Select
Tag Cloud

Anything in here will be replaced on browsers that support the canvas element

  • Yahoo
  • Google
  • Live
  • Live
By: On December 21, 2015
  Đại nhạc hội Champa 2015 Có thể nói năm 2015 là năm thành công nhất của Thanh Niên Champa hải ngoại kể từ khi rời bỏ quê hương đến định cư tại Hoa Kỳ sau năm 1975.  Cách đây không lâu, vào ngày 24/5/2015, một Nhóm Thanh Nữ Chăm đứng ra tổ chức Đại Hội Thanh Niên Champa thật hoành tráng tại trường Đại Học UC Davis California,  với chủ đề Hồi Sinh Champa - Tiếp nhận những di sản quí báu của tổ tiên từ quá khứ đến tương lai (Pahadiip Champa - Taduel krân krung krâc muk-kei mâng kal tel harei hadei). Thành quả nổi bật của Đại Hội là thu hút đông đảo người Chăm đến tham dự, trong đó có người từ Pháp quốc, Campuchia, Việt Nam và khắp các tiểu bang Hoa kỳ.  Điều cảm động nhất là đồng hương Chăm ba vùng: Campuchia, Châu đốc và Pandurangga lần đầu tiên trong lịch sử được ngồi chung trong một hội trường, có cơ hội làm quen với nhau và xác nhận chúng ta cùng nòi giống, cùng nguồn gốc văn hóa, lịch sử, nhưng bị ngăn cách địa lý trên 183 năm bởi hoàn cảnh điêu tàn của Vương quốc Champa (1832-2015). Đại Hội còn mang đến cho giới trẻ Chăm một ấn tượng sâu sắc về lịch sử và nền văn minh Champa rực rỡ, tỏa sáng một thời ở vùng Đông Nam Châu Á.  Sau đây là một số hình ảnh sinh hoạt trong ngày Đại Hội Thanh Niên Champa tại Trường Đại Học UC Davis, California để qúi độc giả cùng chia sẻ.   Kế đến, vào đầu tháng 10 năm 2015, chúng tôi lại nhận được thư mời tham dự Đại Nhạc Hội Champa sẽ tổ chức tại thành phố San Jose, California vào ngày 28 tháng 11 năm 2015 của Ban Thanh Niên Thiện Chí Chăm làm cho chúng tôi thật phấn khởi, không biết đây là sự thật hay chỉ là quãng cáo thương mại.  Không riêng gì Nhóm Cựu Học Sinh Poklaong (Hoa Kỳ) chúng tôi hồi hộp đón chờ đêm Đại Nhạc Hội Champa, nơi nào có đồng hương Chăm sinh sống chúng tôi đều nghe họ bàn đến Đại Nhạc Hội Champa.   Đồng hương Chăm tại Hoa Kỳ mong mỏi Đại Nhạc Hội Champa như nông dân Chăm ở quê nhà trông ngóng những cơn mưa đầu mùa để tưới mát cho những cánh đồng lúa khô hạn; họ mong đến dự Đại Nhạc Hội để được thưởng lãm những lời ca tiếng hát bằng lời Chăm thân thương ngọt ngào như lời mẹ ru khi lọt lòng, họ đến với Đại Nhạc Hội để được gặp lại anh em bạn bè sau bao nhiêu năm xa cách.  Dưới đây là một số hình ảnh và cảm xúc ghi lại trong Đêm Đại Nhạc Hội Champa và Kỷ Niệm 50 Năm Thành Lập Trường Trung Học Poklaong để quí độc giả, quí đồng hương xa gần không có cơ hội tham dự Đại Nhạc Hội Champa cùng chia sẻ, đặc biệt kính tặng bài viết này cho anh chị em thân hữu cựu học sinh Poklaong ở quê nhà.      Toàn Ban Văn Nghệ đang hợp ca bài Bangsa Champa, sáng tác:  Qasim Từ.              Hằng năm cứ độ tuần lễ thứ tư của tháng 11 Dương Lịch, nhân dân Hoa Kỳ lại rộn ràng lên để chuẩn bị đón mừng ngày Lễ Tạ Ơn.  Đồng hương Chăm tại Hoa Kỳ cùng hòa nhịp chia sẻ niềm vui chung với dân bản xứ, tổ chức tiệc Thanksgiving tại gia đình như mọi năm.  Đặc biệt trong dịp Lễ Tạ Ơn năm nay, Ban Thanh Niên Thiện Chí Chăm tự nguyện tổ chức Đại Nhạc Hội Champa (Adaoh Tamia Riya Champa) với chủ đề Đêm Tạ Ơn (Malam ndua phuel) vô cùng ngoạn mục tại thành phố San Jose, California Hoa kỳ.  Đồng hương Chăm đến xem khá đông từ khắp các thành phố, các tiểu bang Hoa Kỳ như:  New York, Washington, Alaska, Seattle, Oregan, Los Angeles, Sacramento, San Francisco, Modesto, v.v…  .  Họ đến Đại Nhạc Hội với tấm lòng tạ ơn đất nước Hoa Kỳ, nơi đã và đang cưu mang họ trên bước đường tìm tự do; tạ ơn Ông Bà và Tổ Tiên, nơi mà họ đã cất tiếng khóc chào đời; tạ ơn các Ca Nhạc Sĩ Chăm đã cống hiến những lời ca tiếng hát cho Đời, cho dân tộc Champa được sinh sôi, phát triển và tồn tại đến ngày nay.  Trong không khí thật vui tươi đầm ấm của Đêm Đại Nhạc Hội Tạ Ơn, khán giả được Ban Tổ Chức trình chiếu slideshow hình ảnh các Ca Nhạc Sĩ Chăm quen thuộc có những nhạc phẩm để đời như Ông Đàng Năng Quạ với các bài hát “Bhum Adei”,  “Khik Bhum Pasai”; Ông Jaya Mưrang với bài hát “Harei Pataom Mbaok”;  Ông Châu Văn Kên với bài hát “Jalan Nao”; Ông Quảng Đại Tựu với bài hát “Kak Tian Ka Anâk Nao Bac”; Ông Amưnhân với bài hát “Sep Gineng Harei Katé”. “Gặp Em Đêm Hội Ramưwan”; ngoài ra MC còn giới thiệu nhiều đến các Ca Nhạc Sĩ nổi tiếng khác như  Chế Linh và Từ Công Phụng, v.v.v…Khi nhìn lại những hình ảnh các Ca Nhạc Sĩ thân quen làm cho chúng tôi chạnh nhớ đến thời gian còn ngồi ghế học đường dưới mái Trường Trung Học Poklaong, nơi đã để lại trong tâm khảm chúng tôi biết bao nhiêu kỷ niệm thời còn là học sinh; nhớ những ngày tháng tập dợt văn nghệ cho lớp, cho trường để thi đua với các lớp bạn, hay với các trường khác trong tỉnh dưới sự hướng dẫn của Thầy Giáo kiêm Ca Nhạc Sĩ Đàng Năng Quạ.  Giờ đây Thầy đã thành người thiên cổ.    Mặc dầu tất bật với đời sống hàng ngày của xã hội Mỹ, một số anh chị em thanh niên nam nữ đã vượt qua mọi khó khăn để hội thảo, tập dợt văn nghệ hàng đêm trong thời gian chưa đầy hai tháng để cống hiến một chương trình ca múa nhạc Champa thật hấp dẫn đầy màu sắc dân tộc.  Khán giả như bị cuốn hút vào dòng chảy văn nghệ từ đầu đến cuối mà không muốn ra về.  Từ MC duyên dáng Ngọc Minh với chất giọng thánh thót trong sáng, đến MC Bá Trung Thiệu, Lưu Quang Sáng điển trai với chất giọng trầm ấm ngọt ngào, giới thiệu chương trình cả tiếng Chăm lẫn tiếng Việt rất lưu loát và chuyên nghiệp chẳng kém gì MC Nguyễn Cao Kỳ Duyên và Nguyễn Ngọc Ngạn của Trung Tâm Paris By Night.  Các diễn viên nam nữ mặc áo truyền thống Chăm thật xinh đẹp và đầy ấn tượng.  Ban Đạo Diễn đã chọn những bài hát Chăm thật đặc sắc và phong phú.  Ca sĩ nào hát cũng hay;  theo cảm xúc riêng của chúng tôi ba bài hát hay và gây xúc động nhiều nhất là bài hát “Bangsa Champa”, một sáng tác của Ca Nhạc Sĩ trẻ Qasim Từ, do toàn ban hợp ca;  bài hát “Sep Hari Bhum Cam” của Ca Nhạc Sĩ Đàng Năng Quạ, được trình bày bởi Ca Sĩ Chế Mỹ Lan và bài hát  “Harei Pataom Mbaok” của Nhạc Sĩ Jaya Mưrang do Ca Sĩ Phú Bình Khả trình bày.  Về các bài múa, chúng tôi nhận thấy múa “Ndua Buk”  (Đội Buk) thật dễ thương và duyên dáng, riêng màng múa nam nữ giao duyên cuối cùng cũng rất sống động và vui nhộn, tiếc rằng trang phục nam chưa được xinh đẹp cho lắm.                    Chương trình Đại Nhạc Hội kéo dài khoảng 3 tiếng rưởi đồng hồ, bắt đầu vào khoảng 6:00 tối đến 9:30 tối thì kết thúc, mọi người ra về nhưng lòng còn vấn vương không biết bao giờ lại được xem Đại Nhạc Hội Champa lần 2.  Qua đêm Đại Nhạc Hội Champa đầu tiên, đồng hương Chăm phải thừa nhận là chương trình rất thành công và cảm ơn Ban Tổ Chức đã tạo cơ hội cho người Chăm đến với nhau bằng tình tự dân tộc, quên đi mọi dị biệt bất đồng, thông cảm, thuận hòa và coi nhau như anh em một nhà, cùng hướng về mục tiêu chung là xây dựng một Cộng Đồng Champa lành mạnh và phát triển.   Ban Tổ Chức Đại Nhạc Hội Champa tại San Jose, California. Từ trái sang phải:  Sarip Chau, Xuan Thach, Linh Dang, Qasim Tu, Chinh Kieu, Sang Luu.   Chương trình ca múa nhạc Đêm Tạ Ơn vừa chấm dứt, Ban Tổ Chức Đại Nhạc Hội Champa kính mời toàn thể đồng hương Chăm cùng các anh chị cựu  Học Sinh Poklaong (Hoa Kỳ) đến tiền đình của hội trường để làm Lễ Kỷ Niệm 50 Thành Lập Trường Trung Học Poklaong.  Đây cũng là lần đầu tiên Thầy Trò cựu học sinh Trường Trung Học Poklaong có cuộc hội ngộ ngắn ngủi với sự tham dự của hai thầy cũ Thành Phú Bá và Lưu Quang Sang.  Mọi người tay bắt mặt mừng, tràn trề niềm vui, nước mắt rưng rưng cố nén nỗi cảm xúc dâng trào về cuộc tương phùng không hẹn mà đến. Thầy trò vui vẻ thăm hỏi, bạn bè hớn hở trò chuyện, quyến luyến nhau như không muốn tách rời. Hai thầy nay đã già, chẳng bao lâu nữa sẽ bước vào hạng U80. Còn các bạn đồng môn chúng ta ai cũng đã lên chức Ông Nội, Bà Ngoại cả rồi. Vui quá các bạn nhĩ!   Sau đó các trò mời thầy đứng chụp hình chung dưới tấm biểu ngữ ghi rõ dòng chữ akhar thrah : "50 Thun Pahader Nâm Krung Sang Bac Poklaong" (Kỷ Niệm 50 Năm Thành Lập Trường Trung Học Poklaong: 1965-2015). Bao nhiêu người chụp hình, quay phim thi nhau bấm nút, ánh sáng nhấp nháy liên hồi như tia chớp đầu mùa mưa. Bà con Chăm đứng bao quanh reo hò, vỗ tay chào mừng cảnh thầy trò Poklaong đứng dưới tấm biểu ngữ gợi bao thương nhớ về dĩ vãng của một ngôi trường mà hình ảnh luôn luôn hiện diện trong tâm thức người Chăm. Mặc dù một nửa thế kỷ đã trôi qua, hình ảnh đó vẫn chưa phai nhòa bởi nhiều lý do :   -Thứ nhất : Nhà trường được vinh dự mang tên một vị vua anh minh của Vương Quốc Champa : Poklaong Girai, gọi tắt là Poklaong.  Ngài là vị vua tài ba, kinh bang tế thế, triều chế vững mạnh, dân tình no ấm thanh bình.  Kỳ tích sáng chói liên quan đến đức vua để lại cho hậu thế là cụm đền tháp mang tên ngài đang đứng sừng sững trên ngọn đồi trầu (Mbon hala) gần Palei Cang và đập nước nổi tiếng Nha Trinh, mang nước tưới khắp cánh đồng Ninh Thuận, nuôi sống dân cư địa phương hằng bao thế kỷ qua.   - Thứ hai : Trường Poklaong được xem như một trung tâm đào tạo đông đảo trí thức Chăm.  Đa phần họ là những người thành đạt hôm nay, đang sinh hoạt trên nhiều địa bàn trong nước dưới nhiều ngành nghề khác nhau như :Tiến Sĩ Giảng Viên Đại Học; Nhà Văn, Nhà Thơ đang sinh hoạt trong hàng ngũ văn học Việt Nam; Họa Sĩ, Nhạc Sĩ có tiếng tăm; Bác Sĩ, Nha Sĩ, Dược Sĩ đang hành nghề khắp nơi. Có người làm Đại Biểu Quốc Hội, Chánh Án Tòa Án Nhân Dân; nhiều người làm Giáo Viên và Hiệu Trưởng các trường trung và tiểu học.   - Thứ ba : Trường Poklaong là cơ quan phát hành Tập San Chăm đầu tiên với tên gọi Ước Vọng (Caong Takrâ).  Trong đó có nhiều trí thức Chăm tham gia viết bài với nội dung phong phú, đề cập đến nhiều vấn đề văn hóa, xã hội Chăm.  Đặc biệt những bài viết bằng chữ Chăm truyền thống (akhar thrah) rất được các chú bác lớn tuổi ưa thích.  Mãi về sau này mới có những Tập San do người Chăm làm chủ như tờ Panrang, Tagalau phát hành trong nước; tờ Vijaya, Champaka phát hành ở hải ngoại.   - Thứ tư : Có sự trùng hợp khá lý thú giữa hoàn cảnh Trường Poklaong và thân phận Vua Poklaong Girai.  Theo truyền thuyết, nhà vua xuất thân từ đứa bé mồ côi mẹ rất sớm, sống với ông bà nuôi nghèo khổ.  Ban ngày Ông Bà phải đi mò cua bắt ốc nuôi cháu lớn lên từng ngày, ban đêm ẵm cháu đi xin bú nhờ ở các bà mẹ láng giềng. Ngài trưởng thành do nỗ lực vượt qua mọi khó khăn của hoàn cảnh và đạt được danh vọng vẻ vang bằng ý chí tự lực tự cường. Trường Poklaong cũng tương tự như thế, sinh ra trong hoàn cảnh côi cút, thiếu thốn mọi thứ: lớp học không có, thầy giáo không có, tiền bạc cũng không. Ông Chính phủ chỉ cấp tờ giấy phép thành lập trường và đề cử một ông Quản Đốc  trông coi rồi phủi tay, chẳng ngó ngàng tới nữa.  May mà có Cộng Đồng Chăm, đủ mọi thành phần, dang tay nâng đỡ nhà trường từng bước đi lên. Bên cạnh đó, không thể bỏ qua sự nỗ lực làm việc của thầy trò trường Poklaong. Thấm nhuần câu châm ngôn:  " Sinh hoạt tự túc, Kỷ luật tự giác, Tháo vác tự cường" do nhà trường đề ra, học sinh Poklaong tỏ ra rất xuất sắc trong công tác tự điều hành mọi sinh hoạt của nhà trường.  Họ đã lấy câu châm ngôn này làm kim chỉ nam xuyên suốt trong quá trình học tập và rèn luyện nhân cách, đồng thời cũng là hành trang mang theo trong cuộc sống sau này.  Có thể khẳng định rằng: Trường Trung Học Poklaong sở dĩ đạt được những thành quả tốt đẹp trong sự nghiệp giáo dục của mình là do hai yếu tố: Sự nỗ lực làm việc của thầy trò trường Poklaong cộng với sự yểm trợ tích cực của đồng bào Chăm.    Thầy trò cựu Học Sinh Trung Học Poklaong (Hoa Kỳ ) chụp hình lưu niệm nhân Kỷ Niệm 50 Năm Thành Lập Trường.                      Trường Trung Học Poklaong được chính phủ Việt Nam Cộng Hòa cho phép thành lập và hoạt động kể từ năm 1965.  Sau ngày 30 tháng 04 năm 1975, chế độ Miền Nam được thay thế bởi chế độ Cộng Hòa Xã Chủ Nghĩa Việt Nam, kể từ đó Trường Trung Học Poklaong đã bị giải thể và xóa tên, thay vào đó một tên khác rất xa lạ với đồng bào Chăm.  Năm mươi năm trôi qua, Trường Poklaong chỉ còn lại là những hoài niệm trong ký ức của người Chăm vong quốc.  Không biết đến bao giờ Chính Quyền Việt Nam hiện hành xót thương cho hậu duệ Champa còn sống xót sau cuộc tàn sát của Vua Minh Mạng đối với dân tộc Chăm vào những thập niên của năm 1830, để khôi phục lại tên trường Poklaong cho Đồng Bào Chăm?!   Trên đây là vài cảm nghĩ về Trường Poklaong sau 50 năm nhìn lại.  Nhân dịp Lễ Tạ Ơn và Kỷ Niệm 50 Năm Thành lập Trường Poklaong, chúng tôi xin mãn phép thay mặt toàn thể cựu học sinh Poklaong, kính dâng lời cảm tạ đến quý thầy cũ Trường Trung Học Poklaong nói chung, đặc biệt các thầy Thành Phú Bá, thầy Đàng Năng Quạ (đã mất), thầy Lưu Quang Sang và thầy Nguyễn Văn Tỷ luôn luôn sát cánh, đồng hành với nhà trường từ khi thành lập đến lúc giải thể; đến thầy Jay Scarborough (người Mỹ) từng tận tụy dạy học và giúp đỡ nhà trường rất nhiệt tình; đến Đoàn Thanh Niên Thiện Chí Chăm, tiêu biểu là Đoàn Trưởng Quảng Văn Đủ (tức Tiến Sĩ Po Dharma) đã làm việc cật lực không kể thời gian.  Ban ngày giúp xây dựng nhà nội trú, nhà vệ sinh, đào giếng v.v.v…, ban đêm hướng dẫn học sinh học tập, làm bài; đến Cựu Thiếu Tá Dương Tấn Sở, một vị ân nhân khả kính, đóng góp công lao to lớn trong việc hình thành và phát triển Trường Trung Học Poklaong; đến các bậc phụ huynh, bà con Chăm các thôn đã ủng hộ tiền bạc xây dựng ngôi trường hai tầng lầu xinh đẹp, nhưng rất tiếc ngày nay đã bị xóa hết dấu tích.   Chúng tôi biết các bạn trong nước không dễ dàng gì tập họp nhau làm Lễ Kỷ Niệm 50 Năm Thành Lập Trường Poklaong thân yêu của chúng ta. Thôi thì, chúng ta lên mạng gặp nhau, mặc sức tâm tình, kể chuyện Poklaong ngày xưa, chia sẻ những kỷ niệm vui buồn của một thời đầy ắp mộng mơ. Chúng tôi đề nghị các bạn mạnh dạn lập hồ sơ xin chính quyền Tỉnh Ninh Thuận cho phép thành lập Hội Thân Hữu Cựu Học Sinh Poklaong để chúng ta có ngôi nhà chung sinh hoạt, lâu lâu gặp nhau tâm sự, trao đổi, học hỏi, giúp nhau thăng tiến cuộc sống. Hy vọng chính quyền sẽ không hẹp hòi, phân biệt đối xử với tổ chức xã hội dân sự này. Chúc các bạn thành công.   Qua ba sự kiện nêu trên do thanh niên Chăm hải ngoại thực hiện trong năm 2015 là điểm son  đáng hoan nghênh. Hy vọng thành tích này là tiếng gọi đàn để giới trẻ Chăm  đứng lên, nắm tay nhau tiến bước trên con đường Hồi Sinh Champa (Pahadiip Champa).   Quang cảnh Hội Trường lúc sắp bắt đầu Chương Trình Đại Nhạc Hội Champa Nhân Lễ Tạ Ơn Năm 2015. theo Champaka.info  
0 Rating 126 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On December 6, 2015
  >> vào link để nghe nhạc phẩm Đồ bàn by Chế Mỹ Lan >> trang blog Đại Nhạc Hội Champa Đến với ngày Đại Nhạc Hội, bao nhiêu ký ức đẹp cách đây đã gần 20 năm lại thi nhau ùa về. Bà con Chăm đến với nhau lần ấy vào năm 1998 nhân dịp thành lập Hội Bảo Tồn Văn Hóa Champa. Tất cả các nhân sĩ trí thức Chăm khắp mọi nơi cùng về hội ngộ. Tay bắt mặt mừng trong niềm hân hoan vô bờ bến. Lần đầu tiên cũng tổ chức tại San Jose này, lúc ấy tôi hát bài Hận Đồ Bàn của Xuân Tiên được sự dàn dựng công phu của anh Kiều Đại Vinh với những lời ngâm Ariya thống khiết của ông Châu Văn Cẫm và những dàn diễn viên phụ họa rất sầu nảo làm cho khán giả đã rơi nước mắt. Mãi đến 17 năm sau tôi mới thấy lại hình ảnh này. Cuộc đời mình sống được bao nhiêu mà mãi đến gần 20 năm xa cách mới gặp lại nhau? Có cần phải đợi đến 17 năm không nhĩ! Cám ơn Ban Tổ Chức đã tạo cơ hội cho chúng ta đến gần với nhau sau bao nhiêu năm xa cách. ĐNH đã vẽ lên một bức tranh đầy màu sắc đẹp cả nội dung lẫn hình thức. Từ xa xa, các thanh niên thiếu nữ gọi nhau í ới, tiếng chào hỏi thân quen. những nụ cười rất gần gủi tay trong tay hân hoan dìu nhau bước chân vào hội trường. Những trang phục truyền thống đủ màu sắc trong ánh nắng lung linh của một ngày đẹp trời Cali càng tô điểm rạng ngời những đóa hoa Champa rực thắm. Trên nét mặt của mọi người ai ai cũng toát lên một niềm phấn khởi tràn đầy sức sống.    Các bậc trí thức Cham hội tụ từ nhiều Tiểu Bang khác nhau. Đầu tiên là bước vào phòng chụp ảnh lưu niệm, tấm thảm đỏ được đặc ngay ngắn đưa những bước chân đến những ngọn Tháp như xa lạ như thân quen vẫy chào những đứa con Chăm về với cội nguồn. Tháp đứng sừng sững trong kiêu ngạo và huyền bí làm sao. Ai ai cũng tranh thủ chụp vài tấm hình để lưu lại kỷ niệm đẹp trong đời. Tôi lấy làm vui mừng khi các Bác, các Cô Chú của tất cả các Hội Đoàn vai kề vai cùng chụp ảnh lưu niệm . Rời khỏi phòng chụp ảnh để bước vào phòng ăn uống, không khí lại càng vui nhộn bội phần. Trong căn phòng đầy ấp những tiếng cười giòn giã. Mọi người cùng nhau ngồi thưởng thức những món ăn cổ truyền dân tộc. Ăn uống xong, tất cả cùng dìu nhau vào bên trong sân khấu. MC Từ Công Ánh, MC, Hoa Hậu Ngọc Minh xinh đẹp duyên dáng của Champa chúng ta cùng hai MC đẹp trai phong độ Bá Trung Thiệu, Lưu Quang Sáng mở đầu chương trình rất độc đáo ngoạn mục khai mạc chương trình. Tấm rèm sân khấu từ từ mở hé ra, dàn nhạc vang lên sôi động tưng bừng rộn rã. Tiếng trống Paranưng, tiếng kèn Saranai như vỡ òa trong ngất ngây hạnh phúc. Âm thanh có lúc réo rắc du dương, có khi lại cháy bừng nhộn nhịp. Những bàn tay của những nhạc cụ Chăm thả hồn vào những điệu nhạc say sưa ru hồn người về một thời xa xưa. Ánh sáng nhuộm hoàng hôn tím buồn vời vợi, tím cả thời gian và không gian. Màu tím buồn trên sân khấu khỏa lấp cả khung trời và những mãnh đời cô đơn của những đứa con Champa tha hương lạc loài tìm đến với nhau . Không gian huyền ảo từ phía xa, Tháp đứng ngẩn ngơ sâu lắng tạo nên một bức tranh hoàn hảo rất thơ mộng. Đây có lẽ là bức tranh đẹp nhất từ xưa tới nay. Tiết mục hợp ca Bangsa Champa Khaol Ita cua Cei Juk qua phần hoà âm phối nhạc của nghệ sĩ Miêu Văn Tuấn đã vang lên hùng hồn. Bangsa ilimo khoal ita, Champa muk kei pajiak pajieng, Cam bani sa pajama, pajieng mal, Ahier Awal tajuh halau klau bimong, Champa angan bingo tanâh aia….Nghe xúc động bùi ngùi làm sao ấy. Rồi lần lược những bài ca bất hữu của cố nhạc sĩ Đàng Năng Qụa, nhạc sĩ Châu Văn Kênh, nhạc sĩ Amưnhân... nghe nức nỡ lòng người. Các tiết mục múa đặc sắc và điêu luyện của các cô thiếu nữ trong những bộ trang phục truyền thống uyển chuyển tha thướt đê mê ngây dại đến hoang đường.  MC Ngọc Minh - Trung Thiệu Đại Nhạc Hội lần này gợi nhớ lại bản sắc văn hóa dân tộc qua những bài hát mang giai điệu dân gian Chăm phản ánh đời sống văn hóa xã hội Chăm, nhắc nhở con cháu về lịch sử mất mát đau thương của dân tộc. Phổ biến văn hóa lịch sử âm nhạc dân tộc đến với các cộng đồng khác nhầm xóa bỏ sự nhận định phiến diện về nghệ thuật âm nhạc Chăm. Thể hiện qua trang phục độc đáo, sự uyển chuyển nhịp nhàng của các cô thiếu nữ xinh đẹp trong những điệu múa Chăm ngây ngất đến lạ thường. Đưa khán giả từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Tôi ngồi gần MC Hạ Vân, được cô chia sẽ: “rằng cô rất khâm phục một dân tộc có nền văn hóa đầy màu sắc. Đây là lần đầu tiên cô đã có dịp chiêm ngưỡng những bông hoa xinh đẹp Champa mà từ bấy lâu nay cô chưa hề biết. Cô rất vui khi được chứng kiến tận mắt những thiếu nữ Chăm  đẹp và duyên dáng. Ai ai cũng rất thân thiện và dể mến. Cô nói rằng; cô sẽ về và chia sẽ với đài phát thanh mà cô đang làm.” ĐNH cũng là những tiếng chuông cảnh tỉnh  đến những đứa con Chăm lưu lạc khắp mọi nơi trên thế giới quay về với cội nguồn. Kế tiếp, Nhạc sĩ Từ Công Phụng đã lên góp vui cho đêm ĐNH hai bài hát do ông sáng tác. Tôi hơi thất vọng vì tưởng rằng ông sẽ nhìn khác hơn những gì tôi mong đợi. Tôi hình dung một Từ Công Phụng phong độ trong bộ trang phục cổ truyền dân tộc, nói tiếng mẹ đẻ trên sân khấu dù chỉ vỏn vẹn một câu cũng được, hoặc hát một vài câu bằng tiếng Chăm nếu có thể . Có lẽ tôi hy vọng ở nơi nhạc sĩ Chăm này nhiều hơn thế nữa, nhưng dù gì đi nữa, ông đã đến với cộng đồng của mình trong phần cuối của cuộc đời còn lại, đến để gần gũi nhau hơn đã là tốt lắm rồi. Cũng có thể nói đây là một bước khởi đầu rất đáng khích lệ. Hy vọng trong tương lai, tôi và các bạn sẽ thấy một hình ảnh Từ Công Phụng khác hơn và gần gũi hơn và Chăm hơn.  Cám ơn các cô bác anh chị em tại San Jose về sự rất nhiệt tình phục vụ quên mình. Hy sinh tất cả gia đình con cái, tập dợt nấu ăn và còn phục vụ khách phương xa. Dù rất mệt nhưng các anh chị lúc nào cũng rất vui vẻ. Ở Mỹ ai cũng rất bận rộn, các anh chị em bỏ công sức tập dợt mỗi ngày sau giờ làm việc mệt nhọc. Hy sinh đến mức đó là cùng!. Mặc dù số lượng rất ít ỏi nhưng các cô bác anh chị cùng các anh chị em Sacramento làm nên một đêm Đại Nhạc Hội như thế này là một điều tôi không thể nào ngờ được. Tôi khâm phục ban tổ chức làm việc rất nghiêm túc và kỹ luật. Một sự thành công ngoài sức tưởng tượng của tôi. Xét về hình thức lẫn nội dung đều rất chuyên nghiệp và dĩ nhiên các anh chị đã không nói suông bằng lời mà đã hy sinh rất nhiều thời gian qúi báo của mình để có được một đêm ĐNH ý nghĩa này. G. CLÉMENCEAU nói không sai. “không phải chỉ nói suông mà có thể thay đổi được một tình trạng, chính phải biết hy sinh.” Về đến nhà đã mấy ngày rồi nhưng đầu óc vẫn còn nghe dư âm Đêm nhạc hội. Vẫn còn nhớ như in những hình ảnh các anh chị chạy tới chạy lui chuẩn bị cho tiết mục kế tiếp, sửa soạn trang phục cho nhau trước khi lên sân khấu, khích lệ nhau hãy trình diễn hết mình, những cái nhìn yêu thương trìu mến dành cho nhau lúc tập dợt. Lúc nhẹ nhàng lúc căng thẳng. Lúc lại vang lên những tiếng cười giòn giã. những tiếng chào nhau tay bắt mặt mừng, những vòng tay ấm áp làm mà khó quên đến thế. Tôi đã mang về cả tình cảm anh chị dành cho tôi, đem về hơi ấm tình tự dân tộc, những nỗi niềm yêu thương da diết. Một dư âm thật khó diển tả bằng lời.  Ca nhạc sĩ Từ Công Phụng,  MC Hạ Vân - Sáng LưuThiết nghĩ, trong cuộc sống có đôi khi chúng ta chìm sâu trong sự im lặng qúa lâu. Chìm đấm đến gần như quên đi cảm giác gần gủi thân mật. Đôi khi nhìn lại chẵng có gì trầm trọng cả, chỉ là những cái không đáng kể. Đôi khi chúng ta chưa thật sự hiểu nhau hay chúng ta hiểu lầm nhau bởi không cùng hiểu một nghĩa. Georges DUHAMEL (la possession du monde) có nói: “Những danh từ là những ý tưởng… Con người thường xâu xé lẫn nhau chỉ vì những danh từ mà họ không cùng hiểu một nghĩa. Nếu họ hiểu nhau hơn, họ sẽ ngả vào lòng nhau.” Đại Nhạc Hội Champa chính là cơ hội để đưa chúng ta đến gần với nhau và hiểu nhau hơn. Đêm ĐNH đã nói lên được rằng tinh thần Champa vẫn cháy bỗng. Những đứa con Chăm đã vượt qua biên giới Đạo Giáo, Chủ nghĩa cá nhân, vượt qua Vị trí Địa Lý để đến với nhau. Hơn bao giờ hết, những đứa con Champa trên khắp mọi nơi vẫn còn đau xót cho dân tộc mình, họ vẫn còn hướng về quê hương đổ nát, cùng nhau xây dựng mái nhà Champa yêu dấu. Tất cả đã hòa quyện vào nhau trong vòng tay ấm áp. Ai có đến với ngày Đại Nhạc Hội mới chứng kiến được những cảnh các Chú các Bác cùng nắm chặt tay nhau, cùng nhau làm việc mới cảm nhận được tinh thần đoàn kết của Champa vẫn còn sâu đậm lắm. Ai cũng hăng say góp một bàn tay, chẵng phân biệt tuổi tác hay địa vị. Có lẽ đây là một bài toán mà đã bấy lâu nay chúng ta chưa giải đáp được. Bài toán chứng minh tinh thần đoàn kết dân tộc Champa của chúng ta. Chúng ta sống trên đất khách quê người , ít có cơ hội gặp mặt nhau. Chúng ta hãy biết tạo cơ hội để đến với nhau nối vòng tay lớn. Cùng nhau gìn giữ bản sắc dân tộc. Cùng cầm tay nhau hàn gắn tình đoàn kết, xóa đi những ngộ nhận đáng tiếc trong cộng đồng. Đồng thời hâm nóng lại bản sắc dân tộc. Gợi nhớ hoài cổ, hướng về cố quốc. Kết tụ dân tộc, tình yêu tốt đẹp cần thiết phát triển mọi mặt trong tương lai. Hy vọng một ngày gần trong tương lai.   Anh em diễn viên đang reo hò, vui mừng sau chương trình ĐNH kết thúc. Hãy đến gần với nhau hơn nữa, bởi lẽ, một khi chúng ta đã gần gũi nhau thì những mâu thuẫn sẽ tan biến và nhường chổ cho sự đồng cảm yêu thương, sẵn sàng bỏ qua những bất đồng về quan điểm, sẵn sàng tha thứ cho nhau. Một khi chúng ta đã yêu thương nhau rồi thì mọi thứ khác đã không còn gì đáng kể. Chúng ta hãy biết nắm lấy cơ hội để sích lại gần nhau, đừng để đợi đến một phần tư của cuộc đời mới gặp lại. Hãy đến, cùng nắm chặt tay nhau để cùng nhau làm tốt hơn nữa. Hơn bao giờ hết, hãy gạt bỏ những tư tưởng sai về nhau để cùng nhau đắm chìm trong hạnh phúc như thế này. Hãy cùng nhau gìn giữ bản sắc dân tộc để con cháu sau này còn hãnh diện về dân tộc mình. Ban tổ chức hãy cố gắng duy trì sân chơi bổ ích này để chúng ta giao lưu với nhau. Hãy duy trì một phong cách làm việc vượt lên trên bất cứ sự khác biệt của nhau như thế này nhé. Đây chính là chìa khóa đưa đến sự thành công trong lần ĐNH này. Nếu trong thâm tâm của mỗi cá nhân trong ban tổ chức vẫn còn có tư tưởng phân biệt em Bàlamôn, tôi Bàni, anh thì Islam thì dù có tổ chức bao nhiêu lần ĐNH vẫn quay lại vị trí cũ , không đi về đâu cả. Hy vọng chúng ta sẽ gặp nhau sớm hơn, không phải đợi đến 17 năm nữa, lúc đó Chế Mỹ Lan già rồi không còn hát được nữa đâu. Các bạn có muốn chúng ta gặp nhau một ngày rất gần không? Chúc các Bác các cô Chú và các anh chị về đến nhà vui vẽ bình an, cùng nhau quay quần bên gia đình và người thân. Cùng nhau chia sẽ và ôn lại kỷ niệm đẹp khó quên trong đêm ĐNH và truyền ngọn lửa yêu thương tỏa khắp nơi trong cộng động Champa của chúng ta. Chúc một mùa Giáng Sinh an lành.        
