến gần với nhau hơn nữa, bởi lẽ, một khi chúng ta đã gần gũi nhau thì những mâu thuẫn sẽ tan biến và nhường chổ cho sự đồng cảm yêu thương, sẵn sàng bỏ qua những bất đồng về quan điểm, sẵn sàng tha thứ cho nhau. Một khi chúng ta đã yêu thương nhau rồi thì mọi thứ khác đã không còn gì đáng kể. Chúng ta hãy biết nắm lấy cơ hội để sích lại gần nhau, đừng để đợi đến một phần tư của cuộc đời mới gặp lại. Hãy đến, cùng nắm chặt tay nhau để cùng nhau làm tốt hơn nữa. Hơn bao giờ hết, hãy gạt bỏ những tư tưởng sai về nhau để cùng nhau đắm chìm trong hạnh phúc như thế này. Hãy cùng nhau gìn giữ bản sắc dân tộc để con cháu sau này còn hãnh diện về dân tộc mình. Ban tổ chức hãy cố gắng duy trì sân chơi bổ ích này để chúng ta giao lưu với nhau. Hãy duy trì một phong cách làm việc vượt lên trên bất cứ sự khác biệt của nhau như thế này nhé. Đây chính là chìa khóa đưa đến sự thành công trong lần ĐNH này. Nếu trong thâm tâm của mỗi cá nhân trong ban tổ chức vẫn còn có tư tưởng phân biệt em Bàlamôn, tôi Bàni, anh thì Islam thì dù có tổ chức bao nhiêu lần ĐNH vẫn quay lại vị trí cũ , không đi về đâu cả. Hy vọng chúng ta sẽ gặp nhau sớm hơn, không phải đợi đến 17 năm nữa, lúc đó Chế Mỹ Lan già rồi không còn hát được nữa đâu. Các bạn có muốn chúng ta gặp nhau một ngày rất gần không? Chúc các Bác các cô Chú và các anh chị về đến nhà vui vẽ bình an, cùng nhau quay quần bên gia đình và người thân. Cùng nhau chia sẽ và ôn lại kỷ niệm đẹp khó quên trong đêm ĐNH và truyền ngọn lửa yêu thương tỏa khắp nơi trong cộng động Champa của chúng ta. Chúc một mùa Giáng Sinh an lành.        
0 Rating 562 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On October 14, 2015
 Nếu ai có chút quan tâm về tình hình thế giới thì sẽ không quên hình ảnh hai lãnh tụ cựu thù của hai thế giới tư bản và cộng sản gặp nhau ngày 19 tháng 11 năm 1985 tại Geneva, Thuỵ Sĩ. Một thành phố nhỏ so với nhiều nơi trên thế giới, nhưng rất xinh xắn và được nhiều người biết tới. Vì đây là cái nôi của Hội Hồng Thập Tự, cùng sự có mặt của hơn 200 tổ chức quốc tế thuộc  chính phủ và phi chính phủ. Đây là cuộc gặp gỡ lịch sử mang đến kết quả thay đổi cả cục diện thế giới, nên khi nói đến sự chấm dứt chiến tranh lạnh giữa Đông và Tây người ta thường nhắc đến ông Reagan và Gorbachev. Nhưng ít ai biết tên một nhân vật trọng yếu khác đã khiến cho sự gặp mặt ấy thành hình, đó là bà Thatcher thủ tướng nước Anh lúc bấy giờ. Khi Reagan lên làm tổng thống nước Hoa Kỳ vào năm 1981, bà Thatcher đã nhanh chóng hình thành mối quan hệ thân thiết với ông, đến nỗi một thời đã từng là đề tài khai thác của giới truyền thông báo chí, song sự quan hệ ấy chỉ dừng lại ở mức độ của một tình bạn đơn thuần. Nhưng sau khi Gorbachev, lúc ấy đang là nhân vật thứ hai trong bộ chính trị của Liên Xô, nhận lời mời của bà Thatcher đến viếng thăm nước Anh vào ngày 16 tháng 12 năm 1984, thì đây thật sự đánh dấu một giai đoạn quan trọng khác thường. Mở đầu cho cuộc tiếp xúc với cái nhìn mới mẻ giữa Đông và Tây, giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa cộng sản, giữa hai ý thức hệ khác nhau cho thấy thay vì đối đầu họ lại chọn đối thoại mà lâu nay chưa từng có vậy! Sau năm tiếng đồng hồ đàm đạo, Gorbachev và phu nhân cùng đoàn tháp tùng đi dạo thành phố London thăm nơi Lenin đã phát hành tờ báo đầu tiên vào năm 1903, cùng viếng thư viện nước Anh xem chiếc ghế Karl Marx đã dùng ngồi viết cuốn Tư Bản Luận trong khi Thatcher vội vã chuẩn bị cho chuyến bay sang Hoa Kỳ để thuyết phục tổng thống Reagan, bà bảo: “Gorbachev rất khác người, tôi thật lòng quý trọng ông ta và tôi nhận thấy mình có thể hợp tác được. Dù ông ta hoàn toàn trung thành với chế độ Xô Viết, nhưng ông ta sẵn sàng lắng nghe, đối thoại chân thành và có thể tự quyết định theo ý ông ta.” Sự tin tưởng lạ lùng của thủ tướng Thatcher, cộng với lý lẽ mạnh mẽ và thấy có lý của bà đã thuyết phục được Reagan. Nên phải nói thủ tướng Thatcher chính là trung gian mở đường cho cuộc gặp đầu tiên này, đánh dấu mốc quan trọng trong lịch sử hai nước và mở ra một khởi đầu mới cho quan hệ ngoại giao giữa hai siêu cường. Thay vì chọn theo con đường cứng rắn họ lại gặp nhau, và tại cuộc họp thượng đỉnh này đại diện hai nước trao đổi với nhau nhiều vấn đề, cùng thẳng thắn nói cho nhau nghe một cách trực tiếp quan điểm của phía mình. Dĩ nhiên là có những cuộc tranh luận, nhưng cũng không thiếu phần lắng nghe. Hai nhà lãnh đạo thật sự cởi mở trao đổi với nhau những suy nghĩ của riêng mình, hầu có thể hiểu nhau và qua đó cùng tìm ra giải pháp làm bớt đi sự căng thẳng ngày càng leo thang giữa hai bên, mà đã có hồi chiến tranh sắp bùng nổ. Và tôi suy nghĩ, làm sao Thatcher thủ tướng của một nước theo chính thể quân chủ lập hiến, Reagan tổng thống của một nước theo thể chế cộng hoà với tam quyền phân lập và Gorbachev tổng bí thư của một nước cộng sản theo chế độ độc tài đảng trị mà họ có thể ngồi lại với nhau được? Trong khi chúng ta là người Chăm trong cùng một dân tộc, vậy mà khi nghĩ chuyện đến với nhau sao thấy thật quá xa vời! Điều mà ba vị nguyên thủ này đã làm là họ vượt qua quyền lợi của cá nhân, đảng phái mà đặt quyền lợi của quốc gia dân tộc lên trên hết. Nhờ vậy mà họ đã làm nên việc lớn, góp phần đem lại sự an vui chẳng những cho quê hương đất nước của họ thôi, mà còn cho sự yên vui của toàn thế giới nữa. Thế mới thật đáng khâm phục! Là người Chăm nếu còn quan tâm đến nhau, chúng ta hãy nên học bài học lịch sử này! Với tôi, ai làm được điều gì tốt cho Chăm dù lớn hay nhỏ đều đáng được quý trọng. Đã là đấu tranh thì ngay cả trên lãnh vực văn hoá và xã hội, mọi sự thành tựu đều phải kinh qua nhiều gian nan. Do đó, nếu ai vì tấm lòng thành muốn làm cho Chăm mà lỡ thất bại thì cũng đừng có quá nhiều lời chê trách, mà hãy rút từ kinh nghiệm đau thương ấy những bài học giá trị hầu làm tốt mai sau. Dân tộc Chăm còn khổ, công việc Chăm còn nhiều nên chúng ta còn cần phải có nhau. Cho nên ao ước của tôi, là sao chúng ta làm được điều như những vị lãnh đạo trên đã làm, bỏ qua những khác biệt để đến cùng nhau hầu qua đó có thể hoá giải những bất đồng! Thuỵ Sĩ là một nước giàu với dân số chỉ hơn 8 triệu người, có thiên nhiên rất đẹp nhiều phong cảnh thật hữu tình, đất nước mà tôi đã có cơ duyên được đến đó vài lần. Là nơi mà nguyên thủ của hai cường quốc lúc bấy giờ chọn cho cuộc gặp gỡ đầu tiên, mở ra một bước ngoặt quan trọng cho sự liên hệ mới củahai nước sau này. Nhờ đó đã đem lại sự an vui cho nhiều người, chẳng những ở bên kia bức màn sắt mà còn cho thế giới tự do nữa. Nên mong ước của tôi, là làm sao chúng ta người cùng dân tộc có thể đến với nhau cùng cởi mở tâm tình. Đến để nói với nhau, ngay cả những điều khó nhất, hầu qua đó mà có sự cảm thông. Có thế chúng ta mới cùng nhau mở ra một trang sử mới, đem lại niềm tin và hy vọng cho mọi người Chăm!   Chân Thành (độc giả gời bài qua info@nguoicham.com)    
0 Rating 169 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On September 3, 2015
  Người Chàm trong mắt tôi Nguyễn Ngọc Chính Một ngày biếc thị thành ta rời bỏ Quay về xem non nước giống dân Chàm (Chế Lan Viên) Ngoài tên gọi “Chàm” ta còn dùng các danh xưng như “Chăm”, “Hời”, “Chiêm Thành”… để chỉ một dân tộc đã từng có một quốc gia độc lập, hùng mạnh trong lịch sử, có nền văn hóa phát triển và là hậu duệ của các cư dân nền văn hóa Sa Huỳnh thời kì đồ sắt.            Ngoài Việt Nam, người Chàm ngày nay còn tản mát đi các nước như Campuchia, Mã Lai, Thái Lan và Hoa Kỳ. Dân số tại Việt Nam theo điều tra năm 1999 là 132.873 người và theo tài liệu của Ủy ban Dân tộc năm 2008 là khoảng hơn 145.000 người, xếp thứ 14 về số lượng trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam.            Vấn đề đặt ra là giữa “Chàm” và “Chăm” thuật ngữ nào đúng? Thật ra thì từ năm 1979 người miền Nam mới thấy xuất hiện chữ “Chăm” từ chính quyền mới sau 30/4/1975. Trước đó, từ miền Trung trở vào Nam, chữ “Chàm” đã từng xuất hiện trong các địa danh, tên gọi cũng như danh từ riêng như Tháp Chàm, Cù Lao Chàm, giếng Chàm, vàng Chàm…            Để chỉ người Chàm, người Việt tại miền Nam còn dùng những tên gọi như “Hời”, “Chiêm”, “Người đàng thổ” (khác với Người đàng quê là người Việt)… Theo một giải thích thì những chữ đó được dùng một cách “miệt thị” nhưng tôi thiết nghĩ đó là một nhận xét sai lệch, suy diễn bất hợp lý.            Trước năm 1975 đã có những công trình học thuật như Từ điển Chàm – Việt – Pháp (của Cham Dohamide và Dorohiêm), Nguyễn Khắc Ngữ nghiên cứu về dân tộc học qua tác phẩm “Mẫu hệ Chàm” hoặc học giả Thiên Sanh Cảnh có một loạt bài về “Đám ma Chàm”… Rõ ràng là chữ Chàm ở đây không thể nào được dùng một cách “miệt thị” trong nghiên cứu.            Lại nữa, một số tác giả người gốc Chàm đã dùng chữ Chàm hay Chiêm trong bút hiệu của mình như Khaly Chàm, Chiêm Nhân… Không lý nào các tác giả đó lại tự miệt thị mình! Nhưng một khi nhận xét về sự “miệt thị” này xuất phát từ những người “có quyền” thì nó trở thành một quyết định và ngành văn hóa chỉ biết gọi là Chăm thay vì Chàm như lúc trước.            Trong bài viết “Tiếng Chăm của bạn” trên Tuyển tập Tagalau [1], Inrasara cho rằng: “Dù sao, quy định của Nhà nước vẫn phải được tuân thủ. Tuân thủ, nhưng nếu có ai dùng từ “Chàm” trong bài viết, nhất là khi có người viết đúng các tên gọi cũ như Trung tâm Văn hóa Chàm, Ma Lâm Chàm chẳng hạn, ta phải chấp nhận và không biên tập. Bởi sự thể không có gì sai hay miệt thị người Chàm cả”.  Tagalau 12: Tuyển tập Sáng tác – Sưu tầm  – Nghiên cứu văn hóa Chàm            Khi còn nhỏ, người Chàm trong mắt tôi là những ông “Hời” ngồi bán thuốc dạo bên cạnh những chiếc giỏ đặc biệt… kiểu Chàm. Họ là những người có vẻ “thần bí” với những câu tiếng Việt lơ lớ, một cách rao hàng vừa tức cười nhưng cũng không kém phần… đe dọa: “Này, ngồi xuống đây tôi coi bệnh cho, mặt của anh có bệnh rồi…”. Tôi sợ lắm nên không trả lời, vội bước đi mà không dám ngoảnh đầu trở lại.            Lớn lên khi tìm hiểu thêm, người Chàm ở Ninh Thuận lại cùng quê hương với Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu! Thêm một phát hiện khiến nhiều người phải ngạc nhiên, trong đó có tôi, về mối tương quan giữ chiếc áo dài của người Chàm và người Việt.           Các nhà nghiên cứu cho thấy chiếc áo dài Việt Nam là sự tổng hợp từ chiếc áo dài của người Chàm và chiếc “xường xám” của Thượng Hải. Theo Bùi Minh Đức trong Từ điển tiếng Huế, NXB Văn Học, 2009:            “Chiếc áo dài của đàn bà Việt Nam khởi phát từ thời Chúa Nguyễn Phúc Khoát (cuối thế kỷ XVIII) với nền tảng là chiếc áo dài phụ nữ Chàm, kết hợp với chiếc áo tứ thân ở Bắc… Áo dài hai vạt của đàn bà Huế có được là do ảnh hưởng Chàm…”           Lê Quý Đôn viết: “Chúa Nguyễn Phúc Khoát hùng cứ ở xứ Đàng Trong, sau khi chiếm trọn nước Chiêm Thành, mở mang bờ cõi về phương Nam… Để chứng tỏ tinh thần độc lập, Chúa Vũ Vương Nguyễn Phúc Khoát đã chú trọng đến vấn đề cải cách xã hội, phong tục mà điều quan trọng là cải cách về y phục…”            Lần tìm trong “Đại Nam thực lục tiền biên” ta bắt gặp đoạn văn sau đây: “Chúa Nguyễn Phúc Khoát xưng vương, ông đã triệu tập quần thần tìm phương thức xưng vương và dựng một tân đô. Ông đã thay đổi lễ nhạc, văn hóa và trang phục.            Để thay đổi, phụ nữ miền Bắc mặc váy, phụ nữ miền Nam phải mặc quần có đáy (hai ống) giống đàn ông. Võ Vương đã gây ra một cuộc khủng hoảng về trang phục. Phụ nữ đã phản đối kịch liệt.                     Về sau Võ Vương không ưng ý với trang phục đó, Ngài giao cho triều thần nghiên cứu, tham khảo chiếc áo dài của người Chàm (giống hệt áo dài hiện nay nhưng không xẻ nách), và áo dài của phụ nữ Thượng Hải (xẻ đến đầu gối) để chế ra áo dài của phụ nữ miền Nam”.             Do đó, những chiếc áo dài đầu tiên của người Việt giống như áo dài người Chàm và có xẻ tà. Vậy là chiếc áo dài Việt Nam ngày nay có đủ hai yếu tố văn hóa phương Bắc và phương Nam.  