0 Rating 562 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On October 14, 2015
 Nếu ai có chút quan tâm về tình hình thế giới thì sẽ không quên hình ảnh hai lãnh tụ cựu thù của hai thế giới tư bản và cộng sản gặp nhau ngày 19 tháng 11 năm 1985 tại Geneva, Thuỵ Sĩ. Một thành phố nhỏ so với nhiều nơi trên thế giới, nhưng rất xinh xắn và được nhiều người biết tới. Vì đây là cái nôi của Hội Hồng Thập Tự, cùng sự có mặt của hơn 200 tổ chức quốc tế thuộc  chính phủ và phi chính phủ. Đây là cuộc gặp gỡ lịch sử mang đến kết quả thay đổi cả cục diện thế giới, nên khi nói đến sự chấm dứt chiến tranh lạnh giữa Đông và Tây người ta thường nhắc đến ông Reagan và Gorbachev. Nhưng ít ai biết tên một nhân vật trọng yếu khác đã khiến cho sự gặp mặt ấy thành hình, đó là bà Thatcher thủ tướng nước Anh lúc bấy giờ. Khi Reagan lên làm tổng thống nước Hoa Kỳ vào năm 1981, bà Thatcher đã nhanh chóng hình thành mối quan hệ thân thiết với ông, đến nỗi một thời đã từng là đề tài khai thác của giới truyền thông báo chí, song sự quan hệ ấy chỉ dừng lại ở mức độ của một tình bạn đơn thuần. Nhưng sau khi Gorbachev, lúc ấy đang là nhân vật thứ hai trong bộ chính trị của Liên Xô, nhận lời mời của bà Thatcher đến viếng thăm nước Anh vào ngày 16 tháng 12 năm 1984, thì đây thật sự đánh dấu một giai đoạn quan trọng khác thường. Mở đầu cho cuộc tiếp xúc với cái nhìn mới mẻ giữa Đông và Tây, giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa cộng sản, giữa hai ý thức hệ khác nhau cho thấy thay vì đối đầu họ lại chọn đối thoại mà lâu nay chưa từng có vậy! Sau năm tiếng đồng hồ đàm đạo, Gorbachev và phu nhân cùng đoàn tháp tùng đi dạo thành phố London thăm nơi Lenin đã phát hành tờ báo đầu tiên vào năm 1903, cùng viếng thư viện nước Anh xem chiếc ghế Karl Marx đã dùng ngồi viết cuốn Tư Bản Luận trong khi Thatcher vội vã chuẩn bị cho chuyến bay sang Hoa Kỳ để thuyết phục tổng thống Reagan, bà bảo: “Gorbachev rất khác người, tôi thật lòng quý trọng ông ta và tôi nhận thấy mình có thể hợp tác được. Dù ông ta hoàn toàn trung thành với chế độ Xô Viết, nhưng ông ta sẵn sàng lắng nghe, đối thoại chân thành và có thể tự quyết định theo ý ông ta.” Sự tin tưởng lạ lùng của thủ tướng Thatcher, cộng với lý lẽ mạnh mẽ và thấy có lý của bà đã thuyết phục được Reagan. Nên phải nói thủ tướng Thatcher chính là trung gian mở đường cho cuộc gặp đầu tiên này, đánh dấu mốc quan trọng trong lịch sử hai nước và mở ra một khởi đầu mới cho quan hệ ngoại giao giữa hai siêu cường. Thay vì chọn theo con đường cứng rắn họ lại gặp nhau, và tại cuộc họp thượng đỉnh này đại diện hai nước trao đổi với nhau nhiều vấn đề, cùng thẳng thắn nói cho nhau nghe một cách trực tiếp quan điểm của phía mình. Dĩ nhiên là có những cuộc tranh luận, nhưng cũng không thiếu phần lắng nghe. Hai nhà lãnh đạo thật sự cởi mở trao đổi với nhau những suy nghĩ của riêng mình, hầu có thể hiểu nhau và qua đó cùng tìm ra giải pháp làm bớt đi sự căng thẳng ngày càng leo thang giữa hai bên, mà đã có hồi chiến tranh sắp bùng nổ. Và tôi suy nghĩ, làm sao Thatcher thủ tướng của một nước theo chính thể quân chủ lập hiến, Reagan tổng thống của một nước theo thể chế cộng hoà với tam quyền phân lập và Gorbachev tổng bí thư của một nước cộng sản theo chế độ độc tài đảng trị mà họ có thể ngồi lại với nhau được? Trong khi chúng ta là người Chăm trong cùng một dân tộc, vậy mà khi nghĩ chuyện đến với nhau sao thấy thật quá xa vời! Điều mà ba vị nguyên thủ này đã làm là họ vượt qua quyền lợi của cá nhân, đảng phái mà đặt quyền lợi của quốc gia dân tộc lên trên hết. Nhờ vậy mà họ đã làm nên việc lớn, góp phần đem lại sự an vui chẳng những cho quê hương đất nước của họ thôi, mà còn cho sự yên vui của toàn thế giới nữa. Thế mới thật đáng khâm phục! Là người Chăm nếu còn quan tâm đến nhau, chúng ta hãy nên học bài học lịch sử này! Với tôi, ai làm được điều gì tốt cho Chăm dù lớn hay nhỏ đều đáng được quý trọng. Đã là đấu tranh thì ngay cả trên lãnh vực văn hoá và xã hội, mọi sự thành tựu đều phải kinh qua nhiều gian nan. Do đó, nếu ai vì tấm lòng thành muốn làm cho Chăm mà lỡ thất bại thì cũng đừng có quá nhiều lời chê trách, mà hãy rút từ kinh nghiệm đau thương ấy những bài học giá trị hầu làm tốt mai sau. Dân tộc Chăm còn khổ, công việc Chăm còn nhiều nên chúng ta còn cần phải có nhau. Cho nên ao ước của tôi, là sao chúng ta làm được điều như những vị lãnh đạo trên đã làm, bỏ qua những khác biệt để đến cùng nhau hầu qua đó có thể hoá giải những bất đồng! Thuỵ Sĩ là một nước giàu với dân số chỉ hơn 8 triệu người, có thiên nhiên rất đẹp nhiều phong cảnh thật hữu tình, đất nước mà tôi đã có cơ duyên được đến đó vài lần. Là nơi mà nguyên thủ của hai cường quốc lúc bấy giờ chọn cho cuộc gặp gỡ đầu tiên, mở ra một bước ngoặt quan trọng cho sự liên hệ mới củahai nước sau này. Nhờ đó đã đem lại sự an vui cho nhiều người, chẳng những ở bên kia bức màn sắt mà còn cho thế giới tự do nữa. Nên mong ước của tôi, là làm sao chúng ta người cùng dân tộc có thể đến với nhau cùng cởi mở tâm tình. Đến để nói với nhau, ngay cả những điều khó nhất, hầu qua đó mà có sự cảm thông. Có thế chúng ta mới cùng nhau mở ra một trang sử mới, đem lại niềm tin và hy vọng cho mọi người Chăm!   Chân Thành (độc giả gời bài qua info@nguoicham.com)    
0 Rating 169 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On September 3, 2015
  Người Chàm trong mắt tôi Nguyễn Ngọc Chính Một ngày biếc thị thành ta rời bỏ Quay về xem non nước giống dân Chàm (Chế Lan Viên) Ngoài tên gọi “Chàm” ta còn dùng các danh xưng như “Chăm”, “Hời”, “Chiêm Thành”… để chỉ một dân tộc đã từng có một quốc gia độc lập, hùng mạnh trong lịch sử, có nền văn hóa phát triển và là hậu duệ của các cư dân nền văn hóa Sa Huỳnh thời kì đồ sắt.            Ngoài Việt Nam, người Chàm ngày nay còn tản mát đi các nước như Campuchia, Mã Lai, Thái Lan và Hoa Kỳ. Dân số tại Việt Nam theo điều tra năm 1999 là 132.873 người và theo tài liệu của Ủy ban Dân tộc năm 2008 là khoảng hơn 145.000 người, xếp thứ 14 về số lượng trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam.            Vấn đề đặt ra là giữa “Chàm” và “Chăm” thuật ngữ nào đúng? Thật ra thì từ năm 1979 người miền Nam mới thấy xuất hiện chữ “Chăm” từ chính quyền mới sau 30/4/1975. Trước đó, từ miền Trung trở vào Nam, chữ “Chàm” đã từng xuất hiện trong các địa danh, tên gọi cũng như danh từ riêng như Tháp Chàm, Cù Lao Chàm, giếng Chàm, vàng Chàm…            Để chỉ người Chàm, người Việt tại miền Nam còn dùng những tên gọi như “Hời”, “Chiêm”, “Người đàng thổ” (khác với Người đàng quê là người Việt)… Theo một giải thích thì những chữ đó được dùng một cách “miệt thị” nhưng tôi thiết nghĩ đó là một nhận xét sai lệch, suy diễn bất hợp lý.            Trước năm 1975 đã có những công trình học thuật như Từ điển Chàm – Việt – Pháp (của Cham Dohamide và Dorohiêm), Nguyễn Khắc Ngữ nghiên cứu về dân tộc học qua tác phẩm “Mẫu hệ Chàm” hoặc học giả Thiên Sanh Cảnh có một loạt bài về “Đám ma Chàm”… Rõ ràng là chữ Chàm ở đây không thể nào được dùng một cách “miệt thị” trong nghiên cứu.            Lại nữa, một số tác giả người gốc Chàm đã dùng chữ Chàm hay Chiêm trong bút hiệu của mình như Khaly Chàm, Chiêm Nhân… Không lý nào các tác giả đó lại tự miệt thị mình! Nhưng một khi nhận xét về sự “miệt thị” này xuất phát từ những người “có quyền” thì nó trở thành một quyết định và ngành văn hóa chỉ biết gọi là Chăm thay vì Chàm như lúc trước.            Trong bài viết “Tiếng Chăm của bạn” trên Tuyển tập Tagalau [1], Inrasara cho rằng: “Dù sao, quy định của Nhà nước vẫn phải được tuân thủ. Tuân thủ, nhưng nếu có ai dùng từ “Chàm” trong bài viết, nhất là khi có người viết đúng các tên gọi cũ như Trung tâm Văn hóa Chàm, Ma Lâm Chàm chẳng hạn, ta phải chấp nhận và không biên tập. Bởi sự thể không có gì sai hay miệt thị người Chàm cả”.  Tagalau 12: Tuyển tập Sáng tác – Sưu tầm  – Nghiên cứu văn hóa Chàm            Khi còn nhỏ, người Chàm trong mắt tôi là những ông “Hời” ngồi bán thuốc dạo bên cạnh những chiếc giỏ đặc biệt… kiểu Chàm. Họ là những người có vẻ “thần bí” với những câu tiếng Việt lơ lớ, một cách rao hàng vừa tức cười nhưng cũng không kém phần… đe dọa: “Này, ngồi xuống đây tôi coi bệnh cho, mặt của anh có bệnh rồi…”. Tôi sợ lắm nên không trả lời, vội bước đi mà không dám ngoảnh đầu trở lại.            Lớn lên khi tìm hiểu thêm, người Chàm ở Ninh Thuận lại cùng quê hương với Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu! Thêm một phát hiện khiến nhiều người phải ngạc nhiên, trong đó có tôi, về mối tương quan giữ chiếc áo dài của người Chàm và người Việt.           Các nhà nghiên cứu cho thấy chiếc áo dài Việt Nam là sự tổng hợp từ chiếc áo dài của người Chàm và chiếc “xường xám” của Thượng Hải. Theo Bùi Minh Đức trong Từ điển tiếng Huế, NXB Văn Học, 2009:            “Chiếc áo dài của đàn bà Việt Nam khởi phát từ thời Chúa Nguyễn Phúc Khoát (cuối thế kỷ XVIII) với nền tảng là chiếc áo dài phụ nữ Chàm, kết hợp với chiếc áo tứ thân ở Bắc… Áo dài hai vạt của đàn bà Huế có được là do ảnh hưởng Chàm…”           Lê Quý Đôn viết: “Chúa Nguyễn Phúc Khoát hùng cứ ở xứ Đàng Trong, sau khi chiếm trọn nước Chiêm Thành, mở mang bờ cõi về phương Nam… Để chứng tỏ tinh thần độc lập, Chúa Vũ Vương Nguyễn Phúc Khoát đã chú trọng đến vấn đề cải cách xã hội, phong tục mà điều quan trọng là cải cách về y phục…”            Lần tìm trong “Đại Nam thực lục tiền biên” ta bắt gặp đoạn văn sau đây: “Chúa Nguyễn Phúc Khoát xưng vương, ông đã triệu tập quần thần tìm phương thức xưng vương và dựng một tân đô. Ông đã thay đổi lễ nhạc, văn hóa và trang phục.            Để thay đổi, phụ nữ miền Bắc mặc váy, phụ nữ miền Nam phải mặc quần có đáy (hai ống) giống đàn ông. Võ Vương đã gây ra một cuộc khủng hoảng về trang phục. Phụ nữ đã phản đối kịch liệt.                     Về sau Võ Vương không ưng ý với trang phục đó, Ngài giao cho triều thần nghiên cứu, tham khảo chiếc áo dài của người Chàm (giống hệt áo dài hiện nay nhưng không xẻ nách), và áo dài của phụ nữ Thượng Hải (xẻ đến đầu gối) để chế ra áo dài của phụ nữ miền Nam”.             Do đó, những chiếc áo dài đầu tiên của người Việt giống như áo dài người Chàm và có xẻ tà. Vậy là chiếc áo dài Việt Nam ngày nay có đủ hai yếu tố văn hóa phương Bắc và phương Nam.  Chiếc áo dài của người Chàm            Nói đến người Chàm là phải nói đến Chế Lan Viên [2], một hiện tượng thơ văn Việt Nam nhưng lại đậm nét Chàm với tập thơ Điêu tàn được xuất bản năm 1937. Bút hiệu Chế Lan Viên khiến người đọc thơ của ông liên tưởng đến Chế Bồng Nga, tên hiệu của vị vua thứ 3 thuộc vương triều thứ 12 (tức là vị vua đời thứ 39) của Chiêm Thành.            Trong thời kỳ Chế Bồng Nga cầm quyền, đất nước Chiêm Thành rất hùng mạnh, từng đem quân nhiều lần xâm phạm Đại Việt của nhà Trần. Ông hy sinh năm 1390 khi tấn công Thăng Long lần thứ 4.            Điểm đặc biệt ở chỗ Chế Lan Viên lại là một nhà thơ mang dòng họ Việt, Phan Ngọc Hoan, nhưng đã mượn hình ảnh của người Chàm để thể hiện một trường phái thơ mà ông gọi là Trường Thơ Loạn trong tập thơ Điêu tàn. Đặc biệt hơn nữa, khi xuất bản Điêu tàn, Chế Lan Viên chỉ mới 17 tuổi!                 “Ta hãy nghe, trong lòng bao đỉnh Tháp                Tiếng thở than, lời oán trách cơ trời                Ta hãy nghe, trong gạch Chàm rơi lác đác                Tiếng máu Chàm ri rỉ chảy không thôi”                (Chế Lan Viên – “Bóng tối” trong tập thơ Điêu tàn)                  “Bên cửa Tháp ngóng trông người Chiêm Nữ                Ta vẩn vơ nhìn không khí bâng khuâng”                (Chế Lan Viên, “Đợi người Chiêm nữ” trong tập thơ Điêu tàn)                “Chiêm nương ơi, cười lên đi, em hỡi!                Cho lòng anh quên một phút buồn lo!                Nhìn chi em chân trời xa vòi vọi                Nhớ chi em sầu hận nước Chàm ta?”                (Chế Lan Viên, “Đêm tàn” trong tập thơ Điêu tàn)                “Nước non Chàm chẳng bao giờ tiêu diệt                Tháng ngày qua vẫn sống với đêm mờ”                (Chế Lan Viên – “Bóng tối” trong tập thơ Điêu tàn)                “Tháng ngày qua, gạch Chàm đua nhau rụng                Tháp Chàm đua nhau đổ dưới trăng mờ!                …                Tạo hóa hỡi! Hãy trả tôi về Chiêm quốc!                Hãy đem tôi xa lánh cõi trần gian!”                (Chế Lan Viên, “Những sợi tơ lòng” trong tập thơ Điêu tàn)   Chế Lan Viên (1920 – 1989)            Thành Đồ Bàn là tên kinh đô của Chàm trong thời kỳ có quốc hiệu là Chiêm Thành. Thành Đồ Bàn, hay Vijaya, còn gọi là Thành cổ Chà Bàn hoặc thành Hoàng Đế, nay thuộc địa phận xã Nhơn Hậu, Thị xã An Nhơn và cách thành phố Qui Nhơn (tỉnh Bình Định) khoảng hơn 20km.            Trong lãnh vực âm nhạc, nhạc sĩ Xuân Tiên đã để lại cho hậu thế một tác phẩm bất hủ mang tên Hận Đồ Bàn với những lời thống thiết của người dân Chàm:                 “Rừng hoang vu, vùi lấp chôn bao uất căm hận thù                Ngàn gió ru, muôn tiếng vang trong tối tăm mịt mù                Vạc kêu sương, buồn nhắc đây bao lúc xưa quật cường                Đèn đóm vương, như bóng ai trong lúc đêm trường về…            Trong kho tàng âm nhạc Việt Nam trước năm 1975 có rất ít những bản nhạc mang tính cách lịch sử của một dân tộc “vong quốc” với những ca từ diễn tả tỉ mỷ đến từng chi tiết như một bài thơ:                 “Rừng rậm cô tình, đèo cao thác sâu, đồi hoang suối reo hoang vắng cheo leo                Ngàn muôn tiếng âm, tháng năm buồn ngân, âm thầm hòa bài hận vong quốc ca                Người xưa đâu, mà tháp thiêng cao đứng như buồn rầu                Lầu tháp đâu, nay thấy chăng rừng xanh xanh một màu…”                “Về kinh đô, ngàn thớt voi uy hiếp quân giặc thù                Triệu sóng xô, muôn lớp quân Chiêm tiến như tràn bờ                Tiệc liên hoan, nhạc tấu vang trên xứ thiêng Đồ Bàn                Dạ yến ban, cung nữ dâng lên khúc ca về Chàm                “Một thời oanh liệt người dân nước Chiêm lừng ghi chiến công vang khắp non sông                Mộng kia dẫu tan cuốn theo thời gian nhưng hồn ngàn đời còn theo nước non                Người xưa đâu, mộ đắp cao nay đã sâu thành hào                Lầu các đâu, nay thấy chăng rừng xanh xanh một màu…”  Kiến trúc và điêu khắc ở thân tháp Po Klaung Garai, thế kỷ 13            Không một ca sĩ nào hát Hận Đồ Bàn "có hồn" bằng Chế Linh [3]. Lý do cũng dễ hiểu vì anh mang tâm sự của một người Chàm với tên thật là Chà Len (Jamlen) và tên Việt là Lưu Văn Liên. Anh ra đời năm 1942 tại làng Hamu Tanran thuộc Phan Rang, nay là tỉnh Ninh Thuận.            Người ta biết nhiều đến Chế Linh qua dòng nhạc ca tụng những người lính trong quân lực VNCH mặc dù anh chẳng đi lính ngày nào vì thuộc dạng “miễn dịch” dành cho “dân tộc thiểu số”. Về dòng nhạc này, có người khó tính lại bảo Chế Linh thuộc thành phần… “lính chê”.            Người thương thì nói rõ ràng là anh bị “lính chê” nên mới được “miễn dịch”, một số khác, trong đó có cả những người đang mặc áo lính, lại không ưa những ca từ anh ca tụng họ. Họ bảo những bài hát đó được trình bày theo phong cách… “sến”.            Nhưng với Hận Đồ Bàn, mọi người đều có một nhận xét chung: bài hát đã đưa tên tuổi Chế Linh thâm nhập vào làng ca nhạc Việt Nam với tâm trạng của một người Chàm “vong quốc”. Chỉ tiếc một điều, những bài hát có tầm vóc như Hận Đồ Bàn rất hiếm trong nền ca nhạc nên Chế Linh phải bước sang một dòng nhạc gây nhiều tranh cãi [4].            Người ca sĩ gốc Chàm, được gọi là “tài hoa” cũng có một đời tư thật… “hào hoa”: Chế Linh nổi tiếng là người có nhiều vợ con, tính cho đến năm 2007, anh đã có 4 vợ và 14 đứa con. Ta khám phá được nhiều điều về Chế Linh qua bài viết của Jaya Bahasa, “Mừng sinh nhật lần thứ 57 của chị Nguyễn Thị Thúy Hằng” trên trang web Inrasara [5].            Vào giữa thập niên 1970 Chế Linh kết hôn với cô Nguyễn Thị Thúy Hằng (sinh ngày 1/12/1953, mất ngày 26/4/1974). Cuộc hôn nhân giữa một ca sĩ người gốc Chàm với một cô gái người Việt đã khiến giới báo chí Sài Gòn tốn khá nhiều giấy mực.            Jaya Bahasa viết: “Như một định mệnh hai dân tộc, hạnh phúc này nhanh chóng đổ vỡ bởi những mù khơi mà không ai có thể biết được. Vì muốn minh chứng cho tình yêu của mình được sống mãi, chị Thuý Hằng quyết định quyên sinh bằng một liều thuốc ngủ mà luyến tiếc để lại hai đứa con trai thơ dại.                     Cái chết của Thuý Hằng đến quá đột ngột và bất ngờ, một lần nữa, cánh báo chí và giới nghệ sĩ Sài Gòn thêm bàn tán rôm rả. Nhưng không người nào biết được căn nguyên. Bởi chị không một lời nào trăn trối ngoài ba lá thư để lại cho gia đình.             Lá thư thứ nhất viết cho người mẹ mà chị gọi bằng Mợ, xin tha thứ vì những lỗi lầm này và mong mợ hãy yêu thương đứa con của chị để được thấy chị qua hình ảnh đứa con. Lá thư thứ hai viết riêng cho hai đứa con yêu quý mà chị đặt tên là Sơn và Ca, một loài chim có giọng hót tuyệt vời. Lá thư thứ ba viết riêng cho ca sĩ Chế Linh, vài dòng ngắn ngủi với sự muộn màng và chỉ xin Chế Linh cho một nắm đất đắp lên mộ”.  Thúy Hằng và Chế Linh (Ảnh trên trang web Inrasara)             Chuyện tình Chế Linh – Thúy Hằng với đoạn kết đầy nước mắt khiến người ta liên tưởng đến một chuyện tình vương giả trong lịch sử Việt-Chàm. Huyền Trân là một công chúa đời nhà Trần, con gái của vua Trần Nhân Tông. Năm 1306, Huyền Trân được gả cho vua Chiêm Thành là Chế Mân để đổi lấy hai châu Ô và Lý (từ đèo Hải Vân, Thừa Thiên đến phía bắc Quảng Trị ngày nay).            Một năm sau đó, khi hoàng hậu người Đại Việt vừa sinh xong hoàng tử Chế Đa Đa, thì tháng 5/1307, quốc vương Chế Mân băng hà. Theo tục lệ nước Chiêm, khi vua chết hoàng hậu phải lên giàn hỏa để tuẫn tang. Vua Trần Anh Tông biết tin, sai Trần Khắc Chung vờ sang viếng tang, tìm cách cứu Huyền Trân.            Trần Khắc Chung bày kế thành công, cứu được Huyền Trân đưa xuống thuyền về Đại Việt bằng đường biển. Cuộc hải hành này kéo dài tới một năm (?) và theo “Đại Việt Sử ký Toàn thư” thì Trần Khắc Chung đã tư thông với công chúa.           Theo di mệnh của Thượng hoàng Nhân Tông, công chúa đầu gia Phật giáo ở núi Trâu Sơn (nay thuộc Bắc Ninh) vào năm 1309, dưới sự ấn chứng của quốc sư Bảo Phát. Công chúa thọ Bồ tát giới và được ban pháp danh Hương Tràng.             Trong dân gian, có lẽ vì thời đó người Việt coi người Chàm là dân tộc thấp kém, nên đã có câu:            Tiếc thay cây quế giữa rừng             Để cho thằng Mán thằng Mường nó leo  Đền thờ Huyền Trân Công chúa                      Nói đến lãnh vực âm nhạc của người Chàm như trường hợp của ca sĩ Chế Linh tôi lại nhớ đến nhạc sĩ Từ Công Phụng, vốn là bạn học năm Đệ Nhất tại trường Trần Hưng Đạo Đà Lạt. Chúng tôi chỉ quen nhau trong một niên học nhưng có nhiều chuyện để nhớ khi tuổi tác ngày một cao.            Từ Công Phụng ngày đó là một học sinh từ Ninh Thuận lên Đà Lạt học năm cuối trung học. Có lẽ anh là gốc người Chàm nên hình như luôn có một khoảng cách vô hình với đám học sinh chúng tôi. Anh “góp tiếng” tham gia ban nhạc nhà trường bằng giọng hát và chúng tôi rất ngạc nhiên khi nghe một giọng trầm, buồn và còn đặc biệt hơn nữa chỉ hát những bài “lạ”…             Đó là hai bài “Bây giờ tháng mấy” và “Mùa thu mây ngàn” do chính anh sáng tác. Thật không ngờ, khi mới 16 tuổi anh đã tự học về âm nhạc qua một cuốn sách của Robert de Kers, viết bằng tiếng Pháp, với tựa đề “Harmonie et Orchestration”. Đến năm 17 tuổi anh đã có nhạc phẩm đầu tay “Bây giờ tháng mấy”…             Hồi đó đang có cuộc thi tài giữa “trường Ta” là Trần Hưng Đạo và “trường Tây” của các sư huynh dòng La San là trường College d’Adran trên sân khấu thành phố Đà Lạt. Vì là trường Tây nên Adran chơi nhạc Beatles, đàn cũng là kiểu Beatles còn Trần Hưng Đạo chúng tôi khiêm tốn hơn, chơi đàn Fender theo các bản hòa tấu của The Shadows.             Có thêm Từ Công Phụng “chuyên trị” nhạc Việt thể loại “tình cảm” trở thành… “hoa thơm cỏ lạ” trong chương trình văn nghệ. Thoạt đầu Từ Công Phụng “khớp” không dám lên sân khấu nhưng anh em trong ban nhạc cứ khen những bài “tự biên, tự diễn” của Phụng và bảo đảm là sẽ nổi bật trong đêm văn nghệ.           Từ Công Phụng bỗng trở thành một hiện tượng tại Đà Lạt. Khán giả hoan nghênh nhiệt liệt đến độ Đài phát thanh Đà Lạt mời anh ghi âm để phổ biến qua làn sóng điện, tên tuổi của Từ Công Phụng được người Đà Lạt biết đến cùng với Lê Uyên Phương trong ban nhạc Ngàn Thông trên Đài phát thanh.             Cuối năm Đệ Nhất ban nhạc của chúng tôi tản mát mỗi người một phương. Họ Từ về Sài Gòn và ngay sau đó nổi lên như một nhạc sĩ ăn khách cùng thời với Vũ Thành An, Ngô Thụy Miên, Trịnh Công Sơn và Lê Uyên Phương.            Sau 30/4/1975, các sáng tác của Từ Công Phụng bị cấm lưu hành tại Việt Nam và mãi cho đến năm 2003 mới được… “cởi trói”. Anh rời Việt Nam năm 1980 và định cư tại Portland, Oregon. Năm 1998, anh trở về thăm quê hương Ninh Thuận và năm 2008, anh trở lại với chương trình "45 năm tình ca Từ Công Phụng" tại một phòng trà có tiếng ở Sài Gòn.             Nhạc sĩ kiêm ca sĩ Từ Công Phụng đã 2 lần vượt qua căn bệnh ung thư gan và ung thư túi mật nhưng vẫn mong đủ sức khỏe để sáng tác trong những ngày cuối đời. Với tình bạn học của buổi thiếu thời tôi chỉ mong anh sẽ sống mãi với chúng ta, chuyện sáng tác chỉ là vấn đề phụ vì những tác phẩm đã ra đời của anh đã là chứng nhân cho một nhạc sĩ tài hoa người Chàm.  Từ Công Phụng            Hồi còn đi học tại Ban Mê Thuột, tôi có một vị giáo sư người gốc Chàm. Thầy Nguyễn Văn Tỷ, quê quán tại Ninh Chữ, một bãi biển thuộc thôn Bình Sơn, thị trấn Khánh Hải, tỉnh Ninh Thuận.            Tôi cùng thầy Bùi Dương Chi đã dẫn đoàn sinh viên Mỹ đến bãi biển Ninh Chữ được coi là một trong những bãi biển đẹp nhất Việt Nam. Kết hợp với địa danh Bình Sơn, Ninh Chữ đã trở thành cụm du lịch Bình Sơn - Ninh Chữ đem lại diện mạo, thương hiệu và thu nhập cho tỉnh Ninh Thuận.            Thầy Nguyễn Văn Tỷ đã về hưu và sinh sống tại Ninh Chữ. Ông trở thành một “nhân sĩ” trong làng và vẫn tiếp tục nghiên cứu văn hóa Chàm để truyền bá lại cho lớp trẻ người Chàm. Ông cũng là một cộng tác viên kỳ cựu của Tuyển tập Tagalau như đã nói ở trên.            Tháng 10/2009 ông đến California để tham dự lễ Katê của cộng đồng người Việt gốc Chàm tại đây. Ông đã được mời phát biểu cảm tưởng tại buổi lễ. Theo ông, dân tộc Chàm muốn sống với nhau tốt, muốn tồn tại tốt cần thể hiện 3 yếu tố: Đoàn kết, Bảo tồn và Phát triển.             Đối với người Chàm, đoàn kết được thì sẽ được tất cả, và không đoàn kết thì sẽ mất tất cả. Điều này mang ý nghĩa sau khi bị “vong quốc” sẽ lại phải “vong thân”.            Người Chàm cần bảo tồn ngôn ngữ và chữ viết của mình, vì “tiếng Chàm còn thì người Chàm còn; tiếng Chàm mất thì người Chàm mất”.             Nếu tồn tại được mà không phát triển thì chỉ “tồn tại như một dân tộc bần cùng”, “vùi dập trong cuộc sống lạc hậu, tối tăm”.            Có lẽ đó cũng chính là lời kết của bài viết này về… “Người Chàm trong mắt tôi”.  Thánh địa Mỹ Sơn *** Chú thích: [1] Tagalau tiếng Chàm là cây bằng lăng hoa tím, mọc nhiều ở miền núi Ninh Thuận và Bình Thuận. Tuyển tập mang tên Tagalau vì nó tượng trưng cho tính dân dã, sức chịu đựng, sự khiêm tốn: nỗ lực nở hoa dù phải mọc trên mảnh đất nghèo cằn.Tagalau là Tuyển tập chứ không phải là Tạp chí nên không ra định kỳ, mà chỉ được xuất bản khi tập hợp đủ bài vở. Số đầu tiên của Tuyển tập Tagalau ra mắt vào lễ Katê của người Chàm năm 2000. [2] Chế Lan Viên (1920 – 1989), tên thật là Phan Ngọc Hoan, ra đời tại xã Cam An, huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị. Ông lớn lên và đi học ở Quy Nhơn, đỗ bằng Thành chung rồi đi dạy tư kiếm sống. Có thể xem Quy Nhơn, Bình Định là quê hương thứ hai của Chế Lan Viên, nơi đã để lại những dấu ấn sâu sắc trong tâm hồn của nhà thơ. Ông bắt đầu làm thơ từ năm 12 tuổi. Năm 17 tuổi, với bút danh Chế Lan Viên, ông xuất bản tập thơ đầu tay nhan đề Điêu tàn, có lời tựa đồng thời là lời tuyên ngôn nghệ thuật của "Trường Thơ Loạn". Từ đây, cái tên Chế Lan Viên trở nên nổi tiếng trên thi đàn Việt Nam. Trước năm 1945, thơ Chế Lan Viên là một thế giới đúng nghĩa "trường thơ loạn": Kinh dị, thần bí, bế tắc của thời Điêu tàn với xương, máu, sọ người, với những cảnh đổ nát của tháp Chàm. Những tháp Chàm "điêu tàn" là một nguồn cảm hứng lớn đáng chú ý của Chế Lan Viên. Qua những phế tích đổ nát và không kém phần kinh dị trong thơ Chế Lan Viên, ta thấy ẩn hiện hình bóng của một vương quốc hùng mạnh thời vàng son, cùng với nỗi niềm hoài cổ của nhà thơ. Phong cách thơ Chế Lan Viên rất rõ nét và độc đáo. Thơ ông là sức mạnh trí tuệ được biểu hiện trong khuynh hướng suy tưởng - triết lý, "chất suy tưởng triết lí mang vẻ đẹp trí tuệ và sự đa dạng, phong phú của hình ảnh thơ được sáng tạo bởi một ngòi bút thông minh, tài hoa". Con gái ông, bà Phan Thị Vàng Anh, cũng là một nhà văn nổi tiếng. [3] Hận Đồ Bàn do ca sĩ Chế Linh trình bày: http://mp3.zing.vn/bai-hat/Ha-n-Do-Ba-n-Che-Linh/IW7AZZCO.html [4] Tham khảo về Chế Linh tại: http://chinhhoiuc.blogspot.com/2013/08/sen-hay-sang.html [5] Tham khảo trang web của Inrasara về chuyện Chế Linh và Nguyễn Thị Thúy Hằng:http://inrasara.com/2010/11/26/theo nguoidongbang.blogspot.com.au (Nguồn: Chinhhoiuc)    
0 Rating 3.9k+ views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On August 18, 2015
Mộng Tình Xứ Champa(tác giả: Ngọc Tảo)Phần cuối – Những Bản Anh Hùng Ca ...Sau buổi tối ngày hôm đó, JaNin trở lại bình thường trong sự ngạc nhiên của nhiềungười, chàng không kể cho ai nghe về chuyện mà chàng đã gặp trong hang động, trong lòng chàng luôn tin tưởng vào thần linh. JaNin nhanh chóng hiểu ngay thời cuộc và chàng xin nhập vào đại quân. PaRa cũng bắt đầu hiểu ra sự tha thứ của JaNin dành cho Bố Ca, điều đó thật cao thượng, và rồi nàng cũng dần dần tha thứ cho Bố Ca. Ngoài chiến trận, chiến sự đã bắt đầu thay đổi. Saka năm 1393 (tức vào tháng 1 năm 1471 sau CN), đại quân địch đóng ở thừa tuyên Thuận Hóa (nay là đất Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên-Huế) đây vốn là đất các châu Bố Chính, Địa Lý, Ma Linh, Châu Ô,Châu Rí của ta đã đánh mất, địch bắt đầu có dấu hiệu động quân, những toán quân xung kích của địch qua sông Trường Định (nay thuộc địa phận Đà Nẵng) rồi chiếm lấy cửa quan của ta.Bên ta, đức vua tối thượng ban lệnh cho người em trai mình cùng nhiều quan tướng đại thần dẫn năm mươi ngàn quân cùng trăm voi chiến tiến quân ra nơi địch hạ trại, quân ta xuất phát tiến thẳng đến gần doanh trại chúng rồi án binh chờ thăm dò tin tức và quan sát tình hình bên địch.Cả hai bên đều án binh bất động, bốn ngày sau, chẳng cần hứa ngày động quân, đại quân của địch đánh trống giục quân tiến đánh quân ta bất ngờ , quân địch rất mạnh và rất đông, bên ta kháng cự chống đỡ kịch liệt nhưng yếu thế nên phải rút quân, trên đường rút chạy về Đồ Bàn qua các con đường núi và những khu rừng,ta luôn bị địch chặn đánh. Quân ta chưa kịp rút tới thành cổ Châu Sa, vừa mới đến ngọn núi Mộ Nộ thì bất ngờ quân địch ở đâu đã mai phục trước xông ra ép đánh quân ta dồn về phía chân núi cao, những toán quân khác của địch ở nhiều phía tiếp tục xông ra với mật độ rất đông, bên ta vỡ đội hình, yếu ớt chống cự trong vũng máu, năm mươi ngàn quân của ta mất mát rất lớn, quân ta cố gắng vượt đường núi rút về thành Đồ Bàn, rút chạy đến cửa biển Thái Cần (thuộc địa phận Quảng Ngãi ngày nay) thì bị đội quân hung hăng của địch đã mai phục trước chặn đánh, số thương vong bên ta ngày càng tăng, tàn quân còn lại sống sót nhắm hướng Đồ Bàn mà chạy. Ở trong thành Đồ Bàn, tin tức chiến trận được truyền về, cả thành náo loạn, nhà vua cùng các quan thần cao tuổi họp nhau tìm kế kìm chân kẻ thù, họp cả ngày cũng chẳng tìm ra được cách gì. Cuối cùng tất cả cùng đồng ý cho một giải pháp bất đắc dĩ là cử một người trong hoàng gia mang nhiều lễ vật đến sang bên địch xin hàng, đồng thời cấp tốc tuyển chọn binh lính tinh nhuệ đi đến thành Thị Nại để tổ chức hàng tuyến phòng ngự vững chắc đề phòng kẻ thù không chấp nhận yêu cầu xin hàng của ta. Thị Nại là ngôi thành quân cảng có vị trí và vai trò rất quan trọng, Thị Nại như là một tấm khiên vững chắc bảo vệ cho kinh đô Đồ Bàn, quân Đại Việt đã xua quân đến tận đây thì việc tiến đánh Đồ Bàn chỉ là trong ngày một ngày hai, nên ta cần phải cố gắng giữ thành Thị Nại cho bằng được nhằm không cho kẻ thù tiến đến sát nơi mà nhà vua của ta ngự.JaNin từ hôm không được đi đánh trận đầu thì thất vọng không ngừng, nay nghe lệnh vua ban tuyển binh tinh nhuệ thì lập tức đến gặp vị tướng quân lãnh đạo đội quân xin được cùng đi đến thành Thị Nại, vị tướng nhìn qua JaNin là biết một kẻ sức khỏe y như một chiến binh thực thụ thì chấp nhận và bố trí cho chàng vào đội hình. Bố Ca được tin, đến kêu JaNin xin vị đại tướng cho Bố Ca được đi theo đánh giặc giữ thành, JaNin dành lời khen ngợi cho Bố Ca, nhưng chàng biết Bố Ca đã quyết tâm muốn đi thì cố gắng khuyên ngăn Bố Ca cách mấy cũng không được nên chàng gật gù đồng ý sẽ đến xin thử, nhưng JaNin lại không làm như vậy, chàng không muốn Bố Ca đi, chàng muốn Bố Ca ở lại bảo vệ cho PaRa, chàng lo cho PaRa và đất nước của mình.Ngày hôm sau, đội quân xuất phát ra thành Thị Nại, JaNin được sắp xếp cùng với nhiều người khỏe mạnh khác canh giữ cửa chính của thành, JaNin đã chuẩn bị sẵn sàng dành cái chết cho bất kì tên giặc nào giám xông vào thành đầu tiên.Lời xin hàng của ta được vua của Đại Việt chấp thuận, mọi người trong thành Thị Nại và cả trong thành Đồ Bàn thở phào nhưng không vì thế mà bớt đi sự lo toan trong lòng.Nhiều ngày trôi qua, binh lính giữ thành Thị Nại bắt đầu hiện tượng bê trễ, việc canh phòng không còn nghiêm ngặt như tình thần ban đầu được đặt ra, JaNin khuyên răn nhiều người nhưng cũng bằng không, chàng xin tìm đến gặp người tướng quân dùng lời thẳng thắn nói rõ tình hình lòng quân của ta, viên tướng quân ầm ừ cho qua truyện rồi khen JaNin có trách nhiệm cao nhưng rồi đâu cũng lại vào đấy.Tháng 10 năm 1393 niên lịch Saka ( vào ngày 27 tháng 2 năm 1471 sau CN), quân địch trở mặt và bội ước, trong đêm tối mang đại quân vây đánh thành Thị Nại, quân ta trong thành quá bất ngờ không kịp cho sự chuẩn bị tốt nhất, lực lượng hai bên lại chênh lệch nhau, JaNin cùng tất cả số quân trong thành ra sức chống đỡ nhưng quân địch nhanh chóng phá được các cổng rồi xua quân tàn sát, quân trong thành mở đường rút chạy, trong đêm tối JaNin và rất nhiều người khác quan sát các vì sao chọn hướng mà chạy thẳng về Đồ Bàn, quân ta chạy rất nhanh, quân địch cũng đuổi theo rất gắt, một toán quân của kẻ thù đã đuổi kịp, dẫn đầu chúng là một tên tướng dữ dằn cầm hai cây chùy khá nặng làm vũ khí, tên này hét to dục ngựa chạy về phía quân ta, JaNin đang cắm đầu chạy, chàng quay đầu lại thấy đằng sau là rất nhiều người cũng đang cắm đầu chạy như chàng, ở xa là những ngọn đuốc sáng của địch lớm chớm đuổi theo. Đang chạy cùng với những người khác thì đột nhiên JaNin chạy chậm lại, chàng bước đi từ từ suy nghĩ rồi bỗng chuyển hướng quay lại chạy về phía bọn địch, JaNin chạy xuyên qua những dòng người của ta đang chạy tới, chàng chạy rất nhanh, trên tay chàng là thanh gươm cực kì bén, mọi người thấy JaNin chạy lại thì hết sức hoảng hốt, họ cũng bắt đầu chậm lại rồi bỗng hiểu ý của JaNin, từng người từng người một quay đầu chạy theo JaNin quay về hướng bọn giặc đang tiến tới với những sự tức giận đã lên cao. JaNin lao tới, tên tướng kia cưỡi ngựa chảy đến vung chùy vào đầu JaNin, JaNin né được rồi rất nhanh kéo chân hắn làm tên tướng ngã ngựa xuống đất một cái thật mạnh, những người anh em phía sau vừa kịp chảy đến vung đao đâm thương bầm tên tướng thành đống thịt nát, đám quân giặc phía sau thấy tướng mình chết thì chùn bước chân, quân ta chạy tới áp sát đánh cho toán quân này phải chạy ngược về lại thành Thị Nại, đại quân của chúng đang ở đó, JaNin gọi mọi người không đuổi theo, tất cả lại hướng về phía thành Đồ Bàn mà chạy. Ngày hôm sau, đại quân của địch xuất phát từ thành Thị Nại hướng thẳng về kinh đô Đồ BànJaNin và nhiều người khác rút về đến kinh đô thì liền ngay vào điện thông báo tin cho Vua biết. Cả hoàng gia và toàn thành Đồ Bàn, ai nấy cũng đứng ngồi chẳng yên, giặc đã ở trước mắt, trong ánh mắt và khuôn mặt của tất cả mọi người in rõ sự lo lắng tột cùng.Tháng 10 năm 1393 lịch Saka ( vào ngày 29 tháng 2 năm 1471 sau CN), đại binh của Đại Việt đã đến kinh đô Đồ Bàn, giặc bao vây thành đông nghịt, bốn cổng của Đồ Bàn không có lối thoát dù chỉ một con muỗi cũng không bay được ra ngoài, quân giặc gõ khiên đạp đất làm nhuệ khí của quân ta mất đi tinh thần chiến đấu, JaNin cùng vô số binh lính chống giữ tòa thành gần cửa phía tây, ba cửa còn lại cũng được khóa chặt và chống đỡ rất chắc, Bố Ca giữ vị trí trên tòa thành ở gần cửa cổng phía nam.Giặc dùng thang leo thành nhưng bị ta kháng cự quyết liệt, trên dãy thành là nơi chiến đấu ác liệt nhất, ta cố gắng không cho một tên địch nào vào được.Vua và một số tướng quân của ta lên tòa thành quan sát thì thấy lực lượng quân địch đông như kiến, ngài truyền cho sứ giả mang rất nhiều lễ vật sang xin hàng, nhưng giặc vẫn tiếp tục công kích quyết tâm phá thành. Giặc cho bắn tên vào thành, chúng tiếp tục dùng thang cố gắng leo vào, quân ta chống giữ và đáp trả rất kiên cường, dân chúng và gia đình trong thành là hậu phương tinh thần vững chắc cho ý chí của quân ta.Ngày thứ hai, những tặng vật cao quý của ta lại được mang đi sang bản doanh của địch để xin hàng nhưng vẫn không được đáp ứng, quân địch bắt đầu đánh trống thúc quân đánh phá dữ dội, đến chiều thì cửa thành phía đông bị phá tan, quân giặc ùa vào như nước vỡ bờ, quân ta dồn về phía đông thành ra sức chiến đấu nhưng chống đỡ không nổi, quân giặc vào được thành ra sức chém giết, binh lính và người dân hỗn loãn. Đại quân của địch theo cửa đông tiến vào, chúng tiến thẳng đến điện nhà vua ngự, chém giết và bắt bớ hết tất cả những ai trong hoàng gia và quan thần.JaNin đang ở trên thành chiến đấu, trông thấy phía xa cửa đông quân giặc tiến vào ồ ạt chém giết khắp nơi thì chàng nghĩ ngay đến PaRa, chàng xuống thành và chạy ngay đến nhà PaRa, xung quanh chàng là tiếng khóc của những người mẹ chạy đi tìm con, tiếng gọi đau đớn của người vợ kêu tên chồng mình, những gương mặt bơ phờ của đứa cháu tìm bà, con tìm cha, những tiếng kêu cuối cùng của người thanh niên bị quân giặc cắt cổ, tiếng binh đao giáo mác cứa vào nhau. JaNin vừa chạy vừa khóc trước cảnh tượng chua xót và đau thương. JaNin chạy rất nhanh, dưới chân chàng, nền đất bị tưới ướt bởi dòng sông máu, chàng cố gắng giằn vặt đôi mắt của mình nhắm lại để không trông thấy thảm cảnh xung quanh, ngôi nhà PaRa đang ở trước mắt chàng, có một đám địch đang dàn quân trước cổng vào nhà PaRa, JaNin giương mắt nhìn vào thấy một tên giặc to lớn đang bóp cổ Bố Ca ở giữa sân, thì ra Bố Ca đã về cứu PaRa trước, JaNin chạy tới nhảy qua hàng rào rồi thật nhanh lao tới rút gươm chém một nhát rất mạnh, máu vung tóe trên khuôn mặt chàng và Bố Ca, cái thây của tên giặc to lớn ngã xuống, đầu hắn lăn long lóc văng ra xa; đám quân bên ngoài thấy JaNin chặt đầu tướng của mình thì hốt hoảng loạn đội hình, một tên tướng to lớn khác đang giết người ở nhà bên cạnh tròn mắt bước đến nạt đám lính rồi hắn cầm thanh đao to đùng đi tới chỉ vào mặt JaNin nói gì đó mà JaNin không hiểu, hắn vung đao chém JaNin, JaNin né ngay, Bố Ca đứng gần cầm cây thương hai lưỡi đâm hắn, hắn dùng khiên đỡ được rồi chém Bố Ca một nhát vào tay, JaNin vừa né được đao thì dùng gươm đâm vào bụng gã nhưng bộ giáp gã này mặc rất dày, gươm không xuyên qua được, hắn dùng khiên tạt thẳng một cái vào đầu JaNin làm chàng ngã xuống, đầu JaNin chảy máu, Bố Ca bị một nhát nơi cánh tay thì bước lui mấy bước tựa vào tường nhìn vào bên trong nhà. Trong nhà, nàng PaRa ôm đứa con trốn trong phòng ngủ, đứa con khóc lên, tên tướng nge thấy tiếng khóc của trẻ con trong nhà thì ra lệnh cho đám quân bên ngoài bắn tên tẩm lửa lên mái nhà, Bố Ca vốn hiểu được tiếng của người nước Đại Việt, nghe thấy tên tướng định cho người đốt nhà thì Bố Ca lao tới, phi cây thương đang cầm trong tay thật mạnh về tên giặc to lớn, hắn dùng đao đỡ mũi thương bay đến, Bố Ca bước tới thì hắn chém Bố Ca thêm một nhát vào cánh tay còn lại, rồi hắn dùng đao đâm Bố Ca, Bố Ca ngã gục xuống trong vũng máu. Tên giặc bước tới nhìn JaNin đang nằm dưới đất bên dưới một cái cây, chàng bị choáng, JaNin giương mắt nhìn hắn, ở bên trên đầu hắn, JaNin thấy đứa em trai của PaRa đang ở trên cây, hắn đạp JaNin mấy cái vào ngực, em trai của PaRa ở trên cây nhảy xuống với một cục đá to trên tay nhắm đầu tên giặc đập một cái rất mạnh phát ra thứ âm thanh nghe như quả trứng bị vỡ, tên tướng ngã xuống, JaNin vực dậy đè lên người hắn rồi dùng thanh gươm đâm mạnh vào cổ tên tướng, hắn không còn cơ hội để sống. Năm mũi tên chấm lửa được bắn lên mái nhà , lửa bắt rất nhanh, JaNin nhìn vào trong kêu to : - “ PaRa ! …thoát khỏi đó đi, chảy ra đi… “ PaRa ở trong nhà ẵm con chạy ra ngoài, thấy Bố Ca nằm dưới đất mình mẩy đầy máu thì nàng không kìm chế được nước mắt. JaNin nói : - “ PaRa, hãy đứng sau lưng anh.. “ Mái nhà tranh bốc lửa làm khói mù mịt, tàn tro theo gió bay xuống khắp sân nhà. Ở đằng xa, lửa bốc lên khắp nơi, bọn giặc hung ác đốt nhà giết người trong tiếng thét của lời cầu xin vô vọng, một cột khói khổng lồ bay ra từ điện của vua, tất cả mọi thứ đang bị quân giặc đập phá và thiêu đốt.Một tên tướng khác tới cổng nhà PaRa cùng với đám cung thủ của hắn, nhìn thấy hai tên tướng nằm dưới đất, bên trong là một tên lính và một đứa trẻ đứng bảo vệ cho một người phụ nữ cực kì xinh đẹp đang ôm đứa con thì tên tướng này hiểu ngay mọi chuyện. Hắn giương cung, JaNin lập tức nhặt cái khiên của tên tướng ban nãy lên rồi kéo đứa em trai của PaRa núp sau mình, một mũi tên bắn tới, JaNin dùng khiên đỡ được; hắn tiếp tục giương cung, lần này là ba mũi tên sắp được bắn về phía JaNin, JaNin nhìn thấy liền quỳ gối một chân xuống thấp, đứa em trai cũng quỳ gối một chân áp thật sát sau lưng JaNin, nàng PaRa hiểu ý cúi người thấp xuống, một tay ôm con, một tay ôm chặt sau lưng em trai mình, JaNin cầm khiên che hết cả ba. Mũi tên bắn tới, ba mũi đều dính chặt vào khiên, cả ba người không hề hấn gì cả. Tên tướng tức giận hét to ném cung xuống đất, hắn cầm hai thanh đao lao vào, JaNin một tay cầm khiên, tay kia cầm gươm đỡ những đường đao tới tấp, hắn lấy hết sức vung một đao cực mạnh làm cái khiên vỡ làm hai, em trai PaRa nhặt một mũi tên chảy tới nhảy lên bám vào vai tên tướng rồi đâm mũi tên vào cổ hắn, tay hắn bỏ đao nắm đầu đứa trẻ đẩy mạnh ra chỗ cổng, một mũi tên bắn tới găm thẳng vào lồng ngực đứa trẻ xuyên qua sau lưng làm em trai PaRa bị đẩy lùi về phía sau rồi ngã xuống, PaRa la lên kêu tên em mình rồi nàng ôm con chạy tới, nàng ngồi xuống, nàng mặc váy, hai chân nàng xếp gọn sang một bên, tay nàng ôm đầu em trai khóc thét gọi tên. Tên tướng bị em trai PaRa đâm tên vào cổ, lại bị JaNin đâm thêm một gươm vào đùi, hắn loạng choảng chạy về phía quân của mình nhưng chưa kịp đến cái cổng thì gục xuống đất máu chảy lai láng. JaNin chảy đến kéo PaRa ra khỏi cái xác của em trai, phía sau ngôi nhà đang cháy dữ dội, khắp nơi đều là kẻ thù, chẳng còn con đường nào để chạy nữa. Bên ngoài, đám cung thủ xếp thành hai hàng, giương cung nhắm về phía JaNin và PaRa, đứa con PaRa khóc, nàng cũng khóc, JaNin cũng rơi nước mắt theo, chàng ôm hai mẹ con PaRa vào lòng, JaNin và PaRa nhìn đứa con rồi họ nhìn nhau, đó là những ánh mắt của ngày xưa, những ánh mắt đau đớn với những dòng nước mắt tiếc thương cho đất nước, cho số phận và cho cả tình yêu đôi lứa. JaNin xoay lưng mình về phía đám cung thủ, chàng ôm hai mẹ con PaRa thật chặt rồi lui một bước, hai người đứng đối diện nhìn nhau, JaNin nhìn lên bầu trời, chàng hướng đôi mắt nhìn về phía Tháp Cánh Tiên, bên tai chàng văng vẳng những tiếng thét, tiếng kêu la, tiếng binh đao, tiếng lửa cháy, tiếng máu chảy, tiếng những viên gạch thành Đồ Bàn sụp đổ, chàng nhìn sâu vào mắt PaRa đang thắm đẫm nước mắt, chàng nói : - “PaRa ! Mãi……” Một làn tên nhanh chóng bắn tới ghim thật mạnh vào phía sau lưng JaNin, PaRa giật mình trông thấy những đầu mũi tên từ đâu chui ra từ ngực, từ bụng, từ cổ chàng, những dòng nước mắt thi nhau tuôn ra từ đôi mắt nàng, hai tay JaNin đặt lên hai bờ vai PaRa, đôi mắt chàng ứa máu nhìn PaRa,….và rồi chàng tắt thở, đôi chân chàng vẫn đứng đó để che cho PaRa. Đám cung thủ bên ngoài tưởng JaNin chưa chết, chúng dàn thêm ba hàng rồi giương cung nhắm về phía JaNin. Đứa con PaRa đang khóc, nàng đặt một nụ hôn lên má con mình rồi thì thầm vào tai đứa con yêu: - “ Likei ngoan, Likei ngoan của mẹ đừng khóc. “ Đứa bé với đôi mắt to tròn non thơ nhìn mẹ rồi nín hẳn.PaRa gỡ hai tay JaNin đang đặt trên vai mình ra, một làn tên mới được bắn đến, PaRa đẩy nhẹ JaNin làm chàng ngã gục, nàng ngồi xuống đặt con nhẹ nhàng dưới đất, nàng nhìn con với tất cả tình yêu thương và niềm hy vọng, những mũi tên bay đến găm vào lưng, cổ và đầu nàng, nàng chết bên cạnh con, cạnh JaNin, Bố Ca và em trai mình. Đứa con PaRa ngồi bên cạnh mẹ, nó không hiểu chuyện gì đang xảy ra cả, đôi mắt thơ ngây lặng thinh của nó nhìn về phía bọn giặc.Một làn tên mới được bắn tới..............[ Ngày 1 tháng 3 năm 1471, thành Đồ Bàn của ChămPa bị hạ dưới tay Đại Việt, vua Chăm là Trà Toàn và hàng chục người trong hoàng gia bị bắt, gần 60 ngàn người Chăm ngã xuống, 30 ngàn người bị bắt làm nô lệ, thành Đồ Bàn bị phá huỷ hoàn toàn, người Chăm bắt đầu di cư với số lượng lớn sang Cao Miên (Khmer) và bán đảo Malaca (Malaysia), lãnh thổ ChămPa dần dần bị thu hẹp xuống phía nam. ] theo facebook.com
0 Rating 223 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On August 18, 2015
Mộng Tình Xứ Champa( tác giả: Ngọc Tảo ) Phần2 – JaNin gaok Yang ( JaNin gặp thần ) ...JaNin chạy về nhà, nằm trên giường nghĩ ngợi về những ngày tháng qua, đến bây giờ chàng vẫn không thể tin sự thật lại là như vậy, ruột gan chàng bây giờ đau thắt, Một lúc sau thấy hai người đàn ông vác mười bầu rượu đến để trước nhà, đây là hai người làm thuê ở nhà Bố Ca, JaNin cũng quen, hai người này kể hết sự tình những ngày qua cho JaNin nghe, JaNin nghe hai người này kể lại rằng mẹ chàng vì bệnh già yếu nên đã mất, JaNin đau đớn thét lên trong tiếng khóc thảm thiết, họ chỉ cho JaNin chỗ mẹ chàng nằm trên ngọn núi,JaNin ngã gục xuống bãi đất mồ, chàng chỉ có mẹ là người thân duy nhất mà bây giờ mẹ cũng đã bỏ chàng ra đi, chàng nằm khóc bên mộ mẹ, xé áo mình tan tành, tiếng khóc của chàng vang cả khu rừng trong cả ngày đêm, thật đau thương và thật tội nghiệp. Từ đó trở đi, JaNin không vào thành nữa, chàng không thể nào tin rằng PaRa đã là vợ của Bố Ca, PaRa đã không đợi được chàng và thay đổi tình cảm chóng vánh, đúng là trò đùa, JaNin bắt đầu học cách cười nhếch môi để chế giễu việc đời. JaNin giờ như một người điên dại, chàng làm bạn với rượu. Sáng,trưa,chiều, tối, chỉ rượu,rượu và rượu, rượu làm chàng quên bớt được buồn đau, làm chàng quên đi cái kỉ niệm đáng ghét, có cái gì đó bị vướng ở trong trái tim khi chàng say, đó ắt hẳn là thứ được gọi là Tình Yêu, chàng đã từng say mê PaRa, chàng đã từng dành trọn tất cả tình cảm cho nàng, giờ sẽ không say hay si mê người con gái với thứ tình cảm tầm thường này nữa, chàng sẽ chỉ say rượu, chàng yêu rượu như đã từng yêu PaRa vậy. Ôi rượu thật là ngon ! Một tháng trôi qua, nhưng đã là tháng thứ tám PaRa mang thai, đứa con dĩ nhiên không phải là của JaNin, vì nàng với JaNin chỉ có một thứ tình yêu trong khuôn phép, thứ tình yêu không vượt qua khỏi vòng lễ giáo và luân lý của dòng tộc. Bố Ca sắp được làm cha, hắn cảm thấy yêu PaRa hơn và một niềm vui mừng trong lòng không tả được, Bố Ca hy vọng đứa con của hắn với PaRa sẽ là vị thuốc cực tốt để xóa lành quá khứ và cắt đứt tình cảm của PaRa dành cho JaNin, hắn thừa biết tình cảm của vợ mình dành cho JaNin là nhiều đến chừng nào. Sự có mặt đột ngột của JaNin vào chiều nay làm nảy ra trong đầu Bố Ca biết bao nhiêu suy nghĩ và tính toán. Đêm đó Bố Ca nằm mơ thấy JaNin cầm dao xé toạt miệng mình, hắn thét lên vì sợ nhưng hét không ra tiếng, PaRa đứng gần bên cúi đầu xuống, một tay chỉ lên trời, Bố Ca ngước cổ lên thì JaNin dùng dao cắt đầu mình, đầu Bố Ca lăn lóc xuống cái đầm bùn hôi thối cạnh đấy, hắn không thấy đau mà chỉ thấy choáng, Bố Ca choàng tỉnh dậy mình mẩy sướt mướt mồ hôi, hắn ngồi dậy định thần rồi từ từ suy nghĩ. PaRa từ khi gặp JaNin, trong lòng hối hận vì phụ lòng chàng, nàng không ngờ là JaNin vẫn còn sống nhưng nàng bây giờ là người đã có chồng và sắp làm mẹ, nàng không thể làm gì hơn là đành chấp nhận số phận trớ trêu và cợt đùa, nàng buồn bã đến sinh bệnh nhưng vì đứa con nàng đã cố gắng rất nhiều, nàng trách Bố Ca, nàng hận Bố Ca, nàng nhớ JaNin, nàng thương JaNin, trong cơn mơ nàng kêu tên JaNin. Bố Ca vừa mới gặp ác mộng, ngồi dậy nghĩ ngợi, lại nghe thấy vợ kêu tên thằng JaNin trong giấc mơ càng làm cho Bố Ca nghe thấy sôi sục cả ruột gan, Bố Ca nghĩ trước kia mình đã bỏ JaNin một mình trở về, thế nào cũng bị JaNin trả thù như trong giấc mơ vừa rồi, rõ ràng là trong mơ lúc nãy thì PaRa đứng về phía JaNin đồng lõa hại mình, không định liệu trước thì sau này mất PaRa mà tính mạng mình e cũng chẳng còn, nghĩ thế liền ngày đêm tìm cách hại JaNin, hắn nghĩ phải tìm cách đuổi JaNin ra khỏi đất này, ra khỏi khu rừng và biến mất mãi mãi trước mặt PaRa.Trong một lần đi mua hàng hóa ở ngoài bến cảng, Bố Ca tình cờ được sự chỉ dẫn của một đạo sĩ Bà La Môn, người này chỉ cho Bố Ca con đường đi đến ngôi làng ở bên kia hai đỉnh núi, ở đó có một người đàn bà điên nhưng lại nắm rõ và sự dụng được khá nhiều bùa thuật. Bố Ca tức tốc một mình tìm đến chỗ người đàn bà đó.“Nhà tiên tri lửa” là cách gọi mà người đàn bà điên này tự xưng cho mình, nhưng người ta vẫn thường gọi bà ta là Muk Mâtah. Muk Mâtah hiển nhiên cũng không phải là quá điên như người ta truyền tai nhau, bà ta chỉ thích ăn sống những loài động vật nhỏ thân mềm nên người ta mới gọi bà là Muk Mâtah( nghĩa là Bà Sống) Những người xung quanh sợ những hành động quái gở của Muk Mâtah, người ta sợ khi thấy một người đàn bà tóc xõa lưng khòm đi như là chạy, Muk Mâtah đi rất là nhanh.Ngày xưa, khi Muk Mâtah còn trẻ, Muk Mâtah cũng bình thường như những người khác, bà cũng có một căn nhà tranh, một người chồng và một đứa con trai mới sinh. Một ngày kia, người chồng của Muk Mâtah lên rẫy bẫy thú rồi không thấy trở về nữa, anh em họ hàng cùng nhau lên tìm hết quả núi mà không thấy, ai cũng cho là người đàn ông xấu số bị thú dữ cắn rồi tha đi hoặc bị ma quỷ bắt. Muk Mâtah buồn bã và cứ sống như thế nuôi con. Một buổi chiều mát, Muk Mâtah ẵm con nhỏ lên rẫy để trồng đậu và định ở đó một đêm, khi đi sắp đến rẫy của mình thì thấy một đàn gà rừng nhìn rất lạ mắt chạy ngang qua đường định chui vào bụi gai, Muk Mâtah nhanh tay nhặt một cục đá ném trúng chân một con, bà ta bắt lấy con gà này rồi mang lên rẫy, càng nhìn con gà này đúng là càng lạ, Muk Mâtah chưa thấy loại gà nào có bộ lông màu sắc như thế này. Đến ngôi chòi nhỏ trên rẫy thì trời cũng vừa chập tối, Muk Mâtah bé con nhỏ vào ru trên chiếc võng trong chòi, khi con đã ngủ thì bà ta ra bếp nấu cơm rồi đun nước chuẩn bị làm thịt con gà tội nghiệp lúc nãy, Muk Mâtah mài cho con dao đã rỉ sét một phần cho nó bén hơn, bà ta nhổ lông cổ gà, dùng dao cứa một đường thật sâu vào cổ nó, con gà gáy lên một tiếng thì trong nhà đứa con của Muk Mâtah cũng khóc lên rất to, đến lúc con gà im thì đứa bé trong nhà cũng lặng đi không khóc nữa, Muk Mâtah nghĩ là con mình thức giấc vì đói bụng, bà ta tặng thêm một đường cứa nữa vào cổ con gà này cho máu nhanh chảy hết, con gà gáy thêm một tiếng cuối cùng trước khi Muk Mâtah thả nó ra, bên trong nhà đứa con lại khóc rống lên càng to, Muk Mâtah đút thêm mấy cây củi vào bếp lửa rồi đi rửa tay, đến lúc này thì con gà rừng đã chết, đứa con trong chòi cũng im hẳn. Bà ta bước vào trong cái chòi nhỏ thì hoảng hốt giật mình không thấy đứa con đâu, chiếc võng thì vẫn còn đó đong đưa trong sự kinh dị, ánh lửa của cây nén cũng bị gió thổi tắt đi, Muk Mâtah hoảng quá chảy vòng ra sau nhà, vừa khóc vừa tìm vừa kêu tên con, bà ta bước xuyên qua bụi gai sau nhà chạy đi tìm con mình, Muk Mâtah thảm thiết kêu tên đứa con và chạy đi tìm hết cái rẫy nhà mình mà cũng không thấy, bà ta chạy vào nhà bếp, cơm đã khét mùi cháy, con gà rừng hồi nãy cũng biến mất, Muk Mâtah rất sợ, bà ta rút một cây củi có lửa dưới đáy nồi ra rồi chạy lại vào chòi, vừa mới bước một chân vào cửa chòi thì Muk Mâtah bị một cánh tay nhơ nhuốp máu tát mạnh một cái vào mặt, Muk Mâtah bất tỉnh tới sáng.Sáng hôm sau, những đứa trẻ mục đồng chăn bò vào rẫy Muk Mâtah xin nước, thấy mặt người phụ nữ dính đầy máu thì liền đi chạy về làng gọi người tới cứu. Người ta đến xem, chăm sóc một hồi thì Muk Mâtah tỉnh dậy, nhưng đứa con nằm trên cái võng trong căn chòi thì đã tắt thở tự bao giờ, Muk Mâtah ôm con khóc mãi. Sau khi tự tay chôn xác đứa con, Muk Mâtah dường như bị biến đổi thành người khác, bà ta ẩn mình trong rừng, ít khi về làng, cũng kể từ đó, không biết Muk Mâtah được ai hay một thứ gì đó dạy mà bà ta bắt đầu sử dụng được những bùa thuật cổ xưa. Muk Mâtah trở nên quái dị, nhiều lời đồn cho rằng chính bà đã tự tay giết con, dần dần người ta cho bà là điên và đặt cho cái tên là Muk Mâtah thay vì cái tên cũ là Gliu.[….]Bố Ca tìm được đến nhà Muk Mâtah, Bố Ca sợ quá khi thấy Muk Mâtah đang nuốt mấy con thằn lằn đang ngoe nguẩy cái đuôi, bà ta cười to lên ngoái tay gọi Bố Ca đang đứng ngoài hàng rào vào nhà, nói chuyện với người đàn bà này một hồi, Bố Ca nhận thấy bà ta lúc điên lúc tỉnh, không biết có nhờ vả được chuyện không. Một cuộc thương lượng được diễn ra, những yêu cầu của Muk Mâtah Bố Ca đều có thể đáp ứng được chỉ trừ một việc, người đàn bà này đòi Bố Ca mang đến cho bà ta một đứa bé sơ sinh khi mọi việc xong xuôi, khi Bố Ca hỏi cần đứa trẻ để làm gì thì Muk Mâtah chỉ lo nuốt số thằn lằn còn lại trong tay mà không trả lời, Muk Mâtah há miệng làm lộ hai cái răng nanh dài hơn người thường, Bố Ca sợ quá gật đầu đồng ý đại, về đến nhà xong việc sẽ định liệu sau, bù lại những gì Bố Ca đáp ứng, Muk Mâtah sẽ phải hại một người mà về đến nhà Bố Ca sẽ nói rõ chi tiết. Thế là ai cũng có những ý định và ý muốn của riêng mình. Trưa hôm đó cả hai xuất phát về Đồ Bàn, giữa đường ngủ qua đêm trong rừng, chứng kiến cảnh tưởng Muk Mâtah mặc váy trèo cây cao như một loài bò sát làm Bố Ca choáng váng, đúng là bà ta đang trong cơn điên, Bố Ca thì lúc nào cũng thủ một con dao trong người, Bố Ca mệt mỏi rồi ngủ đi. Sáng sớm cả hai tiếp tục lên đường, Đồ Bàn thành đã ở trước mắt, đó là một ngày trời âm u.PaRa ngày ngày ra ngồi trước hiên, đôi mắt trông về phía xa xăm, không lúc nào là nàng không nghĩ đến chiều hôm ấy, nàng hiểu được JaNin, chắc chắn JaNin đang rất buồn, nàng thì cũng sắp đến gần kì sinh nở, nàng đã cố gắng rất nhiều để không ảnh hưởng đến đứa con trong bụng, kể cả việc kìm nén nỗi buồn, nàng muốn đi đến nhà JaNin nhưng nàng không thể làm điều đó.Thấy Bố Ca đưa về một người đàn bà lớn tuổi, PaRa như người đang trong cơn mơ, nàng cũng chẳng muốn quan tâm đến Bố Ca nữa.Bố Ca sắp xếp chỗ ở cho Muk Mâtah trong một thời gianNửa tháng sau, vào một buổi tối trăng sáng, JaNin đang rất say,chàng say cái say của men rượu, men rượu lại có vị của tình ái. Thế sự, chuyện đời và lòng người thật là phức tạp, JaNin nằm mơ màng trên cái giường gỗ cũ phủ bụi trong nhà, cũng chẳng thèm ăn cái gì vào bụng nữa, chàng ngủ say mèm. Bên ngoài cửa, trăng cũng bắt đầu lên, chậm rãi và khổ cực. Những ngôi sao băng hôm nay bay ngang nhà JaNin rất nhiều, đó là những dấu hiệu. Trăng càng lúc càng sáng, có một bóng người đứng ngoài cửa nhìn chằm chằm vào JaNin đang ngủ, cái bóng người mặc áo đen, xõa tóc, đi chân không, đó chính là Muk Mâtah, bà ta bước rất nhanh vào giữa nhà, ánh sáng từ trăng càng chiếu rõ cặp mắt lạnh lùng và sâu hoắc của bà ta, Muk Mâtah liếm qua mọi vật dụng và mọi thứ trong nhà, thật kinh tởm nếu một đứa con nít trông thấy cảnh này. JaNin thì vẫn nằm bất động, chàng ngủ bỏ quên cả trời đất, Muk Mâtah tiến gần hơn đến cái giường mà JaNin đang nằm, ngắm nghía khuôn mặt JaNin một hồi rồi từ từ rút lấy cái bầu rượu lở chừng gần cạn mà JaNin đang ôm, bà ta uống ngay một ngụm. JaNin qửa quậy nghiêng người về phía Muk Mâtah, mắt chàng vẫn nhắm, chàng nói rất to : “ PaRa ! …thoát khỏi đó đi, chảy ra đi… ….PaRa, hãy đứng sau lưng anh.. “Muk Mâtah không chút sợ hãi khom lưng ghé tai vào sát hơn để nghe gã say rượu nói, Muk Mâtah nghĩ gã này chắc chắn là đang mơ một giấc mơ khổ sở với nhân tình đây nên mới như vậy, Muk Mâtah cầm bầu rượu cạn sạch số nước còn sót trong bầu rồi nhét lại cho tên say rượu ôm rồi tự cười đắc ý một mình, sau đó Muk Mâtah niệm thật lâu một câu chú cổ, JaNin vẫn ngủ say như chết, Muk Mâtah dạo một vòng quanh trong nhà rồi bước ra cửa định đi về, bỗng nghe tiếng của JaNin nói lẫn với thứ tiếng nói vang, thứ âm thanh khác hẳn tiếng nói của con người nhưng Muk Mâtah nghe rõ mồn một :“Ngươi, Gliu ! đêm đen. Hãy tự làm dịu mong muốn trống rỗng của ngươi và biết cách làm hài lòng Ngài bằng những tặng phẩm “Muk Mâtah quay lại thì thấy JaNin vẫn ngủ im lìm ở cái giường đó, mùi của rượu vẫn nồng nặc, trong căn nhà tăm tối và rách mướp này thì giọng nói vừa nãy là của tên kia hay của ai khác, mà tên kia thì say như vậy, ai có thể gọi đúng tên cũ của bà ta đã bỏ từ rất lâu rồi. Muk Mâtah mặc kệ, bà ta quay đầu lại định chạy ra về, bước được mấy bước thì lại nghe tiếng của JaNin lẫn tiếng nói ban nãy :“ Gliu. Hạt giống. Cơn ngủ. Tự ngươi chọn lấy”Đến đây thì bà ta nổi giận, Muk Mâtah quay lại định bước nhanh về phía JaNin tặng cho chàng vài câu bùa chú nữa, nhưng chưa được nửa bước thì Muk Mâtah chôn chân tại chỗ, tròn hoe cặp mắt già nua bởi cạnh tưởng trước mặt: ánh sáng của trăng chiếu qua cửa sổ bỗng làm cho căn nhà rực lên như ban ngày, giờ thì mọi ngóc ngách trong nhà có thể thấy được rõ ràng, trong căn nhà nổi lên một cơn gió , ngoài kia gió cũng bắt đầu thổi và gọi nhau, ở trên giường bây giờ là một vóc dáng to lớn và hình hài khác người đang ngồi tựa lưng vào bức tường đất, khuôn mặt không phải là của JaNin, mà là một khuôn mặt sang trọng, cao quý và mang một vẻ siêu nhiên, tóc được búi lên gọn gàng, trên mình của người này có hai con rắn đang trườn quanh cơ thể săn chắc không mặc áo, đôi cánh tay mang những hạt chuỗi chân trâu, miệng mỉm cười nhưng đôi mắt vẫn nhắm. Đây rõ ràng không phải là cái tên JaNin lúc nãy với bộ áo rách mướp, đây là không phải là người, đây là…Muk Mâtah sợ hãi nhắm mắt lại lao mình chạy liền ra ngoài, chạy đến cửa bà ta không quên nhìn lại một cái thì hay chăng, cảnh tượng ban nãy đã biến mất, tên JaNin vẫn nằm đó đang ôm chai rượu không, vẫn cái bộ áo rách đó, vẫn cái mùi nồng nặc của men rượu trong nhà bay ra, Muk Mâtah không giám nghĩ và đứng lại nữa, bà ta chạy ngay về và bắt đầu để ý nhiều đến JaNin.Những tia nắng đầu tiên của ban mai nhanh chóng ùa nhau đến, JaNin thức dậy trong cơn đau đầu choáng váng, JaNin cố bước tới con suối trước nhà rửa mặt, chàng không đứng vững nên rơi xuống nước, phải mất một lúc JaNin mới dậy được và đi thay quần áo, chàng tìm rượu trong nhà, chàng cảm thấy phát điên khi không còn cái bầu nào còn rượu, JaNin đi ra ngoài, cái thành Đồ Bàn to lớn phía trước làm cho chàng thật chướng mắt, hôm nay mọi thứ đối với chàng thật xấu xí, khu rừng phía sau thật đen tối và bít lối, chàng chán ngẩm khi bàn chân chàng giẫm lên mớ đất bùn mà chàng cho nó là rất bẩn thỉu, tiếng kêu của chim rừng làm chàng ta nhức tai, thật ngộp ngạt và vô vị, đến gần thành, chàng nhếch miệng cười khi thấy cặp bò lì lợm không chịu nhấc chân bởi những trận roi, cách người chủ xe lẩm nhẩm cũng thật là khó chịu, và có cái gì đó dẫn đôi chân chàng đi vào trong thành.JaNin lê chân đến chỗ chợ, ở đằng kia có nhiều đứa bé và cả người lớn đang đứng xem cái gì đó, Nin bước đến, thấy Muk Mâtah đang diễn trò, người ta vỗ tay không ngớt khi thấy Muk Mâtah làm ba con cá khô quẩy đuôi bơi lội trong lu nước, JaNin nhìn Muk Mâtah rất quen, Muk Mâtah thấy JaNin, hỏang hồn nhớ lại hình ảnh đêm qua, bắt gặp ánh mắt lạnh lùng của Muk Mâtah, JaNin cười một cái rồi đột ngột dùng tay khuấy lu nước bóc ba con cá khô đó lên nhai ngon lành rồi chúc đầu vào lu uống nước trong đó làm ai trông thấy cũng há hốc thè lưỡi tròn con mắt vì phát ớn, mọi người có nghe biết đến chuyện của chàng, họ thương chàng nhưng không nghĩ là chàng lại thành ra như thế này, JaNin tội nghiệp dường như không tự chủ được chính mình.Muk Mâtah lặng lẽ bò ra khỏi đám đông, JaNin nhận thấy nên cũng đi theo Muk Mâtah, Muk Mâtah đi thẳng đến nhà Bố Ca, Muk Mâtah đi rất nhanh nhưng JaNin vẫn bắt kịp, đến nhà Bố Ca, Muk Mâtah núp sau cái cây dừa cạnh hàng rào quan sát JaNin, JaNin bước vào trong sân thì không thấy Muk Mâtah đâu, chàng cũng không nhớ rõ đây là nhà PaRa quen thuộc nữa, chàng đứng sững giữa sân, Muk Mâtah thì vừa nhìn chằm chằm vào JaNin vừa suy nghĩ về chuyện tối qua mà bà ta nhìn thấy ở nhà JaNin.Hôm nay cũng chính là ngày PaRa chuyển dạ, một người phụ nữ đỡ đẻ giỏi nhất được Bố Ca mời đến, vừa mới đưa người phụ nữ đến cổng thì đã thấy JaNin đứng trong sân, thấy Bố Ca về, Muk Mâtah chạy ra thì thầm cái điều gì đó vào tai Bố Ca làm Bố Ca cười đắc ý, Bố Ca đưa người phụ nữ đỡ đẻ vào nhà qua con đường phía sau, rồi lấy mấy củ khoai đã bị mốc ném ra ngoài sân chỗ JaNin đang đứng, JaNin nhặt ngay rồi ngồi bẹt xuống nhai ngấu nghiến hết, giờ thì Bố Ca đã nhận thấy được JaNin đang bị hóa điên, JaNin cười rất tươi khi thấy Bố Ca mang ra thêm cho mình một bầu rượu, Muk Mâtah thì bò nhanh lên cây không giám lại gần mà chỉ quan sát JaNin. Đứa em trai nhỏ của PaRa thấy JaNin như thế thì rất thương, nó tuy có chín tuổi nhưng cũng đủ hiểu mọi chuyện chị PaRa của mình, trước kia khi PaRa chưa lấy chồng, JaNin thường đến chơi và thường nặn trước những chiếc xe trâu nhỏ hoặc động vật bằng đất bùn để cho đứa em trai của PaRa chơi, nó thích lắm và nó rất quý JaNin, bây giờ thấy JaNin đang ăn sống mấy củ khoai mốc thì nó liền chạy vào bếp cạo hết số cơm còn lại trong nồi chấm thêm ít muối mang ra cho JaNin ăn, JaNin nhìn nó bằng ánh mắt biết ơn và lạ lẫm. Bên trong nhà, người ta đang quấn quýt đón chờ thành viên mới của gia đình, PaRa không biết JaNin đã bị hóa điên đang ở ngoài sân, nàng đang sắp làm mẹ, nàng đang cố gắng nghe theo những lời người đàn bà đỡ đẻ nói, và..một đứa bé trai chào đời, cả căn nhà reo hò trong niềm vui, người vui nhất có lẽ là cha của nó - Bố Ca. JaNin ngồi ăn cơm ở ngoài sân, nghe thấy tiếng trẻ thơ khóc, bỗng cảm thấy trong lòng thanh thản, chàng nở một nụ cười hạnh phúc rồi cầm bầu rượu đứng lên chậm rãi đi ra ngoài. Muk Mâtah ở trên cây, nghe tiếng đứa bé khóc trong nhà thì chợt nhớ đến đứa con của mình trước kia; trước khi nhận lời Bố Ca làm JaNin hóa điên, Muk Mâtah từng yêu cầu Bố Ca mang cho bà ta một đứa bé và Bố Ca cũng đã đồng ý, nay việc sắp xong, nghe thấy tiếng khóc con nít trong nhà Bố Ca, Muk Mâtah nghĩ ra những tính toán, Muk Mâtah định sẽ lấy đứa con của PaRa khi cơ hội đến và biến mất sâu trong khu rừng của bà ta mà đừng hòng có ai tìm thấy được, Muk Mâtah trèo xuống và dòm qua cửa sổ thấy đứa bé càng làm bà ta đắc ý với ý định của mình.Một tháng sau.Có tin quân thám thính của ta về cấp báo, quân Đại Việt đích thân vua đã mang quân vào được đất của ta, chúng đang đóng trại và tập luyện, quân địch đến với số lượng rất đông, số lượng lục quân của chúng vào khoảng một trăm năm mươi ngàn tên, ở ngoài biển có đến gần một ngàn chiến thuyền lớn, mỗi chiếc đếm được khoảng một trăm tên lính, ước chừng tổng cộng cả thủy quân và lục quân của địch có đến trên hai trăm năm mươi ngàn, con số này rất lớn, bằng khoảng tổng số dân của một trăm làng Chăm đông nhất cộng lại. Đó là vào thời điểm tháng 8 năm 1392 lịch SaKa (tức vào tháng 12 năm 1470 sau CN). Tin tức nhanh chóng lan ra khắp thành, mọi người bắt đầu lo lắng, nhà vua ban sắc lệnh huy động quân đội gấp, bây giờ thì cảnh tượng đã trở nên lo sợ hơn, tất cả đang chuẩn bị cho một cuộc chiến ác liệt.Bố Ca lần nữa được gọi nhập quân, JaNin bị điên nên chẳng ai ngó ngàng, cứ cách hai ba ngày thì chàng lại tìm đến nhà PaRa để chờ đứa em trai của PaRa cho cơm ăn, PaRa ẵm con trông thấy JaNin như thế thì nàng đau buồn không nguôi, nàng dặn đứa em trai ngày nào cũng phải dọn cơm thật tử tế chờ JaNin đến ăn, JaNin không đến thì nàng kêu đứa em đi tới tận nhà gọi chàng, Bố Ca biết rõ những chuyện đó nhưng cũng không lo lắng lắm, JaNin đã bị điên thì cũng chẳng ý thức và nhớ những chuyện trước kia nữa, một mặt cũng vì Bố Ca sợ PaRa vì nàng vẫn chưa chịu tha thứ cho hắn, bây giờ Bố Ca chỉ lo có mỗi một chuyện tìm mua đứa bé nào đó cho mụ đàn bà nửa điên nửa tỉnh là Muk Mâtah cho bà ta nhanh chóng rời khỏi nhà hắn.Hôm sau, vào buổi chiều tối, Bố