Chiếc áo dài của người Chàm            Nói đến người Chàm là phải nói đến Chế Lan Viên [2], một hiện tượng thơ văn Việt Nam nhưng lại đậm nét Chàm với tập thơ Điêu tàn được xuất bản năm 1937. Bút hiệu Chế Lan Viên khiến người đọc thơ của ông liên tưởng đến Chế Bồng Nga, tên hiệu của vị vua thứ 3 thuộc vương triều thứ 12 (tức là vị vua đời thứ 39) của Chiêm Thành.            Trong thời kỳ Chế Bồng Nga cầm quyền, đất nước Chiêm Thành rất hùng mạnh, từng đem quân nhiều lần xâm phạm Đại Việt của nhà Trần. Ông hy sinh năm 1390 khi tấn công Thăng Long lần thứ 4.            Điểm đặc biệt ở chỗ Chế Lan Viên lại là một nhà thơ mang dòng họ Việt, Phan Ngọc Hoan, nhưng đã mượn hình ảnh của người Chàm để thể hiện một trường phái thơ mà ông gọi là Trường Thơ Loạn trong tập thơ Điêu tàn. Đặc biệt hơn nữa, khi xuất bản Điêu tàn, Chế Lan Viên chỉ mới 17 tuổi!                 “Ta hãy nghe, trong lòng bao đỉnh Tháp                Tiếng thở than, lời oán trách cơ trời                Ta hãy nghe, trong gạch Chàm rơi lác đác                Tiếng máu Chàm ri rỉ chảy không thôi”                (Chế Lan Viên – “Bóng tối” trong tập thơ Điêu tàn)                  “Bên cửa Tháp ngóng trông người Chiêm Nữ                Ta vẩn vơ nhìn không khí bâng khuâng”                (Chế Lan Viên, “Đợi người Chiêm nữ” trong tập thơ Điêu tàn)                “Chiêm nương ơi, cười lên đi, em hỡi!                Cho lòng anh quên một phút buồn lo!                Nhìn chi em chân trời xa vòi vọi                Nhớ chi em sầu hận nước Chàm ta?”                (Chế Lan Viên, “Đêm tàn” trong tập thơ Điêu tàn)                “Nước non Chàm chẳng bao giờ tiêu diệt                Tháng ngày qua vẫn sống với đêm mờ”                (Chế Lan Viên – “Bóng tối” trong tập thơ Điêu tàn)                “Tháng ngày qua, gạch Chàm đua nhau rụng                Tháp Chàm đua nhau đổ dưới trăng mờ!                …                Tạo hóa hỡi! Hãy trả tôi về Chiêm quốc!                Hãy đem tôi xa lánh cõi trần gian!”                (Chế Lan Viên, “Những sợi tơ lòng” trong tập thơ Điêu tàn)   Chế Lan Viên (1920 – 1989)            Thành Đồ Bàn là tên kinh đô của Chàm trong thời kỳ có quốc hiệu là Chiêm Thành. Thành Đồ Bàn, hay Vijaya, còn gọi là Thành cổ Chà Bàn hoặc thành Hoàng Đế, nay thuộc địa phận xã Nhơn Hậu, Thị xã An Nhơn và cách thành phố Qui Nhơn (tỉnh Bình Định) khoảng hơn 20km.            Trong lãnh vực âm nhạc, nhạc sĩ Xuân Tiên đã để lại cho hậu thế một tác phẩm bất hủ mang tên Hận Đồ Bàn với những lời thống thiết của người dân Chàm:                 “Rừng hoang vu, vùi lấp chôn bao uất căm hận thù                Ngàn gió ru, muôn tiếng vang trong tối tăm mịt mù                Vạc kêu sương, buồn nhắc đây bao lúc xưa quật cường                Đèn đóm vương, như bóng ai trong lúc đêm trường về…            Trong kho tàng âm nhạc Việt Nam trước năm 1975 có rất ít những bản nhạc mang tính cách lịch sử của một dân tộc “vong quốc” với những ca từ diễn tả tỉ mỷ đến từng chi tiết như một bài thơ:                 “Rừng rậm cô tình, đèo cao thác sâu, đồi hoang suối reo hoang vắng cheo leo                Ngàn muôn tiếng âm, tháng năm buồn ngân, âm thầm hòa bài hận vong quốc ca                Người xưa đâu, mà tháp thiêng cao đứng như buồn rầu                Lầu tháp đâu, nay thấy chăng rừng xanh xanh một màu…”                “Về kinh đô, ngàn thớt voi uy hiếp quân giặc thù                Triệu sóng xô, muôn lớp quân Chiêm tiến như tràn bờ                Tiệc liên hoan, nhạc tấu vang trên xứ thiêng Đồ Bàn                Dạ yến ban, cung nữ dâng lên khúc ca về Chàm                “Một thời oanh liệt người dân nước Chiêm lừng ghi chiến công vang khắp non sông                Mộng kia dẫu tan cuốn theo thời gian nhưng hồn ngàn đời còn theo nước non                Người xưa đâu, mộ đắp cao nay đã sâu thành hào                Lầu các đâu, nay thấy chăng rừng xanh xanh một màu…”  Kiến trúc và điêu khắc ở thân tháp Po Klaung Garai, thế kỷ 13            Không một ca sĩ nào hát Hận Đồ Bàn "có hồn" bằng Chế Linh [3]. Lý do cũng dễ hiểu vì anh mang tâm sự của một người Chàm với tên thật là Chà Len (Jamlen) và tên Việt là Lưu Văn Liên. Anh ra đời năm 1942 tại làng Hamu Tanran thuộc Phan Rang, nay là tỉnh Ninh Thuận.            Người ta biết nhiều đến Chế Linh qua dòng nhạc ca tụng những người lính trong quân lực VNCH mặc dù anh chẳng đi lính ngày nào vì thuộc dạng “miễn dịch” dành cho “dân tộc thiểu số”. Về dòng nhạc này, có người khó tính lại bảo Chế Linh thuộc thành phần… “lính chê”.            Người thương thì nói rõ ràng là anh bị “lính chê” nên mới được “miễn dịch”, một số khác, trong đó có cả những người đang mặc áo lính, lại không ưa những ca từ anh ca tụng họ. Họ bảo những bài hát đó được trình bày theo phong cách… “sến”.            Nhưng với Hận Đồ Bàn, mọi người đều có một nhận xét chung: bài hát đã đưa tên tuổi Chế Linh thâm nhập vào làng ca nhạc Việt Nam với tâm trạng của một người Chàm “vong quốc”. Chỉ tiếc một điều, những bài hát có tầm vóc như Hận Đồ Bàn rất hiếm trong nền ca nhạc nên Chế Linh phải bước sang một dòng nhạc gây nhiều tranh cãi [4].            Người ca sĩ gốc Chàm, được gọi là “tài hoa” cũng có một đời tư thật… “hào hoa”: Chế Linh nổi tiếng là người có nhiều vợ con, tính cho đến năm 2007, anh đã có 4 vợ và 14 đứa con. Ta khám phá được nhiều điều về Chế Linh qua bài viết của Jaya Bahasa, “Mừng sinh nhật lần thứ 57 của chị Nguyễn Thị Thúy Hằng” trên trang web Inrasara [5].            Vào giữa thập niên 1970 Chế Linh kết hôn với cô Nguyễn Thị Thúy Hằng (sinh ngày 1/12/1953, mất ngày 26/4/1974). Cuộc hôn nhân giữa một ca sĩ người gốc Chàm với một cô gái người Việt đã khiến giới báo chí Sài Gòn tốn khá nhiều giấy mực.            Jaya Bahasa viết: “Như một định mệnh hai dân tộc, hạnh phúc này nhanh chóng đổ vỡ bởi những mù khơi mà không ai có thể biết được. Vì muốn minh chứng cho tình yêu của mình được sống mãi, chị Thuý Hằng quyết định quyên sinh bằng một liều thuốc ngủ mà luyến tiếc để lại hai đứa con trai thơ dại.                     Cái chết của Thuý Hằng đến quá đột ngột và bất ngờ, một lần nữa, cánh báo chí và giới nghệ sĩ Sài Gòn thêm bàn tán rôm rả. Nhưng không người nào biết được căn nguyên. Bởi chị không một lời nào trăn trối ngoài ba lá thư để lại cho gia đình.             Lá thư thứ nhất viết cho người mẹ mà chị gọi bằng Mợ, xin tha thứ vì những lỗi lầm này và mong mợ hãy yêu thương đứa con của chị để được thấy chị qua hình ảnh đứa con. Lá thư thứ hai viết riêng cho hai đứa con yêu quý mà chị đặt tên là Sơn và Ca, một loài chim có giọng hót tuyệt vời. Lá thư thứ ba viết riêng cho ca sĩ Chế Linh, vài dòng ngắn ngủi với sự muộn màng và chỉ xin Chế Linh cho một nắm đất đắp lên mộ”.  Thúy Hằng và Chế Linh (Ảnh trên trang web Inrasara)             Chuyện tình Chế Linh – Thúy Hằng với đoạn kết đầy nước mắt khiến người ta liên tưởng đến một chuyện tình vương giả trong lịch sử Việt-Chàm. Huyền Trân là một công chúa đời nhà Trần, con gái của vua Trần Nhân Tông. Năm 1306, Huyền Trân được gả cho vua Chiêm Thành là Chế Mân để đổi lấy hai châu Ô và Lý (từ đèo Hải Vân, Thừa Thiên đến phía bắc Quảng Trị ngày nay).            Một năm sau đó, khi hoàng hậu người Đại Việt vừa sinh xong hoàng tử Chế Đa Đa, thì tháng 5/1307, quốc vương Chế Mân băng hà. Theo tục lệ nước Chiêm, khi vua chết hoàng hậu phải lên giàn hỏa để tuẫn tang. Vua Trần Anh Tông biết tin, sai Trần Khắc Chung vờ sang viếng tang, tìm cách cứu Huyền Trân.            Trần Khắc Chung bày kế thành công, cứu được Huyền Trân đưa xuống thuyền về Đại Việt bằng đường biển. Cuộc hải hành này kéo dài tới một năm (?) và theo “Đại Việt Sử ký Toàn thư” thì Trần Khắc Chung đã tư thông với công chúa.           Theo di mệnh của Thượng hoàng Nhân Tông, công chúa đầu gia Phật giáo ở núi Trâu Sơn (nay thuộc Bắc Ninh) vào năm 1309, dưới sự ấn chứng của quốc sư Bảo Phát. Công chúa thọ Bồ tát giới và được ban pháp danh Hương Tràng.             Trong dân gian, có lẽ vì thời đó người Việt coi người Chàm là dân tộc thấp kém, nên đã có câu:            Tiếc thay cây quế giữa rừng             Để cho thằng Mán thằng Mường nó leo  Đền thờ Huyền Trân Công chúa                      Nói đến lãnh vực âm nhạc của người Chàm như trường hợp của ca sĩ Chế Linh tôi lại nhớ đến nhạc sĩ Từ Công Phụng, vốn là bạn học năm Đệ Nhất tại trường Trần Hưng Đạo Đà Lạt. Chúng tôi chỉ quen nhau trong một niên học nhưng có nhiều chuyện để nhớ khi tuổi tác ngày một cao.            Từ Công Phụng ngày đó là một học sinh từ Ninh Thuận lên Đà Lạt học năm cuối trung học. Có lẽ anh là gốc người Chàm nên hình như luôn có một khoảng cách vô hình với đám học sinh chúng tôi. Anh “góp tiếng” tham gia ban nhạc nhà trường bằng giọng hát và chúng tôi rất ngạc nhiên khi nghe một giọng trầm, buồn và còn đặc biệt hơn nữa chỉ hát những bài “lạ”…             Đó là hai bài “Bây giờ tháng mấy” và “Mùa thu mây ngàn” do chính anh sáng tác. Thật không ngờ, khi mới 16 tuổi anh đã tự học về âm nhạc qua một cuốn sách của Robert de Kers, viết bằng tiếng Pháp, với tựa đề “Harmonie et Orchestration”. Đến năm 17 tuổi anh đã có nhạc phẩm đầu tay “Bây giờ tháng mấy”…             Hồi đó đang có cuộc thi tài giữa “trường Ta” là Trần Hưng Đạo và “trường Tây” của các sư huynh dòng La San là trường College d’Adran trên sân khấu thành phố Đà Lạt. Vì là trường Tây nên Adran chơi nhạc Beatles, đàn cũng là kiểu Beatles còn Trần Hưng Đạo chúng tôi khiêm tốn hơn, chơi đàn Fender theo các bản hòa tấu của The Shadows.             Có thêm Từ Công Phụng “chuyên trị” nhạc Việt thể loại “tình cảm” trở thành… “hoa thơm cỏ lạ” trong chương trình văn nghệ. Thoạt đầu Từ Công Phụng “khớp” không dám lên sân khấu nhưng anh em trong ban nhạc cứ khen những bài “tự biên, tự diễn” của Phụng và bảo đảm là sẽ nổi bật trong đêm văn nghệ.           Từ Công Phụng bỗng trở thành một hiện tượng tại Đà Lạt. Khán giả hoan nghênh nhiệt liệt đến độ Đài phát thanh Đà Lạt mời anh ghi âm để phổ biến qua làn sóng điện, tên tuổi của Từ Công Phụng được người Đà Lạt biết đến cùng với Lê Uyên Phương trong ban nhạc Ngàn Thông trên Đài phát thanh.             Cuối năm Đệ Nhất ban nhạc của chúng tôi tản mát mỗi người một phương. Họ Từ về Sài Gòn và ngay sau đó nổi lên như một nhạc sĩ ăn khách cùng thời với Vũ Thành An, Ngô Thụy Miên, Trịnh Công Sơn và Lê Uyên Phương.            Sau 30/4/1975, các sáng tác của Từ Công Phụng bị cấm lưu hành tại Việt Nam và mãi cho đến năm 2003 mới được… “cởi trói”. Anh rời Việt Nam năm 1980 và định cư tại Portland, Oregon. Năm 1998, anh trở về thăm quê hương Ninh Thuận và năm 2008, anh trở lại với chương trình "45 năm tình ca Từ Công Phụng" tại một phòng trà có tiếng ở Sài Gòn.             Nhạc sĩ kiêm ca sĩ Từ Công Phụng đã 2 lần vượt qua căn bệnh ung thư gan và ung thư túi mật nhưng vẫn mong đủ sức khỏe để sáng tác trong những ngày cuối đời. Với tình bạn học của buổi thiếu thời tôi chỉ mong anh sẽ sống mãi với chúng ta, chuyện sáng tác chỉ là vấn đề phụ vì những tác phẩm đã ra đời của anh đã là chứng nhân cho một nhạc sĩ tài hoa người Chàm.  Từ Công Phụng            Hồi còn đi học tại Ban Mê Thuột, tôi có một vị giáo sư người gốc Chàm. Thầy Nguyễn Văn Tỷ, quê quán tại Ninh Chữ, một bãi biển thuộc thôn Bình Sơn, thị trấn Khánh Hải, tỉnh Ninh Thuận.            Tôi cùng thầy Bùi Dương Chi đã dẫn đoàn sinh viên Mỹ đến bãi biển Ninh Chữ được coi là một trong những bãi biển đẹp nhất Việt Nam. Kết hợp với địa danh Bình Sơn, Ninh Chữ đã trở thành cụm du lịch Bình Sơn - Ninh Chữ đem lại diện mạo, thương hiệu và thu nhập cho tỉnh Ninh Thuận.            Thầy Nguyễn Văn Tỷ đã về hưu và sinh sống tại Ninh Chữ. Ông trở thành một “nhân sĩ” trong làng và vẫn tiếp tục nghiên cứu văn hóa Chàm để truyền bá lại cho lớp trẻ người Chàm. Ông cũng là một cộng tác viên kỳ cựu của Tuyển tập Tagalau như đã nói ở trên.            Tháng 10/2009 ông đến California để tham dự lễ Katê của cộng đồng người Việt gốc Chàm tại đây. Ông đã được mời phát biểu cảm tưởng tại buổi lễ. Theo ông, dân tộc Chàm muốn sống với nhau tốt, muốn tồn tại tốt cần thể hiện 3 yếu tố: Đoàn kết, Bảo tồn và Phát triển.             