Ca đi canh gác chưa về, JaNin lại tìm đến nhà PaRa vì chàng đói bụng, kể từ lúc bị điên, JaNin chỉ toàn ăn cây rừng, hôm nay chàng đến nhà PaRa ăn cơm, JaNin cứ ăn cơm xong là đòi rượu nhưng PaRa không cho, JaNin không có rượu uống thì nằm ngay tại chỗ rồi khóc, khóc xong rồi nói hát lung tung, PaRa thấy thương chàng nên kêu đứa em trai vào nhà trông cháu để nàng ra ngoài mua rượu cho JaNin, tiện thể mua cho chàng một bộ quần áo mới vì chiếc áo chàng đang mặc bị chắp vá rất nhiều chỗ. Muk Mâtah chỉ chờ có thế, bây giờ trong nhà chỉ còn một đứa trẻ con với một gã điên, bà ta đã chờ khá lâu, sẽ không có cơ hội nào tốt hơn bây giờ, Muk Mâtah thả cho hai con bò nhà PaRa bị cột ở ngoài sân rồi đánh cho chúng rống lên chạy ra ngoài, Muk Mâtah liền chạy vào trong nhà kêu đứa em PaRa ra ngoài chặn mấy con bò đó lại, còn đứa bé đang nằm trên võng cứ để mình trông giúp, đứa em trai đắn đo một hồi rồi liền chạy ra ngoài đuổi theo, Muk Mâtah ở trong này tròn mắt nhớ lại cảnh con mình chết, Muk Mâtah bế con PaRa lên ngó nghía xung quanh, đứa con bật khóc rất to làm JaNin đang nằm hát nhảm ở bên ngoài ngồi dậy ghé tai lắng nghe tiếng khóc, Muk Mâtah lấy một chiếc khăn quấn đứa bé lại rồi vắt chéo ở trước ngực chạy nhanh ra ngoài, đứa bé càng khóc thêm to hơn, JaNin đang ngồi thẫn thờ ở hiên, thấy Muk Mâtah từ trong nhà chạy ra ngoài cộng thêm tiếng khóc của trẻ thơ đi theo dường như làm cho kẻ điên đã hiểu ra được chút gì, nên chàng đứng dậy rồi đi theo Muk Mâtah, Muk Mâtah đi rất nhanh, JaNin suýt bị bỏ xa nhưng chàng vẫn bám theo được, tiếng khóc của đứa bé mà Muk Mâtah đang ôm làm nhiều người tò mò để ý nhưng họ không biết là đang có chuyện gì xảy ra, Muk Mâtah nhanh chóng ôm đứa bé chảy ra cửa tây của thành rồi chạy nhanh lên ngọn núi trước mắt, JaNin nghe tiếng khóc đi theo, dường như đang có thứ gì đó dẫn đôi chân chàng bước đi. PaRa mang rượu và quần áo về đến nhà thì không thấy JaNin nữa, nàng đặt mọi thứ xuống một bên rồi gọi tên đứa em trai nhưng không thấy em mình đáp, PaRa vào nhà thì cũng không thấy gì cả, không thấy đứa em và con của mình, lúc đó Bố Ca cũng vừa mới về đến nhà, PaRa hỏi Bố Ca ngay trên đường về có thấy đứa em trai không, Bố Ca không biết và cho rằng chắc nó ẵm cháu đi chơi quanh đây thôi, một lát thấy đứa em trai lùa hai con bò về, PaRa thấy nó về tay không thì cảm thấy lo lắng chạy tới hỏi ngay, đứa em chạy vào nhà thì không thấy Muk Mâtah đâu nữa, nó khóc kể lại chuyện hồi nãy, đến bây giờ Bố Ca mới tá hỏa nhớ lại lời hứa của mình với Muk Mâtah, PaRa ướt nước mắt giận giữ nhìn Bố Ca vì Bố Ca đã dẫn người đàn bà lạ về nhà để bây giờ phải mất con, nàng chạy ra ngoài hỏi thăm hàng xóm láng giềng có trông thấy con mình và Muk Mâtah, Bố Ca cũng nhanh đi hỏi người đi đường, người ta chỉ cho PaRa và Bố Ca hướng mà một người đàn bà lưng khom đi rất nhanh bế một đứa bé đang khóc, cả hai liền chạy theo.Trời đã bắt đầu tối, mưa cũng bắt đầu trút xuống nặng hạt, Muk Mâtah chạy sâu vào rừng núi, ở phía sau bà ta thấy JaNin ngơ ngác đang đi theo, phía trước có một cái hang động, lối vào rất nhỏ chỉ vừa cho hai người chui, Muk Mâtah liền đi vào trong đó để trốn JaNin, JaNin đi đến chỗ cái hang thì thấy tiếng khóc của đứa bé biến mất, JaNin điên dại loay hoay gãi đầu, chàng dòm vào cái hang động đen tối với sự run rẩy vì bị ướt, trong suy nghĩ chàng chợt hiện lên những hình ảnh về Tháp Cánh Tiên, một chút tiềm thức trong quá khứ bỗng nhiên làm chàng nhớ lại lời của một ai đó nói, đó chính là lời mẹ chàng, JaNin từng nghe mẹ kể rằng ngày xưa cha của chàng là một nghệ nhân điêu khắc chạm trổ hình thù của các vị thần dưới dạng một khối đá trụ tròn, cha chàng khéo tay và được trọng dụng nên mỗi khi có lệnh trùng tu hay xây Tháp mới thì cha chàng cũng được gọi đến để điều chỉnh và tính toán các công thức cho hợp lý để tạo nên một ngôi Tháp cho thật hoàn mỹ, lối vào Tháp phải nhỏ hẹp, bên trong tối và không có lỗ thông khí nhưng phải đảm bảo là không được nóng và đủ mát , Tháp được xây sao cho bên trong giống như một hang động vì các vị thần thường thích trú ngụ trong các hang động mát mẻ và yên tĩnh, đang nghĩ ngợi thì tiếng đứa bé cất lên từ trong hang, tiếng đứa bé cười rất tươi.JaNin liền chui vào, vào đến bên trong một lát thì chàng không giám bước nữa, không nói được một lời nào và chàng cũng không giám thở nữa, phía trước mặt chàng là khung cảnh mà lần đầu tiên chàng được thấy trong đời; Có một người đàn ông phía trước, người đàn ông phía trước chàng có lẽ là một vị Yang, một vị Po Yang của dòng dõi thần linh mà chàng thường hay nghe mẹ và nhiều người khác kể đến trong những câu truyện huyền thoại, sự tích và những chiến tích về các Ngài trong niềm kính ngưỡng. Dù chỉ được một ít ánh sáng từ ngoài lẻn vào được nhưng bên trong hang lại sáng trưng của làn hương thanh như thứ ánh sang từ những chòm sao. Trong hang, Yang ngồi trên một tảng đá được lót tấm da của một con hổ, Ngài - một người đàn ông to lớn với cơ thể săn chắc như một chiến binh, khắp người ánh lên một thứ sắc ánh siêu phàm, khuôn mặt điềm tĩnh khoan thai với cốt cách điềm nhiên hiếm thấy không phải là của người thường, đôi mắt Po Yang vẫn nhắm với những đường nét tinh tế siêu quầng, ở giữa trán có vẽ một kí hiệu cổ mà chàng JaNin không nhìn được ra thứ hình thù lôi cuốn ấy, miệng Ngài mỉm cười thản nhiên, tóc được búi lên gọn và xõa xuống phía sau, đôi tai được đeo một loại đá trong vắt góc cạnh để tô điểm cho vẻ sang trọng, tay trái của Ngài cầm một Gahlau là một loại thứ gỗ thơm cực kì quý giá chỉ có vua chúa mới được dùng, tay còn lại đặt lên đầu gối chân phải mà bàn chân Ngài không một chút tì vết đạp lên một tảng đá phía trước, trên ngực và vai của Ngài có những con rắn quấn quanh phụ thuộc, trên cổ và hai tay đeo những thứ trân châu là tinh hoa của trời đất tích tụ, bên dưới tảng đá Po ngồi có một con bò to lớn màu trắng đang nằm phục được quấn những thứ trang sức kì lạ và những cái chuông vàng cho loài linh vật, nằm cạnh con bò to lớn là đứa con của PaRa đang ngồi đùa nghịch với con bò đó, đứa bé cười khúc khích rất vui. Đứng bên cạnh tay phải chàng JaNin là Muk Mâtah, Muk Mâtah cũng bị chôn chân như chàng, nhưng Muk Mâtah không sao nhấc được chân lên nỗi, dường như chân bà ta đã mọc rễ bám sâu vào lòng đá, dưới chân bà ta là cả hàng chục những loài rắn cực độc hung dữ bao quanh. Dĩ nhiên là Po đang điều khiển mọi thứ trong hang, Po Yang có tất cả quyền lực tối thượng trên mặt đất này; ở thế giới này hay thế giới kế tiếp, Ngài luôn được dân Chăm tôn sùng và tán thán những vinh quang bằng những nghi lễ và lời tụng ca về danh tiếng của Ngài. Po từ từ mở đôi mắt thần ra nhìn đứa bé đang cười , rồi Ngài nhìn Muk Mâtah , Muk Mâtah rống lên thảm thiết rồi ở hai con mắt của bà ta bắt đầu rỉ máu, Ngài đưa mắt nhìn đến JaNin, JaNin nhìn Po rồi chắp tay ở ngực cúi mặt lạy Ngài với tất cả sự tôn kính và ngợi ca, bằng đôi mắt thần thanh khiết và ánh nhìn trìu mến, Po chữa lành cho chàng khỏi những bùa chúa bấy lâu.Bỗng bên ngoài mưa có tiếng gọi con của PaRa và Bố Ca, PaRa gọi JaNin một tiếng, JaNin quay lưng lại gọi PaRa, chàng quay mặt lại về phía Po thì thấy cảnh tưởng lúc nãy đã biến mất, JaNin không nhìn thấy Ngài đâu, những thứ ánh sáng và con bò to lớn cũng đã biến mất, hang động bây giờ thành tối om chỉ nghe thấy tiếng của hạt nước nhỏ giọt trong động, chàng quỳ xuống lạy ba lạy về phía tảng đá lúc nãy mà Po ngồi rồi đến bế con của PaRa lên, đứa bé với tay ôm lấy JaNin, miệng thì vẫn cười khúc khích đáng yêu, JaNin thật sự đã hết bị điên, chàng cất tiếng lớn gọi PaRa ở bên ngoài. Bố Ca mang một ngọn đuốc dắt PaRa vào hang, một cảnh tưởng hãi hùng trước mắt, Muk Mâtah nằm chết ở một xó, trên người bà ta là rất nhiều con rắn mà miệng rắn vẫn ngoắp những mớ thịt của Muk Mâtah chưa chịu buông. PaRa nhìn thấy đứa con bình yên vô sự, nàng vui mừng chạy đến gần JaNin với những cảm giác khó tả, nàng ứa lệ nhìn con và nhìn JaNin, JaNin nhìn PaRa rồi mỉm cười, một nụ cười tha thứ. JaNin đưa con cho PaRa, chàng bước đến gần Bố Ca rồi vỗ vai Bố Ca một cái, Bố Ca như người tỉnh ngủ, xúc động chảy nưN
0 Rating 213 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On August 14, 2015
Mộng Tình Xứ ChămPa( tác giả : Ngọc Tảo ) Phần1. - Bông Hoa Không NởNgày xưa, khi vương quốc Chăm Pa còn là một đất nước hưng thịnh và phồn hoa, tiểu vương quốc Vijaya là một lãnh địa rộng lớn giàu có, các thương nhân ở nhiều nơi khác đổ về làm ăn, cảnh tượng xem thấy thật đông đúc và rất thịnh vượng, nhưng nhân dân nơi đây vẫn phải chịu cạnh cơ cực do chiến tranh và nạn cướp phá. Năm 1373 niên lịch Saka (tức năm 1451 sau CN) . Bắc ChămPa có đô thành tên Đồ Bàn thuộc tiểu vương Vijaya, Đồ Bàn là một kinh đô to lớn và nhộn nhịp, đó là nơi ở mà vua của các vua ngự đã hàng trăm năm nay, Đồ Bàn cũng là nơi tập trung và chỉ huy hạm đội thủy quân và lục quân lớn nhất mà ChămPa thời đó có, Đồ Bàn được bao bọc bởi tường thành lũy hào vững chắc, kiên cố và hiểm trợ nhằm ngăn chặn các cuộc đánh úp vào kinh đô hòng dành vương quyền tối cao của các lãnh chúa liên bang ở phía nam và cả những ý đồ diệt phá từ các nước phương bắc và tây nam. Bên ngoài thành là vùng đất trồng trọt và những khu rừng quý. Cách ngôi thành Đồ Bàn không xa ở phía trong rừng có một ngôi nhà tranh mái lá, trong nhà chỉ có một bà mẹ và một đứa bé trai mới được ba tuổi, đứa bé này tên JaNin, họ vốn ở tận đất Indrapura, sau khi hoàng gia để mất đất vào tay của người phương Bắc, dân Chăm sống trong cảnh cơ cực và nghèo nàn, sau bao nhiêu trăm năm ở đây với hoang phế và tàn tích của một vương triều đã mất, họ quyết định bỏ xuống phía Nam, nhưng vẫn còn một số ở lại vì không nỡ rời bỏ đất đai, nhà cửa, gia đình JaNin thuộc trong số ở lại, họ và nhiều người khác cố gắng bám vào số ruộng đất đã khai hoang để sống, nhưng họ sống mà không được yên; hàng tháng bọn lính phương Bắc thường đến với số lượng đông, chúng kiểm dân,bắt bớ,lũ trai thanh niên cũng bị bắt làm lính cho chúng, mùa màng đến thì dân Chăm phải trả tiền thuế với giá ở trên trời, mọi của cải và những tặng phẩm mà dân Chăm tích góp đưa cho vị quan ở đây cũng không làm thỏa mãn lòng tham và tội ác của chúng. Những cuộc nổi dậy bùng lên, lửa chưa bén thì đã bị dập tắt hoàn tàn và tàn khóc, nhiều người bị giết và bỏ đói vì không đủ tiền đóng thuế, những ai nổi dậy chống đối thì gia đình bị giết sạch vì tội che giấu và đồng lõa, Cha JaNin dẫn đầu đám đông đánh trả bọn lính, thế là gia đình JaNin bị tàn sát hết, người mẹ phải bồng đứa bé là JaNin trốn trong một đống rơm lớn mới thoát được nạn, sau đó người mẹ bế JaNin chạy dài về hướng nam đến xứ Vijaya và dựng một ngôi nhà tranh nhỏ ở ngoài thành Đồ Bàn, hằng ngày bà mẹ dắt đứa con vào thành tìm cách làm thuê, làm mướn, ở đở cho người ta chỉ để nuôi con và sinh sống qua ngày, cuộc sống hết sức khốn khổ. Thời gian đằng đẵng trôi qua, người mẹ ấy bây giờ mái tóc đã nhanh chóng nhuốm màu mây, từng nếp nhăn đua nhau in vết trên khuôn mặt hốc hác, người mẹ ấy giờ đã già đi nhiều. Còn đứa bé thì đã khôn lớn, trở thành một chàng trai lực lượng và khôi ngô, chàng JaNin năm nay được mười chín tuổi, JaNin da ngâm, tóc xoăn, mặt vuông mũi cao, lưng to vai rộng, dáng đi như loài mãnh sói. Nin rất khỏe, có hôm chàng tìm được một cái thân cây to vốn là loài gỗ quý ở trong rừng, ước chừng nặng hơn cả một xe bò chở thóc, chàng ta liền chặt xuống vác vào thành đem bán để đổi gạo, ai ai trông thấy cũng tấm tắc khen là một người có sức khỏe. Nin rất thích nhìn và ngắm nghía những loại vũ khí mà chàng thấy, vào thành Đồ Bàn, hễ thấy thanh gươm nào hình thù kì lạ là chàng chăm chú nhìn thật lâu, sau đó chạy liền ngay về nhà chặt cây chế tạo lại thanh gươm đó bằng gỗ y chang, chàng giấu những thứ vũ khí bằng gỗ đó trên cây vì sợ mẹ nhìn thấy, hẳn nhiên mẹ chàng không chịu dựng nhà trong thành mà dựng nhà tranh ngoài rừng là có nguyên do, mẹ JaNin đã từng chứng kiến và chịu đựng quá nhiều sự mất mát, mất cha mẹ, mất chồng, anh chị em và họ hàng, mẹ JaNin không muốn mất thêm JaNin, từ nhỏ JaNin được mẹ dạy và dặn rất nhiều lần, mẹ chàng ngăn cấm chàng gây thương tích cho người khác, không dùng vũ khí, chỉ được dùng nỏ và một số thứ để đi săn, JaNin hiểu và không muốn mẹ trông thấy những cái vũ khí tuy rằng bằng gỗ đó, hằng ngày JaNin tập luyện với những thứ vũ khí mà chàng chế tác, chàng có thể sử dụng thành thạo và điêu luyện mọi thứ vũ khí mà chàng tạo ra. Tính chàng như thế nhưng chàng rất thương người, Nin rất thật thà và chàng thương mẹ lắm, hằng ngày chàng được mẹ dạy cho cái chữ, chàng thấy cái chữ của Chăm mình ngoằn nghèo cong nghoeo cũng hay hay nên rất ham thích. Một ngày trời mưa lưa thưa mát mẻ, JaNin bẫy được một lúc cả hai con nai và một con lợn rừng, chàng nhìn vào mắt con nai, không hiểu sao cảm thấy chảnh lòng nên chàng thả cho hai con nai này chảy đi, còn lợn rừng thì chàng liền vác mang vào trong thành ở chỗ ngoài chợ bán cho người bán thịt. Bên trong thành Đồ Bàn, ở trong chợ kẻ bán người rao, người mua dạo chợ đông như hội, con nít nối đuôi nhau đùa nghịch, những nàng thiếu nữ Chăm xinh tươi tuổi đôi mươi cũng ra đây, họ đi chợ và dạo mua những thứ trang sức, những chiếc khăn và những thứ vải quý giá, các thương nhân và ngoại nhân mang mọi thứ quý hiếm ở khắp nơi mang về đây, thật là tấp nập và nhộn nhịp, bọn thanh niên nhìn thấy những thiếu nữ ấy lấy làm vui và thích mắt vô cùng. Trong thành có rất nhiều người đẹp và duyên, trong đó có một người con gái tuổi vừa mười tám, nàng tên là PaRa, PaRa vừa đẹp người lại vừa đẹp nét, đôi mắt thơ ngây to tròn trong vắt của nàng nhìn vào như người mới tỉnh ngủ, quyến rũ ánh nhìn của người khác một cách vô tình và lạ thường; nàng có khuôn mặt tròn, mi nàng cong, môi nàng phai nồng, dáng người gọn gẽ, tiếng nói thỏ thẻ nhưng rất chính chắn và chuẩn mực, nàng có nụ cười duyên làm đắm đuối biết bao nhiêu con trai mang trong mình cái dại dột của tình ái, nàng nhăn mặt củng đủ làm cho người con trai đứng bên cạnh phải thẫn thờ. PaRa mồ côi cả cha lẫn mẹ, nàng sống nhờ trong nhà một người chú từ nhỏ, vì cảm lòng chú nuôi nấng nên nàng làm việc rất chăm chỉ, nàng nấu ăn rất ngon, múa lại càng rất hay, bọn con trai làng thường đua nhau mang quà đến tận nhà tặng nàng nhưng nàng chỉ mỉm cười mà không lấy. Hôm nay nàng PaRa cũng đi chợ, nàng đi với một người em trai tám tuổi lúc nào cũng tươi cười và đòi theo chị gái, đó là em họ của PaRa, họ ra chỗ người bán thịt, chàng JaNin cũng đang ở đấy. Vừa trông thấy PaRa, JaNin đã đứng chôn chân tại chỗ, chàng chưa bao giờ được đứng gần nhìn một người con gái như thế này, Nin mê mẩn tâm thần chăm chú ngắm đôi mắt, đôi môi và đôi khuyên tai nhỏ đáng yêu của nàng, Nin dường như đã bị PaRa hớp hồn ngay từ lần gặp đầu tiên, đúng là cảm giác của đứa con trai lần đầu trông thấy một người con gái xinh đẹp. Còn nàng PaRa thấy có người con trai bên cạnh nhìn mình như vậy, nàng mỉm cười và nhìn JaNin, hai đôi mắt nhìn nhau, nàng thấy khuôn mặt của JaNin thật là ngây ngô và nó làm nàng như muốn bật cười, nàng e dè lấy chiếc khăn choàng đầu che mặt lại, ngoài trời mưa vẫn rơi lưa thưa làm trời thật thoáng mát. Cạnh chỗ người bán thịt đó có những người thợ săn kia, họ mang về một con hổ to lớn, cực kì hung dữ, con hổ bị nhốt trong lồng, mấy đứa con nít súm lại quanh cái lồng reo hò ầm ĩ, chẳng may cửa lồng bị con hổ xé toạc sợi dây, con hổ phóng mình lao ra làm cửa lồng bị gãy gập làm hai, con hổ to lớn thoát ra khỏi lồng, những ai ở quanh đó đều lo mà chạy, trẻ con đàn bà thì ôm nhau đứng núp, những người thợ săn thì thủ thế giăng dây cầm giáo nhưng không ai giám tiến lại gần cả, con hổ to lớn bị bỏ đói nhiều ngày, thấy con lợn rừng chỗ hàng thịt, lại thấy nàng PaRa ở trước mặt liền nhe những chiếc răng nanh gầm lên, nhún đôi chân sau nhảy vồ tới định ngoặm cái đầu nhỏ của nàng PaRa, Nin đứng gần đó, chàng nhanh chân lao tới đẩy PaRa ngã xuống thoát khỏi cái chết trong gang tất, PaRa sợ quá ngất đi mất, con hổ nhanh chóng quay lại về phía JaNin, nhảy tới dùng móng vuốt vồ JaNin, JaNin không kịp trở tay, chàng bị con hổ cào chảy máu nhiều ở ngực, chàng ngã quỵ xuống, con hổ xoay mình và định nhảy tới lần nữa, con hổ gầm lên, Nin nhanh chóng đứng dậy, máu chảy ướt đẫm áo và người của chàng, Nin xé toạc áo mình để lộ thân hình cơ bắp, chàng rút con dao trong người ra,dựng cả tóc gáy, trợn mắt cau mày, điên tiết hét lên một tiếng lớn vang như sấm sét đang muốn xẻ đôi cây to, Nin bước tới,con hổ nghe tiếng thét sợ hãi bước lui mấy bước rồi nằm phục xuống, Nin bước tới thì con hổ càng nằm xuống thấp hơn và tỏ ra vẻ co ro, ai trông thấy cũng kinh sợ , những người thợ săn liền mang cái lồng úp lên con hổ rồi cột lại cửa lồng thật chặt, ai cũng khen Nin tài giỏi và ca ngợi không ngớt lời, chuyện chàng JaNin thuần phục con hổ được mọi người trông thấy truyền tai nhau. Còn nàng PaRa được người nhà đưa về, tới đêm mới tỉnh, nghe kể lại mọi chuyện mới nhớ ra là mình đã được JaNin cứu, từ đó nàng đem lòng ngưỡng mộ và thầm mong nhớ JaNin, chỉ cầu được gặp lại chàng để cảm ơn và thể hiện lòng thật của mình. Chàng JaNin từ nhỏ đã theo mẹ đi làm thuê mướn cho người trong thành, mẹ chàng có làm công cho một nhà giàu nọ, sau này chàng lớn lên cũng làm thuê trong nhà này, trong nhà đó chàng có quen thân với một người thanh niên hơn chàng một tuổi, người thanh niên ấy tên Bố Ca, là một cậu chủ trong gia đình, JaNin xem Bố Ca như là bạn thân và người anh của mình. Bố Ca dáng người vừa, mặt sáng mày ngược, đôi mắt nhìn không thẳng, tính tình đa nghi và tính toán, Bố Ca biết JaNin là một người sức khỏe có thể làm việc gấp hai những kẻ khác nên mới lân la làm thân, thường xuyên cho người mang thức ăn ngon về cho mẹ JaNin để JaNin cảm cái ơn ấy mà làm việc hết sức vì nhà mình hơn, mẹ JaNin tưởng Bố Ca là người tốt nên nói con trai mình phải cố gắng làm việc vì chủ, cũng kể từ ấy mà JaNin chỉ đi săn và làm việc cho nhà Bố Ca mà thôi. Chiều ngày hôm sau Nin vào thành xin Bố Ca cho chàng nghỉ mấy ngày vì chàng bị thương do hổ vồ, nàng PaRa tìm đến gặp, JaNin và PaRa gặp nhau, PaRa và JaNin đưa nhau ra bờ sông tâm sự, bỗng nhiên trời mưa, cả hai nắm tay chạy vào núp trong Tháp Cánh Tiên, đôi trai gái lần đầu tiên được ngồi gần nhau nên cả hai ai cũng ngượng ngùng, trong câu chuyện nàng PaRa tỏ ý cảm kích cái ơn cứu mạng, lời nói hết sức e thẹn và ý nhị làm cho chàng JaNin siêu lòng lúc nào không hay, chàng ấp úng mãi mà chẳng nói thành lời được, hai cặp mắt nhìn nhau đắm đuối, tưởng chừng như là đã thuộc về nhau tự bao giờ, một nụ hôn đầu được trao đi nhẹ nhàng, mưa vẫn rơi trên khung nền lãng mạn của tình yêu. Và kể từ đó trở đi, JaNin và PaRa đem lòng yêu mến nhau, thường xuyên gặp gỡ trao đổi tâm tình. Bố Ca vốn cũng biết đến PaRa, PaRa là một người con gái xinh đẹp mà Bố Ca đã mang lòng mê mẩn nhưng nhiều lần mang quà đến tìm gặp mà không bao giờ gặp được, nay bỗng nhiên nghe PaRa và JaNin là một đôi thì hết sức ghanh tị, lại được JaNin đem chuyện chàng yêu thương PaRa kể thật cho nghe thì Bố Ca lại càng căm tức, hắn ta nghĩ JaNin là một đứa nghèo hèn trong tay chẳng có cái gì mà PaRa lại đi thân với người như vậy, còn nhà mình thì bạc vàng tuy ít nhưng cũng không hề thiếu thốn, gia đình lại giàu có thì kém thua thằng JaNin chỗ nào, từ đó Bố Ca tỏ ý ghen ghét JaNin, những công việc nặng nhọc đều khéo léo sắp xếp để cho mình JaNin làm, buổi sáng ông mặt trời còn chưa ló mặt thì JaNin đã phải lùa đàn trâu ra chăn,chàng hết đi lấy những bó củi to đùng thì lại ra rẫy khai hoang, hết ghánh nước cả ngày thì lại thức trắng đêm đi gặt lúa, có ngày Bố Ca giả cách bị đau kêu JaNin trèo lên tận núi cao hái lá cây thuốc về cho hắn ăn, hắn chỉ mong cho JaNin lên núi bị rắn rít cắn chết, ma quỷ bắt đi cho hắn được một mình yêu lấy PaRa, một bên Bố Ca bốc lột sức JaNin, một bên lại sai người mang thêm nhìu thứ ngon quý đem tặng cho mẹ JaNin,lại chu cấp thêm tiền bạc, JaNin thì vẫn cố gắng làm việc cho tốt, chàng không biết là người bạn thân duy nhất và cũng là người anh mà chàng coi đang cố gắng tìm cách hại mình. Cuộc sống nơi xứ sở Chăm cứ như vậy trôi qua từng ngày, những tai ương cứ âm thầm tìm đến. Năm 1391 niên lịch Saka (tức năm 1469 sau CN) Một ngày mới lại đến trên kinh đô Đồ Bàn. Nhà vua tối thượng ban lệnh cho tất cả thần dân và quân đội chuẩn bị cho cuộc vượt biển tiến đánh một khu vực trọng yếu ở phương bắc, sau những cuộc họp hoàng gia và quan thần, vùng đất được chỉ định đánh phá lần này là Vuyar – thành Hóa châu (Châu Lý), một vùng đất xưa kia của ta đã đánh mất vào tay nước Đại Việt, cần phải đánh phá Hóa châu vì đây là nơi tích trữ gạo dồi dào nhằm cung cấp lương thực cho quân binh của Đại Việt trên đường di chuyển cả đường bộ và đường thủy để đánh chiếm kinh đô của ta.Cả thành dường như chấn động và tấp nập hẳn lên, ở ngoài khơi, những chiếc thuyền độc mộc được dẹp sang một ngả để hàng ngàn những chiến thuyền to lớn của ta vào luân chuyển lương thực và sửa chữa chuẩn bị cho ngày xuất quân, binh lính được chọn lựa và tuyển thêm, bọn thanh niên háo hức đua nhau xin nhập quân, hầu như ai cũng muốn đi đánh trận này, đây chắc chắn là một trận thắng vì nó là một sự bất ngờ được dành cho địch,tinh thần của binh lính thoải mái lúc nào cũng có sự sẵn sàng, đây chỉ là một cuộc đi cướp phá và ai cũng biết là ai đi cũng sẽ có chiến lợi phẩm để mang về, Bố Ca cùng đám bạn cũng đi, Bố Ca nghĩ quân ta đông và nhiều như thế, đi cho biết một lần thế nào là đánh trận và nếu gặp may thì hắn sẽ mang về những chiến lợi phẩm có giá trị. Tất cả được chuẩn bị kĩ lưỡng cho cuộc xuất phát sau nửa tháng nữa.Được tin, JaNin đang cày ruộng, lại thêm mấy đứa bạn rủ nhập quân, JaNin lập tức chạy quay về nhà tìm mẹ, thấy mẹ đang ngồi nhai trầu trước cửa chàng ngồi xuống cầu xin mẹ cho chàng được gia nhập thủy quân, chàng từng theo mấy đứa bạn ra biển đánh cá, chàng thích cái cảm giác được lướt đi trên đầu những con sóng, ở trên những con thuyền giữa đại dương bao la khiến chàng thấy mình thật nhỏ bé giữa thiên nhiên, giữa trời này, chàng thầm cảm ơn các Yang đã ban cho chàng, cho mẹ chàng, PaRa và tất cả mọi người có được một cuộc sống thú vị và vui vẻ. Giữa biển xanh này, chàng thấy thoải mái và tự do. Chàng thích thú khi kể cho mẹ nghe về cảm xúc của chàng trong những lần ra khơi, chàng nài nỉ mẹ cho chàng được đi đánh trận này, chàng sẽ lập công và nhận được những phù hiệu cao quý, những chiến lợi phẩm mang về chàng sẽ đem đổi thành tiền mua vải tặng mẹ, chàng sẽ mua gạo để dành trong nhà, chàng vui mừng khi nghĩ đến những điều đó, nhưng câu trả lời của mẹ làm chàng thất vọng vô cùng.Mẹ chàng ôn tồn đáp :- “ Không đi và đừng đi. Nin! ”Mẹ chàng lấy khăn choàng đầu lâu mồ hôi trên mặt chàng rồi nói tiếp :- “ Hãy hiểu cho nỗi lòng và sự cố gắng của mẹ bấy lâu nay. Mẹ đã thấy con đang sẵn sàng, người khác nhìn vào nghĩ mẹ thật ích kỉ khi giữ con ở nhà. Mẹ không cần những thứ lợi phẩm mà con nói đến từ việc theo theo đoàn quân đi đánh phá. Ngày xưa mẹ ẵm con bỏ làng chạy về nơi này là mong tìm được cuộc sống bình thường với những niềm vui. Nói cho mẹ nghe, con đã giết hay cắt đầu một ai chưa ? “JaNin buông giọng đáp :- “Dạ ! chưa một lần nào, đi đánh trận con sẽ thử” Mẹ chàng khuyên: - “ Con giết người khác hay người khác giết con, mẹ không muốn con đi chết ở đất người. Nhà mình nghèo, mẹ đi làm thuê lấy gạo nấu cháo nuôi con từ ngày con biết bò đến lúc con biết chạy, biết nói, lời mẹ nói con hãy nghe, trận này con không được đi.”JaNin nghe mẹ nói, thất vọng tràn trề, chàng như một đứa trẻ con, chàng buồn, chàng chạy ra ngoài nhảy xuống con suối ở trước nhà tắm để quên đi nỗi buồn này. Đúng lúc đó thì PaRa mang một mớ rau đến, nghe mẹ JaNin kể lại, trông ra ngoài thấy JaNin đang kì cọ tắm mình ở con suối trước nhà thì hai người phụ nữ nhìn nhau cười rất tươi.Đến thời gian hạm đội xuất phát, người ta kéo nhau ra tiễn người thân, PaRa cũng ra tiễn người thân, JaNin thì ra tiễn Bố Ca vì chàng coi Bố Ca như là người anh trai, Bố Ca đắc ý và coi thường JaNin khi thấy JaNin không có mặt trong đội hình xuất phát. Cãnh tiễn người ra trận diễn ra trong nước mắt và cả những niềm vui. Hàng ngàn chiến thuyền dần dần biến mất ở nơi xa tít.Hằng ngày JaNin vẫn đến nhà Bố Ca để nhận công việc làm thuê như bình thường, cứ đến buổi trưa thì PaRa mang cơm đến hai người cùng ăn, tình cảm càng trở nên mặn nồng. Ngày qua ngày, hết JaNin qua nhà PaRa chơi thì JaNin lại dẫn PaRa về nhà với mẹ mình, hai gia đình và chòm xóm láng giềng ai cũng khen là đôi bạn trẻ rất đẹp đôi. Chưa được một tháng thì tin tức truyền về, trận đánh phá thắng lợi, bên ta mất mát ít, thu được khá nhiều chiến lợi phẩm. Gần hai tháng thì hạm đội với những chiếc thuyền to lớn trở về biển của ta, mọi người cùng nhau ra đón trong niềm vui gặp mặt lại người thân. Người nhà Bố Ca ra đón nhưng nhận được tin giữ, Bố Ca và một toán binh của ta bị địch phục kích và bắt sống mang đi vì ham mải miết đuổi theo một gia đình phú hộ trên đường vận chuyển tài sản tháo chạy, thuyền của ta neo ngoài biển nên không thể mạo hiểm tiến sâu vào vùng nội địa để giải cứu toán quân này. Gia đình Bố Ca đau đớn khóc lóc rất thảm thiết, JaNin đang ở ngoài đồng, khi về mới được tin, JaNin tỏ ra rất buồn và oán giận quân địch, gia đình Bố Ca có ơn với chàng, chàng rất muốn đi tìm anh Bố Ca. Ngày tháng trôi qua, tình cảm của PaRa và JaNin dành cho nhau ngày càng sâu nặng. PaRa một đêm mang chuyện nàng yêu và muốn lấy chàng JaNin làm chồng cho người chú nghe, người chú này vốn cũng mến cái tài sức khỏe của chàng JaNin nên hứa sẽ đồng ý kết duyên chàng JaNin cho cháu mình. PaRa đem chuyện ấy nói JaNin nghe, JaNin bên vui bên buồn, chàng vui vì mình thân nghèo mà sắp lấy được vợ, chàng buồn vì người anh của mình là Bố Ca bị bắt ở xứ người ta, sống chết bây giờ chưa rõ, và quan trọng nhất là chàng thương người mẹ già, PaRa phải nói lời an ủi thì JaNin mới đỡ buồn được phần nào. Chàng về nhà mang chuyện PaRa và Bố Ca tỏ rõ tâm tư của mình cho mẹ nghe, chàng nói: - “ Thưa mẹ ! nay mai người ta sẽ đến nhà mình hỏi con về làm chồng, nhưng lòng con chỉ muốn đi tìm anh Bố Ca về rồi sẽ tính chuyện vợ chồng sau, không biết ý mẹ như thế nào..? “ Lần này mẹ JaNin đồng ý cho chàng đi tìm Bố Ca, đây cũng có thể là một trận đánh của riêng chàng mà chẳng cần một hạm đội thủy quân nào cảSau khi suy nghĩ, người mẹ từ tốn nói :- “ Người ta không chê nhà mình nghèo mà muốn lấy con về là người ta thật lòng với con, nhưng nhà Bố Ca đã giúp đỡ hai mẹ con ta rất nhiều, tình là một chuyện nhưng nghĩa con không bao giờ được quên,con hãy nhớ lấy.” JaNin xúc động thưa rằng:- “Lòng con cũng nghĩ như vậy, nhưng hành trình con đi sẽ không biết bao giờ trở về, để mẹ một thân già yếu ở nhà lòng con không an tâm.” Nói xong chàng ta nằm xuống tựa đầu vào đôi chân mẹ già, người mẹ xoa đầu JaNin, rớt nước mắt nhìn ra ngoài hát lên một khúc dân ca. JaNin nghe câu hát ru rồi thiu thiu ngủ đi lúc nào không hay. Đêm đó, JaNin đi đến nhà PaRa nói thật nỗi lòng của mình, bên nhà PaRa cũng không vội nên đồng ý ý muốn của chàng, sau đó JaNin và PaRa cùng nhau ra chỗ Tháp Cánh Tiên ở giữa thành, trời lại bỗng mưa, ông trời thật biết khéo đùa, mỗi lần hai người ở bên nhau thì mưa lại rơi xuống, nhưng chỉ một lúc sau thì mưa đã tạnh, hai người trao cho nhau những tình cảm yêu thương chân thành, những giãi bày, tâm sự của đôi trai gái thì thầm dưới ánh sáng lung linh của ánh sao xuyên qua tàn cây in lên bóng Tháp một thứ màu sắc mê hoặc,những lời hứa được trao đi, những lời thề được trao lại, một tình yêu giản dị và thơ mộng của đôi trai gái Chăm, dưới bóng Tháp hùng vĩ, PaRa tặng cho JaNin một bài múa, nàng đứng lên múa,nàng bắt đầu bước đi, nhịp điệu có khi nhanh có khi chậm, cung cách đi đứng hết sức ý tứ, những bàn tay của nàng lúc xòe ra lúc uốn cong như loài bông hoa nở rộ, nụ cười thơ ngây càng tô thêm màu sắc cho điệu múa đẹp đẽ, JaNin dường như bị hoa mắt trước nàng tiên trước mặt, chàng cũng yêu thích múa hát, chàng đứng dậy bước đến gần PaRa cất tiếng hát, những bàn tay của chàng cũng xòe ra khép vào đung đưa theo cánh tay PaRa, đôi chân chàng nhanh hơn, chàng bước tới nhanh rồi chậm rãi lui xuống, vừa múa vừa hát vòng quanh nàng, PaRa và JaNin như hai con chim non bay quấn quýt đùa dỡn nhau, điệu múa như là tìm thấy được niềm vui trong cuộc sống vậy. Sáng sớm hôm sau, PaRa và mẹ JaNin cùng ra tiễn chàng, nàng PaRa tháo ba chiếc vòng vàng ở tay ra cho JaNin mang theo phòng lúc cấp bách, để có tiền đi đường cho con, mẹ JaNin đem hết những thứ trong nhà có giá trị đổi thành ít tiền vàng cho JaNin, JaNin một mình một ngựa thẳng theo con đường đến hướng bắc mà chạy, phía sau chàng là những giọt nước mắt chia ly của người mẹ và người yêu, , , , hai người phụ nữ với những đôi mắt xa xăm nhìn theo bóng JaNin khuất dần sau những bụi cây rồi mất dạng về đường chân trời, mẹ JaNin vẫn đứng đó nhìn dù JaNin đã đi rất xa. Làm sao có thể hiểu được hết ý nghĩa những giọt nước mắt mà một người mẹ dành cho đứa con mình. “ Mẹ mang con trong bụng,trời sinh raĐôi chân con chưa vững, cất tiếng khóc ê aMẹ dạy con ba tiếng : ChămPa, Mẹ và ChaDòng máu chảy trong con là đất và quê nhà Bầu sữa mẹ căng tròn, con nằm ngoan chờ đợiMẹ ru con giấc ngủ, cha nâng bước con điCha mẹ đi trồng lúa,thành hạt cơm thơm phứcNhững lời con đã cãi, cha mẹ chẳng trách chi Trời làm cảnh mưa gió, Mẹ nuôi con khó nhọcCha ghánh đời nghèo khó,ghánh cả con trên lưngNhững chiếc áo mỏng vai, Cha Mẹ mặc từ đóSông núi lớn trước mắt rồi con sẽ thấy rõ. Nè ne neChim non cất cánh từ trong ổ Cá con vẫy vùng ra biển khơiChim khôn cá lớn ngày tháng dàiCon đã nên người con trả cho ai “ JaNin ngày đi đêm nghỉ, chàng đi hơn tháng trời mới đến được nước Việt, tin tức về Bố Ca và toán binh lính của ta hầu như không ai biết cả, nhưng JaNin vẫn không nản lòng, tiền bạc trong người hết, chàng phải bán luôn con ngựa của mình, nhưng chiếc vòng vàng PaRa trao cho chàng vẫn giữ bên mình, ngày tháng tìm kiếm tha phương, hai tháng trời trôi qua nhanh chóng trong niềm vô vọng, một ngày kia chàng đi đến một vùng núi mỏ vàng, ở đây con người thay nhau làm việc cả ngày lẫn đêm, mặt mũi ai nấy lem luốc và bơ phờ vì công việc khổ cực, tiền bạc trong tay đã hết sạch, JaNin xin vào làm ở mỏ vàng này và người ta nhận ngay bởi nhìn vào là biết JaNin là người có sức khỏe, ở trong mỏ, nhìn từ xa JaNin trông thấy một hình dáng thân quen, tuy không nhìn rõ mặt nhưng chàng nhận ra ngay đó là anh Bố Ca, JaNin tìm đến gặp thì quả đúng là Bố Ca thì vui mừng khôn xiết, Bố Ca nhận ra JaNin, cảm động quá ứa nước mắt mà khóc rống lên như đứa trẻ con, nói cũng chẳng thành lời, JaNin liền xin người ta cho chàng làm thay anh mình để Bố Ca nghỉ ngơi, tới đêm JaNin mới xong việc, hai anh em ngồi nói chuyện với nhau, Bố Ca kể về những chuyện mà mình đã trải qua,từ khi qua đây , Bố Ca bị áp bức, bị đánh,bị chửi mắng, ăn uống lại hết sức khổ sở, nay gặp lại JaNin thì dường như được cảm thấy cơ hội thoát thân chắc hơn và hắn đỡ cô đơn rất nhiều,JaNin kể về những chuyện ở quê, kể về mẹ, về PaRa, bây giờ tìm đã tìm được Bố Ca, chàng hứa sẽ tìm mọi cách để đưa anh mình về đoàn tụ với gia đình.Sáng hôm sau, JaNin lại đi làm thay Bố Ca, trong lúc làm, chàng quan sát địa hình, hỏi thăm địa vật, xác định đường đi nước chạy ngay từ trong đầu, chàng nhận thấy cạnh quả núi này có một con sông chảy quanh khu mỏ vàng, sông rộng và sâu, nước chảy rất xiết, người ta lại không xây cầu, nhiều người bị chết đuối khi qua sông này vì bỏ chạy,tất cả nơi ở của người và vùng mỏ đều được lắp hào, lại để ý thấy bọn canh gác rất đông, chúng thay phiên nhau ba lần một ngày, việc thoát khỏi nơi này tưởng chừng như không dễ một chút nào.JaNin ngày đêm suy nghĩ, tìm cách cứu Bố Ca, còn Bố Ca thì giả cách bị bệnh, nằm liệt tại cái chòi của mình không đi làm, tên quản đốc thấy JaNin làm thay cho Bố Ca là tên có sức khỏe thì cũng thầm đồng ý, không hỏi đến Bố Ca nữa. JaNin đem suy nghĩ của mình nói cho Bố Ca nghe, chàng nói cần thời gian để tìm cách, chỉ cần có sơ hở thì hai anh em sẽ thoát được, bằng nếu hết cách thì sẽ lấy ba chiếc vòng vàng của PaRa cho để đổi lấy sự tự do của anh Bố Ca, còn thân mình sẽ tính sau, nói xong chàng mang ba cái vòng vàng ra cho Bố Ca xem, Bố Ca trông thấy vòng vàng, trong ánh mắt rạng rỡ vui mừng ánh lên những toan tính, lấy cớ JaNin đi làm mang theo vòng vàng dễ bị đánh rơi nên Bố Ca đòi giữ những chiếc vòng ấy cho an tâm, tất nhiên là JaNin không từ chối. Một tuần trôi qua, vẫn không thấy JaNin nhắc đến chuyện bỏ trốn, Bố Ca cảm thấy hết sức sốt ruột, cũng không thể giả bệnh hoài. Sáng hôm đó, chờ khi JaNin đi làm rồi, Bố Ca lén mang ba cái vòng vàng tìm đến tên quản đốc, ở đây một thời gian dài nên Bố Ca cũng hiểu và biết nói tiếng người nước Việt, Bố Ca dùng lời ngon ngọt và lí lẽ tỏ rõ cho tên quản đốc nghe, tên quản đốc này tính lại tham lam, thấy vàng thì nhận ngay, hắn nghĩ cho Bố Ca về, để JaNin lại thì cũng tốt, chỉ lợi chứ không hại, hắn liền cho người mở cổng thả cho Bố Ca đi, lại thấy Bố Ca yếu ớt nên cho thêm con ngựa già, Bố Ca được ra ngoài, cắm đầu phi ngựa mà chạy, không biết trời đất là gì, cũng không nhớ tới JaNin đang ở phía sau nữa, hắn chỉ biết là cuộc sống mới và nàng PaRa đang ở phía trước mà thôi. Đêm JaNin làm về, hỏi thăm thì biết Bố Ca dùng vàng đổi thân, đã được thả đi từ sáng, trong lòng JaNin buồn bã, cô đơn vô cùng, chàng nhớ mẹ và nhớ PaRa rất