Đối với người Chàm, đoàn kết được thì sẽ được tất cả, và không đoàn kết thì sẽ mất tất cả. Điều này mang ý nghĩa sau khi bị “vong quốc” sẽ lại phải “vong thân”.            Người Chàm cần bảo tồn ngôn ngữ và chữ viết của mình, vì “tiếng Chàm còn thì người Chàm còn; tiếng Chàm mất thì người Chàm mất”.             Nếu tồn tại được mà không phát triển thì chỉ “tồn tại như một dân tộc bần cùng”, “vùi dập trong cuộc sống lạc hậu, tối tăm”.            Có lẽ đó cũng chính là lời kết của bài viết này về… “Người Chàm trong mắt tôi”.  Thánh địa Mỹ Sơn *** Chú thích: [1] Tagalau tiếng Chàm là cây bằng lăng hoa tím, mọc nhiều ở miền núi Ninh Thuận và Bình Thuận. Tuyển tập mang tên Tagalau vì nó tượng trưng cho tính dân dã, sức chịu đựng, sự khiêm tốn: nỗ lực nở hoa dù phải mọc trên mảnh đất nghèo cằn.Tagalau là Tuyển tập chứ không phải là Tạp chí nên không ra định kỳ, mà chỉ được xuất bản khi tập hợp đủ bài vở. Số đầu tiên của Tuyển tập Tagalau ra mắt vào lễ Katê của người Chàm năm 2000. [2] Chế Lan Viên (1920 – 1989), tên thật là Phan Ngọc Hoan, ra đời tại xã Cam An, huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị. Ông lớn lên và đi học ở Quy Nhơn, đỗ bằng Thành chung rồi đi dạy tư kiếm sống. Có thể xem Quy Nhơn, Bình Định là quê hương thứ hai của Chế Lan Viên, nơi đã để lại những dấu ấn sâu sắc trong tâm hồn của nhà thơ. Ông bắt đầu làm thơ từ năm 12 tuổi. Năm 17 tuổi, với bút danh Chế Lan Viên, ông xuất bản tập thơ đầu tay nhan đề Điêu tàn, có lời tựa đồng thời là lời tuyên ngôn nghệ thuật của "Trường Thơ Loạn". Từ đây, cái tên Chế Lan Viên trở nên nổi tiếng trên thi đàn Việt Nam. Trước năm 1945, thơ Chế Lan Viên là một thế giới đúng nghĩa "trường thơ loạn": Kinh dị, thần bí, bế tắc của thời Điêu tàn với xương, máu, sọ người, với những cảnh đổ nát của tháp Chàm. Những tháp Chàm "điêu tàn" là một nguồn cảm hứng lớn đáng chú ý của Chế Lan Viên. Qua những phế tích đổ nát và không kém phần kinh dị trong thơ Chế Lan Viên, ta thấy ẩn hiện hình bóng của một vương quốc hùng mạnh thời vàng son, cùng với nỗi niềm hoài cổ của nhà thơ. Phong cách thơ Chế Lan Viên rất rõ nét và độc đáo. Thơ ông là sức mạnh trí tuệ được biểu hiện trong khuynh hướng suy tưởng - triết lý, "chất suy tưởng triết lí mang vẻ đẹp trí tuệ và sự đa dạng, phong phú của hình ảnh thơ được sáng tạo bởi một ngòi bút thông minh, tài hoa". Con gái ông, bà Phan Thị Vàng Anh, cũng là một nhà văn nổi tiếng. [3] Hận Đồ Bàn do ca sĩ Chế Linh trình bày: http://mp3.zing.vn/bai-hat/Ha-n-Do-Ba-n-Che-Linh/IW7AZZCO.html [4] Tham khảo về Chế Linh tại: http://chinhhoiuc.blogspot.com/2013/08/sen-hay-sang.html [5] Tham khảo trang web của Inrasara về chuyện Chế Linh và Nguyễn Thị Thúy Hằng:http://inrasara.com/2010/11/26/theo nguoidongbang.blogspot.com.au (Nguồn: Chinhhoiuc)    
0 Rating 3.9k+ views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On August 18, 2015
Mộng Tình Xứ Champa(tác giả: Ngọc Tảo)Phần cuối – Những Bản Anh Hùng Ca ...Sau buổi tối ngày hôm đó, JaNin trở lại bình thường trong sự ngạc nhiên của nhiềungười, chàng không kể cho ai nghe về chuyện mà chàng đã gặp trong hang động, trong lòng chàng luôn tin tưởng vào thần linh. JaNin nhanh chóng hiểu ngay thời cuộc và chàng xin nhập vào đại quân. PaRa cũng bắt đầu hiểu ra sự tha thứ của JaNin dành cho Bố Ca, điều đó thật cao thượng, và rồi nàng cũng dần dần tha thứ cho Bố Ca. Ngoài chiến trận, chiến sự đã bắt đầu thay đổi. Saka năm 1393 (tức vào tháng 1 năm 1471 sau CN), đại quân địch đóng ở thừa tuyên Thuận Hóa (nay là đất Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên-Huế) đây vốn là đất các châu Bố Chính, Địa Lý, Ma Linh, Châu Ô,Châu Rí của ta đã đánh mất, địch bắt đầu có dấu hiệu động quân, những toán quân xung kích của địch qua sông Trường Định (nay thuộc địa phận Đà Nẵng) rồi chiếm lấy cửa quan của ta.Bên ta, đức vua tối thượng ban lệnh cho người em trai mình cùng nhiều quan tướng đại thần dẫn năm mươi ngàn quân cùng trăm voi chiến tiến quân ra nơi địch hạ trại, quân ta xuất phát tiến thẳng đến gần doanh trại chúng rồi án binh chờ thăm dò tin tức và quan sát tình hình bên địch.Cả hai bên đều án binh bất động, bốn ngày sau, chẳng cần hứa ngày động quân, đại quân của địch đánh trống giục quân tiến đánh quân ta bất ngờ , quân địch rất mạnh và rất đông, bên ta kháng cự chống đỡ kịch liệt nhưng yếu thế nên phải rút quân, trên đường rút chạy về Đồ Bàn qua các con đường núi và những khu rừng,ta luôn bị địch chặn đánh. Quân ta chưa kịp rút tới thành cổ Châu Sa, vừa mới đến ngọn núi Mộ Nộ thì bất ngờ quân địch ở đâu đã mai phục trước xông ra ép đánh quân ta dồn về phía chân núi cao, những toán quân khác của địch ở nhiều phía tiếp tục xông ra với mật độ rất đông, bên ta vỡ đội hình, yếu ớt chống cự trong vũng máu, năm mươi ngàn quân của ta mất mát rất lớn, quân ta cố gắng vượt đường núi rút về thành Đồ Bàn, rút chạy đến cửa biển Thái Cần (thuộc địa phận Quảng Ngãi ngày nay) thì bị đội quân hung hăng của địch đã mai phục trước chặn đánh, số thương vong bên ta ngày càng tăng, tàn quân còn lại sống sót nhắm hướng Đồ Bàn mà chạy. Ở trong thành Đồ Bàn, tin tức chiến trận được truyền về, cả thành náo loạn, nhà vua cùng các quan thần cao tuổi họp nhau tìm kế kìm chân kẻ thù, họp cả ngày cũng chẳng tìm ra được cách gì. Cuối cùng tất cả cùng đồng ý cho một giải pháp bất đắc dĩ là cử một người trong hoàng gia mang nhiều lễ vật đến sang bên địch xin hàng, đồng thời cấp tốc tuyển chọn binh lính tinh nhuệ đi đến thành Thị Nại để tổ chức hàng tuyến phòng ngự vững chắc đề phòng kẻ thù không chấp nhận yêu cầu xin hàng của ta. Thị Nại là ngôi thành quân cảng có vị trí và vai trò rất quan trọng, Thị Nại như là một tấm khiên vững chắc bảo vệ cho kinh đô Đồ Bàn, quân Đại Việt đã xua quân đến tận đây thì việc tiến đánh Đồ Bàn chỉ là trong ngày một ngày hai, nên ta cần phải cố gắng giữ thành Thị Nại cho bằng được nhằm không cho kẻ thù tiến đến sát nơi mà nhà vua của ta ngự.JaNin từ hôm không được đi đánh trận đầu thì thất vọng không ngừng, nay nghe lệnh vua ban tuyển binh tinh nhuệ thì lập tức đến gặp vị tướng quân lãnh đạo đội quân xin được cùng đi đến thành Thị Nại, vị tướng nhìn qua JaNin là biết một kẻ sức khỏe y như một chiến binh thực thụ thì chấp nhận và bố trí cho chàng vào đội hình. Bố Ca được tin, đến kêu JaNin xin vị đại tướng cho Bố Ca được đi theo đánh giặc giữ thành, JaNin dành lời khen ngợi cho Bố Ca, nhưng chàng biết Bố Ca đã quyết tâm muốn đi thì cố gắng khuyên ngăn Bố Ca cách mấy cũng không được nên chàng gật gù đồng ý sẽ đến xin thử, nhưng JaNin lại không làm như vậy, chàng không muốn Bố Ca đi, chàng muốn Bố Ca ở lại bảo vệ cho PaRa, chàng lo cho PaRa và đất nước của mình.Ngày hôm sau, đội quân xuất phát ra thành Thị Nại, JaNin được sắp xếp cùng với nhiều người khỏe mạnh khác canh giữ cửa chính của thành, JaNin đã chuẩn bị sẵn sàng dành cái chết cho bất kì tên giặc nào giám xông vào thành đầu tiên.Lời xin hàng của ta được vua của Đại Việt chấp thuận, mọi người trong thành Thị Nại và cả trong thành Đồ Bàn thở phào nhưng không vì thế mà bớt đi sự lo toan trong lòng.Nhiều ngày trôi qua, binh lính giữ thành Thị Nại bắt đầu hiện tượng bê trễ, việc canh phòng không còn nghiêm ngặt như tình thần ban đầu được đặt ra, JaNin khuyên răn nhiều người nhưng cũng bằng không, chàng xin tìm đến gặp người tướng quân dùng lời thẳng thắn nói rõ tình hình lòng quân của ta, viên tướng quân ầm ừ cho qua truyện rồi khen JaNin có trách nhiệm cao nhưng rồi đâu cũng lại vào đấy.Tháng 10 năm 1393 niên lịch Saka ( vào ngày 27 tháng 2 năm 1471 sau CN), quân địch trở mặt và bội ước, trong đêm tối mang đại quân vây đánh thành Thị Nại, quân ta trong thành quá bất ngờ không kịp cho sự chuẩn bị tốt nhất, lực lượng hai bên lại chênh lệch nhau, JaNin cùng tất cả số quân trong thành ra sức chống đỡ nhưng quân địch nhanh chóng phá được các cổng rồi xua quân tàn sát, quân trong thành mở đường rút chạy, trong đêm tối JaNin và rất nhiều người khác quan sát các vì sao chọn hướng mà chạy thẳng về Đồ Bàn, quân ta chạy rất nhanh, quân địch cũng đuổi theo rất gắt, một toán quân của kẻ thù đã đuổi kịp, dẫn đầu chúng là một tên tướng dữ dằn cầm hai cây chùy khá nặng làm vũ khí, tên này hét to dục ngựa chạy về phía quân ta, JaNin đang cắm đầu chạy, chàng quay đầu lại thấy đằng sau là rất nhiều người cũng đang cắm đầu chạy như chàng, ở xa là những ngọn đuốc sáng của địch lớm chớm đuổi theo. Đang chạy cùng với những người khác thì đột nhiên JaNin chạy chậm lại, chàng bước đi từ từ suy nghĩ rồi bỗng chuyển hướng quay lại chạy về phía bọn địch, JaNin chạy xuyên qua những dòng người của ta đang chạy tới, chàng chạy rất nhanh, trên tay chàng là thanh gươm cực kì bén, mọi người thấy JaNin chạy lại thì hết sức hoảng hốt, họ cũng bắt đầu chậm lại rồi bỗng hiểu ý của JaNin, từng người từng người một quay đầu chạy theo JaNin quay về hướng bọn giặc đang tiến tới với những sự tức giận đã lên cao. JaNin lao tới, tên tướng kia cưỡi ngựa chảy đến vung chùy vào đầu JaNin, JaNin né được rồi rất nhanh kéo chân hắn làm tên tướng ngã ngựa xuống đất một cái thật mạnh, những người anh em phía sau vừa kịp chảy đến vung đao đâm thương bầm tên tướng thành đống thịt nát, đám quân giặc phía sau thấy tướng mình chết thì chùn bước chân, quân ta chạy tới áp sát đánh cho toán quân này phải chạy ngược về lại thành Thị Nại, đại quân của chúng đang ở đó, JaNin gọi mọi người không đuổi theo, tất cả lại hướng về phía thành Đồ Bàn mà chạy. Ngày hôm sau, đại quân của địch xuất phát từ thành Thị Nại hướng thẳng về kinh đô Đồ BànJaNin và nhiều người khác rút về đến kinh đô thì liền ngay vào điện thông báo tin cho Vua biết. Cả hoàng gia và toàn thành Đồ Bàn, ai nấy cũng đứng ngồi chẳng yên, giặc đã ở trước mắt, trong ánh mắt và khuôn mặt của tất cả mọi người in rõ sự lo lắng tột cùng.Tháng 10 năm 1393 lịch Saka ( vào ngày 29 tháng 2 năm 1471 sau CN), đại binh của Đại Việt đã đến kinh đô Đồ Bàn, giặc bao vây thành đông nghịt, bốn cổng của Đồ Bàn không có lối thoát dù chỉ một con muỗi cũng không bay được ra ngoài, quân giặc gõ khiên đạp đất làm nhuệ khí của quân ta mất đi tinh thần chiến đấu, JaNin cùng vô số binh lính chống giữ tòa thành gần cửa phía tây, ba cửa còn lại cũng được khóa chặt và chống đỡ rất chắc, Bố Ca giữ vị trí trên tòa thành ở gần cửa cổng phía nam.Giặc dùng thang leo thành nhưng bị ta kháng cự quyết liệt, trên dãy thành là nơi chiến đấu ác liệt nhất, ta cố gắng không cho một tên địch nào vào được.Vua và một số tướng quân của ta lên tòa thành quan sát thì thấy lực lượng quân địch đông như kiến, ngài truyền cho sứ giả mang rất nhiều lễ vật sang xin hàng, nhưng giặc vẫn tiếp tục công kích quyết tâm phá thành. Giặc cho bắn tên vào thành, chúng tiếp tục dùng thang cố gắng leo vào, quân ta chống giữ và đáp trả rất kiên cường, dân chúng và gia đình trong thành là hậu phương tinh thần vững chắc cho ý chí của quân ta.Ngày thứ hai, những tặng vật cao quý của ta lại được mang đi sang bản doanh của địch để xin hàng nhưng vẫn không được đáp ứng, quân địch bắt đầu đánh trống thúc quân đánh phá dữ dội, đến chiều thì cửa thành phía đông bị phá tan, quân giặc ùa vào như nước vỡ bờ, quân ta dồn về phía đông thành ra sức chiến đấu nhưng chống đỡ không nổi, quân giặc vào được thành ra sức chém giết, binh lính và người dân hỗn loãn. Đại quân của địch theo cửa đông tiến vào, chúng tiến thẳng đến điện nhà vua ngự, chém giết và bắt bớ hết tất cả những ai trong hoàng gia và quan thần.JaNin đang ở trên thành chiến đấu, trông thấy phía xa cửa đông quân giặc tiến vào ồ ạt chém giết khắp nơi thì chàng nghĩ ngay đến PaRa, chàng xuống thành và chạy ngay đến nhà PaRa, xung quanh chàng là tiếng khóc của những người mẹ chạy đi tìm con, tiếng gọi đau đớn của người vợ kêu tên chồng mình, những gương mặt bơ phờ của đứa cháu tìm bà, con tìm cha, những tiếng kêu cuối cùng của người thanh niên bị quân giặc cắt cổ, tiếng binh đao giáo mác cứa vào nhau. JaNin vừa chạy vừa khóc trước cảnh tượng chua xót và đau thương. JaNin chạy rất nhanh, dưới chân chàng, nền đất bị tưới ướt bởi dòng sông máu, chàng cố gắng giằn vặt đôi mắt của mình nhắm lại để không trông thấy thảm cảnh xung quanh, ngôi nhà PaRa đang ở trước mắt chàng, có một đám địch đang dàn quân trước cổng vào nhà PaRa, JaNin giương mắt nhìn vào thấy một tên giặc to lớn đang bóp cổ Bố Ca ở giữa sân, thì ra Bố Ca đã về cứu PaRa trước, JaNin chạy tới nhảy qua hàng rào rồi thật nhanh lao tới rút gươm chém một nhát rất mạnh, máu vung tóe trên khuôn mặt chàng và Bố Ca, cái thây của tên giặc to lớn ngã xuống, đầu hắn lăn long lóc văng ra xa; đám quân bên ngoài thấy JaNin chặt đầu tướng của mình thì hốt hoảng loạn đội hình, một tên tướng to lớn khác đang giết người ở nhà bên cạnh tròn mắt bước đến nạt đám lính rồi hắn cầm thanh đao to đùng đi tới chỉ vào mặt JaNin nói gì đó mà JaNin không hiểu, hắn vung đao chém JaNin, JaNin né ngay, Bố Ca đứng gần cầm cây thương hai lưỡi đâm hắn, hắn dùng khiên đỡ được rồi chém Bố Ca một nhát vào tay, JaNin vừa né được đao thì dùng gươm đâm vào bụng gã nhưng bộ giáp gã này mặc rất dày, gươm không xuyên qua được, hắn dùng khiên tạt thẳng một cái vào đầu JaNin làm chàng ngã xuống, đầu JaNin chảy máu, Bố Ca bị một nhát nơi cánh tay thì bước lui mấy bước tựa vào tường nhìn vào bên trong nhà. Trong nhà, nàng PaRa ôm đứa con trốn trong phòng ngủ, đứa con khóc lên, tên tướng nge thấy tiếng khóc của trẻ con trong nhà thì ra lệnh cho đám quân bên ngoài bắn tên tẩm lửa lên mái nhà, Bố Ca vốn hiểu được tiếng của người nước Đại Việt, nghe thấy tên tướng định cho người đốt nhà thì Bố Ca lao tới, phi cây thương đang cầm trong tay thật mạnh về tên giặc to lớn, hắn dùng đao đỡ mũi thương bay đến, Bố Ca bước tới thì hắn chém Bố Ca thêm một nhát vào cánh tay còn lại, rồi hắn dùng đao đâm Bố Ca, Bố Ca ngã gục xuống trong vũng máu. Tên giặc bước tới nhìn JaNin đang nằm dưới đất bên dưới một cái cây, chàng bị choáng, JaNin giương mắt nhìn hắn, ở bên trên đầu hắn, JaNin thấy đứa em trai của PaRa đang ở trên cây, hắn đạp JaNin mấy cái vào ngực, em trai của PaRa ở trên cây nhảy xuống với một cục đá to trên tay nhắm đầu tên giặc đập một cái rất mạnh phát ra thứ âm thanh nghe như quả trứng bị vỡ, tên tướng ngã xuống, JaNin vực dậy đè lên người hắn rồi dùng thanh gươm đâm mạnh vào cổ tên tướng, hắn không còn cơ hội để sống. Năm mũi tên chấm lửa được bắn lên mái nhà , lửa bắt rất nhanh, JaNin nhìn vào trong kêu to : - “ PaRa ! …thoát khỏi đó đi, chảy ra đi… “ PaRa ở trong nhà ẵm con chạy ra ngoài, thấy Bố Ca nằm dưới đất mình mẩy đầy máu thì nàng không kìm chế được nước mắt. JaNin nói : - “ PaRa, hãy đứng sau lưng anh.. “ Mái nhà tranh bốc lửa làm khói mù mịt, tàn tro theo gió bay xuống khắp sân nhà. Ở đằng xa, lửa bốc lên khắp nơi, bọn giặc hung ác đốt nhà giết người trong tiếng thét của lời cầu xin vô vọng, một cột khói khổng lồ bay ra từ điện của vua, tất cả mọi thứ đang bị quân giặc đập phá và thiêu đốt.Một tên tướng khác tới cổng nhà PaRa cùng với đám cung thủ của hắn, nhìn thấy hai tên tướng nằm dưới đất, bên trong là một tên lính và một đứa trẻ đứng bảo vệ cho một người phụ nữ cực kì xinh đẹp đang ôm đứa con thì tên tướng này hiểu ngay mọi chuyện. Hắn giương cung, JaNin lập tức nhặt cái khiên của tên tướng ban nãy lên rồi kéo đứa em trai của PaRa núp sau mình, một mũi tên bắn tới, JaNin dùng khiên đỡ được; hắn tiếp tục giương cung, lần này là ba mũi tên sắp được bắn về phía JaNin, JaNin nhìn thấy liền quỳ gối một chân xuống thấp, đứa em trai cũng quỳ gối một chân áp thật sát sau lưng JaNin, nàng PaRa hiểu ý cúi người thấp xuống, một tay ôm con, một tay ôm chặt sau lưng em trai mình, JaNin cầm khiên che hết cả ba. Mũi tên bắn tới, ba mũi đều dính chặt vào khiên, cả ba người không hề hấn gì cả. Tên tướng tức giận hét to ném cung xuống đất, hắn cầm hai thanh đao lao vào, JaNin một tay cầm khiên, tay kia cầm gươm đỡ những đường đao tới tấp, hắn lấy hết sức vung một đao cực mạnh làm cái khiên vỡ làm hai, em trai PaRa nhặt một mũi tên chảy tới nhảy lên bám vào vai tên tướng rồi đâm mũi tên vào cổ hắn, tay hắn bỏ đao nắm đầu đứa trẻ đẩy mạnh ra chỗ cổng, một mũi tên bắn tới găm thẳng vào lồng ngực đứa trẻ xuyên qua sau lưng làm em trai PaRa bị đẩy lùi về phía sau rồi ngã xuống, PaRa la lên kêu tên em mình rồi nàng ôm con chạy tới, nàng ngồi xuống, nàng mặc váy, hai chân nàng xếp gọn sang một bên, tay nàng ôm đầu em trai khóc thét gọi tên. Tên tướng bị em trai PaRa đâm tên vào cổ, lại bị JaNin đâm thêm một gươm vào đùi, hắn loạng choảng chạy về phía quân của mình nhưng chưa kịp đến cái cổng thì gục xuống đất máu chảy lai láng. JaNin chảy đến kéo PaRa ra khỏi cái xác của em trai, phía sau ngôi nhà đang cháy dữ dội, khắp nơi đều là kẻ thù, chẳng còn con đường nào để chạy nữa. Bên ngoài, đám cung thủ xếp thành hai hàng, giương cung nhắm về phía JaNin và PaRa, đứa con PaRa khóc, nàng cũng khóc, JaNin cũng rơi nước mắt theo, chàng ôm hai mẹ con PaRa vào lòng, JaNin và PaRa nhìn đứa con rồi họ nhìn nhau, đó là những ánh mắt của ngày xưa, những ánh mắt đau đớn với những dòng nước mắt tiếc thương cho đất nước, cho số phận và cho cả tình yêu đôi lứa. JaNin xoay lưng mình về phía đám cung thủ, chàng ôm hai mẹ con PaRa thật chặt rồi lui một bước, hai người đứng đối diện nhìn nhau, JaNin nhìn lên bầu trời, chàng hướng đôi mắt nhìn về phía Tháp Cánh Tiên, bên tai chàng văng vẳng những tiếng thét, tiếng kêu la, tiếng binh đao, tiếng lửa cháy, tiếng máu chảy, tiếng những viên gạch thành Đồ Bàn sụp đổ, chàng nhìn sâu vào mắt PaRa đang thắm đẫm nước mắt, chàng nói : - “PaRa ! Mãi……” Một làn tên nhanh chóng bắn tới ghim thật mạnh vào phía sau lưng JaNin, PaRa giật mình trông thấy những đầu mũi tên từ đâu chui ra từ ngực, từ bụng, từ cổ chàng, những dòng nước mắt thi nhau tuôn ra từ đôi mắt nàng, hai tay JaNin đặt lên hai bờ vai PaRa, đôi mắt chàng ứa máu nhìn PaRa,….và rồi chàng tắt thở, đôi chân chàng vẫn đứng đó để che cho PaRa. Đám cung thủ bên ngoài tưởng JaNin chưa chết, chúng dàn thêm ba hàng rồi giương cung nhắm về phía JaNin. Đứa con PaRa đang khóc, nàng đặt một nụ hôn lên má con mình rồi thì thầm vào tai đứa con yêu: - “ Likei ngoan, Likei ngoan của mẹ đừng khóc. “ Đứa bé với đôi mắt to tròn non thơ nhìn mẹ rồi nín hẳn.PaRa gỡ hai tay JaNin đang đặt trên vai mình ra, một làn tên mới được bắn đến, PaRa đẩy nhẹ JaNin làm chàng ngã gục, nàng ngồi xuống đặt con nhẹ nhàng dưới đất, nàng nhìn con với tất cả tình yêu thương và niềm hy vọng, những mũi tên bay đến găm vào lưng, cổ và đầu nàng, nàng chết bên cạnh con, cạnh JaNin, Bố Ca và em trai mình. Đứa con PaRa ngồi bên cạnh mẹ, nó không hiểu chuyện gì đang xảy ra cả, đôi mắt thơ ngây lặng thinh của nó nhìn về phía bọn giặc.Một làn tên mới được bắn tới..............[ Ngày 1 tháng 3 năm 1471, thành Đồ Bàn của ChămPa bị hạ dưới tay Đại Việt, vua Chăm là Trà Toàn và hàng chục người trong hoàng gia bị bắt, gần 60 ngàn người Chăm ngã xuống, 30 ngàn người bị bắt làm nô lệ, thành Đồ Bàn bị phá huỷ hoàn toàn, người Chăm bắt đầu di cư với số lượng lớn sang Cao Miên (Khmer) và bán đảo Malaca (Malaysia), lãnh thổ ChămPa dần dần bị thu hẹp xuống phía nam. ] theo facebook.com
0 Rating 223 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On August 18, 2015
Mộng Tình Xứ Champa( tác giả: Ngọc Tảo ) Phần2 – JaNin gaok Yang ( JaNin gặp thần ) ...JaNin chạy về nhà, nằm trên giường nghĩ ngợi về những ngày tháng qua, đến bây giờ chàng vẫn không thể tin sự thật lại là như vậy, ruột gan chàng bây giờ đau thắt, Một lúc sau thấy hai người đàn ông vác mười bầu rượu đến để trước nhà, đây là hai người làm thuê ở nhà Bố Ca, JaNin cũng quen, hai người này kể hết sự tình những ngày qua cho JaNin nghe, JaNin nghe hai người này kể lại rằng mẹ chàng vì bệnh già yếu nên đã mất, JaNin đau đớn thét lên trong tiếng khóc thảm thiết, họ chỉ cho JaNin chỗ mẹ chàng nằm trên ngọn núi,JaNin ngã gục xuống bãi đất mồ, chàng chỉ có mẹ là người thân duy nhất mà bây giờ mẹ cũng đã bỏ chàng ra đi, chàng nằm khóc bên mộ mẹ, xé áo mình tan tành, tiếng khóc của chàng vang cả khu rừng trong cả ngày đêm, thật đau thương và thật tội nghiệp. Từ đó trở đi, JaNin không vào thành nữa, chàng không thể nào tin rằng PaRa đã là vợ của Bố Ca, PaRa đã không đợi được chàng và thay đổi tình cảm chóng vánh, đúng là trò đùa, JaNin bắt đầu học cách cười nhếch môi để chế giễu việc đời. JaNin giờ như một người điên dại, chàng làm bạn với rượu. Sáng,trưa,chiều, tối, chỉ rượu,rượu và rượu, rượu làm chàng quên bớt được buồn đau, làm chàng quên đi cái kỉ niệm đáng ghét, có cái gì đó bị vướng ở trong trái tim khi chàng say, đó ắt hẳn là thứ được gọi là Tình Yêu, chàng đã từng say mê PaRa, chàng đã từng dành trọn tất cả tình cảm cho nàng, giờ sẽ không say hay si mê người con gái với thứ tình cảm tầm thường này nữa, chàng sẽ chỉ say rượu, chàng yêu rượu như đã từng yêu PaRa vậy. Ôi rượu thật là ngon ! Một tháng trôi qua, nhưng đã là tháng thứ tám PaRa mang thai, đứa con dĩ nhiên không phải là của JaNin, vì nàng với JaNin chỉ có một thứ tình yêu trong khuôn phép, thứ tình yêu không vượt qua khỏi vòng lễ giáo và luân lý của dòng tộc. Bố Ca sắp được làm cha, hắn cảm thấy yêu PaRa hơn và một niềm vui mừng trong lòng không tả được, Bố Ca hy vọng đứa con của hắn với PaRa sẽ là vị thuốc cực tốt để xóa lành quá khứ và cắt đứt tình cảm của PaRa dành cho JaNin, hắn thừa biết tình cảm của vợ mình dành cho JaNin là nhiều đến chừng nào. Sự có mặt đột ngột của JaNin vào chiều nay làm nảy ra trong đầu Bố Ca biết bao nhiêu suy nghĩ và tính toán. Đêm đó Bố Ca nằm mơ thấy JaNin cầm dao xé toạt miệng mình, hắn thét lên vì sợ nhưng hét không ra tiếng, PaRa đứng gần bên cúi đầu xuống, một tay chỉ lên trời, Bố Ca ngước cổ lên thì JaNin dùng dao cắt đầu mình, đầu Bố Ca lăn lóc xuống cái đầm bùn hôi thối cạnh đấy, hắn không thấy đau mà chỉ thấy choáng, Bố Ca choàng tỉnh dậy mình mẩy sướt mướt mồ hôi, hắn ngồi dậy định thần rồi từ từ suy nghĩ. PaRa từ khi gặp JaNin, trong lòng hối hận vì phụ lòng chàng, nàng không ngờ là JaNin vẫn còn sống nhưng nàng bây giờ là người đã có chồng và sắp làm mẹ, nàng không thể làm gì hơn là đành chấp nhận số phận trớ trêu và cợt đùa, nàng buồn bã đến sinh bệnh nhưng vì đứa con nàng đã cố gắng rất nhiều, nàng trách Bố Ca, nàng hận Bố Ca, nàng nhớ JaNin, nàng thương JaNin, trong cơn mơ nàng kêu tên JaNin. Bố Ca vừa mới gặp ác mộng, ngồi dậy nghĩ ngợi, lại nghe thấy vợ kêu tên thằng JaNin trong giấc mơ càng làm cho Bố Ca nghe thấy sôi sục cả ruột gan, Bố Ca nghĩ trước kia mình đã bỏ JaNin một mình trở về, thế nào cũng bị JaNin trả thù như trong giấc mơ vừa rồi, rõ ràng là trong mơ lúc nãy thì PaRa đứng về phía JaNin đồng lõa hại mình, không định liệu trước thì sau này mất PaRa mà tính mạng mình e cũng chẳng còn, nghĩ thế liền ngày đêm tìm cách hại JaNin, hắn nghĩ phải tìm cách đuổi JaNin ra khỏi đất này, ra khỏi khu rừng và biến mất mãi mãi trước mặt PaRa.Trong một lần đi mua hàng hóa ở ngoài bến cảng, Bố Ca tình cờ được sự chỉ dẫn của một đạo sĩ Bà La Môn, người này chỉ cho Bố Ca con đường đi đến ngôi làng ở bên kia hai đỉnh núi, ở đó có một người đàn bà điên nhưng lại nắm rõ và sự dụng được khá nhiều bùa thuật. Bố Ca tức tốc một mình tìm đến chỗ người đàn bà đó.