0 Rating 160 views 1 like 0 Comments
Read more
By: On July 24, 2015
Written by Po Dharma & Abd. Karim Akayat Dewa Mano (s? thi Dewa Mano) l
0 Rating 435 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On July 23, 2015
Written by Po Dharma & Abd. Karim Akayat Inra Patra (sử thi Inra Patra) là tác phẩm văn học viết bằng Akhar Thrah Thrah mang ký hiệu số CHCPI 5. Tác phẩm này do Linh Mục G. Moussay (Trung Tâm Văn Hóa Chăm) sao lại vào năm 1970 dựa vào bản gốc của một cuốn sách được lưu tại Palei Tanran (Hữu Đức, Ninh Thuận). Tác phẩm này đăng tải  trên trang Champaka.info với nội dung như sau: Akayat Inra Patra (Po Dharma & Abd. Karim)   Akayat Inra Patra (sử thi Inra Patra) mà chúng tôi trình bày ở đây là tác phẩm văn học viết bằng Akhar Thrah mang ký hiệu số CHCPI 5 hiện lưu trử trong thư viện của Trung Tâm Lịch Sử và Nền Văn Minh Bán Đảo Đông Dương (đại học Sorbonne, Paris). Tác phẩm này do Trung Tâm Văn Hóa Chăm của Linh Mục G. Moussay sao lại vào năm 1970 dựa vào bản gốc của một cuốn sách nằm trong Palei Tanran (Hữu Đức, Ninh Thuận), gồm 59 trang và tổng cộng 581 câu thơ. Akayat Inra Patra có nhiều dị bản mang ký hiệu CAM 28 (1), CAM 99, CAM 157, MEP 1189/5, CM 8, CM 12 (3), CM 21 (4), CHCPI 5 hiện lưu trử trong thư viện của cộng hòa Pháp. Lần đầu tiên, Akayat Inra Patra được dùng làm đề tài nghiên cứu tốt nghiệp đại học Sorbonne (Paris) vào năm 1976 bởi Nara Vja (Ngụy Văn Nhuận). Tác phẩm này cũng là chủ đề nghiên cứu khoa học do Po Dharma, G. Moussay và Abd. Karim thực hiện và ấn hành mang tựa đề : Akayet Inra Patra = Hikayat Inra Patra = Epopée Inra Patra (Perpustakaan Negara Malaysia & EFEO. Song ngữ : Pháp-Mã, Kuala Lumpur, 1997) Phiên âm Phương pháp phiên âm của tác phẩm này dựa vào hệ thống phiên âm La Tinh quốc tế của Viện Viễn Đông Pháp. Độc giả nên lưu ý cách phát âm của một số phụ âm và nguyên như sau : Nd = nduec (chạy), ndom (nói) Mb = mbeng (ăn), mboh (thấy) Nj = njep (phải), njuh (củi) Â = tương đương với ư của tiếng Việt, như hâ (nó), jiâ (thuế) O = tương đương với ô của tiếng Việt, như oh (không có), hadom (bao nhiêu) Aow = tương đương với o của tiếng Việt, như pataow (chỉ dẩn), tanaow (đực) Chú thích Chữ nằm trong dấu ngoặc […] là từ mà người Chăm thường dùng hôm nay. Số nằm trong […] là số trang của tác phẩm Akhar Thranh   Trang đầu của Akayat Inra Patra     Bản phiên âm   1. Ni dahlau kal si panâh di ariya, palei Sumen Tapara, praong libaih saih di saih,,   2. patao Kurama Basapa sunit ginreh, pangap dher Débisreh, pahlap ka buol di grep nager,,   3. sa phun kuyau balinga di krâh tanran, siam phun siam dhan, bingu mebaoh oh meda,,   4. Bimeng Kubami si bican drâtsa, hec abih khaol ita, siber me [meng] siam tel hadei,,   5. ka po ita ni o hu anâk likei, pakreng nager saong palei, buol su bhap thuk hatai,,   6. patao bi-ndang panraong jabuol sinbiai, ew huer Rajreng merai, tangi ka o hu anâk,,   7. huer pa-nder patao nao di krâh tathik, Dopabrei sunit ginreh, sunuw binik abih merai,,   8. buh di tan mâh bingu inâgiray, Norapet [Norapat] sanâng di hatai, kieng wek tama raja-iei,,   9. likhah jaga bibak pak pluh harei, aien [auen] ka Dosreh brei, irés bijak chaina,,   10. dom nan nyu brei angan Inra Patra, irés sani bengsa, di grep nager jang nyu thau,,   11. sa nager nyu ba mâh pataih li-uw, sa nager tra thau, patia amrak mâh bingu,,   12. patao bi-ndang baruw mang nyu ba tama, limah Norapet [Norapat] aien [auen] ka hu, anâk likei séh di séh,,   13. patia ikan daok dalam kawan [cawan] mâh, thau yaom sunit ginreh, ikan bican puec klao,,   14. sa nager nyu patia khan su aw, ba tama limah patao, aien [auen] ka hu Inra Patra,,   15. dalam nager palei Sumen Tapara, mâh pariak di riim meta, abih mang ba rai alin,,   16. dom nan ikan mâh si bican, yau ra ndung amrek di khan, tathuak tangin haok abih,,   17. Inra Patra akhan su aw mang mâh, nyu jak di ngaok yorah, irés bijak chaina,,   18. amrak mâh tatah iten su permeta [permata], patao Kurama Basapa, tabiak bi-ndang kieng pame-in,,   19. dom nan amrak mâh ba per, nao laik dalam nager, patao Rija Sah Suan,,   20. dalam thuen muk Ranaik Bariyén, nyu duon raong aien [auen] tabuon, lac anâk Dobita,,   21. dom nan nyu tangi Inra Patra, cei anâk Dobita, hapak libik palei nager,,   22. biruw mang Inra Patra si bican, di kal amrak ba per, mang Sumen Tapara,,   23. kau ni anâk patao Kurama Basapa, daok saong muk raong ba, calah di inâ ngan ama,,   24. blaoh tuei muk nao pablei bingu, Palidaw Mentri, likuw kieng raong jiéng anâk,,   25. meyah kuthaot kau brei kaya kal [kar] ka muk, aek lipa juai ka-uk, kau anit Inra Patra,,   26. kuhlaom anâk patao Kurama Basapa, daok saong muk raong ba, nda [ka] muk her wer,,   27. dom nan meda patao nao amal, dep mboh di jalan, anâk inâ njruah mâh,,   28. blaoh patao pa-ndik kathur kieng panâh, njap anâk njruah mâh, libuh tanan blaoh metai,,   29. dom nan patao gilac wek merai, mang sanâng dalam hatai, damân anâk njruah mâh,,   30. patao bi-ndang panraong jabuol taom abih, ikhan ndom ka panâh, tak di bés (?) nao amal,,   31. kau ni jiéng Norapet pakreng nager, tel usak rapajen, anâk tacaow oh meda,,   32. Sri Palieng Sujang Narah kuhrii kuhria, chinbiai ka ita, kami ka-uk dalam hatai,,   33. duah jru bi hu anâk ba merai, Palidaw Mentri nyu biai, tangi grep gram pari,,   34. pamiit panuec di Bimeng Kubimi, haké meda jru tani, pak Bimong Settik,,   35. meyah kieng nao sanâng ku-nda oh thau libik, gen cek tapa tathik, thei urang nao sa tel,,   36. Balidaw Mentri merai bican, pathau abih panuec yau nan, patao ginaong kieng pametai,,   37. Balidaw Mentri tabiak merai, Inra Patra nan kieng biai, bican lac nyu kieng nao,,   38. patao paruah khan su aw siam metuaw, kuhlaom anâk lac kieng nao, amâ alin ba anguei,,   39. dom nan Inra Patra tabiak merai, dom sanâng dalam hatai, me-irat nyu kieng nao,,   40. muk Ranaik Bariyén paralao, anit tacaow lac kieng nao, ri-mbi ri-mbâp lo sa drei,,   41. Inra Patra si také truh palei, rimaong caguw pép merai, limân saong kruk litha,,   42. kakuh da-a hec Po Inra Patra, irés sani bengsa, anâk patao praong nager,,   43. miit sep Taguret ew bican, di kal amrak ba per, inâ ama po su-aien [su-auen],,   44. tama dalam sang megik ngap dher, kuhri kuhra palei nager, pep Bimeng Kubimi,,   45. mang kal dahlak tuei po mai sani, tel urak merathi, metai abih yau binés,,   46. names sukal pak sunit Débisreh, sa meta brei mboh, su-aien [su-auen] ka Po Inra Patra,,   47. khaol dahlak metai di rak khik gaha, di ngaok cek Andel Yasa, kakei di cei plaih bi truh,,   48. Inra Patra si také jreng mboh, rak trun merai metâh, cek nyu ew Inra Patra,,   49. hec aong anâk ranaih ra meda, kau brei sa dak lakkuraba, ka hâ tani baik ka sah,,   50. names sukal pak sunit Débisreh, nyu pametai rak blaoh, biak yaom sa kasen,   51. laik trun sumu jaleh cek su cer, rimaong caguw aien [auen] tabuon, limân saong kruk lisa,,   52. Inra Patra tama jreng dalam giha, mâh pariak lo meda, di riim pakal [pakar] buissaki,,   53. di ngaok cek nan sa phun kurama, siam dhan mebaoh bingu, glaong metâh aderha,,   54. nyu nao tel Kubimi ew da-a, hec Po Inra Patra, pagar [pagan] dahlak siam kieng mbeng,,   55. mbeng thar klak tamuh blaoh jiéng, anâk tacaow mbuak di krung, tadhuw sunit Débisreh,,   56. Inra Patra si také nao truh, pep mboh amrak mâh, tiaong biyén kameng mrai,,   57. caguor bingu ciim Pabah Rem Tangai, caraw hadang abih merai, thét biyak Inra Patra,,   58. nao mboh sa phun bingu yorika, nattiak puissada, tabeng mâh ew da-a,,   59. hec po sunit ginreh Inra Patra, paik dahlak blaoh ba, plah di kéng sa asat [asit],,   60. sa phun jrai deng di krâh parabet [parabat], di cek Nder Jai Yét, Inra Patra padei tanan,,   61. nyu jreng tapak harei tagok mboh buol, ribuw tamân ralo rajen, Ribep Arosah merai,,   62. ba buol ribuw tamân kot chai, chait mâh bingu palai, pahaluei gah kawah,,   63. ribep meri kaong kamre dua gah, pak pluh dok meriah, nyu jak di ngaok thing mâh,,   64. jreng tapak harei tagok nattathih, buol su bhap Sumen Giléh, ribuw tamân laksa,,   65. anâk patao In Sumen Loga, dalam nager nyu hatua, merai kieng duah nager paken,,   66. nyu ndik di ngaok raong athaih kaok per, Rabep Arosak bican, tangi hapak gah kieng nao,,   67. dom nan Sumen Jalé nyu jak methao, ka dua mang anâk patao, daok methuh gep tanan,,   68. nyu pabinés buol su bhap lo rajen, Inra Patra nao tel, tangi hagait sreh gi-ndi,,   69. hec aong sa baoh akaok merai ta ni, hâ juai pagen gi-ndi, kau mesuh merak nager,,   70. Inra Patra nyu ginaong blaoh bican, Sumen Jalé puec yau nan, likau di ai juai methuh,,   71. Sumen Jalé pa-ndik kathur blaoh panâh, Inra Patra sunit ginreh, oh mada huec ku-nda,,   72. ndaih apuei glaong metâh aderha, nyu mak padak lakkuraba, pametai Sumen Jalé,,   73. buol bhap ribuw tamân nduoc abih, si meyaom sunit ginreh, ires bijak chaina,,   74. Ribep Rosah kakuh blaoh da-a, nyu bican lac ba, bi tel ama mang bak hatai,,   75. patao Rija Sah Suan tiap merai, Inra Patra saktajai, da-a bi tel medhir riya,,   76. dalam tian patao ranam Inra Patra, irés bijak chaina, ama patok anâk ka sah,,   77. kuhri kuhra Sri Palieng Sujang Narah, angan Rabep Rosah, biai panâh raja-iei,,   78. patao paruah hadom urang saktrei, pak pluh mesiam likei, thét biyak Inra Patra,,   79. saong paruah hadom urang kaya kaya, pak pluh mang dara, thét biyak tuan patri,,   80. Binara auak rabep yuk meri, adaoh kamrie tuon [tuan] patri, di ngaok kacak maligai,,   81. likhah caga kaong Inra Patra merai, mbeng menyum saktajai, sa rituh harei melam,,   82. Inra Patra saong patri Jamjam, Ratna Dawi Ilam, biruw mejieng subarriya [subharriya],,   83. patao bi-ndang panraong jabuol kuhri kuhra, mâh pariak di riim meta, alin anâk saong metuw,,   84. liwik harei thruai melam dahlak kieng nao, kunâ drei di patao, blaoh bican panuec kudha,,   85. tuen [tuan] patri su-aien [su-auen] Po Inra Patra, Rabep Arosah kieng ba, paralao metâh jalan,,   86. Inra Patra si také di rah nager, jreng bi-ndang mboh dil, Tagirak ew bican,,   87. khaol dahlak duah po di luic nager, tel usak me rapajen, metai di muk Kaphuari,,   88. sa phun kuyau deng di krâh jallidi, Inra Patra si také, deh padei tak ula,,   89. Kaphuari tagok di dil Sumenna, merai kieng mbeng Inra Patra, biruw mang nyu kieng pametai,,   90. biruw mang muk Kaphuari mbai, sa baoh ra-ndaik saktajai, limah ka Po Inra Patra,,   91. ra-ndaik ula sanji kawanna, sunit ginreh lo meda, riim pakal [pakar] buissanâ,,   92. Inra Patra tama dalam jallidi, tel sang Kaphuari, payak di den [del] menâng ahar,,   93. blaoh mang muk Kaphuari akhan, meyah si nao di jalan, likau digen [digar] ba saong drei,,   94. tel harei suk patri trun menei, di aia tabeng siam ndei, su nam diyeng taom hader,,   95. Inra Patra yuo mak kaya kal [kar], yuo drei jiéng ikan, tama dalam aia tabeng,,   96. rup patri saih di saih mboh sa [si] gleng, hec su nam urang diyeng, menei bi drah ita kieng nao,,   97. gleng mboh lihik aban khan su aw, tiap su radiyeng nao, duah bi mboh ba ka kau,,   98. hec po daok ala haluei kuyau, po mak rei o thau, lihik kaya kal [kar] patri,,   99. biak jeh halun merai daok tani, halei kaya kal [kar] patri, halun ké mboh sa [si] gleng,,   100. Inra Patra akhan wek saong radiyeng, nyu lac patri séh melang ,biruw mang nyu lue angal,,   101. biruw mang ra biyeng nao akhan, tuen [tuan] patri paraot di tian, nyu sap hatem Inra Patra,,   102. patri pa-nder nao wek sa mbeng tra, pathau rei panuec kudha, biruw mang tuen [tuan] patri merai,,   103. hec po siam likei saktajai, duon kaya kal [kar] kanai, brei ka halun likau di cei,,   104. meda halun mboh biyén per merai, cagaong kaya kal [kar] kanai, palaik di ngaok thing kata,,   105. halun duon biak halun si taka, pak diger nan tra, ka halun likau di nai,,   106. hec po siam likei saktajai, peng panuec halun hai, brei ka halun baik susah,,   107. nao ruah kaya kal [kar] baik bi drah, Inra Patra pa-nder tapah, sari tanan mang nyu peng,,
0 Rating 451 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On July 23, 2015
Written by Po Dharma & Abd. Karim Ariya Cam-Bani là tác ph?m v?n v?n vi?t b?ng Akhar Thrah g?m 13 trang t?ng c?ng 126 câu th? phát xu?t t? thôn V?n Lâm, Ninh Thu?n, do Ts. Thành Ph?n s?u t?m mang ký hi?u s? TP 41. L?n ??u tiên, tác ph?m này ???c gi?i thi?u trong Truy?n C? Dân T?c Ch?m (1982, trang 134-138), trong Truy?n Th? Ch?m (Hà N?i, 1983, trang 99-123) và trong V?n H?c Ch?m c?a Inrasara (1994, trang 175-182 và 322-338). N?m 1999, Hoa Fatimah trình bày l?i tác ph?m này trong T?p San Campaka N° 1 (1999, trang 235-254).   Phiên âm   Ph??ng pháp phiên âm c?a tác ph?m này d?a vào h? th?ng phiên âm La Tinh qu?c t? c?a Vi?n Vi?n ?ông Pháp. ??c gi? nên l?u ý cách phát âm c?a m?t s? ph? âm và nguyên nh? sau : Nd = nduec (ch?y), ndom (nói) Mb = mbeng (?n), mboh (th?y) Nj = njep (ph?i), njuh (c?i) Â = t??ng ???ng v?i ? c?a ti?ng Vi?t, nh? hâ (nó), jiâ (thu?) O = t??ng ???ng v?i ô c?a ti?ng Vi?t, nh? oh (không có), hadom (bao nhiêu) Aow = t??ng ???ng v?i o c?a ti?ng Vi?t, nh? pataow (ch? d?n), tanaow (??c)   Chú thích   Ch? n?m trong d?u ngo?c […] là t? mà ng??i Ch?m th??ng dùng hôm nay. S? n?m trong […] là s? trang c?a tác ph?m Akhar Thranh.   N?i dung tóm l??c   Cô gái Cam và chàng trai Bani yêu nhau.  Do hai ng??i khác ??o nên d? lu?n xôn xao bàn tán. Hai ng??i b?t c?n s? d? ngh? hay phân bua c?a m?i ng??i. H? v?n tìm ??n v?i nhau. M?t hôm, nghe tin chàng trai Bani b? b?nh. Cô gái Cam lén sang nhà chàng ?? th?m ng??i yêu. Khi tr? v? cô b? cha m? b?t g?p. Th? là, cô b? cha m? tr?ng ph?t và b? ?ánh ??p. Cha m? ng?n c?m không cho cô qua l?i v?i ng??i con trai Bani. Nh?ng, cô quy?t không t? b? m?i tình c?a mình. T? ?ó, m?c ?? hành h? c?a gia ?ình dành cho cô càng lúc càng t?ng. Cô b? cha m? b? ?ói, b? c?o tr?c ??u, b? l?t h?t qu?n áo, và b? ?u?i ra kh?i nhà. Chàng trai Bani th??ng ng??i yêu, tìm cho nàng m?nh v?i che thân, r?i ??a nàng ra cánh ??ng v?ng t?m d?ng cái l?u, ?? hai ng??i cùng s?ng. Cha m? nghe tin l?i lôi cô gái v?, ti?p t?c ?ánh ??p. Chàng trai th?y v?y nh?y vào can ng?n. Nh?ng cô gái ?ã không ch?u ??ng n?i n?i nh?c hình và s? ?ánh ??p c?a gia ?ình. Cô trút b? h?i th? cu?i cùng. Cha m?, ng??i thân không màng ??n thân xác cô gái. Chàng trai Bani nh?t thân xác cô v? ?? làm l? táng. Vì yêu nàng, chàng trai ?ã làm l? táng m?t cách hoành tráng, mà ch? v?i dòng dõi quí t?c Cam m?i có ???c. M?i ng??i trong làng kéo nhau ??n xem. Khi ng?n l?a thiêu xác c?a cô gái ngùn ng?t cháy cao, chàng trai Bani ném t?p th? Ariya vi?t v? chuy?n trình c?a hai ng??i vào ?ám ?ông ?ang ??ng bên c?nh, r?i lao vào ng?n l?a ?? cùng ch?t v?i ng??i yêu.     Trang ??u c?a Ariya Cam-Bani   B?n phiêm âm   1. Ni ariya sa-ai ngap, panâh ba tabiak, piéh ka ra peng,,   2. mayut dreh yau ni aey haleng, kau ngap blaoh padeng, dom ayaman,,   3. anit saong ranam klaoh prân, haké hu daman, mbeng saong anguei,,   4. kau huec ka-nda pacei puec suei, klak kau matuei, luai pacalah,,   5. kau o klak nai ah, kau huec calah, yua amaik ama,,   6. haley tian kau praong lo ka hâ, amaik saong ama, kau ndua sa gah,,   7. cei ley kau biai yau ni baik ah, then drei ra-mbah, o bik payau,,   8. adei ley amaik ama ké thau, kau ciip ndua maluw, gep gan ra klao,,   9. gep gan ra klao tok hatai, kau juak sa takai, tama Bini,, [56]   10. sang suer inagiray kaong dal [dar], kajang bi tel, kau caik sa gah,,   11. sang suer mariah siam ndei, kau nduec tuei likei, klak amaik ama,,   12. pacei ley mayah matai kau ni, hâ ngap padhi, baik hai ka kau,,   13. mayah padhi bak klau bak pluh, drep ar hu buh, pakhat ka po,,   14. anit saong ranam praong lo, likau dher di po, taom sa anih,,   15. kahlaom tian dahlak klaoh hacih, taom sa anih, klaong thau ka po,,   16. anit saong ranam praong lo, likau dhar di po, drep o salih,,   17. panuec ndom takik jieng ralo, ina kau palue, ké ndom tapak,,   18. urang ndom ina peng biak, ina hamit pak, ew mai tanyi,, [57]   19. hamit di urang ndom yau ni, hâ khap di likei, anik [anâk] Bani,,   20. habién mang ina mboh rei, kau ndom saong likei, paoh auan dahlak,,   21. dahlak ndom ina peng biak, ina o tapak, blaoh ew tanyi,,   22. dep di ina nao rei, mboh yau adei, cei mai akhan,,   23. nan jeh kau ruw di tian, gruk krung kau bhian, wer nao abih,,   24. tama sang kau bah ciéw ndih, hadar ka lipih, haok aia mata,,   25. pacei kau ciip di sanah o tra, mayah thuak yawa, o abih rakak,,   26. patho ba-ar blaoh pataok, mbut wak panah, tuei ariya,,   27. krak tuk ina ndih jua, wey juk gila, blaoh nao riweng,, [58]   28. kau nao mboh pacei ndih jua, haok aia mata, duis di hagait,,   29. tama tal duk cei ndih, kau pok cei alih, blaoh crong ngaok pha,,   30. guk di akaok mai hia, haok aia mata, kau njep pacei,,   31. pacei ley kau aek di lisei saong aia, kau aek di hala, tel bak bilan,,   32. ikak tian dahlak daok cang, ruw lo di tian, cei kau hakik,,   33. sa khi pacei kau ruak, raiy rup dahlak, yaom nde ca-ndiéng,,   34. guen ba lisei mai huak, hader mai tathuak, thraiy aia mata,,   35. wang gruk dahlak daok hia, aey juk gila, o dreh yau urang,,   36. pok mbuon ka po baik rei, pa-mbuon ka pacei, sa jam kamang,, [59]   37. kau pok mbuon di grep yang, tamia di mblang, sa drei pabaiy,,   38. o kan klaong ngap ka thraiy, sa drei pabaiy, pakhat ka po,,   39. likau baik kajap karo, likau suan di po, drep o damân,,   40. hamit lac cei hu prân, mang tian linâng, khin nao riweng,,   41. pabah mbeng ina cuk taik, duis di hagait, blaoh mai sa drei,,   42. hader krung panuec hakei, hajieng mai sa drei, tuk krâh malam,,   43. likau drei di cei nao sang, rimaong daok pagrang, di krâh jalan,,   44. dahlak dréw rimaong chét nao, ha-ndaoh di aw, auak aia mata,,   45. palaik klaon dahlak daok hia, rimaong mai taphia, ké mboh sa gleng,, [60]   46. nan mang ina peh pa-mbeng, dahlak daok ga-ndeng, blaoh lua tama,,   47. nao min o ka tel duk, amaik ama batuk, ew mai tanyi,,   48. hâ nao tao bién ni, dahlak anaih sari, lac nao ma-ik,,   49. nan mang sanâng wey phik, kau auah [mbuah] lo lingik, oh duei pataom,,   50. kau auah [mbuah] lo ka saom, nyu daok paraong, kau di ina,,   51. tian kau trak lo ka hâ, huak o tamâ, ndih jang o wer,,   52. malam ndih sa tuk min wer, dom daok hader, tel juk gila,,   53. krak tuk ina ndih jua, kau lua ndik paga, mai blaoh tamâ,,   54. pabah mbeng ra khik dua gah, aey juk ra-mbah, ciip di matai,, [61]   55. guon tian sa-ai kieng mai, mayah lac matai, ndih sa lubang,,   56. halei luai kau ciip matai, halei ka kanai, tian kau o klak.,,   57. matai nai kau gem tanjak, mayah kau klak, cang po lingik,,   58. adei ley ciip di ina baik rei, ciip di hahuei [hawei], ina ataong,,   59. lama mbaik hahuei [hawei] jaoh raong, ina kau ataong, giriak di geng,,   60. giriak blaoh saom nduec mai, saom nan dai, blaoh nyu likau,,   61. ngap kieng ka kau maluw, sa khi dahlau, kau oh tapak,,   62. canak mbuk ina kau yuak, ina kau gariak, di geng katul,,   63. ha-ndaoh di hahuei [hawei] mai tadaik (?), ha-ndaoh di haraik, ikak di takuai,, [62]   64. ikak blaoh ina oh luai, ama amaik patey (?), kau di pa-ndiak,,   65. asah ndaw ama nao huak, ama lac khing tak, blaoh pamatai,,   66. nan mang urang nduec mai, ha-ndaoh di gai, blaoh klak sa gah,,   67. pacei ley kham kho dahlak lo ah, inâ pacalah, kau di pacei,,   68. nan jeh nyu ew grep drei, amâ paoh rei, leh khan abih,,   69. adei ley matai di anih krâh ndih, halei ka lipih, tian kau o klak,,   70. matai nai kau gem ka-njak, tian kau o klak, aey po lingik,,   71. tal thun hatai luak phik, ataong war pa-ndik, puec war maluw,,   72. ama paoh kanai wek rei, kau nao pok adei, blaoh pan [apan] ala,, [63]   73. ina paoh sa mbeng ân ka, sa-ai sait paga, blaoh nao talaih,,   74. talaih blaoh kau brei khan mbaik, adei nduec baik, kau ciip ala,,   75. ni jeh matai wey cei, matai di hahuei [hawei], ina kau ataong,,   76. lima mbaik hahuei [hawei] jaoh raong, ha-ndaoh gar jaong, paoh gan akaok,,   77. amaik mboh yau nan hia caok, rapek di akaok, mboh dom darah,,   78. mik wa ra mai daong ah, ra mai daong paklah, mey nduec tabiak,,   79. nduec nao tanyi mik wa, mboh bharriya, kau nao pak halei,,   80. urang tanyi ka-uk wek rei, mboh dom canu hahuei [hawei], ina nyu ataong,,   81. darah thraiy di rup lo ndei, klah nâh o brei, kau taom pacei,, [64]   82. ni jeh canu hahuei [hawei], anit rup pacei, raiy rup dahlak,,   83. urang mak lisei mai huak, mayah si akak, yaom sa cawan,,   84. wer glai dahlak wey wa, mboh bharriya, kau wek pak halei,,   85. mboh sa urang kamei, oh hu khan aw di drei, hia nao pak ngaok,,   86. nao mboh panai daok hia, ala phun hara, tattey ra-mbah,,   87. mang kal ban [aban] sa ka-ing nam blah, urak ni ra-mbah, khan taik di drei,,   88. urak ni kau daok matuei rei, kau ciip mbeng habei, saong mbrai matah,,   89. halei than dahlak ri-mbah, dom canu saong darah, ina kau ataong,,   90. jamaok kaik kau pah di raong, hader hai hadom, kham kho ra-mbah,, [65]   91. dahlak biai yau ni baik ah, than drei ri-mbah, dom thun mang ni,,   92. haké hu kau bhian yau ni, mayut saong ra-mbi, tattey sa drei,,   93. dahlak biai yau ni baik cei, duah kalei habei, mbeng tuei lipa,,   94. kal déh lisei mbong ikan darei, urak ni habei, mbeng saong sara,,   95. sanâng mai di grep adhua, ta-njaoh aia mata, di phun habei,,   96. hu haké bhian yau ni wey cei, kalei habei, mbeng tuei ra-mbah,,   97. kau auah [mbuah] kal [kar] ka wak tho ah, ka than kau ri-mbah, mai daok di glai,,   98. haké glai dahlak hu bhian, gep gan urang, thur caik di kau,,   99. dom daok sanâng blaoh ruw, hadep sa ribuw, thun tra o wer,, [66]   100. kau mbuah kar lo ka saom (?), ina kau ganaong, blaoh tuek harak,,   101. lang saom urang peng biak, ra wang mak dahlak, di sang pacei,,   102. ra wang mak dahlak ba mai, ina paoh matai, pa-ndam a-mraik,,   103. pa-ndik saong tahu gala crih, raw jang o cih [hacih], prew ew lingik,,   104. tagaok deng dahlak yam nao, tangin pan [apan] di aw, auak aia mata,,   105. ina ngap di dahlak biak ndang, gep gan urang, jang o anit,,   106. ina anit di ber [bél] mboh mbaok, ataong truh talaok, rup kau kayua,,   107. Cam saong Bani sa aia, sa-ai saong gila, praong anit ra-nam,,   108. Cam saong Bani ké kan, mu sa karan, aia sa balaok,, [67]   109. balaok lan kau blei di Laow, blei mai ricaow, Cam saong Bani,,   110. kau nao brei [blei] bi-ar phok ngaok, mak mbut pataok, wak ariya,,   111. matai nai kau cuh ka, kau wak ariya, piéh ka ra gleng,,   112. pajaih nai pajaih ciim heng, cakak ciim pa-ndam, rep céng hagar,,   113. pajaih nai pajaih bi tel, rep ceng hagar, sang suer pataih,,  
0 Rating 356 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On July 23, 2015
Written by Abd Karim Hi?n nay, trong làng ng??i Ch?m còn l?u gi? nhi?u b?n "Ariya Glang Anak". Tuy nhiên, các b?n v?n này ph?n nhi?u là s? sao chép qua l?i, không có s? sai bi?t l?n, nên không th? g?i là d? b?n. Thí d? nh?, trong s?u t?p c?a Thành Ph?n có ít nh?t 3 b?n Ariya Glang Anak, mang mã s? : TP. N° 223 trang 1-35; TP. N° 349 trang 1-73; TP N° 340 trang 3-137. ? Vi?n Vi?n ?ông Bác C? Pháp (EFEO) c?ng có ít nh?t c?ng 4 b?n Ariya Glang Anak d??i các mã s? : CAM 137 (4), CAM 149 (5), CAM MICRO 18 (1), CHCPI 1 và nh?ng b?n này ?ã ???c ??a vào th? m?c «Catologue des manuscrits cam des bibliothèques francaises» EFEO xu?t b?n, n?m 1977.   B?n Ariya Glang Anak ???c chúng tôi mang ra gi?i thi?u d??i ?ây là b?n c?a CHCPI 1. B?n này ???c các ông Ja Mata Harei, Ja Yaparang, Luw Kuang Thrang, Lam Ya Tin, Thuan Weng Nien sao l?i vào n?m 1968 khi h? ?ang làm vi?c hay có m?t ? Trung Tâm V?n Hóa Chàm Phan Rang.   Ariya Glang Anak, m?t tuy?t tác v?n h?c và là m?t v?n ki?n l?ch s? quan tr?ng c?a dân t?c Ch?m vi?t vào ngày th? Sáu, mùng m??i, tháng hai, n?m Mùi, t?c là n?m Ât V? 1835 theo nh? câu 82 c?a Ariya Glang Anak «Kami sarak di dalam ariya, nasak pabaiy bulan dua sa pluh bingun Suk tanyruah», t?c là n?m cu?i cùng c?a chi?n tranh ??ng kh?i d??i s? ch? ??o c?a Ja Thak Wa ch?ng l?i quân xâm l?ng c?a tri?u ?ình Hu?.   Tác ph?m v?n h?c b?ng th? này, tuy ch? kho?ng 120 câu, nh?ng ??y ?p các tri?t lu?n v? cu?c s?ng, nhi?u áng v?n mang tính kinh ?i?n c?ng nh? s? thâm sâu c?a các ngôn t? ???c s? d?ng. Ariya Glang Anak còn là m?t thi ph?m ?? ra cho ng??i Ch?m m?t "sinh l?" trong ?i?u ki?n h? không còn l?i thoát tr??c s? tiêu di?t tàn b?o c?a ?oàn quân Minh M?ng sau ngày Champa m?t n??c vào 1832 và sau cu?c cách m?ng ??ng kh?i c?a Ja Thak Wa vào n?m 1834-1835, th?t b?i.   M?t ?i?u ??c bi?t khác, là so v?i các tác ph?m có m?t trong kho tàng v?n h?c Ch?m, Ariya Glang Anak là tác ph?m gây ra nhi?u s? ng? nh?n. S? ng? nh?n này không gi?i h?n trong qu?n chúng bình dân Ch?m, mà ngay c? v?i các v? ???c cho là uyên thâm ngôn ng? Ch?m, nh? : L?u Quí Tân, «C? th? Ch?m», trong Ph? Thông. Thiên Sanh C?nh «Tiên ?oán» trong N?i San Panrang, s? 1, 1972, trang 13-14, và v.v… khi các v? này hi?u ??n thu?n t? "glang anak" trong tiêu ?? thi ph?m có ngh?a là "tiên ?oán", ??ng th?i xem nó là m?t t?p s?m kí, trong khi ?ó t? "glang anak" ? ?ây, có ngh?a là "nhìn v? phía tr??c" hay v?i ngh?a r?ng và hàm ý h?n là "tìm m?t sinh l?".   N?i dung s? l??c   Ariya Glang Anak ?úc k?t l?i các di?n bi?n th?i cu?c c?a m?t v? lão thành ng??i Ch?m, tr??c hoàn c?nh ??t n??c Champa b? ??i Vi?t (Vi?t Nam) thôn tính và b? tàn phá d??i th?i Minh M?ng vào nh?ng n?m 1832-1835. V? lão thành này ( tác gi? Ariya Glang Anak ) ?ã cho th?y nh?ng s? ho?ng lo?n, n?i khi?p s? c?ng nh? s? xáo tr?n c?a xã h?i ng??i Ch?m khi quân gi?c kéo vào gi?t chóc, ??t phá h?u h?t các làng m?c c?a dân t?c này. Quân xâm l??c ngay t?c kh?c xô ?? n?n t?ng xã h?i Champa. Làm cho giá tr? luân lý ??o ??c nhanh chóng xu?ng c?p, lòng ng??i tr? nên nham hi?m khó dò, lòng ganh ghét l?n át tính khoan dung, s? h?n thù d?y lên tràn ng?p, cái ác l?n chi?m cái thi?n, và c?ng ??ng ng??i Ch?m chìm h?n vào trong ?êm t?i. Quân xâm l??c c?ng ?ã bày ra m?t xã h?i m?i trên ??ng hoang tàn này. Nh?ng ng??i có n?ng l?c, có hi?u bi?t và ??c ?? ???c coi là r??ng c?t c?a ??t n??c thì b? quân gi?c v?t ra rìa, b? k?t án, tù ?ày hay b? kh?ng ch?, ch? nh?ng k? phàm phu t?c t?, ??ng hèn, không bi?t gì h?n ngoài s? xu n?nh, ch?y theo chân gi?c, thì ???c quân gi?c dùng ?? c?t nh?c lên tr? thành quan quy?n, có d?p ng?i trên, ??ng lên ?è ??u c?i c? nhân dân. T?t nhiên, nh?ng ph?n t? này ch? là công c? ?? cho quân xâm l??c sai khi?n. Do v?y, mà xã h?i Ch?m tr? nên t?i t? h?n. Trong c?n bão lo?n và trong ?êm t?i c?a dân t?c Ch?m, Ariya Glang Anak c? g?ng phát th?o m?t sinh l?, và ??a nó ra nh? m?t cái phao hay ?óm l?a soi ???ng cho ng??i Ch?m còn s?ng sót bám l?y, ?? cho h? kh?i chìm h?n hay m?t d?ng trong ?êm t?i.     ?o?n ??u Ariya Glang Anak     Phiên âm   Trong ph?n phiên âm c?a tác ph?m này, chúng tôi s? d?ng h? th?ng phiên âm La Tinh qu?c t? c?a Vi?n Vi?n ?ông Pháp. ??c gi? nên l?u ý cách phát âm c?a m?t s? ph? âm và nguyên nh? sau : Nd = nduec (ch?y), ndom (nói) Mb = mbeng (?n), mboh (th?y) Nj = njep (ph?i), njuh (c?i) Â = t??ng ???ng v?i ? c?a ti?ng Vi?t, nh? hâ (nó), jiâ (thu?) O = t??ng ???ng v?i ô c?a ti?ng Vi?t, nh? oh (không có), hadom (bao nhiêu) Aow = t??ng ???ng v?i o c?a ti?ng Vi?t, nh? pataow (ch? d?n), tanaow (??c)   Chú thích   Ch? n?m trong d?u ngo?c […] là t? mà ng??i Ch?m th??ng dùng hôm nay. S? n?m trong […] là s? trang c?a tác ph?m Akhar Thranh.   