“Nhà tiên tri lửa” là cách gọi mà người đàn bà điên này tự xưng cho mình, nhưng người ta vẫn thường gọi bà ta là Muk Mâtah. Muk Mâtah hiển nhiên cũng không phải là quá điên như người ta truyền tai nhau, bà ta chỉ thích ăn sống những loài động vật nhỏ thân mềm nên người ta mới gọi bà là Muk Mâtah( nghĩa là Bà Sống) Những người xung quanh sợ những hành động quái gở của Muk Mâtah, người ta sợ khi thấy một người đàn bà tóc xõa lưng khòm đi như là chạy, Muk Mâtah đi rất là nhanh.Ngày xưa, khi Muk Mâtah còn trẻ, Muk Mâtah cũng bình thường như những người khác, bà cũng có một căn nhà tranh, một người chồng và một đứa con trai mới sinh. Một ngày kia, người chồng của Muk Mâtah lên rẫy bẫy thú rồi không thấy trở về nữa, anh em họ hàng cùng nhau lên tìm hết quả núi mà không thấy, ai cũng cho là người đàn ông xấu số bị thú dữ cắn rồi tha đi hoặc bị ma quỷ bắt. Muk Mâtah buồn bã và cứ sống như thế nuôi con. Một buổi chiều mát, Muk Mâtah ẵm con nhỏ lên rẫy để trồng đậu và định ở đó một đêm, khi đi sắp đến rẫy của mình thì thấy một đàn gà rừng nhìn rất lạ mắt chạy ngang qua đường định chui vào bụi gai, Muk Mâtah nhanh tay nhặt một cục đá ném trúng chân một con, bà ta bắt lấy con gà này rồi mang lên rẫy, càng nhìn con gà này đúng là càng lạ, Muk Mâtah chưa thấy loại gà nào có bộ lông màu sắc như thế này. Đến ngôi chòi nhỏ trên rẫy thì trời cũng vừa chập tối, Muk Mâtah bé con nhỏ vào ru trên chiếc võng trong chòi, khi con đã ngủ thì bà ta ra bếp nấu cơm rồi đun nước chuẩn bị làm thịt con gà tội nghiệp lúc nãy, Muk Mâtah mài cho con dao đã rỉ sét một phần cho nó bén hơn, bà ta nhổ lông cổ gà, dùng dao cứa một đường thật sâu vào cổ nó, con gà gáy lên một tiếng thì trong nhà đứa con của Muk Mâtah cũng khóc lên rất to, đến lúc con gà im thì đứa bé trong nhà cũng lặng đi không khóc nữa, Muk Mâtah nghĩ là con mình thức giấc vì đói bụng, bà ta tặng thêm một đường cứa nữa vào cổ con gà này cho máu nhanh chảy hết, con gà gáy thêm một tiếng cuối cùng trước khi Muk Mâtah thả nó ra, bên trong nhà đứa con lại khóc rống lên càng to, Muk Mâtah đút thêm mấy cây củi vào bếp lửa rồi đi rửa tay, đến lúc này thì con gà rừng đã chết, đứa con trong chòi cũng im hẳn. Bà ta bước vào trong cái chòi nhỏ thì hoảng hốt giật mình không thấy đứa con đâu, chiếc võng thì vẫn còn đó đong đưa trong sự kinh dị, ánh lửa của cây nén cũng bị gió thổi tắt đi, Muk Mâtah hoảng quá chảy vòng ra sau nhà, vừa khóc vừa tìm vừa kêu tên con, bà ta bước xuyên qua bụi gai sau nhà chạy đi tìm con mình, Muk Mâtah thảm thiết kêu tên đứa con và chạy đi tìm hết cái rẫy nhà mình mà cũng không thấy, bà ta chạy vào nhà bếp, cơm đã khét mùi cháy, con gà rừng hồi nãy cũng biến mất, Muk Mâtah rất sợ, bà ta rút một cây củi có lửa dưới đáy nồi ra rồi chạy lại vào chòi, vừa mới bước một chân vào cửa chòi thì Muk Mâtah bị một cánh tay nhơ nhuốp máu tát mạnh một cái vào mặt, Muk Mâtah bất tỉnh tới sáng.Sáng hôm sau, những đứa trẻ mục đồng chăn bò vào rẫy Muk Mâtah xin nước, thấy mặt người phụ nữ dính đầy máu thì liền đi chạy về làng gọi người tới cứu. Người ta đến xem, chăm sóc một hồi thì Muk Mâtah tỉnh dậy, nhưng đứa con nằm trên cái võng trong căn chòi thì đã tắt thở tự bao giờ, Muk Mâtah ôm con khóc mãi. Sau khi tự tay chôn xác đứa con, Muk Mâtah dường như bị biến đổi thành người khác, bà ta ẩn mình trong rừng, ít khi về làng, cũng kể từ đó, không biết Muk Mâtah được ai hay một thứ gì đó dạy mà bà ta bắt đầu sử dụng được những bùa thuật cổ xưa. Muk Mâtah trở nên quái dị, nhiều lời đồn cho rằng chính bà đã tự tay giết con, dần dần người ta cho bà là điên và đặt cho cái tên là Muk Mâtah thay vì cái tên cũ là Gliu.[….]Bố Ca tìm được đến nhà Muk Mâtah, Bố Ca sợ quá khi thấy Muk Mâtah đang nuốt mấy con thằn lằn đang ngoe nguẩy cái đuôi, bà ta cười to lên ngoái tay gọi Bố Ca đang đứng ngoài hàng rào vào nhà, nói chuyện với người đàn bà này một hồi, Bố Ca nhận thấy bà ta lúc điên lúc tỉnh, không biết có nhờ vả được chuyện không. Một cuộc thương lượng được diễn ra, những yêu cầu của Muk Mâtah Bố Ca đều có thể đáp ứng được chỉ trừ một việc, người đàn bà này đòi Bố Ca mang đến cho bà ta một đứa bé sơ sinh khi mọi việc xong xuôi, khi Bố Ca hỏi cần đứa trẻ để làm gì thì Muk Mâtah chỉ lo nuốt số thằn lằn còn lại trong tay mà không trả lời, Muk Mâtah há miệng làm lộ hai cái răng nanh dài hơn người thường, Bố Ca sợ quá gật đầu đồng ý đại, về đến nhà xong việc sẽ định liệu sau, bù lại những gì Bố Ca đáp ứng, Muk Mâtah sẽ phải hại một người mà về đến nhà Bố Ca sẽ nói rõ chi tiết. Thế là ai cũng có những ý định và ý muốn của riêng mình. Trưa hôm đó cả hai xuất phát về Đồ Bàn, giữa đường ngủ qua đêm trong rừng, chứng kiến cảnh tưởng Muk Mâtah mặc váy trèo cây cao như một loài bò sát làm Bố Ca choáng váng, đúng là bà ta đang trong cơn điên, Bố Ca thì lúc nào cũng thủ một con dao trong người, Bố Ca mệt mỏi rồi ngủ đi. Sáng sớm cả hai tiếp tục lên đường, Đồ Bàn thành đã ở trước mắt, đó là một ngày trời âm u.PaRa ngày ngày ra ngồi trước hiên, đôi mắt trông về phía xa xăm, không lúc nào là nàng không nghĩ đến chiều hôm ấy, nàng hiểu được JaNin, chắc chắn JaNin đang rất buồn, nàng thì cũng sắp đến gần kì sinh nở, nàng đã cố gắng rất nhiều để không ảnh hưởng đến đứa con trong bụng, kể cả việc kìm nén nỗi buồn, nàng muốn đi đến nhà JaNin nhưng nàng không thể làm điều đó.Thấy Bố Ca đưa về một người đàn bà lớn tuổi, PaRa như người đang trong cơn mơ, nàng cũng chẳng muốn quan tâm đến Bố Ca nữa.Bố Ca sắp xếp chỗ ở cho Muk Mâtah trong một thời gianNửa tháng sau, vào một buổi tối trăng sáng, JaNin đang rất say,chàng say cái say của men rượu, men rượu lại có vị của tình ái. Thế sự, chuyện đời và lòng người thật là phức tạp, JaNin nằm mơ màng trên cái giường gỗ cũ phủ bụi trong nhà, cũng chẳng thèm ăn cái gì vào bụng nữa, chàng ngủ say mèm. Bên ngoài cửa, trăng cũng bắt đầu lên, chậm rãi và khổ cực. Những ngôi sao băng hôm nay bay ngang nhà JaNin rất nhiều, đó là những dấu hiệu. Trăng càng lúc càng sáng, có một bóng người đứng ngoài cửa nhìn chằm chằm vào JaNin đang ngủ, cái bóng người mặc áo đen, xõa tóc, đi chân không, đó chính là Muk Mâtah, bà ta bước rất nhanh vào giữa nhà, ánh sáng từ trăng càng chiếu rõ cặp mắt lạnh lùng và sâu hoắc của bà ta, Muk Mâtah liếm qua mọi vật dụng và mọi thứ trong nhà, thật kinh tởm nếu một đứa con nít trông thấy cảnh này. JaNin thì vẫn nằm bất động, chàng ngủ bỏ quên cả trời đất, Muk Mâtah tiến gần hơn đến cái giường mà JaNin đang nằm, ngắm nghía khuôn mặt JaNin một hồi rồi từ từ rút lấy cái bầu rượu lở chừng gần cạn mà JaNin đang ôm, bà ta uống ngay một ngụm. JaNin qửa quậy nghiêng người về phía Muk Mâtah, mắt chàng vẫn nhắm, chàng nói rất to : “ PaRa ! …thoát khỏi đó đi, chảy ra đi… ….PaRa, hãy đứng sau lưng anh.. “Muk Mâtah không chút sợ hãi khom lưng ghé tai vào sát hơn để nghe gã say rượu nói, Muk Mâtah nghĩ gã này chắc chắn là đang mơ một giấc mơ khổ sở với nhân tình đây nên mới như vậy, Muk Mâtah cầm bầu rượu cạn sạch số nước còn sót trong bầu rồi nhét lại cho tên say rượu ôm rồi tự cười đắc ý một mình, sau đó Muk Mâtah niệm thật lâu một câu chú cổ, JaNin vẫn ngủ say như chết, Muk Mâtah dạo một vòng quanh trong nhà rồi bước ra cửa định đi về, bỗng nghe tiếng của JaNin nói lẫn với thứ tiếng nói vang, thứ âm thanh khác hẳn tiếng nói của con người nhưng Muk Mâtah nghe rõ mồn một :“Ngươi, Gliu ! đêm đen. Hãy tự làm dịu mong muốn trống rỗng của ngươi và biết cách làm hài lòng Ngài bằng những tặng phẩm “Muk Mâtah quay lại thì thấy JaNin vẫn ngủ im lìm ở cái giường đó, mùi của rượu vẫn nồng nặc, trong căn nhà tăm tối và rách mướp này thì giọng nói vừa nãy là của tên kia hay của ai khác, mà tên kia thì say như vậy, ai có thể gọi đúng tên cũ của bà ta đã bỏ từ rất lâu rồi. Muk Mâtah mặc kệ, bà ta quay đầu lại định chạy ra về, bước được mấy bước thì lại nghe tiếng của JaNin lẫn tiếng nói ban nãy :“ Gliu. Hạt giống. Cơn ngủ. Tự ngươi chọn lấy”Đến đây thì bà ta nổi giận, Muk Mâtah quay lại định bước nhanh về phía JaNin tặng cho chàng vài câu bùa chú nữa, nhưng chưa được nửa bước thì Muk Mâtah chôn chân tại chỗ, tròn hoe cặp mắt già nua bởi cạnh tưởng trước mặt: ánh sáng của trăng chiếu qua cửa sổ bỗng làm cho căn nhà rực lên như ban ngày, giờ thì mọi ngóc ngách trong nhà có thể thấy được rõ ràng, trong căn nhà nổi lên một cơn gió , ngoài kia gió cũng bắt đầu thổi và gọi nhau, ở trên giường bây giờ là một vóc dáng to lớn và hình hài khác người đang ngồi tựa lưng vào bức tường đất, khuôn mặt không phải là của JaNin, mà là một khuôn mặt sang trọng, cao quý và mang một vẻ siêu nhiên, tóc được búi lên gọn gàng, trên mình của người này có hai con rắn đang trườn quanh cơ thể săn chắc không mặc áo, đôi cánh tay mang những hạt chuỗi chân trâu, miệng mỉm cười nhưng đôi mắt vẫn nhắm. Đây rõ ràng không phải là cái tên JaNin lúc nãy với bộ áo rách mướp, đây là không phải là người, đây là…Muk Mâtah sợ hãi nhắm mắt lại lao mình chạy liền ra ngoài, chạy đến cửa bà ta không quên nhìn lại một cái thì hay chăng, cảnh tượng ban nãy đã biến mất, tên JaNin vẫn nằm đó đang ôm chai rượu không, vẫn cái bộ áo rách đó, vẫn cái mùi nồng nặc của men rượu trong nhà bay ra, Muk Mâtah không giám nghĩ và đứng lại nữa, bà ta chạy ngay về và bắt đầu để ý nhiều đến JaNin.Những tia nắng đầu tiên của ban mai nhanh chóng ùa nhau đến, JaNin thức dậy trong cơn đau đầu choáng váng, JaNin cố bước tới con suối trước nhà rửa mặt, chàng không đứng vững nên rơi xuống nước, phải mất một lúc JaNin mới dậy được và đi thay quần áo, chàng tìm rượu trong nhà, chàng cảm thấy phát điên khi không còn cái bầu nào còn rượu, JaNin đi ra ngoài, cái thành Đồ Bàn to lớn phía trước làm cho chàng thật chướng mắt, hôm nay mọi thứ đối với chàng thật xấu xí, khu rừng phía sau thật đen tối và bít lối, chàng chán ngẩm khi bàn chân chàng giẫm lên mớ đất bùn mà chàng cho nó là rất bẩn thỉu, tiếng kêu của chim rừng làm chàng ta nhức tai, thật ngộp ngạt và vô vị, đến gần thành, chàng nhếch miệng cười khi thấy cặp bò lì lợm không chịu nhấc chân bởi những trận roi, cách người chủ xe lẩm nhẩm cũng thật là khó chịu, và có cái gì đó dẫn đôi chân chàng đi vào trong thành.JaNin lê chân đến chỗ chợ, ở đằng kia có nhiều đứa bé và cả người lớn đang đứng xem cái gì đó, Nin bước đến, thấy Muk Mâtah đang diễn trò, người ta vỗ tay không ngớt khi thấy Muk Mâtah làm ba con cá khô quẩy đuôi bơi lội trong lu nước, JaNin nhìn Muk Mâtah rất quen, Muk Mâtah thấy JaNin, hỏang hồn nhớ lại hình ảnh đêm qua, bắt gặp ánh mắt lạnh lùng của Muk Mâtah, JaNin cười một cái rồi đột ngột dùng tay khuấy lu nước bóc ba con cá khô đó lên nhai ngon lành rồi chúc đầu vào lu uống nước trong đó làm ai trông thấy cũng há hốc thè lưỡi tròn con mắt vì phát ớn, mọi người có nghe biết đến chuyện của chàng, họ thương chàng nhưng không nghĩ là chàng lại thành ra như thế này, JaNin tội nghiệp dường như không tự chủ được chính mình.Muk Mâtah lặng lẽ bò ra khỏi đám đông, JaNin nhận thấy nên cũng đi theo Muk Mâtah, Muk Mâtah đi thẳng đến nhà Bố Ca, Muk Mâtah đi rất nhanh nhưng JaNin vẫn bắt kịp, đến nhà Bố Ca, Muk Mâtah núp sau cái cây dừa cạnh hàng rào quan sát JaNin, JaNin bước vào trong sân thì không thấy Muk Mâtah đâu, chàng cũng không nhớ rõ đây là nhà PaRa quen thuộc nữa, chàng đứng sững giữa sân, Muk Mâtah thì vừa nhìn chằm chằm vào JaNin vừa suy nghĩ về chuyện tối qua mà bà ta nhìn thấy ở nhà JaNin.Hôm nay cũng chính là ngày PaRa chuyển dạ, một người phụ nữ đỡ đẻ giỏi nhất được Bố Ca mời đến, vừa mới đưa người phụ nữ đến cổng thì đã thấy JaNin đứng trong sân, thấy Bố Ca về, Muk Mâtah chạy ra thì thầm cái điều gì đó vào tai Bố Ca làm Bố Ca cười đắc ý, Bố Ca đưa người phụ nữ đỡ đẻ vào nhà qua con đường phía sau, rồi lấy mấy củ khoai đã bị mốc ném ra ngoài sân chỗ JaNin đang đứng, JaNin nhặt ngay rồi ngồi bẹt xuống nhai ngấu nghiến hết, giờ thì Bố Ca đã nhận thấy được JaNin đang bị hóa điên, JaNin cười rất tươi khi thấy Bố Ca mang ra thêm cho mình một bầu rượu, Muk Mâtah thì bò nhanh lên cây không giám lại gần mà chỉ quan sát JaNin. Đứa em trai nhỏ của PaRa thấy JaNin như thế thì rất thương, nó tuy có chín tuổi nhưng cũng đủ hiểu mọi chuyện chị PaRa của mình, trước kia khi PaRa chưa lấy chồng, JaNin thường đến chơi và thường nặn trước những chiếc xe trâu nhỏ hoặc động vật bằng đất bùn để cho đứa em trai của PaRa chơi, nó thích lắm và nó rất quý JaNin, bây giờ thấy JaNin đang ăn sống mấy củ khoai mốc thì nó liền chạy vào bếp cạo hết số cơm còn lại trong nồi chấm thêm ít muối mang ra cho JaNin ăn, JaNin nhìn nó bằng ánh mắt biết ơn và lạ lẫm. Bên trong nhà, người ta đang quấn quýt đón chờ thành viên mới của gia đình, PaRa không biết JaNin đã bị hóa điên đang ở ngoài sân, nàng đang sắp làm mẹ, nàng đang cố gắng nghe theo những lời người đàn bà đỡ đẻ nói, và..một đứa bé trai chào đời, cả căn nhà reo hò trong niềm vui, người vui nhất có lẽ là cha của nó - Bố Ca. JaNin ngồi ăn cơm ở ngoài sân, nghe thấy tiếng trẻ thơ khóc, bỗng cảm thấy trong lòng thanh thản, chàng nở một nụ cười hạnh phúc rồi cầm bầu rượu đứng lên chậm rãi đi ra ngoài. Muk Mâtah ở trên cây, nghe tiếng đứa bé khóc trong nhà thì chợt nhớ đến đứa con của mình trước kia; trước khi nhận lời Bố Ca làm JaNin hóa điên, Muk Mâtah từng yêu cầu Bố Ca mang cho bà ta một đứa bé và Bố Ca cũng đã đồng ý, nay việc sắp xong, nghe thấy tiếng khóc con nít trong nhà Bố Ca, Muk Mâtah nghĩ ra những tính toán, Muk Mâtah định sẽ lấy đứa con của PaRa khi cơ hội đến và biến mất sâu trong khu rừng của bà ta mà đừng hòng có ai tìm thấy được, Muk Mâtah trèo xuống và dòm qua cửa sổ thấy đứa bé càng làm bà ta đắc ý với ý định của mình.Một tháng sau.Có tin quân thám thính của ta về cấp báo, quân Đại Việt đích thân vua đã mang quân vào được đất của ta, chúng đang đóng trại và tập luyện, quân địch đến với số lượng rất đông, số lượng lục quân của chúng vào khoảng một trăm năm mươi ngàn tên, ở ngoài biển có đến gần một ngàn chiến thuyền lớn, mỗi chiếc đếm được khoảng một trăm tên lính, ước chừng tổng cộng cả thủy quân và lục quân của địch có đến trên hai trăm năm mươi ngàn, con số này rất lớn, bằng khoảng tổng số dân của một trăm làng Chăm đông nhất cộng lại. Đó là vào thời điểm tháng 8 năm 1392 lịch SaKa (tức vào tháng 12 năm 1470 sau CN). Tin tức nhanh chóng lan ra khắp thành, mọi người bắt đầu lo lắng, nhà vua ban sắc lệnh huy động quân đội gấp, bây giờ thì cảnh tượng đã trở nên lo sợ hơn, tất cả đang chuẩn bị cho một cuộc chiến ác liệt.Bố Ca lần nữa được gọi nhập quân, JaNin bị điên nên chẳng ai ngó ngàng, cứ cách hai ba ngày thì chàng lại tìm đến nhà PaRa để chờ đứa em trai của PaRa cho cơm ăn, PaRa ẵm con trông thấy JaNin như thế thì nàng đau buồn không nguôi, nàng dặn đứa em trai ngày nào cũng phải dọn cơm thật tử tế chờ JaNin đến ăn, JaNin không đến thì nàng kêu đứa em đi tới tận nhà gọi chàng, Bố Ca biết rõ những chuyện đó nhưng cũng không lo lắng lắm, JaNin đã bị điên thì cũng chẳng ý thức và nhớ những chuyện trước kia nữa, một mặt cũng vì Bố Ca sợ PaRa vì nàng vẫn chưa chịu tha thứ cho hắn, bây giờ Bố Ca chỉ lo có mỗi một chuyện tìm mua đứa bé nào đó cho mụ đàn bà nửa điên nửa tỉnh là Muk Mâtah cho bà ta nhanh chóng rời khỏi nhà hắn.Hôm sau, vào buổi chiều tối, Bố Ca đi canh gác chưa về, JaNin lại tìm đến nhà PaRa vì chàng đói bụng, kể từ lúc bị điên, JaNin chỉ toàn ăn cây rừng, hôm nay chàng đến nhà PaRa ăn cơm, JaNin cứ ăn cơm xong là đòi rượu nhưng PaRa không cho, JaNin không có rượu uống thì nằm ngay tại chỗ rồi khóc, khóc xong rồi nói hát lung tung, PaRa thấy thương chàng nên kêu đứa em trai vào nhà trông cháu để nàng ra ngoài mua rượu cho JaNin, tiện thể mua cho chàng một bộ quần áo mới vì chiếc áo chàng đang mặc bị chắp vá rất nhiều chỗ. Muk Mâtah chỉ chờ có thế, bây giờ trong nhà chỉ còn một đứa trẻ con với một gã điên, bà ta đã chờ khá lâu, sẽ không có cơ hội nào tốt hơn bây giờ, Muk Mâtah thả cho hai con bò nhà PaRa bị cột ở ngoài sân rồi đánh cho chúng rống lên chạy ra ngoài, Muk Mâtah liền chạy vào trong nhà kêu đứa em PaRa ra ngoài chặn mấy con bò đó lại, còn đứa bé đang nằm trên võng cứ để mình trông giúp, đứa em trai đắn đo một hồi rồi liền chạy ra ngoài đuổi theo, Muk Mâtah ở trong này tròn mắt nhớ lại cảnh con mình chết, Muk Mâtah bế con PaRa lên ngó nghía xung quanh, đứa con bật khóc rất to làm JaNin đang nằm hát nhảm ở bên ngoài ngồi dậy ghé tai lắng nghe tiếng khóc, Muk Mâtah lấy một chiếc khăn quấn đứa bé lại rồi vắt chéo ở trước ngực chạy nhanh ra ngoài, đứa bé càng khóc thêm to hơn, JaNin đang ngồi thẫn thờ ở hiên, thấy Muk Mâtah từ trong nhà chạy ra ngoài cộng thêm tiếng khóc của trẻ thơ đi theo dường như làm cho kẻ điên đã hiểu ra được chút gì, nên chàng đứng dậy rồi đi theo Muk Mâtah, Muk Mâtah đi rất nhanh, JaNin suýt bị bỏ xa nhưng chàng vẫn bám theo được, tiếng khóc của đứa bé mà Muk Mâtah đang ôm làm nhiều người tò mò để ý nhưng họ không biết là đang có chuyện gì xảy ra, Muk Mâtah nhanh chóng ôm đứa bé chảy ra cửa tây của thành rồi chạy nhanh lên ngọn núi trước mắt, JaNin nghe tiếng khóc đi theo, dường như đang có thứ gì đó dẫn đôi chân chàng bước đi. PaRa mang rượu và quần áo về đến nhà thì không thấy JaNin nữa, nàng đặt mọi thứ xuống một bên rồi gọi tên đứa em trai nhưng không thấy em mình đáp, PaRa vào nhà thì cũng không thấy gì cả, không thấy đứa em và con của mình, lúc đó Bố Ca cũng vừa mới về đến nhà, PaRa hỏi Bố Ca ngay trên đường về có thấy đứa em trai không, Bố Ca không biết và cho rằng chắc nó ẵm cháu đi chơi quanh đây thôi, một lát thấy đứa em trai lùa hai con bò về, PaRa thấy nó về tay không thì cảm thấy lo lắng chạy tới hỏi ngay, đứa em chạy vào nhà thì không thấy Muk Mâtah đâu nữa, nó khóc kể lại chuyện hồi nãy, đến bây giờ Bố Ca mới tá hỏa nhớ lại lời hứa của mình với Muk Mâtah, PaRa ướt nước mắt giận giữ nhìn Bố Ca vì Bố Ca đã dẫn người đàn bà lạ về nhà để bây giờ phải mất con, nàng chạy ra ngoài hỏi thăm hàng xóm láng giềng có trông thấy con mình và Muk Mâtah, Bố Ca cũng nhanh đi hỏi người đi đường, người ta chỉ cho PaRa và Bố Ca hướng mà một người đàn bà lưng khom đi rất nhanh bế một đứa bé đang khóc, cả hai liền chạy theo.Trời đã bắt đầu tối, mưa cũng bắt đầu trút xuống nặng hạt, Muk Mâtah chạy sâu vào rừng núi, ở phía sau bà ta thấy JaNin ngơ ngác đang đi theo, phía trước có một cái hang động, lối vào rất nhỏ chỉ vừa cho hai người chui, Muk Mâtah liền đi vào trong đó để trốn JaNin, JaNin đi đến chỗ cái hang thì thấy tiếng khóc của đứa bé biến mất, JaNin điên dại loay hoay gãi đầu, chàng dòm vào cái hang động đen tối với sự run rẩy vì bị ướt, trong suy nghĩ chàng chợt hiện lên những hình ảnh về Tháp Cánh Tiên, một chút tiềm thức trong quá khứ bỗng nhiên làm chàng nhớ lại lời của một ai đó nói, đó chính là lời mẹ chàng, JaNin từng nghe mẹ kể rằng ngày xưa cha của chàng là một nghệ nhân điêu khắc chạm trổ hình thù của các vị thần dưới dạng một khối đá trụ tròn, cha chàng khéo tay và được trọng dụng nên mỗi khi có lệnh trùng tu hay xây Tháp mới thì cha chàng cũng được gọi đến để điều chỉnh và tính toán các công thức cho hợp lý để tạo nên một ngôi Tháp cho thật hoàn mỹ, lối vào Tháp phải nhỏ hẹp, bên trong tối và không có lỗ thông khí nhưng phải đảm bảo là không được nóng và đủ mát , Tháp được xây sao cho bên trong giống như một hang động vì các vị thần thường thích trú ngụ trong các hang động mát mẻ và yên tĩnh, đang nghĩ ngợi thì tiếng đứa bé cất lên từ trong hang, tiếng đứa bé cười rất tươi.JaNin liền chui vào, vào đến bên trong một lát thì chàng không giám bước nữa, không nói được một lời nào và chàng cũng không giám thở nữa, phía trước mặt chàng là khung cảnh mà lần đầu tiên chàng được thấy trong đời; Có một người đàn ông phía trước, người đàn ông phía trước chàng có lẽ là một vị Yang, một vị Po Yang của dòng dõi thần linh mà chàng thường hay nghe mẹ và nhiều người khác kể đến trong những câu truyện huyền thoại, sự tích và những chiến tích về các Ngài trong niềm kính ngưỡng. Dù chỉ được một ít ánh sáng từ ngoài lẻn vào được nhưng bên trong hang lại sáng trưng của làn hương thanh như thứ ánh sang từ những chòm sao. Trong hang, Yang ngồi trên một tảng đá được lót tấm da của một con hổ, Ngài - một người đàn ông to lớn với cơ thể săn chắc như một chiến binh, khắp người ánh lên một thứ sắc ánh siêu phàm, khuôn mặt điềm tĩnh khoan thai với cốt cách điềm nhiên hiếm thấy không phải là của người thường, đôi mắt Po Yang vẫn nhắm với những đường nét tinh tế siêu quầng, ở giữa trán có vẽ một kí hiệu cổ mà chàng JaNin không nhìn được ra thứ hình thù lôi cuốn ấy, miệng Ngài mỉm cười thản nhiên, tóc được búi lên gọn và xõa xuống phía sau, đôi tai được đeo một loại đá trong vắt góc cạnh để tô điểm cho vẻ sang trọng, tay trái của Ngài cầm một Gahlau là một loại thứ gỗ thơm cực kì quý giá chỉ có vua chúa mới được dùng, tay còn lại đặt lên đầu gối chân phải mà bàn chân Ngài không một chút tì vết đạp lên một tảng đá phía trước, trên ngực và vai của Ngài có những con rắn quấn quanh phụ thuộc, trên cổ và hai tay đeo những thứ trân châu là tinh hoa của trời đất tích tụ, bên dưới tảng đá Po ngồi có một con bò to lớn màu trắng đang nằm phục được quấn những thứ trang sức kì lạ và những cái chuông vàng cho loài linh vật, nằm cạnh con bò to lớn là đứa con của PaRa đang ngồi đùa nghịch với con bò đó, đứa bé cười khúc khích rất vui. Đứng bên cạnh tay phải chàng JaNin là Muk Mâtah, Muk Mâtah cũng bị chôn chân như chàng, nhưng Muk Mâtah không sao nhấc được chân lên nỗi, dường như chân bà ta đã mọc rễ bám sâu vào lòng đá, dưới chân bà ta là cả hàng chục những loài rắn cực độc hung dữ bao quanh. Dĩ nhiên là Po đang điều khiển mọi thứ trong hang, Po Yang có tất cả quyền lực tối thượng trên mặt đất này; ở thế giới này hay thế giới kế tiếp, Ngài luôn được dân Chăm tôn sùng và tán thán những vinh quang bằng những nghi lễ và lời tụng ca về danh tiếng của Ngài. Po từ từ mở đôi mắt thần ra nhìn đứa bé đang cười , rồi Ngài nhìn Muk Mâtah , Muk Mâtah rống lên thảm thiết rồi ở hai con mắt của bà ta bắt đầu rỉ máu, Ngài đưa mắt nhìn đến JaNin, JaNin nhìn Po rồi chắp tay ở ngực cúi mặt lạy Ngài với tất cả sự tôn kính và ngợi ca, bằng đôi mắt thần thanh khiết và ánh nhìn trìu mến, Po chữa lành cho chàng khỏi những bùa chúa bấy lâu.Bỗng bên ngoài mưa có tiếng gọi con của PaRa và Bố Ca, PaRa gọi JaNin một tiếng, JaNin quay lưng lại gọi PaRa, chàng quay mặt lại về phía Po thì thấy cảnh tưởng lúc nãy đã biến mất, JaNin không nhìn thấy Ngài đâu, những thứ ánh sáng và con bò to lớn cũng đã biến mất, hang động bây giờ thành tối om chỉ nghe thấy tiếng của hạt nước nhỏ giọt trong động, chàng quỳ xuống lạy ba lạy về phía tảng đá lúc nãy mà Po ngồi rồi đến bế con của PaRa lên, đứa bé với tay ôm lấy JaNin, miệng thì vẫn cười khúc khích đáng yêu, JaNin thật sự đã hết bị điên, chàng cất tiếng lớn gọi PaRa ở bên ngoài. Bố Ca mang một ngọn đuốc dắt PaRa vào hang, một cảnh tưởng hãi hùng trước mắt, Muk Mâtah nằm chết ở một xó, trên người bà ta là rất nhiều con rắn mà miệng rắn vẫn ngoắp những mớ thịt của Muk Mâtah chưa chịu buông. PaRa nhìn thấy đứa con bình yên vô sự, nàng vui mừng chạy đến gần JaNin với những cảm giác khó tả, nàng ứa lệ nhìn con và nhìn JaNin, JaNin nhìn PaRa rồi mỉm cười, một nụ cười tha thứ. JaNin đưa con cho PaRa, chàng bước đến gần Bố Ca rồi vỗ vai Bố Ca một cái, Bố Ca như người tỉnh ngủ, xúc động chảy nưN
0 Rating 213 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On August 14, 2015