B?n phiên âm Ariya Gleng Anak   1. Gleng anak linyaiy likuk jang oh hu, Bhian drep ngap ralo, pieh hapak khin ka thraong,,   2. Panrang Kraong Parik Pajai halei gilaong, Kiem basei khin ka raong, kacuec tabiak jieng darah,,   3. Gram saravan duis di hagait blaoh o thah, Mbai tabuh di grep narah, tagrang ka-ndaong pak halei,,   4. Tel thun nathak athaih nan ra brei, Apuei kadhir mbeng palei, nager chai drut merai,,   5. Deng di pur khin mbeng parabat o ka ra mai, Nâh gep blaoh pabrai, menyum tathik khin ka thu,,   6. Balan tajuh Lengka merai sumu, Klaw pakal merai saong nyu, Kawei angan bhum Kawei,,   7. Grum menyi klaw yawa tathrot di drei, Praittik jang megei, tajot sala jang tatuen,,   8. Ra caik tapeng cataik taduk luai phun, Kaing agha pieh tanan, palai pajaih aia urang,,   9. Ra caik ulik daok pakhik phun darang, Di grep tapien ra pawang, pa-mbuk pajaih nan ka drei,,   10. Grum menyi riyak tathrot kayuw megei,             Sa-ai o krân ka adei, mik o krân lac kamuen,, [2]   11. Mboh mabai saong janâk dom di on,             Dhar phuen calah caluen, ra mâk di drei nao dahluw,,   12. Pak aia nan ra brei marai pathuw,             Pa-ndep tanâh dak batuw, jhak hapak duen pataom,,   13. Jhak dahlaw siam hadei nan methraong,             Menyum tathik tabeng saong kraong, o thei ra mai ngap di drei,,   14. Dat [< adat] kayuw phun hapak jruh tanan,    O ken jruh pak biken, drei tacei wek ka drei,,   15.            duissak ké pep di thei,             ndem saong gep blaoh kakei, methuw khin nduec duah pajeng,,   16. ra brei ralo lac takik mbeng oh tel, kheng hadom lac liman, trei hadom lac lipa,,   17.  dalam o dreh norapat sa kaya, Urang bihuh bihah biha, bihi takeng hu abih,,   18.            mbeng athar aik talang pa-abih,             duen pa-mbuk nda ka jrih, palai lihik di urang,,   19.            hajieng ngap di lin ginreh pabi-ndang,             di grep tapien ra pawang, halei nager drei khin nao,,   20.            kheng di lot dahlaw liman hadei kubaw,             praong pran kheng di nao, blaoh liphuai sakasan,,   21.            daok di lot yuw ra nao di danal,             binyuel hawing mai wer, ka-njung dalam lo ra-ong,, [3]   22.            gram narah laik karam yuw khin ndong,             apuei ngah yuw khin bhong, tani ra lac yuw tani,,   23.            an di mbeng mbrai akam memâh tali,             kahlaom meyaom lac bingi, bibak janâk ka mang njep,,   24.            krung di grep rai dahlaw urang padep,             drei ginaong mbuah gep, ra pa-on haniim ka drei,,   25.            ew padaong di krâh melam ngan harei,             mbuah kar lo ka thei, tathrât mehu lo mang kal,,   26.            klak taba on ka mbak siam ahar,             mboh riyak coh mang kal, dom bi biak lac mekrâ,,   27.            bilan sa pluh nathak athaih nan mang hu,             apuei tiah krung mang Cru, cuh janâk mbeng batuw,,   28.            yah biak athar thibar o thei ra thuw,             di grep narah mai payuw, di sakaray jang oh hu,,   29.            ra mâk hadam pa-ndik limân duah magru,             ra mâk athuw khin ka hu, pa-ndik rimaong duah amal,,   30.            ra mâk takuh pa-ndik caguer duah bariyar,             ra mâk bata ngap saban, ka araok daok ba-ndang,,   31.            dalam nager Sri Banây ita karang,             ralo sup jaik li-mbang, ralo melam jaik hadah,, [4]   32.            juk hajan sup lingik yuw khin drah,             khin lam apuei sak narah, di Prangdarang drei ta ni,,   33.            danuh abih sa manga di lok kani,             patao kuyuw ngan nabi, krâm hawei hala kuyuw,,   34.            abih pakar jang hadai deng pathuw,             di lok ni drei oh thuw, thei mai lac saong drei,,   35.            mbuah kar haduis rup min likei,             daok gi-ndeng juai brei, hanuk yawa urang gi-naong,,   36.            di lok ni hu hajan hu khaong,             hu kanu hu dhaong, hu pa-ndiak hu li-an,,   37.            siam dahlaw jhak hadei dom di ken,             ralo pa-ndiak pakik li-an, ralo janâk pakik haniim,,   38.            hamit grum klaw yawa dih pur,             di lok kani thuw khin on, drei urang set hatai,,   39.            mboh ra ndik janâk patih tabiak marai,             ra deng di lamnga Pajai, di bhum Patih drei tak ni,,   40.            kunal di tian ndom bi biak urang tanyi,             ka dahlaw mai yuw ni, di grep narah mai kanal,,   41.            sa mbeng siam saong jhak jang yuw nan,             juai pachom lac tel, abih jeh ra brei pathuw,,   42.            abih phun dom rai janâk oh thaw,             yah ka-mlah puec bi yuw, panuec nan biruw ma siam,, [5]   43.            asit praong likei kumei drei urang,             puec siber khin ka siam, juai bilei yuw mang kal,,   44.            dom jhak ra kaoh pa-mbuk rabuw awan,             ra pawait di riim pakal, jet gila ra brei pathaw,,   45.            kahlaom di lot dunya ew likuw,             likei kumei lijang buw, tuk halei jang oh wer,,   46.            mabai janâk ké mboh dreh tak nan,             sa paceng nan mang tel, hajieng oh puec praong hatai,,   47.            daok di lot krân ka lot ni hai,             juai puec tuei hatai, pagep pakrâ teng tabeng,,   48.            juai mboh siam ahar ranak khin mbeng,             jama-o tian tateng, dalok tabiak ken khin duen,,   49.            juai megru tasep hatai ndom kaphuer,             caik di tian dom bi aen, oh njep urang tel kaya,,   50.            magru panuec thattiak baik ita,             siam ramiik jhak caga, paceng janâk mang anak,,   51.            yang bita supit sumat threh tabiak,             oh kakei lac ngap, janâk haniim wek ka drei,,   52.            praong di lot pak pakal [< pakar] wey likei,             ngap oh thah gem di drei, o thuw ka hagait pak pakal [< pakar],, [6]   53.            po pajieng sa rathuk tajuh awan,             mbak taba mathem yaman, Débita séh maleng,,   54.            hamiit danây apuei kadhir srok khin mbeng,             di parabat khin karem, di jallidi khin hakaoh,,   55.            di grep tapien ra pawang daok blaoh,             khin thac tathik pahakaoh, da-ndep kawek sa paceng,,   56.            narah ita dakik siam ralo habeng,             praong akaok kieng di mbeng, kasal kalik mang set hatai,,   57.            dalam ralo janak saong mabai,             haniim ayuh jang oh hai, nâm angan lijang oh hu,,   58.            rai drei sapajieng rei saong nyu,             ralo ginaong puec oh hu, ra brei janak mai ka drei,,   59.            hajieng mabaoh blaoh libuah jruh ndei,             kayua duis mang halei, pieh wek ka ita,,   60.            krung ra lac tathik darak cuah liga,             padeh tak nan ân ka, juai bilei ka urang,,   61.            mah likam laik tama oh sak karang,             ndong tagok matâh karam, blaoh oh hu thei ra thuw,,   62.            uken basei haban tamrak ngan batuw,             thattiak athar gihlaw, mang tathit kal merai,,   63.            daok sa drei sa nager di krâh hanrai,             di krâh tasik cuah hajai, halei nager drei sa thuw,, [7]   64.            daok tabur khan aw pataih li-uw,             ba alin thei oh thuw, ra pambuk pieh tak nan,,   65.            ra brei janâk parabha gep bitel,             ka-nda drei mbuah kar, lac oh mboh hagait di kuw,,   66.            sa manga di lot ni ew likuw,             ra pa-on drei dahlaw, sumu saong tian drei takrâ,,   67.            habien drei lac mbeng thruk mahu,             bibak janâk khin ka hu, mang mboh urang khin pajieng,,   68.            daok di lot bi ligaih juai peng,             panuec kadha waiy weng, tian hacih nan mang siam,,   69.            kumi panah di manes blaoh akhan,             ka sa rabang pak pakal [< pakar], di dalam rup ita,,   70.            supit sumat subik saong Yang Bita,             âng ka thah sa-ai kacua, âng jet nan adei,,   71.            sa nager nan tabiak mang halei,             ra nâh tabiak ew karei, pak pakal [< pakar] bhum hapak,,   72            thei urang khik tanan ndom bi biak,             apan panuec thattiak, hu haniim min likei,,   73.            yah meset pasumu tian drei,             graing také hu rei, kasal kalik hu bila,, [8]   74.            nan jeh ra lac drei tel kaya,             oh thei puec hu tra, urang plaih jeh di drei,,   75.            mabai janâk nao hapak gam di drei,             ukan merai mang halei, daok dalam rup ita,,   76.            sa pakal [< pakar] ghak abih grep aia,             jhak hadom pataba, ginaong sibar ra pasiam,,   77.            juai puec yuw urang nao di ngaok rabang,             mebuk mata hawing hawang, yer tangin o krân hapak,,   78.            praong di lot ni ra lac yang pa-ndiak,             angin gilaoh mai macuak, taginâm sup lingik,,   79.            di lot ni praong yaom aia tathik,             ra ngap kapar [< kapal] blaoh ndik, také di ngaok dalah riyak,,   80.            dunya maong tak nan siam saong jhak,             meset mejii mak klak, likuw haniim baik likei,,
0 Rating 253 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On July 23, 2015
Written by Po Dharma & Abd. Karim Ariya Sep Sah Sakei (tr??ng ca Sep Sah Sakei) m
0 Rating 156 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On July 17, 2015
T?p chí V?n hóa Dân t?c, s? 1, 1994. Trong dòng v?n ch??ng tr? tình, ba tác ph?m Ariya Bini – Cham, Ariya Cham – Bini, và Ariya Xah Pakei là ba thi ph?m ?ã xác l?p th? ??ng c?a mình trong d? lu?n qu?n chúng Ch?m. Th? nh?ng, tác ph?m dài h?n c?, và theo chúng tôi có giá tr? h?n c? l?i là tác ph?m ít ???c ph? bi?n nh?t: Ariya Bini – Cham.Tác ph?m có l? ???c sáng tác vào kho?ng th? k? XVIII. Các s? ki?n và nhân v?t l?ch s? th?i Po Rome nh? Bia Ut (công chúa Ng?c Khoa), Xah Bin (m?t v? t??ng c?a Po Rome), Bal Debare (th? ?ô Champa ? Chung M?) ???c ghi nh?n ch?ng t? tác ph?m ra ??i sau th?i Po Rome (1651), th?i v??ng qu?c Champa lóe sáng m?t l?n cu?i cùng ?? r?i d?n d?n hòa nh?p vào l?ch s? Vi?t Nam.??ng v? khía c?nh thu?n v?n h?c, trong l?ch s? v?n h?c Ch?m, Ariya Bini – Cham ?ã ?óng m?t vai trò quy?t ??nh. Th? th? ???c s? d?ng trong thi ph?m này ?ã t?o m?t ti?n ?? quan tr?ng cho s? phát tri?n cho th? th? l?c bát Ch?m. Nó ?ã b??c ra kh?i c?n nhà truy?n th?ng ?? ?i sang ngôi nhà hi?n ??i. Chính hành ??ng “?i” này, m?t ngh? thu?t m?i ?ang hình thành, và nó ?ã thành t?u n?i Ariya Bini – Cham, ?ã t?o m?t hi?n t??ng ??c ?áo. Có m?t không hai trong n?n v?n h?c Ch?m(1).Ngay c? l?i c?u trúc tác ph?m c?ng là m?t hi?n t??ng vô ti?n khoáng h?u.Qua cu?c tình m?t chi?u c?a m?t hoàng thân Ch?m v?i m?t nàng công chúa Islam ??n t? M?kah (La Mecque), nhà th? ??a chúng ta ?i d?c su?t gi?i ??t mi?n duyên h?i nh? h?p, ?au kh? và huy?n bí; mi?n ??t g?n 17 th? k? v??ng qu?c Champa ng? tr?. T? Har?k Kah Har?k Dhei (Qu?ng Bình) ??n Bicham (MaLâm) qua các kinh ?ô c? kính: Sriban?y (Bình ??nh) Hanguv (Qu?ng Nam) Hangwei (Qu?ng Ngãi) Bal Huh Bal Lai (Tuy Hòa), các kinh thành ?? nát: Debare (Chung M?) Nha Trang…; các di tích l?ch s? ghi d?u m?t th?i: Tháp Po Klaung Garay, Tháp Po Dam, núi Po Nai…” theo d?u chân voi c?a nàng công chúa Bini và d?u chân ng?a c?a Hoàng thân Ch?m ???c khút x? qua l?ng kính kí ?c c?a anh chàng si tình ?ang tuy?t v?ng, nên th?i gian và không gian hoàn toàn b? ??o l?n. ?ây là m?t nét ??c ?áo khác c?a thi ph?m.Th?i gian và không gian l??t qua nhanh, nhanh nh? k?p cho chàng ?au kh?, nhanh ??n ng? ngàng: Nai mai m?ng M?kahBlauh takai nai d?h Har?k Kah Har?k DheiNai nau t?l PajaiM?ng l?mng? Pajai nai jauh akauk s?ngDarak dih pur wang t?lRiyak har har gilai nai lay?m thiapW?y gilai rayar lay?m thiapGilai yung ralap kr?h bathak jallidiKaung ba nai m?l?ng bimiNau lihik di m?ta ch?k sucarEm ??n t? La MecqueR?i em d?ng chân n?i núi Har?k Kah Har?k DheiEm v? t?i MaLâmT? Malâm c?ng em tr? v? quê h??ngBi?n ?ông ch?p chùngSóng rì r?m ??y cánh bu?m em ?i xa?i cánh bu?m m? xa!Cánh bu?m nh? cánh m?i gi?a trùng d??ngCánh bu?m mang ng??i tình ??p xinh?i khu?t kh?i t?m nhìn x? s? Chàng ?ã m?t nàng th?t s? r?i. Chàng ?ang ng?i m?t mình gi?a bãi bi?n v?ng l?nh. Tr??c m?t là trùng kh?i v?i b?t sóng tr?ng xóa. Sau l?ng là núi r?ng ?ang tr?i lên khúc nh?c bu?n. Ngày ?ang t?t. Và ánh tr?ng ?ã nhô lên t? phía chân tr?i.Than ai rabbah ke tavak takai naiQuê h??ng ?au kh? khôn c?m b??c em Ngh? th?, chàng th?n th? lên ???ng tr? v?. Ng?a ??a chàng tr? v? Bal Chaung – quê chàng. ??n ?ây c?u trúc c?a tác ph?m ?ã d?i bình di?n: t? th?c t?i sang kí ?c-h?i t??ng.Chính t? n?i quê nhà, v? hoàng thân Ch?m m?i có d?p h?i t??ng l?i (h?n ba ph?n t? tác ph?m) chàng ?ã theo ?u?i nàng công chúa xa l? ?y nh? th? nào, ?ã ôm ?p trong vòng tay t?m thân ng?c ngà c?a ng??i con gái ?y nh? th? nào, và ?ã ph?i ?au kh? nh? th? nào khi ph?i ch?ng ki?n nh?ng c?nh n?i da xáo th?t gi?a hai tôn giáo c?a dân t?c trong su?t ch?ng ???ng ?i d?c mi?n ??t quê h??ng. ?? ??n lúc này, chàng m?i khám phá ra r?ng mình v?a ?ánh m?t t?t c?: b?n bè, cha m?, ng??i tình, và l?n h?n c? – T? Qu?c: Kuv yuv urang lihik phikAbih tam? sang m?gik gilac duh bimong yangTan?h riya kuv PangdarangCalah gr?p jalan dhwan bol bhap uranamKuv dauk hagait dalam tanginYaum sa drei chiim p?r tam? praittikTa nh? k? m?t h?nH?t vào thánh ???ng l?i lên ??i thápPangdarang ôi ??t n??cTan nát rã r?i con dân l?u l?cKh?p ph??ng tr?iTa còn gì trong tayM?t con chim cô ??n bay vào v? tr? M?t con chim cô ??n v?i trái tim r?m máu ?ã hát lên nh?ng khúc yêu th??ng. Con chim ch?t ?i nh?ng ti?ng hát còn l?a l?i v?i m?t d? âm tr?m bu?n tr?i dài, tr?m bu?n nh? khi nó b?t ??u, r?i xuyên su?t thi ph?m ?? cu?i cùng chín r?ng ? câu sau cùng: M?t con chim cô ??n bay vào v? tr?.?ây là m?t cu?c tình l?n và m?t t?m lòng l?n. Thi ph?m mang ch?a nh?ng y?u t? nhân b?n và có m?t giá tr? l?ch s? nh?t ??nh. Riêng v? m?t v?n ch??ng, nó ph?i ???c ??t hàng ??u. Ti?c r?ng, Ariya Bini – Cham nay ?ã th?t l?c. Thi ph?m ???c nh?c ??n trong qu?n chúng Ch?m nh? là m?t huy?n tho?i h?n là m?t th?c t?. Ng??i ta nói ??n nó, bi?t là tác ph?m ?ã xu?t hi?n, nh?ng không ai bi?t là ng??i nào ?ang s? h?u nó c?(2).Nh? v?y, b?n ph?n c?a chúng ta hôm nay là ph?i ?i tìm nó, nh? là tìm Cái ??p, ??p khu v??n v?n h?c Ch?m nói riêng và c? n?n v?n h?c Vi?t Nam nói chung v?y.Sài Gòn, tháng 9-1993.________ Chú thích(1) Xem V?n h?c Ch?m, Inrasara, s?p xu?t b?n.(2) Ng??i vi?t r?t may m?n ???c ??c thi ph?m này t? b?n chép tay c?a c? Thang Ti?ng (M? nghi?p) ghi n?m 1903.Thi ph?m dài 1.300 câu ??n, nh?ng lúc này b?n th?o ?ã b? th?t l?c và ng??i vi?t ch? còn gi? 700 câu. Ph?n gi?a c?a thi ph?m ch? y?u mô t? c?nh ??p thiên nhiên c?a ??t n??c thì ?ã m?t. R?t mong r?ng, khi bài vi?t này ra ??i, s? có ??c gi? quan tâm ??n v?n h?c Ch?m ?ang gi? thi ph?m trong tay, công b? nó trong m?t t? li?u riêng, hay tr?c ti?p biên th? cho ng??i vi?t, h?u h?t v?n h?c Ch?m không b? m?t ?i m?t viên ng?c quý v?y. theo Inrasara.com
0 Rating 217 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On July 16, 2015
Giếng vuông Chăm. Hình ảnh người dân tộc quấn xà rông hay mặc váy trên những chuyến xe đò dọc ngang, xuôi ngược khắp Bắc - Trung - Nam, hoặc ngồi chồm hổm các chợ vỉa hè với giỏ xách đầy vải vóc hay thuốc nam dân tộc, đã trở thành quen thuộc trong mắt mọi người. Đó là người dân tộc Chăm với “những cuộc ra đi” của họ. Ra đi, từ Chăm Ninh Thuận cho đến Chăm An Giang. Từ xa thẳm lịch sử dân tộc cho mãi tận hôm nay. Chăm là dân tộc phiêu lưu theo nghĩa mạnh nhất của từ này. Ngay khi thành lập vương quốc vào thế kỷ thứ II sau Công nguyên, và suốt 17 thế kỷ tồn tại, dân tộc Chăm đã ghi được bao nhiêu là Guinness độc đáo, lẫm liệt! Đầu thế kỷ thứ V, sử sách ghi nhận, Địch Chấn tức Gangaraja, là con Phạm Hồ Đật sau vài năm trị vì, nhường ngôi lại cho người cháu, để sang Ấn Độ. Đây là vị vua duy nhất của Đông Nam Á thuộc Ấn Độ giáo đã vượt đại dương sang bờ sông Hằng. Từ đó tạo tiền đề cho bao cuộc ra đi khác. Với rất nhiều mục đích khác. Theo nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Liễn, vở kịch “Long vương” của Champa lúc ấy có tên Lâm Ấp lưu lạc đến Nhật Bản, được người Nhật trích dịch chọn một phần dựng thành điệu múa “Long vương vũ”. Các học giả Nhật Bản thẩm định rằng: Điệu La Lăng vương không phải từ Trung Hoa truyền đến mà là nhạc của nước Lâm Ấp” (“Điệu múa Chăm lưu lạc trên đất Nhật”, Tagalau 9). Riêng kiến trúc và điêu khắc, người Chăm đã biết thâu thái từ nền kiến trúc của các nước láng giềng: Thái Lan, Khmer, Java, Indonesia… để sáng tạo nên nền kiến trúc kỳ vĩ của mình với rất nhiều phong cách khác nhau. Không có những cuộc ra đi, thì sẽ không làm được bao công trình bất hủ kia. Và, nếu không có những cuộc ra đi, thì người Chăm sẽ không làm nên nền kinh tế thị trường hàng đầu Đông Nam Á thời xưa ấy. Hình ảnh bà con Chăm ngồi chồm hổm chợ chiều hôm nay không gì khác hơn là phái sinh của cuộc thiên di buôn bán truyền đời từ ông bà. Những cuộc đi, xuyên đại dương, vượt lục địa để buôn bán, và buôn toàn mặt hàng “độc”. “Cù Lao Chàm với vị thế thuận lợi của mình đã vươn lên thành thương cảng số một của vương quốc Champa… Trên quãng đường dài từ Kra Isthmus (nam Thái Lan) đến Canton (Quảng Châu) chỉ có một trạm dừng chân duy nhất là Chiêm cảng - Cù lao Chàm, nơi có thể nghỉ ngơi, tích trữ lương thảo, nước ngọt và buôn bán, trao đổi hàng hóa... trước khi giong buồm thẳng sang Trung Quốc. Thư tịch cổ của người Ả Rập thế kỷ IX cho biết những thuyền buôn từ Tây Á sang Trung Quốc và ngược lại, thường ghé qua Cù Lao Chàm của Champa để lấy nước ngọt và trầm hương” (Lâm Thị Mỹ Dung, “Cù Lao Chàm, chiều dày lịch sử và văn hóa”, vntimes.com.vn, 1-2012). Giếng vuông Chăm xây bằng gạch từng có mặt dọc miền duyên hải suốt dải đất miền Trung. Giếng nằm sát bờ biển, và người Chăm biết cách tìm nguồn nước không bao giờ cạn. Họ khai thác tối đa nguồn tài nguyên vô tận đó để bán cho thương nhân và đoàn thuyền đi qua vương quốc. Bên cạnh nước ngọt là trầm hương. Thứ thì hiếm thành quý, thứ thì vô cùng nhiều nhưng vẫn cứ… quý, mới lạ. G. Maspéro trong công trình Vương quốc Champa (Paris, 1928) ghi nhận: “vì người Champa có lợi trong việc buôn bán với Trung Quốc, năm 1438 ông lại phải gửi sứ bộ sang nhà Minh”. Sứ bộ ấy phải là nhà ngoại giao cỡ bự - ngoại trưởng phụ trách kinh tế, có thể nói thế. “vua Trung Quốc tặng ngựa cho vua Champa. Và khi người Champa học được cách dùng ngựa vào trận chiến, vua Champa tìm mọi cách để mua cho kì được ngựa của Tàu, mặc dù ở đây ngựa là mặt hàng cấm xuất khẩu… người Chăm thuần voi để chuyên chở và chiến đấu. Ngà voi là thứ hàng buôn bán quan trọng; tê giác lại càng quan trọng hơn vì mang lại nhiều lợi nhuận hơn”. Ông còn cho biết, lúc đó vương quốc Champa có chức quan “gọi là Seih Es-Suq, tức là “Tổng đại biểu của thị trường”, có Naqib giúp việc. Với “thủ lĩnh nội địa” đó, các phú thương do buôn bán mà giàu có, đã chiếm địa vị ưu thế: tên tuổi họ được khắc trên các bi ký”. Tổng đại biểu của thị trường thì có khác gì chức Bộ trưởng Kinh tế thời hiện đại đâu. Thường thì người ta khắc lên bi ký tên tuổi tiến sĩ hay các vị khoa bảng triều đình, ai lại khắc tên doanh nhân?! Vậy mà ông bà Chăm đã làm, và làm từ rất sớm. Người phụ nữ Chăm với vật dụng đội đầu có tên là Ciêt (đựng bánh trái, thuốc). Ảnh: KIỀU MAILY Sở hữu chiều dài bờ biển với thương cảng tấp nập tàu ngoại quốc ra vào, các vương triều Champa đã xây dựng cơ cấu kinh tế đất nước dựa trên thương mại biển thuộc hàng đầu trong khu vực. Thế nhưng không phải vì thế mà ông bà chừa món “thương mại đất liền”.   Tạ Chí Đại Trường cho biết “Một tướng của Nguyễn Nộn là “phiên” Ma Lôi từng đi buôn bán xa, tận Ai Lao” (“Tù binh Chàm, Lực lượng sản xuất riêng biệt của Lý”, Hopluu.net, 26-10-2008). Ma Lôi thuộc sắc dân Chàm, lại là Chăm trong đoàn tù binh của nhà Lý! Tù binh mà đã thế, nếu đang là công dân tự do tại quê nhà thì họ còn tung hoành dọc ngang thế nào nữa. Giai thoại còn cho rằng, địa danh “Ô Chợ Dừa” ở Hà Nội hôm nay có nguồn gốc từ Chăm. Tù binh Chăm ra Bắc, mong nguôi nỗi nhớ quê hương, đã mang dừa từ Quảng Nam, Bình Định ra Bắc trồng. Trồng và đem đi bán. Họ lập nên chợ - Ô Chợ Dừa - để bán dừa.    Nghĩa là, người Chăm đi đến đâu buôn bán ở đó. Xưa đã vậy, nay chẳng có chi khác. Chăm vẫn tiếp nhận truyền thống ấy, chưa bao giờ gọi là đứt mạch. Làng khuất hay phố xa từ Bắc chí Nam, dân Pabblap - Ninh Thuận đều rành. Sau  năm 1975, bà con vào Sài Gòn lập cả khu phố Chăm ở đường Hùng Vương. Sau đó, Đồng Nai, Trà Vinh, Đà Nẵng hay tận Bắc Giang… xuất hiện khu phố Chăm. Loại khu phố tạm bợ, như thể địa điểm tập kết, để bà con có điểm đi và chốn về. Dân Cakleng - Mỹ Nghiệp, tỉnh Ninh Thuận đội giỏ thổ cẩm vào tận Phan Rí, Ma Lâm bán. Hơn thế, bà con còn quẩy gánh tìm lên đất Tây Nguyên đi Churu, xưa gọi là đi buôn Thượng. Đó là vào những năm 60 của thế kỷ trước, đường sá hiểm trở với phương tiện giao thông thô sơ, các chú các bác đã phải trèo đèo lội suối, vào các buôn palei xa xôi và lạ lẫm nhất, để bán. Không ít người đã “hy sinh” tính mạng: Nau ikak nau kaiy mưtai yer laiy tuh thraiy ka gơp: Đi bán đi buôn, chết thẳng cẳng đổ nợ cho họ hàng. Vậy mà cứ đi. Đầu thập niên 70, bà con Chăm tiếp tục tìm vào trong “Sở Mỹ” ở sân bay Thành Sơn hay Cam Ranh, để bán thổ cẩm. Rồi khi đất nước mở cửa, hàng thổ cẩm cũng kịp tràn ngập thành phố Hồ Chí Minh, Đà Lạt, Hà Nội… Dân An Giang còn hơn thế, không những anh chị em có mặt khắp đất nước Việt Nam thôi, mà còn mở chuyến đi sang cả Campuchia, Thái Lan, Trung Quốc buôn bán. Mà hành trang của những chuyến đi ấy có nhiều nhặn gì cho cam! Vốn nhỏ, đến đâu bà con linh hoạt đến đấy. Không vấn đề gì cả. Câu hỏi đặt ra, tại sao cộng đồng Chăm hiện nay không có người giàu? Tỷ phú hay triệu phú, từ buôn bán? Suốt dòng lịch sử xa xưa ấy, đã xuất hiện tỷ phú Chăm chưa, không thấy sách vở ghi, nên ta không biết được. Dẫu sao, với chức quan Seih Es-Suq “Bộ trưởng Kinh tế” khi ấy, thì không thể không có. Còn hôm nay, tại sao không? Dù người Chăm chưa bao giờ thiếu máu buôn bán. Không thiếu, nếu không muốn nói là thừa thãi. Thừa, đến nỗi trường ca triết lý nổi tiếng nhất trong kho tàng văn chương cổ điển, tác giả đã ban cho nó cái tên rất kỳ lạ: Thơ đi buôn Ariya nau ikak. Chính điểm này mang đến cho độc giả câu trả lời khả dĩ nhất, có lẽ! Ariya Nau Ikak Thơ Đi Buôn (Inrasara, Văn học Chăm khái luận, NXB Tri thức, 2011) xem cuộc sống như là một chuyến buôn, một cư ngụ tạm bợ. Trần gian là cõi tạm cho lữ khách dừng chân trong chốc lát rồi phải ra đi biền biệt. Đây không phải là quê tôi, quê tôi là nơi khác kia. Vậy tôi làm giàu mà làm gì kia chứ? Chuyến buôn khởi thủy không vốn nên đừng mong có lãi ở chung cuộc. Là nhà buôn, bạn sẽ trở về lúc nào không biết, nhưng chắc chắn là trở về. Vậy hãy vui vẻ lên đường, vẫy tay giã từ trần-gian-quán-trọ, từ biệt người lạ người thân. Lên đường nhẹ nhõm, không tiếc nuối, không lo nghĩ cho trần gian. Câu cuối cùng của thi phẩm: Kuw nau sang kuw min juk phikKlauh thun ikak sang thei thei wơkTa về cố quận tình ơiCuộc buôn đã mãn, nhà ai nấy về. Văn chương bác học đã vậy, dân gian cũng chẳng khác là bao.  Bởi “Mưtai o thei ba drơp twei: Chết thì không ai mang của cải theo cả”, cho nên, người Chăm không đặt nặng ở việc làm giàu. Buôn, mà không muốn làm giàu, nghe nghịch lý làm sao ấy. Nhưng đó lại là điều thật. Bởi với Chăm, buôn bán không gì khác là chuyến phiêu lưu, “những cuộc ra đi” dài để rồi khi, “cuộc buôn đã mãn, nhà ai nấy về”. Vĩnh viễn.    INRASARA theo Baodanang.vn
0 Rating 174 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On March 28, 2015
Khik Sap Ndom Saong Wak Akhar Thrah Cam Jasakavi Urang taha hu lac “Panuec ndom Cam daok yau tanâh aia Cam daok”. Haber panuec urang taha ndom yau nan? Sap puec panuec ndom ngap yau suan thep bengsa Campa. Sap amaik manâk drei nao tel halei drei lijang seng anâk Cam nan rei. Mayah hu sa urang lingiw ngap yau Yuen, Laow tanyi drei lac “sa-ai thau ndom thau wak akhar Cam halei? Drei lac haber ni! Apakar ni ngap ka dahlak sanâng biak drut druai di hatai baoh kayua anâk Cam lihik aia hadom ratuh thun tapa ngap ka anak Cam wer akhar tapuk. Urak ni anâk Cam drei di hu hagait tra o. Sap ndom jaik si lihik abih. Hadom anâk Cam harei ni ndom tablak ralo panuec Yuen saong sap ndom urang lingiw. Karei di nan wek takik lo anâk Cam drei thau wak akhar Cam. Gruk ni hadom urang Cam hu bac da-a thau akhar tapuk njep sanâng kahria nyaom gep biai wek. Marat hatai ngap sa jalan mâng kal marai. Ong akaok muk kei drei ndom saong wak akhar tapuk yau halei, anâk tacaow hadei ni ngap tuei yau krung nao baik. Hu yau nan ka anâk Cam drei njep gep, pan tangin gep, blaoh ba gep nao sa jalan tapak ka hadom anâk Cam daok dalam aia jang ngap yau pak aia lingiw. -----------***------------ Jasakavi K[` S$ OV. Os= w` aK^ RTH c  ur) th\ h\U l! “pnW-! OV, c, Od_` yU- tnIH aY\ c, Od_`”;; hb-^ pnW-! ur) th\ OV, yU- N#;; S$ pW-! pnW-! OV, Q$ yU- SW-# T-$ b-) S\ c,f\;; S$ aEm` mnI` Rd] On_ t-& hl] Rd] l[j) S-) an` c, N# r];; myH h\U s\ ur) l[q[* Q$ yU- yW-#; Ol_* tz{ Rd] l! “SEA TU- w` aK^ c, hl]” Rd] l! hb-^ n{;; a\pkr n{ Q$ k\ dhL` SnI) bY` RdU@ ERdW d{ hEt Ob_H ky\W anI` c, l[h[` aY\ hOd, rtUH TU# tp\ Q$ k\ an` c, w-& aK^ tpU`;; ur` n{ anI` c, Rd] d{ h\U hEg@ Rt\ o;; S$ OV, Ej` s{ l[h[` ab[H;; hOd, an` c, hr] n{ OV, tbL` rOl\ pnW-! yW-# Os= S$ OV, ur) l[q[*;; kr] d{ N# w-` tk[` Ol\ anI` c, Rd] TU- w` aK^ c,;; RgU` n{ hOd, ur) c, h\U b! da\ TU- aK^ tpU` x-$ SnI) kRhY\ Oz+ g-$ EbY w-`;; mr@ hEt Q$ s\ jl# m) k& mEr;; o) aOk_` mU` k] Rd] OV, Os= w` aK^ tpU` yU- hl]; an` tOc_* hd] n{ Q$ yU- RkU~ On_ Eb`;; hU\ yU- N# k\ an` c, Rd] x-$ g-$; p# tq[# g-$; ObL_H b\ g-$ On_ s\ jl# tp` k\ hOd+ an` c, Od_` dl, aY\ j) Q$ yU- p` aY\ l[q[*;;    
0 Rating 525 views 1 like 0 Comments
Read more
By: On March 15, 2015
Madeh Hatai Indrapura Chau Dahlak hu sa dalukal ni kieng kalak wek saong mik wa peng aiek yaom. Kadha ni ngap ka dahlak caik di dalam hatai tel harei ni. Hadei di graduat (graduate) sang bac highschool, dahlak jang yau hadom ayut dam dara daok dalam palei tabiak nao magru di sang bac university pak Bai-gaor (Saigon). Tel bulan Ramavan marai, dahlak da-a hadom anâk saih ayut Yuen daok bac saong gep pieh marai riwang palei dahlak. Hadom anâk saih ayut Yuen jang kieng thau, kieng aiek anâk Cam yau haber, khan aw, anguei Cam cuk yau halei jang ngap yau adat ca-mbat Cam Awal rei. Blaoh di nan, khaol dahlak jak gep marai mbeng harei Muk Kei. Biruw di trun radéh yam takai tamâ palei, khaol dahlak talak mboh hu paning panuec (banner) wak mâng akhar Thrah praong biak praong tuer di angaok mbeng jang palei (gate of village). Mboh hadom akhar wak hagait blaoh karei lo nan, hadom ayut Yuen mâng ta-nyi dahlak “sa-ai ley, akhar hagait wak di angaok nan?”, dahlak mang akhan lac, “nan ye akhar Cam”. Blaoh di nan, sa urang ayut karei ta-nyi dahlak wek “Sa-ai thau puec halei?”, dahlak lac “Sa-ai di thau puec o”. Tuk nan dahlak mâng dah mata thau ka rup drei pataok akhar Cam ngap ka hadom urang Yuen klao balei gah likuk. Apakar di harei nan ngap ka dahlak malau, pa-ndik pa-ndua di hatai. Hadei mâng nan, dahlak mâk gruk nan marai sanâng wek, ralo anâk saih Cam nao bac glaong akhar tapuk urang li-ngiw, mayai ndom yaih rup lac drei ni “ngaon” min di hu thau puec akhar Cam drei o! Ndom Cam maluk Yuen biak ralo blaoh lac drei ni “ngaon” wek! Mayah drei ni di hu bac magru akhar Cam drei o, ngap haber drei si thau! Tanâh aia Campa drei lihik biak, min sap puec panuec ndom, akhar wak drei di hu thei paoh blah o. Yau panuec Cam drei hu pa-ndit lac:  “Pataok danaok alah, krah danaok tarieng”. Kaoh mâng harei nan, dahlak khaom bac, ramik tuk wak pieh magru akhar Cam. Harei ni hu hadom adei sa-ai pacheh gep wak akhar Cam ngap ka dahlak hader wek hadom gruk tapa mâng dahlau. Dalukal dahlak taluic pak ni, tadhuw ayuh mik wa kajap karo, kheng kadeng.  -------***------- md-H hEt dhL` h\U s\ dlUk& n{ kY-) kl` w-` Os= m[` w\ p-) aY-` Oy+ ; kD\ n{ Q$ k\ dhL` Ec` d{ dl, hEt t-& hr] n{;; hd] d{ RgdW@ s) b! highschooldhL` j) y-U hOd, ayU@ d, dr\ Od_` dl, pl] tbY` On_ mRg\U d{ s) b! university p` EbOg_^;;  t-& bUl# rmw# mEr; dhL` da\ hOd, an` EsH ayU@ yW-# Od_` b! Os= g-$ pY-H MEr r[w-) pl] dhL`; hOd, an` EsH ayU@ yW-# j) kY-) T-U kY-) aY-` an` c. y-U hb-^ ;K# a*; aqW] cU` c. y-U hl] j) Q$ y-U ad@ cv@ c. aw& r];; ObL_H d{ N# OK_& dhL` j` g-$ mEr v-) hr] mU` k];; b[rU* d{ RtU# rd-H y, tEk tmI\ pl]; OK_& dhL` tl` OvH h\U pn[~ pnW-! w` m-) aK^ RTH ORp= bY` ORp= tW-^ d{ aOq_` v-) j) pl];; OvH hOd, aK^ w` hEg@ ObL_H kr] Ol\ N#;; hOd, ayU@ yW-# m-) tz{ dhL` “SEA l-% aK^ hEg@ w` d{ aOq_` N#”  dhL` m-) aK# l! “N# y| aK^ c.” ; ObL_H d{ N# s\ ur) ayU@ kr] tz{ dhL` w-` “SEA T-U pW-! hl]” dhL` l! “SEA d{ T-U pW-! o” ;; tU` N# dhL` m-) dH mt\ T-U k\ rU$ Rd] pOt_` aK^ c. Q$ k\ hOd, ur) yW-# OkL_ bl] gH l[kU`;; a\pk^ d{ hr] N# Q$ k\ dhL` ml-U ; pV[` pV\W d{ hEt ; hd] m-) N# dhL` m` RgU` N# MEr SnI) w-`; rOl\ ur) an` ESH c. On_ b! OgL= aK^ tpU` ur) l[q[*; m-Ey OV, EyH rU$ l! Rd] n{ “Oq_#” m[# d{ h\U T-U pW-! aK^ c. Rd] o;; OV, c. mlU` yW-# bY` rOl\ ObL_H l! Rd] n{ “Oq_#” w-`;; myH Rd] d{ h\U b! mRg\U aK^ c. Rd] o; Q$ hb-^ Rd] s{ TU-;; tnH aY\ cf\, Rd] l[h[` bY` m[# S$ pW-! pnW-! OV,; aK^ w` Rd] h\U T] Op_H bLH o; y-U pnW-! c. Rd] hU\ pV[@ l!: “pOt_` dOn_` alH; RkH dOn_` trY-)”;; Ok_H m-) hr] N#dhL` OK+ b! ; rm[` tU` w` pY-H mRg\U aK^ c.;; hr] n{ hU\ hOd, ad] SEA pC-H g-$ w` aK^ c. Q$ k\ dhL` hd-^ w-` hOd, RgU` tp\ m-) dhL-U ;; dlUk& dhL` tlW[! p` n{ ; tDU* ayUH m[` w\ kj$ kOr\ ; K-) kd-);;  
0 Rating 427 views 2 likes 0 Comments
Read more
By: On March 12, 2015