Mộng Tình Xứ ChămPa( tác giả : Ngọc Tảo ) Phần1. - Bông Hoa Không NởNgày xưa, khi vương quốc Chăm Pa còn là một đất nước hưng thịnh và phồn hoa, tiểu vương quốc Vijaya là một lãnh địa rộng lớn giàu có, các thương nhân ở nhiều nơi khác đổ về làm ăn, cảnh tượng xem thấy thật đông đúc và rất thịnh vượng, nhưng nhân dân nơi đây vẫn phải chịu cạnh cơ cực do chiến tranh và nạn cướp phá. Năm 1373 niên lịch Saka (tức năm 1451 sau CN) . Bắc ChămPa có đô thành tên Đồ Bàn thuộc tiểu vương Vijaya, Đồ Bàn là một kinh đô to lớn và nhộn nhịp, đó là nơi ở mà vua của các vua ngự đã hàng trăm năm nay, Đồ Bàn cũng là nơi tập trung và chỉ huy hạm đội thủy quân và lục quân lớn nhất mà ChămPa thời đó có, Đồ Bàn được bao bọc bởi tường thành lũy hào vững chắc, kiên cố và hiểm trợ nhằm ngăn chặn các cuộc đánh úp vào kinh đô hòng dành vương quyền tối cao của các lãnh chúa liên bang ở phía nam và cả những ý đồ diệt phá từ các nước phương bắc và tây nam. Bên ngoài thành là vùng đất trồng trọt và những khu rừng quý. Cách ngôi thành Đồ Bàn không xa ở phía trong rừng có một ngôi nhà tranh mái lá, trong nhà chỉ có một bà mẹ và một đứa bé trai mới được ba tuổi, đứa bé này tên JaNin, họ vốn ở tận đất Indrapura, sau khi hoàng gia để mất đất vào tay của người phương Bắc, dân Chăm sống trong cảnh cơ cực và nghèo nàn, sau bao nhiêu trăm năm ở đây với hoang phế và tàn tích của một vương triều đã mất, họ quyết định bỏ xuống phía Nam, nhưng vẫn còn một số ở lại vì không nỡ rời bỏ đất đai, nhà cửa, gia đình JaNin thuộc trong số ở lại, họ và nhiều người khác cố gắng bám vào số ruộng đất đã khai hoang để sống, nhưng họ sống mà không được yên; hàng tháng bọn lính phương Bắc thường đến với số lượng đông, chúng kiểm dân,bắt bớ,lũ trai thanh niên cũng bị bắt làm lính cho chúng, mùa màng đến thì dân Chăm phải trả tiền thuế với giá ở trên trời, mọi của cải và những tặng phẩm mà dân Chăm tích góp đưa cho vị quan ở đây cũng không làm thỏa mãn lòng tham và tội ác của chúng. Những cuộc nổi dậy bùng lên, lửa chưa bén thì đã bị dập tắt hoàn tàn và tàn khóc, nhiều người bị giết và bỏ đói vì không đủ tiền đóng thuế, những ai nổi dậy chống đối thì gia đình bị giết sạch vì tội che giấu và đồng lõa, Cha JaNin dẫn đầu đám đông đánh trả bọn lính, thế là gia đình JaNin bị tàn sát hết, người mẹ phải bồng đứa bé là JaNin trốn trong một đống rơm lớn mới thoát được nạn, sau đó người mẹ bế JaNin chạy dài về hướng nam đến xứ Vijaya và dựng một ngôi nhà tranh nhỏ ở ngoài thành Đồ Bàn, hằng ngày bà mẹ dắt đứa con vào thành tìm cách làm thuê, làm mướn, ở đở cho người ta chỉ để nuôi con và sinh sống qua ngày, cuộc sống hết sức khốn khổ. Thời gian đằng đẵng trôi qua, người mẹ ấy bây giờ mái tóc đã nhanh chóng nhuốm màu mây, từng nếp nhăn đua nhau in vết trên khuôn mặt hốc hác, người mẹ ấy giờ đã già đi nhiều. Còn đứa bé thì đã khôn lớn, trở thành một chàng trai lực lượng và khôi ngô, chàng JaNin năm nay được mười chín tuổi, JaNin da ngâm, tóc xoăn, mặt vuông mũi cao, lưng to vai rộng, dáng đi như loài mãnh sói. Nin rất khỏe, có hôm chàng tìm được một cái thân cây to vốn là loài gỗ quý ở trong rừng, ước chừng nặng hơn cả một xe bò chở thóc, chàng ta liền chặt xuống vác vào thành đem bán để đổi gạo, ai ai trông thấy cũng tấm tắc khen là một người có sức khỏe. Nin rất thích nhìn và ngắm nghía những loại vũ khí mà chàng thấy, vào thành Đồ Bàn, hễ thấy thanh gươm nào hình thù kì lạ là chàng chăm chú nhìn thật lâu, sau đó chạy liền ngay về nhà chặt cây chế tạo lại thanh gươm đó bằng gỗ y chang, chàng giấu những thứ vũ khí bằng gỗ đó trên cây vì sợ mẹ nhìn thấy, hẳn nhiên mẹ chàng không chịu dựng nhà trong thành mà dựng nhà tranh ngoài rừng là có nguyên do, mẹ JaNin đã từng chứng kiến và chịu đựng quá nhiều sự mất mát, mất cha mẹ, mất chồng, anh chị em và họ hàng, mẹ JaNin không muốn mất thêm JaNin, từ nhỏ JaNin được mẹ dạy và dặn rất nhiều lần, mẹ chàng ngăn cấm chàng gây thương tích cho người khác, không dùng vũ khí, chỉ được dùng nỏ và một số thứ để đi săn, JaNin hiểu và không muốn mẹ trông thấy những cái vũ khí tuy rằng bằng gỗ đó, hằng ngày JaNin tập luyện với những thứ vũ khí mà chàng chế tác, chàng có thể sử dụng thành thạo và điêu luyện mọi thứ vũ khí mà chàng tạo ra. Tính chàng như thế nhưng chàng rất thương người, Nin rất thật thà và chàng thương mẹ lắm, hằng ngày chàng được mẹ dạy cho cái chữ, chàng thấy cái chữ của Chăm mình ngoằn nghèo cong nghoeo cũng hay hay nên rất ham thích. Một ngày trời mưa lưa thưa mát mẻ, JaNin bẫy được một lúc cả hai con nai và một con lợn rừng, chàng nhìn vào mắt con nai, không hiểu sao cảm thấy chảnh lòng nên chàng thả cho hai con nai này chảy đi, còn lợn rừng thì chàng liền vác mang vào trong thành ở chỗ ngoài chợ bán cho người bán thịt. Bên trong thành Đồ Bàn, ở trong chợ kẻ bán người rao, người mua dạo chợ đông như hội, con nít nối đuôi nhau đùa nghịch, những nàng thiếu nữ Chăm xinh tươi tuổi đôi mươi cũng ra đây, họ đi chợ và dạo mua những thứ trang sức, những chiếc khăn và những thứ vải quý giá, các thương nhân và ngoại nhân mang mọi thứ quý hiếm ở khắp nơi mang về đây, thật là tấp nập và nhộn nhịp, bọn thanh niên nhìn thấy những thiếu nữ ấy lấy làm vui và thích mắt vô cùng. Trong thành có rất nhiều người đẹp và duyên, trong đó có một người con gái tuổi vừa mười tám, nàng tên là PaRa, PaRa vừa đẹp người lại vừa đẹp nét, đôi mắt thơ ngây to tròn trong vắt của nàng nhìn vào như người mới tỉnh ngủ, quyến rũ ánh nhìn của người khác một cách vô tình và lạ thường; nàng có khuôn mặt tròn, mi nàng cong, môi nàng phai nồng, dáng người gọn gẽ, tiếng nói thỏ thẻ nhưng rất chính chắn và chuẩn mực, nàng có nụ cười duyên làm đắm đuối biết bao nhiêu con trai mang trong mình cái dại dột của tình ái, nàng nhăn mặt củng đủ làm cho người con trai đứng bên cạnh phải thẫn thờ. PaRa mồ côi cả cha lẫn mẹ, nàng sống nhờ trong nhà một người chú từ nhỏ, vì cảm lòng chú nuôi nấng nên nàng làm việc rất chăm chỉ, nàng nấu ăn rất ngon, múa lại càng rất hay, bọn con trai làng thường đua nhau mang quà đến tận nhà tặng nàng nhưng nàng chỉ mỉm cười mà không lấy. Hôm nay nàng PaRa cũng đi chợ, nàng đi với một người em trai tám tuổi lúc nào cũng tươi cười và đòi theo chị gái, đó là em họ của PaRa, họ ra chỗ người bán thịt, chàng JaNin cũng đang ở đấy. Vừa trông thấy PaRa, JaNin đã đứng chôn chân tại chỗ, chàng chưa bao giờ được đứng gần nhìn một người con gái như thế này, Nin mê mẩn tâm thần chăm chú ngắm đôi mắt, đôi môi và đôi khuyên tai nhỏ đáng yêu của nàng, Nin dường như đã bị PaRa hớp hồn ngay từ lần gặp đầu tiên, đúng là cảm giác của đứa con trai lần đầu trông thấy một người con gái xinh đẹp. Còn nàng PaRa thấy có người con trai bên cạnh nhìn mình như vậy, nàng mỉm cười và nhìn JaNin, hai đôi mắt nhìn nhau, nàng thấy khuôn mặt của JaNin thật là ngây ngô và nó làm nàng như muốn bật cười, nàng e dè lấy chiếc khăn choàng đầu che mặt lại, ngoài trời mưa vẫn rơi lưa thưa làm trời thật thoáng mát. Cạnh chỗ người bán thịt đó có những người thợ săn kia, họ mang về một con hổ to lớn, cực kì hung dữ, con hổ bị nhốt trong lồng, mấy đứa con nít súm lại quanh cái lồng reo hò ầm ĩ, chẳng may cửa lồng bị con hổ xé toạc sợi dây, con hổ phóng mình lao ra làm cửa lồng bị gãy gập làm hai, con hổ to lớn thoát ra khỏi lồng, những ai ở quanh đó đều lo mà chạy, trẻ con đàn bà thì ôm nhau đứng núp, những người thợ săn thì thủ thế giăng dây cầm giáo nhưng không ai giám tiến lại gần cả, con hổ to lớn bị bỏ đói nhiều ngày, thấy con lợn rừng chỗ hàng thịt, lại thấy nàng PaRa ở trước mặt liền nhe những chiếc răng nanh gầm lên, nhún đôi chân sau nhảy vồ tới định ngoặm cái đầu nhỏ của nàng PaRa, Nin đứng gần đó, chàng nhanh chân lao tới đẩy PaRa ngã xuống thoát khỏi cái chết trong gang tất, PaRa sợ quá ngất đi mất, con hổ nhanh chóng quay lại về phía JaNin, nhảy tới dùng móng vuốt vồ JaNin, JaNin không kịp trở tay, chàng bị con hổ cào chảy máu nhiều ở ngực, chàng ngã quỵ xuống, con hổ xoay mình và định nhảy tới lần nữa, con hổ gầm lên, Nin nhanh chóng đứng dậy, máu chảy ướt đẫm áo và người của chàng, Nin xé toạc áo mình để lộ thân hình cơ bắp, chàng rút con dao trong người ra,dựng cả tóc gáy, trợn mắt cau mày, điên tiết hét lên một tiếng lớn vang như sấm sét đang muốn xẻ đôi cây to, Nin bước tới,con hổ nghe tiếng thét sợ hãi bước lui mấy bước rồi nằm phục xuống, Nin bước tới thì con hổ càng nằm xuống thấp hơn và tỏ ra vẻ co ro, ai trông thấy cũng kinh sợ , những người thợ săn liền mang cái lồng úp lên con hổ rồi cột lại cửa lồng thật chặt, ai cũng khen Nin tài giỏi và ca ngợi không ngớt lời, chuyện chàng JaNin thuần phục con hổ được mọi người trông thấy truyền tai nhau. Còn nàng PaRa được người nhà đưa về, tới đêm mới tỉnh, nghe kể lại mọi chuyện mới nhớ ra là mình đã được JaNin cứu, từ đó nàng đem lòng ngưỡng mộ và thầm mong nhớ JaNin, chỉ cầu được gặp lại chàng để cảm ơn và thể hiện lòng thật của mình. Chàng JaNin từ nhỏ đã theo mẹ đi làm thuê mướn cho người trong thành, mẹ chàng có làm công cho một nhà giàu nọ, sau này chàng lớn lên cũng làm thuê trong nhà này, trong nhà đó chàng có quen thân với một người thanh niên hơn chàng một tuổi, người thanh niên ấy tên Bố Ca, là một cậu chủ trong gia đình, JaNin xem Bố Ca như là bạn thân và người anh của mình. Bố Ca dáng người vừa, mặt sáng mày ngược, đôi mắt nhìn không thẳng, tính tình đa nghi và tính toán, Bố Ca biết JaNin là một người sức khỏe có thể làm việc gấp hai những kẻ khác nên mới lân la làm thân, thường xuyên cho người mang thức ăn ngon về cho mẹ JaNin để JaNin cảm cái ơn ấy mà làm việc hết sức vì nhà mình hơn, mẹ JaNin tưởng Bố Ca là người tốt nên nói con trai mình phải cố gắng làm việc vì chủ, cũng kể từ ấy mà JaNin chỉ đi săn và làm việc cho nhà Bố Ca mà thôi. Chiều ngày hôm sau Nin vào thành xin Bố Ca cho chàng nghỉ mấy ngày vì chàng bị thương do hổ vồ, nàng PaRa tìm đến gặp, JaNin và PaRa gặp nhau, PaRa và JaNin đưa nhau ra bờ sông tâm sự, bỗng nhiên trời mưa, cả hai nắm tay chạy vào núp trong Tháp Cánh Tiên, đôi trai gái lần đầu tiên được ngồi gần nhau nên cả hai ai cũng ngượng ngùng, trong câu chuyện nàng PaRa tỏ ý cảm kích cái ơn cứu mạng, lời nói hết sức e thẹn và ý nhị làm cho chàng JaNin siêu lòng lúc nào không hay, chàng ấp úng mãi mà chẳng nói thành lời được, hai cặp mắt nhìn nhau đắm đuối, tưởng chừng như là đã thuộc về nhau tự bao giờ, một nụ hôn đầu được trao đi nhẹ nhàng, mưa vẫn rơi trên khung nền lãng mạn của tình yêu. Và kể từ đó trở đi, JaNin và PaRa đem lòng yêu mến nhau, thường xuyên gặp gỡ trao đổi tâm tình. Bố Ca vốn cũng biết đến PaRa, PaRa là một người con gái xinh đẹp mà Bố Ca đã mang lòng mê mẩn nhưng nhiều lần mang quà đến tìm gặp mà không bao giờ gặp được, nay bỗng nhiên nghe PaRa và JaNin là một đôi thì hết sức ghanh tị, lại được JaNin đem chuyện chàng yêu thương PaRa kể thật cho nghe thì Bố Ca lại càng căm tức, hắn ta nghĩ JaNin là một đứa nghèo hèn trong tay chẳng có cái gì mà PaRa lại đi thân với người như vậy, còn nhà mình thì bạc vàng tuy ít nhưng cũng không hề thiếu thốn, gia đình lại giàu có thì kém thua thằng JaNin chỗ nào, từ đó Bố Ca tỏ ý ghen ghét JaNin, những công việc nặng nhọc đều khéo léo sắp xếp để cho mình JaNin làm, buổi sáng ông mặt trời còn chưa ló mặt thì JaNin đã phải lùa đàn trâu ra chăn,chàng hết đi lấy những bó củi to đùng thì lại ra rẫy khai hoang, hết ghánh nước cả ngày thì lại thức trắng đêm đi gặt lúa, có ngày Bố Ca giả cách bị đau kêu JaNin trèo lên tận núi cao hái lá cây thuốc về cho hắn ăn, hắn chỉ mong cho JaNin lên núi bị rắn rít cắn chết, ma quỷ bắt đi cho hắn được một mình yêu lấy PaRa, một bên Bố Ca bốc lột sức JaNin, một bên lại sai người mang thêm nhìu thứ ngon quý đem tặng cho mẹ JaNin,lại chu cấp thêm tiền bạc, JaNin thì vẫn cố gắng làm việc cho tốt, chàng không biết là người bạn thân duy nhất và cũng là người anh mà chàng coi đang cố gắng tìm cách hại mình. Cuộc sống nơi xứ sở Chăm cứ như vậy trôi qua từng ngày, những tai ương cứ âm thầm tìm đến. Năm 1391 niên lịch Saka (tức năm 1469 sau CN) Một ngày mới lại đến trên kinh đô Đồ Bàn. Nhà vua tối thượng ban lệnh cho tất cả thần dân và quân đội chuẩn bị cho cuộc vượt biển tiến đánh một khu vực trọng yếu ở phương bắc, sau những cuộc họp hoàng gia và quan thần, vùng đất được chỉ định đánh phá lần này là Vuyar – thành Hóa châu (Châu Lý), một vùng đất xưa kia của ta đã đánh mất vào tay nước Đại Việt, cần phải đánh phá Hóa châu vì đây là nơi tích trữ gạo dồi dào nhằm cung cấp lương thực cho quân binh của Đại Việt trên đường di chuyển cả đường bộ và đường thủy để đánh chiếm kinh đô của ta.Cả thành dường như chấn động và tấp nập hẳn lên, ở ngoài khơi, những chiếc thuyền độc mộc được dẹp sang một ngả để hàng ngàn những chiến thuyền to lớn của ta vào luân chuyển lương thực và sửa chữa chuẩn bị cho ngày xuất quân, binh lính được chọn lựa và tuyển thêm, bọn thanh niên háo hức đua nhau xin nhập quân, hầu như ai cũng muốn đi đánh trận này, đây chắc chắn là một trận thắng vì nó là một sự bất ngờ được dành cho địch,tinh thần của binh lính thoải mái lúc nào cũng có sự sẵn sàng, đây chỉ là một cuộc đi cướp phá và ai cũng biết là ai đi cũng sẽ có chiến lợi phẩm để mang về, Bố Ca cùng đám bạn cũng đi, Bố Ca nghĩ quân ta đông và nhiều như thế, đi cho biết một lần thế nào là đánh trận và nếu gặp may thì hắn sẽ mang về những chiến lợi phẩm có giá trị. Tất cả được chuẩn bị kĩ lưỡng cho cuộc xuất phát sau nửa tháng nữa.Được tin, JaNin đang cày ruộng, lại thêm mấy đứa bạn rủ nhập quân, JaNin lập tức chạy quay về nhà tìm mẹ, thấy mẹ đang ngồi nhai trầu trước cửa chàng ngồi xuống cầu xin mẹ cho chàng được gia nhập thủy quân, chàng từng theo mấy đứa bạn ra biển đánh cá, chàng thích cái cảm giác được lướt đi trên đầu những con sóng, ở trên những con thuyền giữa đại dương bao la khiến chàng thấy mình thật nhỏ bé giữa thiên nhiên, giữa trời này, chàng thầm cảm ơn các Yang đã ban cho chàng, cho mẹ chàng, PaRa và tất cả mọi người có được một cuộc sống thú vị và vui vẻ. Giữa biển xanh này, chàng thấy thoải mái và tự do. Chàng thích thú khi kể cho mẹ nghe về cảm xúc của chàng trong những lần ra khơi, chàng nài nỉ mẹ cho chàng được đi đánh trận này, chàng sẽ lập công và nhận được những phù hiệu cao quý, những chiến lợi phẩm mang về chàng sẽ đem đổi thành tiền mua vải tặng mẹ, chàng sẽ mua gạo để dành trong nhà, chàng vui mừng khi nghĩ đến những điều đó, nhưng câu trả lời của mẹ làm chàng thất vọng vô cùng.Mẹ chàng ôn tồn đáp :- “ Không đi và đừng đi. Nin! ”Mẹ chàng lấy khăn choàng đầu lâu mồ hôi trên mặt chàng rồi nói tiếp :- “ Hãy hiểu cho nỗi lòng và sự cố gắng của mẹ bấy lâu nay. Mẹ đã thấy con đang sẵn sàng, người khác nhìn vào nghĩ mẹ thật ích kỉ khi giữ con ở nhà. Mẹ không cần những thứ lợi phẩm mà con nói đến từ việc theo theo đoàn quân đi đánh phá. Ngày xưa mẹ ẵm con bỏ làng chạy về nơi này là mong tìm được cuộc sống bình thường với những niềm vui. Nói cho mẹ nghe, con đã giết hay cắt đầu một ai chưa ? “JaNin buông giọng đáp :- “Dạ ! chưa một lần nào, đi đánh trận con sẽ thử” Mẹ chàng khuyên: - “ Con giết người khác hay người khác giết con, mẹ không muốn con đi chết ở đất người. Nhà mình nghèo, mẹ đi làm thuê lấy gạo nấu cháo nuôi con từ ngày con biết bò đến lúc con biết chạy, biết nói, lời mẹ nói con hãy nghe, trận này con không được đi.”JaNin nghe mẹ nói, thất vọng tràn trề, chàng như một đứa trẻ con, chàng buồn, chàng chạy ra ngoài nhảy xuống con suối ở trước nhà tắm để quên đi nỗi buồn này. Đúng lúc đó thì PaRa mang một mớ rau đến, nghe mẹ JaNin kể lại, trông ra ngoài thấy JaNin đang kì cọ tắm mình ở con suối trước nhà thì hai người phụ nữ nhìn nhau cười rất tươi.Đến thời gian hạm đội xuất phát, người ta kéo nhau ra tiễn người thân, PaRa cũng ra tiễn người thân, JaNin thì ra tiễn Bố Ca vì chàng coi Bố Ca như là người anh trai, Bố Ca đắc ý và coi thường JaNin khi thấy JaNin không có mặt trong đội hình xuất phát. Cãnh tiễn người ra trận diễn ra trong nước mắt và cả những niềm vui. Hàng ngàn chiến thuyền dần dần biến mất ở nơi xa tít.Hằng ngày JaNin vẫn đến nhà Bố Ca để nhận công việc làm thuê như bình thường, cứ đến buổi trưa thì PaRa mang cơm đến hai người cùng ăn, tình cảm càng trở nên mặn nồng. Ngày qua ngày, hết JaNin qua nhà PaRa chơi thì JaNin lại dẫn PaRa về nhà với mẹ mình, hai gia đình và chòm xóm láng giềng ai cũng khen là đôi bạn trẻ rất đẹp đôi. Chưa được một tháng thì tin tức truyền về, trận đánh phá thắng lợi, bên ta mất mát ít, thu được khá nhiều chiến lợi phẩm. Gần hai tháng thì hạm đội với những chiếc thuyền to lớn trở về biển của ta, mọi người cùng nhau ra đón trong niềm vui gặp mặt lại người thân. Người nhà Bố Ca ra đón nhưng nhận được tin giữ, Bố Ca và một toán binh của ta bị địch phục kích và bắt sống mang đi vì ham mải miết đuổi theo một gia đình phú hộ trên đường vận chuyển tài sản tháo chạy, thuyền của ta neo ngoài biển nên không thể mạo hiểm tiến sâu vào vùng nội địa để giải cứu toán quân này. Gia đình Bố Ca đau đớn khóc lóc rất thảm thiết, JaNin đang ở ngoài đồng, khi về mới được tin, JaNin tỏ ra rất buồn và oán giận quân địch, gia đình Bố Ca có ơn với chàng, chàng rất muốn đi tìm anh Bố Ca. Ngày tháng trôi qua, tình cảm của PaRa và JaNin dành cho nhau ngày càng sâu nặng. PaRa một đêm mang chuyện nàng yêu và muốn lấy chàng JaNin làm chồng cho người chú nghe, người chú này vốn cũng mến cái tài sức khỏe của chàng JaNin nên hứa sẽ đồng ý kết duyên chàng JaNin cho cháu mình. PaRa đem chuyện ấy nói JaNin nghe, JaNin bên vui bên buồn, chàng vui vì mình thân nghèo mà sắp lấy được vợ, chàng buồn vì người anh của mình là Bố Ca bị bắt ở xứ người ta, sống chết bây giờ chưa rõ, và quan trọng nhất là chàng thương người mẹ già, PaRa phải nói lời an ủi thì JaNin mới đỡ buồn được phần nào. Chàng về nhà mang chuyện PaRa và Bố Ca tỏ rõ tâm tư của mình cho mẹ nghe, chàng nói: - “ Thưa mẹ ! nay mai người ta sẽ đến nhà mình hỏi con về làm chồng, nhưng lòng con chỉ muốn đi tìm anh Bố Ca về rồi sẽ tính chuyện vợ chồng sau, không biết ý mẹ như thế nào..? “ Lần này mẹ JaNin đồng ý cho chàng đi tìm Bố Ca, đây cũng có thể là một trận đánh của riêng chàng mà chẳng cần một hạm đội thủy quân nào cảSau khi suy nghĩ, người mẹ từ tốn nói :- “ Người ta không chê nhà mình nghèo mà muốn lấy con về là người ta thật lòng với con, nhưng nhà Bố Ca đã giúp đỡ hai mẹ con ta rất nhiều, tình là một chuyện nhưng nghĩa con không bao giờ được quên,con hãy nhớ lấy.” JaNin xúc động thưa rằng:- “Lòng con cũng nghĩ như vậy, nhưng hành trình con đi sẽ không biết bao giờ trở về, để mẹ một thân già yếu ở nhà lòng con không an tâm.” Nói xong chàng ta nằm xuống tựa đầu vào đôi chân mẹ già, người mẹ xoa đầu JaNin, rớt nước mắt nhìn ra ngoài hát lên một khúc dân ca. JaNin nghe câu hát ru rồi thiu thiu ngủ đi lúc nào không hay. Đêm đó, JaNin đi đến nhà PaRa nói thật nỗi lòng của mình, bên nhà PaRa cũng không vội nên đồng ý ý muốn của chàng, sau đó JaNin và PaRa cùng nhau ra chỗ Tháp Cánh Tiên ở giữa thành, trời lại bỗng mưa, ông trời thật biết khéo đùa, mỗi lần hai người ở bên nhau thì mưa lại rơi xuống, nhưng chỉ một lúc sau thì mưa đã tạnh, hai người trao cho nhau những tình cảm yêu thương chân thành, những giãi bày, tâm sự của đôi trai gái thì thầm dưới ánh sáng lung linh của ánh sao xuyên qua tàn cây in lên bóng Tháp một thứ màu sắc mê hoặc,những lời hứa được trao đi, những lời thề được trao lại, một tình yêu giản dị và thơ mộng của đôi trai gái Chăm, dưới bóng Tháp hùng vĩ, PaRa tặng cho JaNin một bài múa, nàng đứng lên múa,nàng bắt đầu bước đi, nhịp điệu có khi nhanh có khi chậm, cung cách đi đứng hết sức ý tứ, những bàn tay của nàng lúc xòe ra lúc uốn cong như loài bông hoa nở rộ, nụ cười thơ ngây càng tô thêm màu sắc cho điệu múa đẹp đẽ, JaNin dường như bị hoa mắt trước nàng tiên trước mặt, chàng cũng yêu thích múa hát, chàng đứng dậy bước đến gần PaRa cất tiếng hát, những bàn tay của chàng cũng xòe ra khép vào đung đưa theo cánh tay PaRa, đôi chân chàng nhanh hơn, chàng bước tới nhanh rồi chậm rãi lui xuống, vừa múa vừa hát vòng quanh nàng, PaRa và JaNin như hai con chim non bay quấn quýt đùa dỡn nhau, điệu múa như là tìm thấy được niềm vui trong cuộc sống vậy. Sáng sớm hôm sau, PaRa và mẹ JaNin cùng ra tiễn chàng, nàng PaRa tháo ba chiếc vòng vàng ở tay ra cho JaNin mang theo phòng lúc cấp bách, để có tiền đi đường cho con, mẹ JaNin đem hết những thứ trong nhà có giá trị đổi thành ít tiền vàng cho JaNin, JaNin một mình một ngựa thẳng theo con đường đến hướng bắc mà chạy, phía sau chàng là những giọt nước mắt chia ly của người mẹ và người yêu, , , , hai người phụ nữ với những đôi mắt xa xăm nhìn theo bóng JaNin khuất dần sau những bụi cây rồi mất dạng về đường chân trời, mẹ JaNin vẫn đứng đó nhìn dù JaNin đã đi rất xa. Làm sao có thể hiểu được hết ý nghĩa những giọt nước mắt mà một người mẹ dành cho đứa con mình. “ Mẹ mang con trong bụng,trời sinh raĐôi chân con chưa vững, cất tiếng khóc ê aMẹ dạy con ba tiếng : ChămPa, Mẹ và ChaDòng máu chảy trong con là đất và quê nhà Bầu sữa mẹ căng tròn, con nằm ngoan chờ đợiMẹ ru con giấc ngủ, cha nâng bước con điCha mẹ đi trồng lúa,thành hạt cơm thơm phứcNhững lời con đã cãi, cha mẹ chẳng trách chi Trời làm cảnh mưa gió, Mẹ nuôi con khó nhọcCha ghánh đời nghèo khó,ghánh cả con trên lưngNhững chiếc áo mỏng vai, Cha Mẹ mặc từ đóSông núi lớn trước mắt rồi con sẽ thấy rõ. Nè ne neChim non cất cánh từ trong ổ Cá con vẫy vùng ra biển khơiChim khôn cá lớn ngày tháng dàiCon đã nên người con trả cho ai “ JaNin ngày đi đêm nghỉ, chàng đi hơn tháng trời mới đến được nước Việt, tin tức về Bố Ca và toán binh lính của ta hầu như không ai biết cả, nhưng JaNin vẫn không nản lòng, tiền bạc trong người hết, chàng phải bán luôn con ngựa của mình, nhưng chiếc vòng vàng PaRa trao cho chàng vẫn giữ bên mình, ngày tháng tìm kiếm tha phương, hai tháng trời trôi qua nhanh chóng trong niềm vô vọng, một ngày kia chàng đi đến một vùng núi mỏ vàng, ở đây con người thay nhau làm việc cả ngày lẫn đêm, mặt mũi ai nấy lem luốc và bơ phờ vì công việc khổ cực, tiền bạc trong tay đã hết sạch, JaNin xin vào làm ở mỏ vàng này và người ta nhận ngay bởi nhìn vào là biết JaNin là người có sức khỏe, ở trong mỏ, nhìn từ xa JaNin trông thấy một hình dáng thân quen, tuy không nhìn rõ mặt nhưng chàng nhận ra ngay đó là anh Bố Ca, JaNin tìm đến gặp thì quả đúng là Bố Ca thì vui mừng khôn xiết, Bố Ca nhận ra JaNin, cảm động quá ứa nước mắt mà khóc rống lên như đứa trẻ con, nói cũng chẳng thành lời, JaNin liền xin người ta cho chàng làm thay anh mình để Bố Ca nghỉ ngơi, tới đêm JaNin mới xong việc, hai anh em ngồi nói chuyện với nhau, Bố Ca kể về những chuyện mà mình đã trải qua,từ khi qua đây , Bố Ca bị áp bức, bị đánh,bị chửi mắng, ăn uống lại hết sức khổ sở, nay gặp lại JaNin thì dường như được cảm thấy cơ hội thoát thân chắc hơn và hắn đỡ cô đơn rất nhiều,JaNin kể về những chuyện ở quê, kể về mẹ, về PaRa, bây giờ tìm đã tìm được Bố Ca, chàng hứa sẽ tìm mọi cách để đưa anh mình về đoàn tụ với gia đình.Sáng hôm sau, JaNin lại đi làm thay Bố Ca, trong lúc làm, chàng quan sát địa hình, hỏi thăm địa vật, xác định đường đi nước chạy ngay từ trong đầu, chàng nhận thấy cạnh quả núi này có một con sông chảy quanh khu mỏ vàng, sông rộng và sâu, nước chảy rất xiết, người ta lại không xây cầu, nhiều người bị chết đuối khi qua sông này vì bỏ chạy,tất cả nơi ở của người và vùng mỏ đều được lắp hào, lại để ý thấy bọn canh gác rất đông, chúng thay phiên nhau ba lần một ngày, việc thoát khỏi nơi này tưởng chừng như không dễ một chút nào.JaNin ngày đêm suy nghĩ, tìm cách cứu Bố Ca, còn Bố Ca thì giả cách bị bệnh, nằm liệt tại cái chòi của mình không đi làm, tên quản đốc thấy JaNin làm thay cho Bố Ca là tên có sức khỏe thì cũng thầm đồng ý, không hỏi đến Bố Ca nữa. JaNin đem suy nghĩ của mình nói cho Bố Ca nghe, chàng nói cần thời gian để tìm cách, chỉ cần có sơ hở thì hai anh em sẽ thoát được, bằng nếu hết cách thì sẽ lấy ba chiếc vòng vàng của PaRa cho để đổi lấy sự tự do của anh Bố Ca, còn thân mình sẽ tính sau, nói xong chàng mang ba cái vòng vàng ra cho Bố Ca xem, Bố Ca trông thấy vòng vàng, trong ánh mắt rạng rỡ vui mừng ánh lên những toan tính, lấy cớ JaNin đi làm mang theo vòng vàng dễ bị đánh rơi nên Bố Ca đòi giữ những chiếc vòng ấy cho an tâm, tất nhiên là JaNin không từ chối. Một tuần trôi qua, vẫn không thấy JaNin nhắc đến chuyện bỏ trốn, Bố Ca cảm thấy hết sức sốt ruột, cũng không thể giả bệnh hoài. Sáng hôm đó, chờ khi JaNin đi làm rồi, Bố Ca lén mang ba cái vòng vàng tìm đến tên quản đốc, ở đây một thời gian dài nên Bố Ca cũng hiểu và biết nói tiếng người nước Việt, Bố Ca dùng lời ngon ngọt và lí lẽ tỏ rõ cho tên quản đốc nghe, tên quản đốc này tính lại tham lam, thấy vàng thì nhận ngay, hắn nghĩ cho Bố Ca về, để JaNin lại thì cũng tốt, chỉ lợi chứ không hại, hắn liền cho người mở cổng thả cho Bố Ca đi, lại thấy Bố Ca yếu ớt nên cho thêm con ngựa già, Bố Ca được ra ngoài, cắm đầu phi ngựa mà chạy, không biết trời đất là gì, cũng không nhớ tới JaNin đang ở phía sau nữa, hắn chỉ biết là cuộc sống mới và nàng PaRa đang ở phía trước mà thôi. Đêm JaNin làm về, hỏi thăm thì biết Bố Ca dùng vàng đổi thân, đã được thả đi từ sáng, trong lòng JaNin buồn bã, cô đơn vô cùng, chàng nhớ mẹ và nhớ PaRa rất
0 Rating 160 views 1 like 0 Comments
Read more
By: On July 24, 2015
Written by Po Dharma & Abd. Karim Akayat Dewa Mano (s? thi Dewa Mano) l
0 Rating 435 views 0 likes 0 Comments
Read more