 Putra Po Dam GI?I THI?U PO KLAONG KASAT Po Klaong Kasat là v? th?n linh ???c tôn kính trong c?ng ??ng ng??i Ch?m ? khu v?c Panduranga, ti?u v??ng qu?c n?m ? c?c nam c?a v??ng qu?c Champa x?a.  Po Klaong Kasat có 3 ??n th? ph??ng t?i ba ??a ?i?m khác nhau, nh?ng ??n chính hi?n nay t?i palei Aia Mamih (thôn Bình Minh, xã Phan Hòa, huy?n B?c Bình, t?nh Bình Thu?n). ??n th? x?a kia t?a l?c trên dãy núi "Cek Glang" n?m trên v? trí d?c núi, hi?m tr? cách trung tâm xã Phan Hòa kho?ng 5 km v? phía Tây. Vì ngôi ??n ? trên núi cao hi?m tr?, ng??i dân ??a ph??ng di d?i ngôi ??n xu?ng c?nh chân núi ? "Cek Glang" ?? ti?n vi?c th? cúng ngài. Chính n?i ?ây ?ã t?ng nh?n 8 s?c phong c?a các tri?u ??i Nhà Nguy?n t? th?i vua Gia Long ??n vua Kh?i ??nh. ??n n?m 1972, ?? thu?n l?i cho vi?c th? cúng, ng??i dân xã Phan Hòa, Phan Hi?p, m?t l?n n?a xin phép th?n linh, di d?i ??n Po Klaong Kasat v? ngay t?i ??ng cát bên c?nh làng Palei Aia Mamih ngày nay. Theo truy?n thuy?t, ngài Po Klaong Kasat là nhân v?t có công khai phá ??t ?ai, d?n th?y nh?p ?i?n, canh nông lúa n??c mang l?i ??i s?ng ?m no cho th?n dân Champa. Chính vì vai trò ?ó, ng??i Ch?m ? Panduranga ?ã l?p ??n ?? th? cúng và t??ng nh? ??n công lao c?a Ngài. Các l? cúng m? c?a ??n và l? h?i c?u m?a ???c t? ch?c ? ??n Po Klaong Kasat còn l?u gi? cho ??n ngày nay là m?t minh ch?ng th? hi?n tín ng??ng dân gian còn l?u l?i. T? s? tôn kính này, c?ng ??ng ng??i Ch?m ?ã thiêng hóa ngài Po Klaong Kasat nh? m?t v? th?n anh linh t?o ra m?a thu?n gió hòa, mùa màng b?i thu, dân lành ???c ?m no, h?nh phúc. Trong các th?i k? tr? vì c?a các tri?u ??i nhà Nguy?n, v? th?n Po Klaong Kasat ?ã ???c nh?n phong t?ng 8 s?c phong (Gia Long: 1, Minh M?ng: 1, T? ??c: 2, Thi?u Tr?: 2, Duy Tân: 1, Kh?i ??nh: 1). Các s?c phong này v?n ???c l?u gi? c?n th?n ?? làm c? li?u liên quan ??n v? th?n Po Klaong Kasat, hi?n v?t này không ch? là c? li?u quý hi?m liên quan ??n m?t nhân v?t l?ch s? trong c?ng ??ng ng??i Ch?m mà còn tr? thành các hi?n v?t thiêng khi ti?n hành các nghi l? liên quan ??n Ngài. ?ây là n?i dung b?n d?ch s?c phong c?a các vua tri?u Nguy?n ban t?ng cho Po Klaong Kasat do nhóm B?o tàng Hà N?i chuy?n ng? t? ti?ng Hán sang ti?ng Vi?t. 1. S?C K? SÁT PHAN D??NG TH?N (1820 – 1840) Ngài “K? Sát Phan D??ng” có công có ??c vang ti?ng kh?p n?i nên ai c?ng ph?i ph?ng th?. Th? T? Cao Hoàng nh?t bi?n v?i ??t li?n g?p Ngài r?t m?ng vì ???c h?p l?c cùng m? r?ng, h?ng ?? t? ?ó Ngài ???c n?i ti?ng ti?ng t?t nên ???c da t?ng “Quang Di?u Chi Th?n” (Quán xuy?n soi sáng kh?p trong dân ?? giúp ?? b?o v? dân). Và c?ng truy?n Huy?n Hòa ?a, Xã Minh M?, ph?ng th? th?n gi? y c? l? s? ???c b?o h? an dân r?t t?t. Vua Minh M?ng Nam th? 21, tháng 9, ngày mùng 6 (1840). 2. S?C QUANG DI?U K? SÁT PHAN D??NG TH?N (1840 – 1847) V? th?n có công quán xuy?n kh?p m?i n?i lo gìn gi? n??c giúp ai có lòng t??ng ni?m r?t linh ?ng theo s? c?u. T?ng s?c c?ng do công ph?ng s? Vua Minh M?ng th? 21 n?m th?i Thánh T? Nh?n hoàng ?? t?i v? s?c ch? trong di?p l? ng? tu?n ??i khánh ti?t. N?i theo vi?c t?t ???c Vua phong t?ng ghi công ?? d??ng trong các k? l?. Ng??i m?u m?c ???c tôn là v? Th?n nên ???c t?ng thêm danh hi?u “Quang Di?u Linh Chánh Chi Th?n” truy?n ch?. Huy?n Hòa ?a, xã Minh M? ph?ng th? y theo c? l? thì s? ???c Th?n b?o h? dân r?t t?t. Vua Thi?u Tr? n?m th? 3, tháng 8, ngày 13 (1843) 3. S?C QUANG DI?U CHÁNH K? SÁT PHAN D??NG TH?N (1843) B?o v? ??t n??c, giúp ?? an dân, nên t??ng ni?m trong nh?ng k? ti?t l? ?ã ??nh. T?ng s?c cho ph?ng th? theo s? nguy?n. Ng??i g??ng m?u nên ph?ng th? t??ng ni?m ?? ghi ân và ???c t?ng thêm “Quang Di?u Linh Chánh ?ôn ?át Chi Th?n” ngoài vi?c quán xuy?n ch?m lo coi sóc cho dân, Ngài còn có lòng th??ng yêu dân t?ng thêm 2 ch? “?ôn ?át” và cùng truy?n cho Huy?n Hòa ?a, xã Minh M?, y theo n? n?p c? ph?ng th? cúng t? ?úng k? s? ???c b?o h? an dân r?t t?t. Vua Thi?u Tr? n?m th? 3, tháng 9 ngày 21 (1843) 4. S?C K? SÁT PHAN D??NG TH?N (1847 – 1883) V? th?n hi?u: k? Sát Phong D??ng ???c t?ng “Quang Di?u Linh Chánh ?ôn Thu?n” vì Ngài quán xuy?n coi sóc trong dân gi? lòng trung chính v?i trên hòa di?u v?i d??i lo ch?m sóc cho dân nên ???c thêm 2 ch? “??n Thu?n” c?ng m?t lòng lo gi? n??c giúp lo cho dân ai t? lòng thành kính c?ng ???c ?áp ?ng theo s? nguy?n. T?ng s?c cho ph?ng th? theo t?c l? và nguy?n v?ng Do tính cách m?n cán, m?u m?c nên ???c t?ng thêm “Quang Di?u Linh Chánh ?ôn Thu?n, ?oan Túc Chi Th?n” C?ng truy?n Huy?n Hòa ?a, xã Minh M? ph?ng th? ?? c?u Th?n b?o h? dân chúng. Vua T? ??c, n?m th? 3, tháng 11, ngày mùng 8 (1850) 5. S?C CH? T?NH BÌNH THU?N, huy?n Hòa ?a, xã Minh M? ph?ng th? Th?n “Quang Di?u Linh Chánh, ?ôn ?át, ?oan Túc k? Sát Phan D??ng Th?n” nh? l? ?ã phân theo các s?c tr??c. (1847 – 1883) (Quang Di?u Linh Chánh, ?ôn ?át, ?oan Túc) (Quán xuy?n lo ch?m sóc cho dân nghiêm minh, chánh tr?c, v?a bi?t cung kính b? trên và xót th??ng ng??i d??i) S?c phong v? ?ã ph?ng s? Vua T? ??c 31 n?m, coi gi? vi?c chánh tr? trong dòng t?c 50 n?m và ch?m lo các ??i l? m?ng theo l? th??ng n?m ?ã d?nh. Ng??i s?t s?ng n?i ti?p vi?c t?t nên ???c bi?u d??ng trong các l? và ???c ph?ng th? cúng t? trong ngày qu?c khánh. Vua T? ??c, n?m 33, tháng 11, ngày 14 (1880) 6. S?C “QUANG DI?U LINH CHÁNH, ?ÔN ?ÁT, ?oan Túc k? Sát Phan D??ng Th?n, Chi Th?n” t? tr??c ??n nay luôn trách nhi?m gi? n??c giúp dân nên t? lòng kính thành, kính t??ng ni?m r?t linh ?ng. (1885 – 1888). T?ng s?c ?? l?u th? ph?ng cúng theo s? nguy?n c?a dân. Ng??i tr?n ??i trung chính, b?o h? dân trùng hung cho n??c nên ???c t?ng thêm 4 ch? “ D?c B?o Trung H?ng” Nh?ng c?ng truy?n huy?n Hòa ?a, xã Minh M? gi? vi?c ph?ng th? cúng t? ?úng y l? s? ???c Th?n b?o h? dân chúng r?t t?t. Vua ??ng Khánh n?m th? 2,tháng 7, ngày mùng 1 (1887) 7. S?C CH? T?NH BÌNH THU?N , huy?n Hòa ?a, xã Minh M? ph?ng th? Th?n “Quang Di?u Linh Chánh, ?ôn ?át, ?oan Túc, D?c B?o Trung H?ng k? Sát Phan D??ng Th?n” nh? ?ã phân và gi? l? theo các s?c tr??c. (Duy ch? thêm 4 ch? “D?c b?o Trung H?ng” có ngh?a “gánh vác trách nhi?m b?o v? tr?ng h?ng ??t n??c”). (1907 – 1916). S?c phong v? ?ã ph?ng s? vua Duy Tân n?m ??u và có công ph? qu?ng ch?m lo các cu?c ??i l? và cùng n?i ti?p các vi?c t?t nh? ch?m lo cho dân nên ???c bi?u d??ng và ph?ng th? cúng t? nêu danh trong ngày qu?c khánh. Vua Duy Tân, n?m th? 3, tháng 8, ngày 11 (1910) 8. S?C CH? T?NH BÌNH THU?N, huy?n Phan Lý Th?, xã Minh M? ph?ng th? “ K? Sát Phan D??ng Th?n Tôn Th?n” nguyên ???c t?ng “Quang Di?u Linh Chánh ?ôn Tín (siêng n?ng, tin t??ng) ?oan Túc (ngây th?ng, nghiêm ngh?) D?c B?o Trung H?ng Tôn Th?n” gi? n??c giúp dân, nên t??ng ni?m cúng t? nh? tr??c. (1916 -1925) ???c truy?n xu?ng v?i các s?c phong ?ã có công ph?ng s? “D??ng Kim d? nhi?m v? chánh tr? trong t?c và ch?m lo 40 n?m ??i khánh l? và có công là ng??i n?i ti?p vi?c t?t ???c bi?u d??ng trong các cu?c l?, nên ???c t?ng thêm “Linh To?i trung ??ng Th?n” (ti?n lên b?t trung ??ng) truy?n ph?ng th? nên danh ch?c trong ngày qu?c l? r?t nên. Vua Kh?i ??nh n?m th? 9, tháng 7, ngày 25 (1925) ------------------------ Hình d??i ?ây theo th? t?: Minh M?nh m?t s?c phong (2 hình) Thi?u Tr? hai s?c phong (4 hình) T? ??c hai s?c phong (2 hình) ??ng Khánh m?t s?c phong (2 hình) Duy Tân m?t s?c phong (2 hình) Kh?i ??nh m?t s?c phong (2 hình)       source: facebook.com
0 Rating 317 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On March 11, 2015
Ariya Hatai Paran Hadas Ka Lok   Thanh Phu Ba Panuec akhan:          Liwik, liwik puec wek ariya Cam, mboh padrut padruai dalam hatai. Sanâng tel ra taha mâng kal déh biak glaong illimo, gleng mboh dahlau ka dom gruk ga-ndi kadha tamuh tagok sa bla di grep bhum palei Cam harei ni. Blaoh di nan panâh jieng Ariya tuer tabiak ka bhap bini thau pieh khik ramik. Hu ralo ariya ndom ka Campa lihik aia, blaoh anâk Cam laik tamâ janâk kho ra-mbah. Ong kei jang oh wer adan yah saong anak tacaow juai ac hatai, marat khik hai drep ar, nâm mâk muk kei.  Dalam kadha ni dahlak likau nâh ba tabiak sa pet (paragraph) ariya “Hatai Paran Hadas Ka Lok” pieh ka mikwa puec yaom blaoh tabur sanâng.  Ariya :              Panâh mâleng di dalam ariya,  Panuec mâng ra taha, Po gru tuek tabiak  Nâm mâk po nabi patrun sarak,  Payua wek khik ngap, adat ca-mbat po nabi.  Dalam tapuk sak karay, sak kawi  Adat ca-mbat Cam Bani, Ahier Awal.  Khik kahria ngap bingun ngan klem,  Juai luai pamâjrem, khik hai ka paran.  Basaih adhia nan gah bimong yang,  Imâm katip gru acar nan gah sang magik.  Po nabi parabha mâng liwik,  Adat ca-mbat mâtuaw mânrik ka dua gru khik anguei.  Juai klak padanan wan juai,  Tadhiai bibiak di ca-mbuai, tana rakun mâng liwik. Pajai Mâli Kraong Panrang ngan Parik, Bani sa baoh sang magik, Cam sa baoh mânraong mânrac. Basaih adhia, Imâm katip gru lac, Agal tapuk khik bac, juai luai pamâjua. Mâng kal dahlau, Cam hu patao bia, Krâh anuec Norapa (king), plek likuk klak paran. Adat ca-mbat mâda thun mâda karang, Cam Bani lihik paran, dom di ndua janâk ra-mbah. Nde phun kayau riya, libuh talah, Taklok agha blaoh libuah, lihik abih jeh angan. O thau ka rai halei wek tabem, Tamuh wek jieng phun, lah than pamâkei   (Daok Wek) ---------***------------ ar[y hEt pr# hd( k Ol` Thanh Phu Ba  l[w[` , l[w[` pW-! w-` ar[y c. , OvH pRdU@ pERdW dl. hEt ; snI~ t-& r th mI~ k& Od-H bY` OgL= ilL[Om , gL-) OvH dhL-U k Od. RgU` gV[ kD tmUH tOg` s bLd{ Rg-$ B.U pl] c. hr] n{ ; ObL_H d{ n# pnIH jY-~ ar[y tW-^ tbY` k B$ b[n{ T-U pY-H K[` rm[` ; hU rOl ar[y OV. k c.p l[h[` aY , ObL_H anI` c. El` tmI jnI` OK rvH ; o) k] j) oH w-^ ad# yH Os= an` tOc_* EjW a! hEt , mr@ K[` Eh Rd-$ a^ , n.I mI` mU` k] ; dl. kD n{ dhL` l[k-U nIH b tbY` s p-@ (paragraph) ar[y “hatai pr# hd( k lok” pY-H k m[`w pW-! Oy+ ObL_H tbU^ snI~ ; ar[y :  pnIH mIl-) d{ dl. ar[y , pnW-! mI~ r th , Op RgU tW-` tbY`  n.I mI` Of- nb{ pRtU# sr` , pyW w-` K[` q$ , ad@ cv@ Of- nb{ ; dl. tpU` s` kr% , s` kw[  ad@ cv@ c. bn[ , ahY-^ aw& ; K[` kRhY q$ b[qU# q# kL< , EjW ElW pmIRj< , K[` Eh k pr# ; bEsH aDY n# gH b[Om~ y) , im.I kt[$ RgU ac^ n# gH s) mg[` ; Op nb{ prB mI~ l[w[` , ad@ cv@ mItW* mIRn[` k dW RgU K[` aqW] ; EjW kL` pdn# w# EjW , tadhiai b[bY` d{ cEvW , tn rkU# mI~ l[w[` ; pEj mIl{ ORk= pRn) q# pr[` , bn[ s Ob_H s) mg[` , c. s Ob_H  mIORn= mIRn! ; bEsH aDY , im.I kt[$ RgU l! , ag& tpU` K[` b! , EjW ElW pmIjW ; mI~ k& dhL-U , c. hU pOt_ bY , RkIH anW-! Onrp ( k{~ ) , pL-` l[kU` kL` pr# ; ad@ cv@ mId TU# mId kr) , c. bn[ l[h[` pr# , Od. d{ VW jnI` rvH ; V- PU# ky-U r[y , l[bUH tlH , tOkL` aG ObL_H l[bWH , l[h[` ab[H j-H aq# ; o T-U k Er hl] w-` tb< , tmUH w-` jY-~ PU# , lH T# pmIk]  ( Od_` w-` )
0 Rating 581 views 3 likes 0 Comments
Read more
By: On February 28, 2015
Cei Balaok La-u, m?t truy?n c? Ch?m Written by Abd. Karim  Cei Balaok La-u (Hoàng t? s? d?a) là chuy?n c? tích c?a dân t?c Ch?m vi?t b?ng Akhar Thrah do ông A. Landes s?u t?m, hi?n còn l?u tr? trong th? vi?n EFEO (Vi?n Vi?n ?ông Pháp), mang ký hi?u CAMPA 22, kh? 210 x 320 cm, dày 256 trang. Theo ông A. Landes, chuy?n c? tích này vi?t vào n?m 1885 t?i Sài Gòn b?i c?ng tác viên c?a ông E. Aymonier (t?c là thân ph? c?a ông B? Thu?n). Cei Balaok La-u (Hoàng t? s? d?a) dài 77 trang, chi?m t? trang 1 ??n trang 77 c?a chuy?n c? tích này. Phiên âm Ph??ng pháp phiên âm c?a tác ph?m này d?a vào h? th?ng phiên âm La Tinh qu?c t? c?a Vi?n Vi?n ?ông Pháp. ??c gi? nên l?u ý cách phát âm c?a m?t s? ph? âm và nguyên nh? sau : Nd = nduec (ch?y), ndom (nói) Mb = mbeng (?n), mboh (th?y) Nj = njep (ph?i), njuh (c?i) Â = t??ng ???ng v?i ? c?a ti?ng Vi?t, nh? hâ (nó), jiâ (thu?) O = t??ng ???ng v?i ô c?a ti?ng Vi?t, nh? oh (không có), hadom (bao nhiêu) Aow = t??ng ???ng v?i o c?a ti?ng Vi?t, nh? pataow (ch? d?n), tanaow (??c) Chú thích Ch? n?m trong d?u ngo?c […] là t? mà ng??i Ch?m th??ng dùng hôm nay. S? n?m trong […] là s? trang c?a tác ph?m Akhar Thranh.  Trang ??u c?a Dalukal Cei Balaok La-u B?n phiên âm Ni dalukal ka Cei Balaok La-u mada tak di kal nan sa ong sa tacaow kathaot ra-mbah min, nan mang dua ong tacaow nan nao mak njuh ba lasei nan sa ciet aia nan sa kadaoh tra amra sa mbaik pajieng ngaok radaih, blaoh truak nao mak njuk [njuh] pak ngaok ralong, nao tel ngaok ralong ong tacaow huak mbeng blaoh nao mak njuh tel krâh paniak [pa-ndiak] mahu aia nan mang tacaow nan nao duah aia manyum nao mboh aia tamuh di krâh tali bak sa tali [2], baruw tacaow nan manyum blaoh nyu manei, nan mang nyu wek marai anyan [akhan] saong ong nan baruw mang ong nan panar [pa-ndar] tacaow nan ba nao pataow aia nan ka ong nan kieng manyum, nan mang tacaow nan ba pataow nao mboh aia di tali nan thu wek abih, baruw mang ong nan tangi tacaow nan lac habar lac blaoh mboh dom nam bathah di tali ni blaoh o mboh aia o, baruw mang tacaow nan lac wek lac mang karni dahlak mboh aia thraiy tali dahlak manyum thrup mahu blaoh dahlak manei bak drei bak jan habar kac arak ni blaoh aia thu abih caik, ong nan mahu aia di thau [3] labik kieng ngap habar o, nan mang ong nan panar [pa-ndar] tacaow nan rawak njuh marai pajieng blaoh truak radaih nao sang, baruw mang tacaow nan daok di sang yaom tajuh harei gan blaoh matian je, nan mang dom po ganuer lang saom praong anaih dalam palei mak ong saong muk nan, lac habar tacaow ong su muk nan tian blaoh o mboh pasang o, nan mang ong saong muk lac dahlak lakau nem [ndem] wek saong po ganuer lang saom halei tacaow dahlak mang anaih ne [nde] ni di hu thau nem [ndem] pakrâ klao saong thei o tacaow dahlak tak di kal nyu tuei ong nyu nao mak njuh pak ngaok [4] ralong blaoh tacaow dahlak mahu aia blaoh nyu nao [duah] aia manyum nyu nao mboh aia tamuk [tamuh] di krâh tali blaoh nyu manyum saong nyu manei blaoh nyu marai anyan [akhan] saong ong nyu blaoh ong nyu panar [pa-ndar] nyu ba ong nyu nao manyum, nan mang nyu ba nao manyum mboh aia di tali nan thu wek abih blaoh dua ong tacaow pajieng njuh wek marai sang je, mada tacaow dahlak matian kayua manyum aia di tali nan min, nan lang saom po ganuer urang di mak ong saong muk tra o, baruw mang tacaow nan matian dalapan balan nih [ndih] di apuei anâk lakei wil jieng [5] blaok la-u mada harei mada praong tel tijuh balan thau nem [ndem] bak taom thun thau nuec [nduec] ma-in rah takai glai bak klau thun thau gleng pabaiy, nan nyu mai mang gleng pabaiy nyu panar [pa-ndar] maik nyu pa-apah nyu di patao ka nyu kieng gleng kubaw patao nan mang maik nyu lac wek, lac hâ tangin takai o hu dom di galung nao galung mai yau nan, gleng pabaiy tok klau drei pabaiy min maik daok ka-uk huec na [nda] ka lahik min blaoh anâk panar [pa-ndar] maik pa-apah anâk di patao ka anâk kieng gleng kubaw patao habar kac kieng [6] klah di lahik, kabaw urang ralé [ralo] yau ndan [nan], maik nyu di pa-apah nyu o nyu di peng o sa dua nyu panar [pa-ndar] maik nyu nao puec saong patao bi hu ka nyu je, ndan [nan] mang maik nyu ciip nao puec saong patao ka nyu je, baruw mang maik nyu nao puec saong patao, maik nyu nao tel pabah mbeng jang patao blaoh athau graoh, ndan [nan] mang panraong iw panraong hanuk ew tangi, lac thei marai blaoh athau graoh, ndan [nan] mang maik Balaok La-u lac dahlak min, baruw pa-nraong iw pa-nraong hanuk tangi lac mai hatao bien ni, ndan [nan] mang maik Balaok La-u lac dahlak marai puec saong [7] po ganreh patrai mada anâk dahlak ja Balaok La-u panar [pa-ndar] dahlak mai puec papah [pa-apah] nyu di po ganreh patrai ka nyu kieng gleng kubaw po ganreh patrai baruw mang pa-nraong iw pa-nraong hanuk tama nao pathau patao, lac kana dhul palak takai mah ganreh patrai mada panuec maik Balaok La-u marai puec kubaw po ganreh patrai ka anâk nyu gleng, ndan [nan] mang patao panar [pa-ndar] pa-nraong iw pa-nraong hanuk ew Balaok La-u saong maik ja Balaok La-u marai, baruw mang pa-nraong iw pa-nraong hanuk ew maik Balaok La-u saong Balaok La-u marai [8] baruw mang maik Balaok La-u ja Balaok La-u marai, ndan [nan] mang tangi lac maik ja Balaok La-u ba ja Balaok La-u mai hatao, ndan [nan] meng maik Balaok La-u lac kana dhul palak takai mah po mada anâk dahlak ja Balaok La-u panar [pa-ndar] dahlak marai pa-apah nyu ka nyu kieng gleng kubaw po ndan [nan] mang patao nan lac wek lac kubaw kau klau pluh urang baol blaoh gleng di kajap o di klah di lahik o, kubaw tel klau ratuh taman, blaoh ja Balaok La-u gleng habar kieng ka kajap, baruw mang patao ew ja balaok la-u marai tangi lac kubaw kau tel klau ratuh taman [9] hâ gleng di kajap o na [nda] nan mang ja Balaok La-u lac dahlak gleng kajap min, baruw mang patao lac wek saong maik ja Balaok La-u lac yah yau ndan [nan] je ja Balaok La-u luai ka nyu daok wek pak ni paguh mang page [pagé] ka nyu nao gleng kabaw, maik Balaok La-u wek nao sang baik, ndan [nan] mang maik Balaok La-u wek nao sang, ja Balaok La-u daok wek saong patao tel hadah mang page [pagé] dom baol patao peh kabaw ka ja Balaok La-u nao gleng peh kabaw tabiak di war blaoh urang pok ja Balaok La-u craong ngaok raong kabaw balaoh urang tiap kabaw paralao nao ka nyu gleng [10] pak ngaok ralong dom baol patao tiap kabaw palao [paralao] tel ngaok ralong ka ja Balaok La-u blaoh wek marai sang blaoh nyu nem [ndem] saong gep nyu rah jalan mai lac dom pa-naok drei blaoh tiap kabaw paralao nao ka Balaok La-u gleng ndan [nan] ngap yau drei tiap kabaw nao palahik thaoh dom urang ndan [nan] nyu daok nem [ndem] saong gep nyu lac ja Balaok La-u gleng kabaw ndan [nan] di klah di lahik o, ndan [nan] mang tel jala praong ka-ndai [kanai] Taluic anâk patao ba lasei nao ka Balaok La-u nao mboh dom kabaw daok mbeng gul gep blaoh di mboh Balaok La-u o. ndan [nan] mang ndai [nai] Taluic ew, lac [11] Balaok La-u nao hatao balaoh o mboh o ya [yau] ni laiy. ndan [nan] mang Blaok La-u lac po blaoh Balaok La-u galung mai taom ndai [nai] Taluic blaoh mak lasei nao huak ndan [nan] mang ndai [nai] Taluic wek marai sang, tel bier harei Balaok La-u tiap kabaw marai sang blaoh Balaok La-u sait tagok daok ngaok raong kabaw blaoh tiap kabaw marai sang kabaw mboh abih di hu lahik sa drei halei o tal abih ndan [nan] mang patao nit [anit] dalam hatai sanang lac manuus [manuis] urang patao sa dapuel blaoh gleng kubaw ndan [nan] di kajap o blaoh arak ni ja Balaok La-u tangin o hu yah takai lijang o hu blaoh [12] nyu gleng kabaw ndan [nan] kajap caik mada dalam rup nyu habar e, ndan [nan] mang harei hadei panar [pa-ndar] ja Balaok La-u ba gam amra blaoh yah mboh haraik ndan [nan] ruuic [ruic] haraik blaoh gawang wak di dako [daké] kabaw ndan [nan] ba marai sang hai paga drei tayah paje ruic pataom sa harei sa dang jang hu sa harei 2 dang jang hu min mada harei mada drei ruic pataom patao kakei saong ja Balaok La-u yau ndan [nan], tel tuk halei urang peh kabaw ka Balaok La-u nao gleng ndan [nan] urang pok ja Balaok La-u craong ngaok raong kabaw saong mak amra craong ngaok raong kabaw saong Balaok La-u blaoh urang tiap kabaw [13] paralao nao ka Balaok La-u gleng je, ndan [nan] mang di harei ndan [nan] ndai [nai] Taluic ba lathei nao ka ja Balaok La-u blaoh ndai [nai] Taluic nao tel ca-maoh nyu gleng kabaw ndan [nan] blaoh ndai [nai] Taluic krak kieng gleng bani [ba-ndi] baniai Balaok La-u ruuic [ruic] haraik habar nda tangin o hu takai o hu, ndan [nan] mang ndai [nai] Taluic nao mboh Balaok La-u creng manuuis [manuis] urang baol bhap rabuw taman kuec ratuh hu madhir riya pabaiy pabuei manuk kanjaok athau graoh hamu saong sep rabap mari hagar cong [ceng] adaoh pamre ja Balaok La-u lakei kumei asit praong dam dara manâng nao duah ruic [14] haraik menang urang gleng kabaw, ndan [nan] mang ndai [nai] Taluic krak maong mboh bak mata bak adung, thau ka Balaok La-u ganreh blaoh ndai [nai] Taluic caik dalam tian di nem [ndem] tabiak ka urang thau o, ndan [nan] mang ndai [nai] Taluic ew ngap mengap duah nyu, ndai [nai] Taluic ew, lac mai mak lathei huak le ai Balaok La-u ley, ndan [nan] mang Balaok La-u panar [pa-ndar] dom manuus [manuis] urang baol bhap luak tama tanâh riya abih, ndan [nan] mang Balaok La-u galung mai taom ndai [nai] Taluic bloah mak lathei nao huak, ndan [nan] mang ndai [nai] Taluic wek marai sang blaoh patao tangi lac mu Taluic ba lathei sa mbeng ni habar blaoh jala lé [15] ndan [nan] mang ndai [nai] Taluic lac dahlak nao war glai jalan min po, ndan [nan] ndai [nai] Taluic puec pagat patao min ndai [nai] Taluic daok jala lo ndan [nan] k ayua daok krak aiek bani [ba-ndi] baniai Balaok La-u min, nan mang tel bier harei Blaok La-u tiap kabaw marai sang Balaok La-u crang wek nyu ew dom baol bhap manuus [manuis] urang tagok mang ala tanâh riya marai malieng kana nyu manang nao gawang haraik blaoh wak di dako [daké] kabaw manang nao tiap kabaw marai pataom gep manang urang daok melieng kana nyu, nan mang dom baol [16] bhap gawang haraih [haraik] blaoh wak di dako [daké] kabaw wak di grep drei kabaw blaoh nyu tiap kabaw paralao Blaok La-u marai mang tâh jalan blaoh Balaok La-u panan [pa-ndar] dom manuus [manuis] urang luak tama tanâh riya wek abih, ndan [nan] mang Blaok La-u tiap kabaw marai tel sang ndan [nan] patao dom di daok mayaom saong abih sa nagar lakei ngan kamei dam ngan dara asit praong mayaom Blaok La-u, patao ew dom baol marai hadei wak haraik di dako [daké] kabaw ndan [nan] nang [ndang] tajuh palei baol ndan [nan] mang wak haraik [17] di dako [daké] kabaw blaoh abih, wak haraik di grep drei kabaw blaoh pataom nang [ndang] sa pluh radaih haraik, ndan [nan] mang tel harei hadei Blaok La-u nao gleng kubaw blaoh ndai [nai] Taluic ba lathei wek sa mbeng tra blaoh ndai [nai] Taluic krak wek, ndan [nan] mboh Blaok La-u creng wek sa mbeng tra, ndan [nan] ndai [nai] Taluic mboh manuis urang lakei kamei dam dara bak mblang bak katang rabuw rabuw taman taman, daok malieng kana Blaok La-u, abih athur biep di glai kruk rasa liman kaok rimaong caguw saong abih mata cim di glai tiaong bayen amrak cagur mbaic katruw caraw tawait di dan di [18] dan lok ni marai kaong Blaok La-u makrâ di thuw labik kieng pagap o, hamu saong sac [sap] rabap mari ceng hagar sara-ndai [saranai] adaoh pamre Blaok Li-u, manuk ka-njaok athuw graoh ngap yau palei nagar urang pak ndan [nan], ndai [nai] Taluic nik [ndik] ngaok kuyau blaoh ndai [nai] Taluic daok maong, ndai [nai] Taluic di hu brei rup ndai [nai] Taluic ka Blaok La-u mboh o, ndai [nai] Taluic jaoh hala kayau jam rup wek, ndai [nai] Taluic maong mboh Blaok La-u kieng gleng, mayah ndai [nai] Taluic o nik [ndik] kayau blaoh maong o nan ndai [nai] Taluic maong di mboh Blaok La-u kieng gleng o, ndan [nan] mang ndai [nai] Taluic nik [ndik] ngaok kayau blaoh ndai [nai] Taluic daok gleng mboh Blaok [19] La-u tabiak di harum la-u siam likei di thau labik kieng pagap o, ganuh Blaok La-u tanyrak hadah siam lakei yau purami sa klam blaoh dom baol bhap daok ataong hagar ataong ceng auak rabap ayuk mari adaoh pamre blaoh kaong Blaok La-u taom dar rup Blaok La-u, halei Blaok La-u ndan [nan] nyu daok tapak krâh, ndan [nan] mang ndai [nai] Taluic maong mboh yau ndan [nan] blaoh ndai [nai] Taluic panyap [pakhap] dalam hatai di nem [ndem] tabiak o, ndan [nan] mang Blaok La-u hadar krung tuk bak jala bien ndan [nan] seng ndai [nai] Taluic ba lathei marai, ndai [nai] mang Blaok La-u panar [pa-ndar] dom baol bhap luak tama [20] tanâh riya wek abih Blaok La-u ndan [nan] di ka tama harum la-u wek o, ndan [nan] ndai [nai] Taluic maong mboh siam likei nei [ndei] ndai [nai] Taluic nyap [khap] di thau labik kieng ngap habar o, ndan [nan] mang ndai [nai] Taluic mboh lé [lo] paje blaoh ndai [nai] Taluic trun mang ngaok kuyau marai blaoh ndai [nai] Taluic ngap mengap ew, ndai [nai] Taluic lac ai Blaok La-u ley mai mak lathei nao huak, ndan [nan] mang Blaok La-u pleng kadeng plang kadang luak tama blaok la-u wek ndan [nan] mang Blaok La-u lakau marai taom ndai [nai] Taluic blaoh mak lathei, ndan [nan] mang Blaok La-u nem [ndem] saong n ndai [nai] Taluic lac ndai [nai] juai ew dahlak blaoh ew ai juai ndai [nai] dahlak ndan [nan] [21] anâk baol anâk bhap, ndai [nai] ew dahlak yau mang dahlau baik ew ban ja Blaok La-u ndan [nan] baik, ndan [nan] mang ndai [nai] Taluic nem [ndem] wek lac mang dahlau ndan [nan] dahlak di ka ranap [ra-ndap] saong ai Blaok La-u o hajiéng saong dahlak ew paja pa-ong ai, tel arak ni ai gleng kabaw ka dahlak tok sa drei ai blaoh sa dapuel kabaw dahlak blaoh ai ruic haraik ka dahlak, mang dahlau manuus [manuis] urang dahlak sa dapuel blaoh gleng kabaw blaoh di hu ruic haraik ba ka dahlak o tel arak ni sa drei ai blaoh gleng sa dapuel kabaw blaoh ai ruic gam haraik kac, dahlak mboh ai ciip ra-mbah ra-mbâp blaoh [22] gleng kabaw jua sa drei ai di ngaok ralong blaoh dahlak ba lathei mai ka ai sa drei dahlak, blaoh dahlak mai mboh ai Blaok La-u daok gleng kabaw jua sa drei ai di ngaok ralong, dahlak sanang pa-anit ai Blaok La-u hen di ai sa tian saong dahlak, ndan [nan] mang ai Balaok La-u lac wek lac dahlak di thau o yah ndai [nai] kieng ew ban jang dahlak o nyin [khin] lac habar mayah ndai [nai] kieng ew dahlak blaoh ndai [nai] ew ai lijang dahlak o nyin [khin] lac habar o rei, ndan [nan] mang ndai [nai] Taluic wek marai sang dalam tian ndai [nai] Taluic nyap [khap] di ai Balaok La-u di thau labik kieng ngap habar o, ndan [nan] mang [23] ndai [nai] Taluic maro [marai] tel sang nan aia harei gleh mang tel sang, baruw mang patao tangi, lac ma Taluic ba lathei sa mbeng ni habar blaoh suai lé [lo] tel bier harei mang mai tel sang, lijang ndai [nai] Taluic puec pagat patao lac nao war glai jalan ndan [nan] rei, ndan [nan] mang patao ew ma Tâh Tabha saong ma Kacua marai panar [pa-ndar] lac harei hadei ndan [nan] ma Tâh Tabha saong ma Kacua dua urang hâo [hâ] ba lathei nao ka Balaok La-u, ndan [nan] mang ma Kacua saong ma Tâh Tabha dua urang nyu lac di ba lathei ka Balaok La-u o luai ka ma Taluic ba lathei ka Balaok La-u baik, ma Tâh Tabha saong ma Taluic [ma Kacua] dua urang nyu lac nyu limuk di Balaok La-u lé [lo], [24] tangin o hu takai o hu dom di galung nao galung mai tablaoh nyu ba lathei nao blaoh Balaok La-u galung mai mak lathei blaoh katuak dahlak blaoh dahlak bruh [nduec] haop [haok] lathei abih blaoh aek ja Balaok La-u je, njep saong rek [harek] ralo pak ngaok ralong njep saong ja Balaok La-u glung mai blaoh magei rek [harek] ndan [nan] tablaoh dahlak lac rimaong blaoh dahlak nuec [nduec] haok lathei abih je, luai ka ma Taluic ba lathei baik ma Taluic ndan [nan] nyu hu ranap [ra-ndap] saong ja Balaok La-u paje, ma Tâh Tabha saong ma Kacua nem [ndem] wek saong patao yau ndan [nan] mang patao nem [ndem] wek lac yah [25] yau ndan [nan] je blaoh luai ka ma Taluic ba lathei ka Balaok La-u, ndan [nan] mang ndai [nai] Taluic aian [auen] tabuen dalam hatai lac hu ka nyu kieng ba lathei ka ai Balaok La-u wek, ndan [nan] mang ai Balaok La-u daok pak ngaok ralong creng baol bhap manuus [manuis] urang wek, blaoh tel bier harei hajan saong rabuk sup glai sup klaow, ndan [nan] mang ai Balaok La-u panar [pa-ndar] dom baol bhap manuus [manuis] urang nyu gawang haraik blaoh wak di dako [daké] kabaw blaoh tiap kabaw paralao ai Balaok La-u marai sang, paralao matâh adhua ka jaik kieng tel sang ndan [nan] ai Balaok La-u panar [pa-ndar] dom baol luak tama [26] tanâh riya wek abih, ndan [nan] mang ai Balaok La-u tiap kabaw marai sang tiap kabaw marai tel sang ndan [nan] ai Blaok La-u luai kabaw ndan [nan] daok deng di mblang ka urang wak haraik di dako [daké] kabaw ndan [nan] blaoh ai Balaok La-u nuec [nduec] tama ging maghang apuei ndan [nan] mang ndai [nai] Tâh Tabha saong ndai [nai] Kacua dua urang ndai [nai] ndan [nan] daok tanâk dalam ging, ndan [nan] mang ai Balaok La-u daok maghang apuei blaoh dua urang ndai [nai] ndan [nan] puec jhak ka ai Balaok La-u lac maghang apuei dé nan baik nao aiep [aiek] kabaw baik tok lanang ka kau kieng tuh aia bu, ndan [nan] mang Balaok La-u ngap mangap galung gaok baoh patih ndai [nai] [27] Kacua blaoh ndai [nai] Kacua puec jhak ndai [nai] Kacua lac ja Balaok La-u ni awak awar hareh tablaoh nyu galung mai gaok pha kau kac, ndan [nan] mang ai Balaok La-u lakau nao blaoh ngap mengap mang di thau o gaok takai ndai [nai] Tâh Tabha blaoh ndai [nai] Tâh Tabha puec jhak, lac Balaok La-u ni nyu glung mai pajaik drei tok panao [pa-ndao] nyu min hagaik kai [kac], luai ka nyu maghang nyu baik ai Kacua yah tiap nyu lé [lo] kaow nyu nao, nyu di nao tra o paje kan, ndan [nan] mang dua urang ndai [nai] ndan [nan] luai ka ai Balaok La-u daok maghang apuei tak ndan [nan] je, ndai [nai] Taluic daok dalam sang blaoh mahit ndai [nai] Tâh Tabha [28] saong ndai [nai] Kacua puec jhak ka ai Balaok La-u ndan [nan] ndai [nai] Taluic dom di daok ganaong di ndai [nai] Kacua saong ndai [nai] Tâh Tabha, ndan [nan] mang tel harei hadei ai Balaok La-u nao gleng kabaw wek ndan [nan] patao kakei saong ai Balaok La-u lac haraik ndan [nan] ralé [ralo] pajé arak ni luai ruic haraik ndan [nan] yah nao mboh paga tak paga baik tak pataom sa mbaik dua mbaik pa-mbuk tak ndan [nan] piaoh [piéh] ka patao panar [pa-ndar] urang nao pajieng, halei tian patao ndan [nan] thau ka ai Balaok La-u ganreh paje ndan [nan] mang harei hadei ai Balaok La-u nao gleng kabaw wek, ndan [nan] ndai [nai] Taluic ba lathei wek ndan [nan] ndai [nai] Taluic cih hala sa [29] tanyrak hala ba nao ka ai Blaok La-u ndan [nan] mang ndai [nai] Taluic ba lathei nao majaik kieng tel camaoh ai Balaok La-u gleng kabaw ndan [nan] blaoh mahit sap urang tak paga bak mang ngaok ralong sang mahit sap urang nem [ndem] pakrâ klao bak mang ngaok ralong, blaoh ndai [nai] Taluic nao tel camaoh ndan [nan] dhit sap urang tak paga saong dhit sap urang nem [ndem] mboh dom nam tak paga saong mboh paga urang pa-mbuk tak ndan [nan] je, saong mboh ai Balaok La-u daok gleng kabaw tak ndan [nan] je, ndan [nan] mang ndai [nai] Taluic brei ciet lathei saong brei tanyrak hala ka ai Balaok La-u, ndan [nan] mang ai Balaok La-u talaih tanyrak hala [30] ndan [nan] mboh hala cih ndan [nan] mang ai Balaok La-u lac hala thei cih yau ni ndai [nai] ndan [nan] mang ndai [nai] Taluic lac wek dahlak min cih ka ai mbeng yaom hala dahlak cih di tangin dahlak piaoh [pieh] hadei ai Balaok La-u nao kieng kamei pak halei ndan [nan] ai hadar dahlak hai mang ai juai anyan [akhan] saong urang juai lac dahlak cih hala ka ai juai, ndan [nan] mang ai Balaok La-u lac dahlak nua [ndua] aen ndai [nai] di abih o blaoh dahlak si nem [ndem] panuec ni tabiak wek, ndan [nan] mang ndai [nai] Taluic tangi ai Balaok La-u lac ai tak paga habien kac blaoh ralé [ralo] lé [lo] ya [yau] ni, ndan [nan] mang ai Balaok La-u [31] lac dahlak tak mang pago [pagé], ndan [nan] mang ndai [nai] Taluic lac ko [ké] ai Balaok La-u tak sa mbaik paga ka dahlak maong aiek, ndan [nan] mang ai Balaok La-u lac dahlak liman di drei lo di mboh prân kieng tak o, ndan [nan] mang ndai [nai] Taluic klao blaoh ndai [nai] Taluic wek nao sang je, ndan [nan] mang ai Balaok La-u crang baol bhap wek dom baol ndan [nan] tak paga sa harei ndan [nan] nang [ndang] sa ratuh radaih ndan [nan] mang tel bier harei ai Balaok La-u tiap kubaw marai sang ndan [nan] mang ai Balaok La-u nem [ndem] saong patao lac paga dahlak tak blaoh paje po anyim radaih nao pajieng baik, ndan [nan] mang [32] patao lac radaih drei macai min tel hadah mang pago [pagé] patao panar [pa-ndar] manuus [manuis] urang truak radaih nao pajieng tok dua thruh radaih, ndan [nan] mang dom baol truak radaih nao tel camaoh ai Balaok La-u tak paga ndan [nan] blaoh mboh paga ai Balaok La-u tak blaoh pa-mbuk pak ndan [nan] nang [ndang] sa ratuh radaih, ndan [nan] mang dom baol ndan [nan] pajieng di abih o, ndan [nan] mang pajieng mai sang blaoh dom baol ndan [nan] nyan [akhan] saong patao lac paga ralé [ralo] lé [lo] adei sa-ai dahlak pajieng di abih o patao tangi lac daok hadom ndan [nan] mang dom baol nan lac daok nang [ndang] sa ratuh [33] radaih, ndan [nan] mang patao nuec [nduec] harak taka radaih di grep palei bi bak sa ratuh thruh radaih ba marai blaoh pajieng paga ndan [nan] mang abih, abih sa nagar asit praong lakei kumei dom di daok panâksa ka ai Balaok La-u lac tangin o hu takai o hu blaoh tak paga ruuc [ruic] haraik habar kac blaoh ginreh lé [lo] ya [yau] ndan [nan], urang daok panâksa lac ai Balaok La-u ganreh je baruw mang ruuc [ruic] haraik tak paga ralo ya [yau] ndan [nan], dom haraik saong paga urang pajiéng marai leh bak mblang bak katang thei nao gan mblang patao blaoh maong mboh pa[ga] saong haraik ndan [nan] dom di [34] ma-yaom ai Balaok La-u, ndan [nan] mang ai Balaok La-u daok gleng kubaw ka patao yaom sa matâh balan ndan [nan] mang ai Balaok La-u wek nao pak sang maik nyu blaoh nyu panar [pa-ndar] maik nyu marai puec ndai [nai] Taluic anâk patao ka nyu ndan [nan] mang maik nyu di khin nao puec o maik nyu nem [ndem] wek lac hâo [hâ] tangin jang o hu mayah takai lijang o hu mayah likei rup anâk lijang jhak lakei lé [lo], blaoh anâk panar [pa-ndar] maik nao puec ndai [nai] Taluic ka anâk, maik di nyin [khin] nao puec o, ndan [nan] mang ai Balaok La-u di peng o sa dua nyu panar [pa-ndar] maik nyu nao puec ndai [nai] Taluic bi hu ka nyu je, ndan [nan] mang maik [35] nyu di nyin [khin] nao puec o, ndan [nan] mang ai Balaok La-u nem [ndem] wek saong maik nyu lac maik nao puec saong patao baik di hu habar o, gaik [hagait] di dahlak ce [je], ndan [nan] mang maik nyu ciip nao puec ka nyu je, maik ai Balaok La-u nao tel pabah mbeng jang patao blaoh athau graoh ndan [nan] mang pa-nraong iw pa-nraong hanuk ew tangi lac thei marai blaoh athau graoh, ndan [nan] mang maik ai Balaok La-u lac dahlak min, pa-nraong iw pa-nraong hanuk tangi maik ai Balaok La-u lac mai hatao bien ni, ndan [nan] mang maik ai Balaok La-u lac dahalk marai mada hu panuec min, ndan [nan] mang pa-nraong iw pa-nraong [36] hanuk tangi lac panuec hagaik maik ai Balaok La-u lac anâk dahlak ja Balaok La-u panar [pa-ndar] dahlak mai puec ndai [nai] Taluic ka nyu blaoh dahlak di nyin [khin] marai puec o, nyu panar [pa-ndar] sa dua dahlak marai puec saong patao bi hu ka nyu je, dahlak ciip alah di nyu blaoh dahlak marai je, ndan [nan] mang pa-nraong iw pa-nraong hanuk tama pathau patao ndan [nan] mang patao ew maik ai Balaok La-u nao tangi, ndan [nan] mang mai [amaik] ai Balaok La-u nem [ndem] wek lac mada panuec anâk dahlak ja Balaok La-u panar [pa-ndar] dahlak marai puec anâk po ka nyu blaoh dahlak di nyin [khin] marai puec o blaoh nyu di [37] peng o nyu panar [pa-ndar] sa dua dahlak marai puec bi hu ka nyu je, dahlak ciip di hu saong nyu o arak ni dahlak marai anyan [akhan] saong po je, ndan [nan] mang patao nem [ndem] wek lac panuec yau ndan [nan] arak ni drei anit min ja Balaok La-u ndan [nan] halei klau urang anâk ndan [nan] di thau labik ka magait halei anit Balaok La-u rei ya [yau] ni, ndan [nan] mang patao ew ndai [nai] Kacua saong ndai [nai] Tâh Tabha saong ndai [nai] Taluic klau urang ndai [nai] ndan [nan] marai blaoh tangi lac arak ni klau urang hâ anit Balaok La-u rei, yah thei anit je blaoh raong ba Balaok La-u, ndan [nan] mang ndai [nai] Kacua saong ndai [nai] Tâh Tabha nem [ndem] wek lac dahlak di kieng o kieng habar kac tangin o hu yah takai [38] lijang o hu kieng blaoh kieng ngap hagaik jiéng, ndan [nan] mang patao ew sa drei ndai [nai] Taluic tra marai tangi, lac ma Taluic kaow hâ raong ba Balaok La-u rei, ndan [nan] mang ndai [nai] Taluic nem [ndem] wek lac halei tian dahlak ndan [nan] dahlak anit min, arak ni po panar [pa-ndar] dahlak kieng ai Balaok La-u min, mayah po panar [pa-ndar] dahlak kieng Cru kieng Raglai jang dahlak kieng rei, ndan [nan] mang patao nem [ndem] wek saong maik ai Balaok La-u lac arak ni mu Taluic ciip raong ba Balaok La-u min, arak ni cang tuk siam harei ta-nyruah ligaih di but a-ndak [anak] ni blaoh panih [pa-ndih] padaok dua urang nyu, arak ni maik Balaok La-u wek nao [39] sang blaoh nem [ndem] wek saong muk nyu saong ong nyu baik, ndan [nan] mang maik ai Balaok La-u wek marai sang je, ndan [nan] mang patao pa-nuec [pa-nduec] harak nao di grep palei di grep nagar anyan [akhan] lac tel harei but ndan [nan] patao panih [pa-ndih] anâk matuw da-a marai manyum alak, ndan [nan] mang patao panar [pa-ndar] panraong jabaol nao amal patiap rasa njruah tapay amrak bithar mang athur biep di glai ba marai paoh [piéh] mbeng manyum ndai [nai] Taluic saong cei Balaok La-u, ndan [nan] mang tel harei but ndan [nan] mang di grep palei di grep nagar marai cruh patao, ba dom athur biep di glai rasa ngan njruah tapay ngan amrak di rim mata ni ngan baoh kayau di glai dom baoh [40] urang mbeng hu ngan baoh urang pala di palei di rim rim mata ni urang ba marai cruh patao dom baol di grep palei di grep nagar marai daong patao, manuus [manuis] juak rek [harek] matai juak glai libuh rabuw rabuw taman taman likei kumei dam dara nem [ndem] puec pakrâ klao buai baiy di thau libik kieng pagap o, di hu thei tel o, mbeng manyum sa ratuh harei malam, ndan [nan] mang bak klau harei malam patao ew ndai [nai] Taluic nem [ndem] lac klau harei klau malam mani Balaok La-u nem [ndem] habar saong hâ hai lac bani [ba-ndi] baniai nyu habar saong hâ, hâ nao nem [ndem] wek saong maik hâ pa-abih nem [ndem] adar juai nem [ndem] nyang [khang] juai, ndan [nan] mang ndai [nai] Taluic wek nao nem [ndem] wek saong po [41] bia abih panuec kadha nem [ndem] lac cei Balaok La-u nem [ndem] puec nih [ndih] daok saong dahlak ngap yau abih urang min, ndan [nan] mang po bia ndan [nan] tangi ndai [nai] Taluic lac habar kac blaoh lac yau abih urang, ndan [nan] mang ndai [nai] Taluic nem [ndem] lac cei Balaok La-u tabiak di harum la-u patih mbeng hen di dahlak caik, blaoh cuk gam karah mata mah blaoh siam likei hen di gaik [hagait], ndan [nan] mang po bia ndan [nan] anyan [akhan] wek saong patao. ndan [nan] mang ndai [nai] Kacua ndai [nai] Tâh Tabha ndan [nan] daok krak peng mahit po bia ndan [nan] daok anyan [akhan] saong patao lac ndai [nai] Taluic nem [ndem] lac cei Balaok La-u tabiak di harum la-u siam lakei lé [lo], ndan [nan] mang ndai [nai] Kacua saong ndai [nai] Tâh Tabha dua urang nyu [42] di malam ndan [nan] ba gep nao krak aiek cei Balaok La-u saong ndai [nai] Taluic, ndan [nan] mang ndai [nai] Tâh Tabha saong ndai [nai] Kacua krah [krak] mboh cei Balaok La-u tabiak di harum la-u siam likei ganuuh [ganuh] tabiak di rup hadah yau puri [purami] sa klam tuah lap bhap gap krâ di thau labik kieng pagap o siam likei di hu thei tel o, baruw mang ndai [nai] Kacua saong ndai [nai] Tâh Tabha khap di cei Balaok La-u di thau labik kieng ngap habar o, dua urang ndan [nan] dom di daok daman ndai [nai] Tâh Tabha saong ndai [nai] Kacua biai gep lac arak ni ma Taluic kieng ka nyu paje blaoh dua urang drei ngap habar kac ya [yau] ni, dua urang nyu lac thau yaom ka cei Balaok La-u ganreh baik drei kieng ka drei ce ah, batuah ma Taluic hareh, [43] dalam tian ndai [nai] Kacua saong ndai [nai] Tâh Tabha kieng ngap habar kieng ka hu cei Balaok La-u ka nyu khieng wek, ndan [nan] mbeng manyum bak sa ratuh harei malam ndan [nan] mang dom mik wa adei sa-ai urang lakau drei di patao blaoh wek nao sang, tel urang nao sang jua ndan [nan] mang ndai [nai] Taluic nem [ndem] saong cei Balaok La-u lac urang nao sang jua abih paje arak ni juai daok dalam harum la-u tra juai tabiak nao aiep kabaw thuei mblang ka urang mboh hai, ndan [nan] mang cei Balaok La-u di tabiak di harum o, cei Balaok La-u cang krâh malam jua urang ndan [nan] mang cei Balaok La-u tabiak di harum la-u, krâh malam cei Balaok La-u tabiak di harum la-u blaoh nih [ndih] saong ndai [nai] Taluic tel [44] hadah ndan [nan] mang cei Balaok La-u tama harum wek ralé [ralo] mbeng yau ndan [nan] lé [lo] ndan [nan] mang ndai [nai] Taluic mak harum la-u ndan [nan] padep di cei Balaok La-u dhit, ndan [nan] mang cei Balaok La-u nih [ndih] tel hadah medeh marai nao tapak harum la-u blaoh di mboh harum la-u o, ndan [nan] mang cei Balaok La-u tama dalam ciew nih [ndih] blaoh tangi ndai [nai] Taluic lac ndai [nai] Taluic hu mak harum ndan [nan] padep rei, ndan [nan] mang ndai [nai] Taluic lac thaoh min ndan [nan] mang cei Balaok La-u daok nih [ndih] dalam ciew nih [ndih] ndan [nan] je, cei Blaok La-u di nem [ndem] puec saong ndai [nai] Taluic o dom daok nih [ndih] blaoh kamraw je, cei Balaok La-u ranep [ra-ndep] daok dalam harum la-u tel di hu [45] harum la-u o ndan [nan] cei Balaok La-u la-an dom di daok kamraw, halei ndai [nai] Taluic dom di mak palidu saong sakalat blaoh pamatham cei Balaok La-u, tel lima ndam [nam] harei ndan [nan] mang cei Balaok La-u ranep [ra-ndep] ndan [nan] mang klah di la-an, ndan [nan] mang ndai [nai] Taluic anyan [akhan] tapak lac harum ndan [nan] ndai [nai] Taluic mak ba nao dar dhit paje ndan [nan] mang cei Balaok La-u klao paluic je, ndai [nai] Taluic lac daok dalam harum la-u ai Kacua saong ai Tâh Tabha nyang [khang] di klao lé [lo] lac ai tangin o hu takai o hu hajieng saong dahlak mak harum la-u ndan [nan] padep caik, ndan [nan] mang dua urang nyu klao saong gep nyu wek je ndan [nan] mang ndai [nai] Tâh Tabha saong ndai [nai] Kacua nao ma-in pak [46] aduk ndai [nai] Taluic blaoh mboh cei Balaok La-u, ndan [nan] mang ndai [nai] Kacua saong ndai [nai] Tâh Tabha nyap [khap] di cei Balaok La-u thau labik kieng ngap habar o abih prân abih yawa dom di daok damân saong thuak yawa, dua urang ndan [nan] dol tian di daok puec klao saong cei Balaok La-u ndan [nan] je, ndan [nan] mang tel cei Balaok La-u tabiak nao aiek kabaw ndan [nan] mang gep gan mik wa pala palei urang mboh, abih drei mik wa urang aain [auen] tabuen ka ndai [nai] Taluic siam wak lé [lo] kieng gaok cei Balaok La-u, ndan [nan] mang urang mbot [mbait] mahit nao di grep palei di grep nagar lac cei Balaok La-u tabiak di harum la-u siam lakei lé [lo], ndan [nan] mang urang ngap ahar [47] marai rawang ndai [nai] Taluic saong cei Balaok La-u di grep palei di grep nagar asit praong lakei kumei dam ngan dara marai rawang cei Balaok La-u blaoh kieng aiek cei Balaok La-u, ndan [nan] mang mik wa adei sa-ai urang marai mboh cei Balaok La-u, siam likei di thau labik kieng pagap tra o, ndan [nan] mang mik wa urang di grap nagar blaoh thau ka cei Balaok La-u ganreh, ndan [nan] mang cei Balaok La-u ba ndai [nai] Taluic nao raweng maik cei Balaok La-u ndan [nan] mang cei Balaok La-u nao tel sang maik Balaok La-u blaoh maik cei Balaok La-u di thau krân cei Balaok La-u tra o, tel cei Balaok La-u panar [pa-ndar] ndai [nai] Taluic peh ciet [48] ahar blaoh mak ahar buh di dalam lathuer blaoh pok nao ka maik cei Balaok La-u ndan [nan] mang maik cei Balaok La-u thau lac ka cei Balaok La-u ndan [nan] anâk Po Débata brei, ndan [nan] mang ong saong cek cei Balaok La-u marai apan di tangin cei Balaok La-u blaoh aain [auen] blaoh ong saong cek saong maik cei Balaok La-u anit cei Balaok La-u di thau labik kieng ngap habar o kayua cei Balaok La-u tabiak di harum la-u blaoh siam lakei lé [lo], maik cei Balaok La-u gam anit cei Balaok La-u blaoh gam huec di cei Balaok La-u wek, maduh yau ndan [nan] nan ka mang kal [49] cei Balaok La-u daok saong maik cei Balaok La-u ndan [nan] di hu tabiak di harum la-u o, blaoh di hu jieng manuus [manuis] o jieng balaok la-u min tel cei Balaok La-u marai daok gleng kabaw ka patao blaoh hu ganreh blaoh cei Balaok La-u tabiak di harum la-u blaoh siam lakei lé [lo] baruw mang maik cei Balaok La-u saong ong saong cek cei Balaok La-u war krân cei Balaok La-u caik ndan [nan] mang ndai [nai] Taluic saong cei Balaok La-u ba gep wek marai sang blaoh daok di sang pagap yaom sa matâh balan blaoh cei Blaok La-u kieng ramik ahaok blaoh nao kak, ndan [nan] mang ndai [nai] [50] Kacua saong ndai [nai] Tâh Tabha lakau ndik ahaok nao kak saong cei Balaok La-u, nan mang tel di harei rami ramik kieng trun ahaok ndan [nan] mang ndai [nai] Taluic mak karah mata mah di cei Balaok La-u blaoh cuk di tangin ndan [nan] mang ndai [nai] Taluic jak ndai [nai] Kacua saong ndai [nai] Tâh Tabha trun ahaok blaoh daok saong gep sa blah ciew sa drei cei Balaok La-u ndan [nan] daok karei, ndan [nan] mang ganuer ahaok ba abih drei dom baol trun ahaok ndan [nan] mang rami ramik ahaok blaoh tabiak nao, ndan [nan] mang ahaok nao matâh tasik, ndan [nan] mang ndai [nai] Taluic saong ndai [nai] Tâh Tabha saong ndai [nai] Kacua klau urang ndai [nai] ndan [nan] daok nem [ndem] pakrâ klao saong gep, ndan [nan] mang ndai [nai] Tâh [51] Tabha saong ndai [nai] Kacua panar [pa-ndar] ndai [nai] Taluic thuak krah mata mah cei Balaok La-u di tangin ndai [nai] Taluic ka ndai [nai] Kacua saong ndai [nai] Tâh Tabha aiek, ndan [nan] mang ndai [nai] Kacua saong ndai [nai] Tâh Tabha aiek blaoh ngap mengap lé [lue] gep blaoh ndai [nai] Kacua saong ndai [nai] Tâh Tabha ngap mengap tablait tangin blaoh laik tama dalam aia tasik mang dalam tian ndai [nai] Kacua saong ndai [nai] Tâh Tabha ma-irat kieng palaik min, ndan [nan] mang ndai [nai] Kacua saong ndai [nai] Tâh Tabha ngap mengap puec lac ana yaow blaoh je kau karah hâ laik tama tasik paje ma Taluic hey tablait tangin kau ndan [nan] mang ndai [nai] Taluic talak mata gleng binang [bi-ndang] [52] mboh karah ndan [nan] hadah bhong dalam tasik ndan [nan] mang ndai [nai] Taluic klak drei tama dalam aia tasik tuei klaon karah ndan [nan], hajieng saong ndai [nai] Taluic klak drei tama dalam aia tasik ndan [nan] ndai [nai] Taluic huec di cei Balaok La-u puec jhak ka ndai [nai] Taluic, ndan [nan] mang ndai [nai] Kacua ndai [nai] Tâh Tabha daok pakrap di anyan [akhan] saong cei Balaok La-u o, tel nao matâh tathik ndan [nan] mang ndai [nai] Kacua saong ndai [nai] Tâh Tabha anyan [akhan] saong cei Balaok La-u lac ndai [nai] Taluic laik tama dalam aia tasik paje, ndai [nai] Kacua saong ndai [nai] Tâh Tabha nem [ndem] pagat cei Balaok La-u lac ndai [nai] Taluic ngap laik karah tama dalam aia tasik [53] blaoh ndai [nai] Taluic huec kana [ka-nda] ka cei Balaok La-u puec jhak ka nyu baruw mang nyu subik drei nyu tama dalam aia tasik tuei klaon karah ndan [nan] paje, karah ndan [nan] ndan [nan] ndai [nai] Kacua saong ndai [nai] Tâh Tabha palaik tama dalam aia tasik min blaoh ndai [nai] Kacua saong ndai [nai] Tâh Tabha nem [ndem] saong cei Balaok La-u lac ndai [nai] Taluic min ngap laik karah ndan [nan], nan mang cei Balaok La-u marai ca-maoh ciew krung ndai [nai] Taluic daok ndan [nan], blaoh mboh wek sa blah aban krung ndai [nai] Taluic matham blaoh ndai [nai] Taluic luai wek daok di ngaok ciew ndan [nan] saong sa paok tanyrak hala tra blaoh di mboh ndai [nai] Taluic o ndan [nan] mang [54] cei Balaok La-u hia lathei o huak yah aia lijang o manyum dom di daok hia baruw mang cei Balaok La-u panar [pa-ndar] ganuer ahaok pagalac ahaok blaoh wek marai sang wek, halei ndai [nai] Kacua saong nai Tâh Tabha sa gah tian hia damân adei sa gah tian tra khap di cei Balaok La-u, ndan [nan] mang ahaok marai tel sang blaoh cei Balaok La-u marai akhan saong po bia ndan [nan] lac ndai [nai] Taluic ngap habar di thau o tablait tangin blaoh laik karah tama dalam aia tasik blaoh nyu huec ka-nda ka dahlak puec jhak ka nyu blaoh nyu subik drei nyu tama dalam tathik aia tathik mblung dhit paje, dahlak [55] lijang di hu mboh nyu subik drei nyu tama tathik o tok di ai Kacua saong ai Tâh Tabha anyan [akhan] wek min ndan [nan] mang po bia ndan [nan] anyan [akhan] saong patao blaoh patao ndan [nan] ew ndai [nai] Kacua saong ndai [nai] Tâh Tabha saong cei Balaok La-u merai tangi, patao saong po bia tangi cei Balaok La-u nem [ndem] lac di hu mboh nyu klak drei nyu tama tasik o dahlak tok di ai Kacua saong ai Tâh Tabha nem [ndem] wek saong dahlak min, cei Balaok La-u sa gah nem [ndem] saong patao sa gah daok hia po bia saong patao ndan [nan] lijang sa gah tangi cei Balaok La-u blaoh sa gah tra daok hia ka ndai [nai] Taluic, ndan [nan] mang patao saong po bia ndan [nan] [56] tangi ndai [nai] Kacua saong ndai [nai] Tâh Tabha, ndan [nan] mang dua urang ndai [nai] ndan [nan] sa gah hia ka ndai [nai] Taluic sa gah tian tra hia anit lac ka cei Balaok La-u daok jua sa drei sa jan sa gah tian tra saong khap di cei Balaok La-u sa gah hia sa gah nem [ndem] wek saong po bia saong patao ndan [nan], lac dua urang dahlak daok nem [ndem] pakrâ klao saong nyu blaoh dua urang dahlak panar [pa-ndar] nyu thuak karah mata mah ndan [nan] ka dua dahlak aiek blaoh dua urang dahlak brei ka nyu wek paje blaoh nyu ngap habar di thau o tablait tangin nyu blaoh laik karah tama dalam aia tasik blaoh nyu daok maong karah ndan [nan] ahaok daok krâh nuec [nduec] blaoh nyu maong mboh karah ndan [nan] [57] hadah bhong dalam aia tasik blaoh nyu daok maong dua urang dahlak di hu thau lac ka nyu kieng subik drei tama tasik o mayah dua urang dahlak blaoh thau lac ka nyu kieng subik drei tama tasik ndan [nan] dua urang dahlak thaow wek je, ndan [nan] mang nyu maong mboh karah ndan [nan] hadah bhong dalam aia tasik blaoh nyu subik drei nyu tama dalam tasik di hamu kieng mboh o ndan [nan] mang dua urang dahlak nuec [nduec] nao anyan [akhan] saong cei Balaok La-u nyu je, ndan [nan] mang po bia saong patao ndan [nan] nem [ndem] wek saong cei Balaok La-u lac arak ni anâk juai daok hia caok tra juai kahlaom wak anâk saong ma Taluic di tuah tra o arak ni [58] anâk daok wek ka po jiéng [pajiong] di anâk sa thun ni baik kahlaom wak ma Taluic yau ndan [nan] je piaoh [piéh] ka po maong mboh rup anâk lijang yau po mboh rup ma Taluic kac min, po bia saong patao nem [ndem] wek saong cei Balaok La-u yau ndan [nan] gam nem [ndem] gam hia, ndan [nan] mang cei Balaok La-u nem [ndem] wek saong po bia saong patao ndan [nan] lac habien thun halei balan halei abih ha-uh [su-uh] abih ha-ain [su-auen] dahlak ndan [nan] mang dahlak thau sa mbeng je halei arak ni dahlak daok saong po tak ni je, cei Balaok La-u gam nem [ndem] gam hia, cei Balaok La-u hadar krung mang kal ndai [nai] Taluic ba lithei ka cei Balaok La-u pak [59] ngaok ralong sa drei ndai [nai] Taluic gan glai gan klaow hadar krung mang kal gleng kabaw pak ngaok ralong sa drei cei Balaok La-u blaoh sa drei ndai [nai] Taluic ba lathei ra-mbah ra-mbâp saong gep cei Balaok La-u harei halei malam halei lijang hia pak dalam ciew nih [ndih] je hia di hu brei ka [thei] mboh o, gep gan mik wa urang sa baoh nagar thei lijang hia damân ndai [nai] Taluic, halei ndai [nai] Kacua saong ndai [nai] Tâh Tabha dom di daok pasia nyap [khap] di cei Balaok La-u mayah pok salaw lathei nao ka cei Balaok La-u huak lijang nyim [khim] klao, mayah pok jaluk aia nao ka cei Balaok La-u manyum lijang nyim [khim] klao, malam halei lijang dua urang ndai [nai] ndan [nan] cih hala brei ka cei Balaok La-u mbeng je [60] saong daok nih [ndih] pa-meyok cei Balaok La-u saong ba cei Balaok La-u nem [ndem] pakrâ klao lijang o klah di cei Balaok La-u hia ha-ain [su-auen] ndai [nai] Taluic rei, halei ndai [nai] Taluic ndan [nan] tak di kal ndai [nai] Taluic klak drei tama aia tathik blaoh ndai [nai] Taluic nyuk mak hu karah mata mah ndan [nan] blaoh ndai [nai] Taluic cuh [cuk] di tangin blaoh aia tasik mblung di hu tra o, maduh yau ndan [nan] karah mata mah ndan [nan] ganreh baruw mang ndai [nai] Taluic cuk karah ndan [nan] blaoh ndai [nai] Taluic ganreh ndan [nan] mang ndai [nai] Taluic yué drei jiéng anak kamar blaoh luak tama dalam abaw saralang blaoh ndai [nai] Taluic daok dalam ndan [nan] mang mada harei mada riyak paoh [61] abaw saralang ndan [nan] saong ndai [nai] Taluic tabiak riyak paoh abaw saralang ndan [nan] saong ndai [nai] Taluic taom thun ndan [nan] mang tel gah tathik, blaoh abaw saralang ndan [nan] thek marai jai di tapien krung urang mak krang amraow, ndan [nan] mang ndai [nai] Taluic tabiak di abaw saralang ndan [nan] blaoh ndai [nai] Taluic tagok ngaok kieng nao sang ndan [nan] mang di thau labik nagar palei daok pak halei o ndai [nai] Taluic dom di daok hia ha-ain [su-auen] cei Balaok La-u ndan [nan] mang ndai [nai] Taluic luak tama daok dalam abaw saralang blaoh daok dalam abaw saralang wek, ndai [nai] Taluic ha-ain [su-auen] cei Balaok La-u blaoh dom di daok hia di dalam abaw [62] saralang nang [ndang] sa balan sa matâh ndan [nan] mang mboh sa urang ong sa urang muk marai mak krang amraow, ndan [nan] ndai [nai] Taluic luak tama daok dalam abaw saralang blaoh ndai [nai] Taluic hia yau ranaih kamar, ndan [nan] mang ong saong muk ndan [nan] mahit blaoh ong saong muk ndan [nan] nduec nao aiek di mboh anâk kamar o mboh sa baoh abaw saralang ndé [nde] la-i blaoh mahit kamar daok hia dalam , baruw mang ong saong muk ndan [nan] di harei ndan [nan] di jieng mak krang o nua [ndua] abaw ndan [nan] nao sang nua [ndua] nao tel sang blaoh muk ndan [nan] ba abaw ndan [nan] nao caik di dalam cakak pak likuk sang, ong su muk ndan [nan] kathaot panap [pa-ndap] lé [lo] dom di nao duah mak krang pablei mbeng min saong mak [63] njuh pablei mbeng min, ndan [nan] mang ong ndan [nan] nao mak njuh muk ndan [nan] nao pablei krang luai sang daok jua, ndan [nan] mang ndai [nai] Taluic tabiak di abaw saralang ndan [nan] marai crang lathei aia hala panang ahar manang di riim mata aia caik tuh pa-mbiah tak ndan [nan] blaoh caik di dalam sang muk ndan [nan] blaoh ndai [nai] Taluic luak tama daok dalam abaw ndan [nan] wek, tel ong su muk ndan [nan] wek marai sang mboh lathei buh di salaw hala cih buh di huep [hop] ahar menang di rim mata buh caik pak ndan [nan], ndan [nan] mang ong su muk ndan [nan] lapa tian blaoh kieng huak, baruw mang muk ndan [nan] ghak ong ndan [nan] wek huec na [nda] ka urang ngap i-niai di dalam lathei ndan [nan], baruw mang ong nan lipa tian lé [lo] ong ndan [nan] di peng o ong ndan [nan] [64] atak kal blaoh ong ndan [nan] huak ong ndan [nan] huak sa pabah blaoh ong ndan [nan] njak nyam aiek di mboh mbuw hagaik o, ndan [nan] mang ong huak abih dua pangin blaoh di mboh habar o baruw mang ong ndan [nan] jak muk ndan [nan] huak, dua ong muk ndan [nan] huak di mboh habar o, ndan [nan] mang dua ong muk ndan [nan] huak je, ndan [nan] mang dak harei dak ong su muk ndan [nan] nao truh ndan [nan] mang dak harei dak ndai [nai] Taluic ndan [nan] tabiak di abaw ndan [nan] marai crang lathei ndan [nan] rei ralé [ralo] mbeng yau ndan [nan] lé [lo] baruw mang ong su muk ndan [nan] krak aiek ndan [nan] mang mboh ndai [nai] Taluic tabiak di abaw saralang ndan [nan] blaoh daok buh lithei ndan [nan] baruw mang ong su muk paluai marai apan di tangin daok, ong su muk ndan [nan] ain [auen] tabuen pok caik ngaok pha blaoh tangi lac [65] caow hai thei buh lithei buh ahar cih hala buh di hep paniak [pa-ndiak] aia buh caiy tuh di patit blaoh caik di dalam sang ong mang doh [deh] tani mai, ndan [nan] mang ndai [nai] Taluic nem [ndem] wek gam nem [ndem] gam hia nem [ndem] lac ong saong muk duén dahlak mai raong dahlak di hu bruk [gruk] hagaik blaoh kieng ngap ka ong saong muk nye taka o dahlak tanâk lathei ngap ahar paniak [pa-ndiak] aia cih hala piaoh [piéh] ka ong saong muk mai mang mak njuh blaoh ong saong muk huak, ndan [nan] mang ong saong muk ndan [nan] mboh ndai [nai] Taluic ndan [nan] siam bi-ndai [binai] lé [lo] blaoh ndai [nai] Taluic ndan [nan] cuk di tangin sa baoh karah mata mah hadah siam lé [lo] saong wak anyuk mah anyuk pariak bak tangin bak takuoy [takuai] ndan [nan] mang ong saong muk ndan [nan] sanâng lac mada po [66] aluah-tak-ala brei mai ka ong saong muk ndan [nan], baruw mang ong saong muk ndan [nan] tangi ndai [nai] Taluic lac caow ngap habar blaoh jieng lithei jieng ahar ralo ya [yau] ni, ndan [nan] ndai [nai] Taluic dom di daok hia baruw mang ong saong muk ndan [nan] tangi ndai [nai] Taluic lac habar kac blaoh caow hia lé [lo], ndan [nan] mang ndai [nai] Taluic nang [ndom] wek lac dahlak ha-ain [su-auen] lé [lo] , ndan [nan] mang ong su muk ndan [nan] tangi ndai [nai] Taluic lac caow ha-ain [su-auen] thei, ndan [nan] mang ndai [nai] Taluic nem [ndem] wek lac dahlak ha-ain [su-auen] seh ha-ain [su-auen] chai, baruw mang ong saong muk ndan [nan] nem [ndem] wek lac yah yau ndan [nan] je luai ka ong ngap lithung chai ka dom dam dara urang marai chai brah blaoh urang nem [ndem] pakrâ klao ka caow jiéng, ndan [nan] mang ong ndan [nan] ngap lithung chai , baruw mang dam dara adaoh ayeng pakrâ [67] klao ndan [nan] mang ndai [nai] Taluic dol tian di urang harei halei jua urang ndan [nan] ndai [nai] Taluic hia, hajiong [hajieng] saong ndai [nai] Taluic hia lé [lo] ndan [nan] kayua hadar maik hadar ama saong ha-ain [su-auen] pasang baruw mang ndai [nai] tangi ong saong muk ndan [nan] lac di nagar ni hu patao rei ong, ndan [nan] mang ong saong muk ndan [nan] lac hu , ndan [nan] mang ndai [nai] Taluic tangi lac patao ndan [nan] hu anâk rei, ong su muk ndan [nan] lac patao ndan [nan] hu klau urang anâk kumei sa urang anâk patao angan ndai [nai] Taluic ndan [nan] kieng cei Balaok La-u blaoh cei Balaok La-u ba nik [ndik] ahaok nao kak blaoh ndai [nai] Taluic tablait tangin laik karah mata mah cei Balaok La-u tama dalam aia tasik blaoh ndai [nai] Taluic ndan [nan] daman karah lé [lo] blaoh ndai [nai] Taluic klak drei tama [68] tasik aia tathik mblung matai dhit paje daok wek ndai [nai] Tâh Tabha saong ndai [nai] Kacua min , ndan [nan] mang ndai [nai] Taluic tangi lac cei Balaok La-u kaow daok tak ndan [nan] saong patao hai kieng kumei paje, ong saong muk ndan [nan] lac cei Balaok La-u dom di daok hia harei lei jang hia malam lei jang hia taom thun mangni dom di daok hia , leh pabah ong saong muk ndan [nan] nem [ndem] blaoh ndai [nai] Taluic hia haduk ne [nde] yak ne [nde] laik, baruw mang ong saong muk ndan [nan] tangi ndai [nai] Taluic lac habar kac ong nem [ndem] buw tel angan cei Balaok La-u blaoh caow hia, ndai [nai] Taluic lac ong nem [ndem] njep urang hia ha-ain [su-auen] hadiip ndan [nan] dahlak druai lé [lo] , ong saong muk ndan [nan] di thau lac tacaow ndan [nan] ndai [nai] Taluic hadiip cei Balaok La-u o, ong saong [69] muk dom di ain [auen] tabuen lac tacaow po Aluah-ta-ala brei ka ong saong muk ndan [nan], ong su muk ndan [nan] di thau tacaow ndan [nan] ndai [nai] Taluic anâk patao o, ndan [nan] mang ndai [nai] Taluic nem [ndem] wek saong muk saong ong ndan [nan] panar [pa-ndar] muk ndan [nan] nao blei kabuak marai ka ndai [nai] Taluic ma-nyim sa saong dalah ka muk ndan [nan] nao pablei, ndan [nan] mang muk ndan [nan] nao blei kabuak marai ka ndai [nai] Taluic ma-nyim , baruw mang ndai [nai] Taluic manyim hu sa saong dalah nan blaoh ndai [nai] Taluic brei ka muk ndan [nan] nao pablei, blaoh ndai [nai] Taluic thuak karah mata mah di tangin ndai [nai] Taluic brei ka muk ndan [nan] cuk blaoh ndai [nai] Taluic kakei saong muk ndan [nan] panar [pa-ndar] muk ndan [nan] juai nao pablei pak halei juai nao tama dalam madhir patao [70] blaoh muk ew pablei baruw mang muk ndan [nan] peng kadha tacaow ndan [nan] blaoh muk ndan [nan] ba dalah ndan [nan] nao pablei pak madhir patao , baruw mang pa-nraong iw pa-nraong hanuk ew tangi lac thei ba hagaik pablei, ndan [nan] mang muk ndan [nan] lac dahlak ba dalah, baruw mang pa-nraong iw pa-nraong hanuk nao pathau saong patao ndan [nan] mang patao panar [pa-ndar] pa-nraong iw pa-nraong hanuk ew muk ndan [nan] ba dalah marai ka patao blei baruw mang pa-nraong iw pa-nraong hanuk ew muk ndan [nan] marai, baruw mang patao panar [pa-ndar] muk ndan [nan] mak dalah ndan [nan] ka patao aiek, baruw mang muk ndan [nan] mak dalah ndan [nan] ka patao aiek , patao mboh dalah ndan [nan] pok banga dreh tangin ndai [nai] Taluic ma-nyim lé [lo] blaoh patao [71] haok aia mata blaoh patao ew po bia saong ndai [nai] Kacua ndai [nai] Tâh Tabha saong cei Balaok La-u marai aiek dalah muk nan, baruw mang abih drei dom urang ndan [nan] marai aiek blaoh mboh dalah ndan [nan] dreh tangin ndai [nai] Taluic ma-nyim lé [lo] bruw mang po bia hia saong cei Balaok La-u hia yah ndai [nai] Kacua saong ndai [nai] Tâh Tabha lijang hia rei , baruw mang patao tangi muk ndan [nan] lac thei ma-nyim dalah ni, muk ndan [nan] nem [ndem] wek lac tacaow dahlak min, patao tangi lac tacaow taglaoh di phik hai lac tacaow habar, baruw mang muk ndan [nan] nem [ndem] wek lac di njep tacaow taglaoh di phik prân dahlak o tacaow dahlak duon min, tak di kal ndan [nan] dahlak saong pasang dahlak nao mak krang blaoh mahit sap kamar hia di dalam abaw [72] saralang baruw mang dua hadiip pasang dahlak mak abaw ndan [nan] ba marai sang baruw mang tacaow dahlak tabiak di dalam abaw saralang ndan [nan] marai daok saong hadiip pasang dahlak blaoh raong hadiip pasang dahlak , muk ndan [nan] nem [ndem] saong patao yau ndan [nan] blaoh panar [pa-ndar] muk ndan [nan] caik dalah pak madhir patao ka pa-nraong iw pa-nraong hanuk nyik [khik] blaoh patao panar [pa-ndar] muk ndan [nan] wek nao sang blaoh ba tacaow muk ndan [nan] marai ka patao aiek ka mang patao payaom dalah muk ndan [nan], baruw mang muk ndan [nan] kieng talabat patao blaoh muk ndan [nan] nao sang, ndan [nan] mang cei Balaok La-u maong mboh karah mata mah muk ndan [nan] cuk di tangin muk ndan [nan] baruw mang cei Balaok La-u panar [pa-ndar] muk ndan [nan] brei karah ndan [nan] [73] ka cei Balaok La-u aiek baruw mang cei Balaok La-u krân kurah mata mah ndan [nan] blaoh cei Balaok La-u ba karah ndan [nan] nao ka ndai [nai] Kacua saong ndai [nai] Tâh Tabha krân, baruw mang dua urang ndai [nai] krân lac biak karah cei Balaok La-u baruw mang cei Balaok La-u tuei klaon muk ndan [nan] nao pak sang muk nan, baruw mang muk ndan [nan] ba cei Balaok La-u nao mang jaik kieng tel sang muk ndan [nan] baruw mang ndai [nai] Taluic maong mboh cei Balaok La-u blaoh ndai [nai] Taluic tama dalam sang muk ndan [nan] blaoh daok dalam, ndan [nan] mang muk ndan [nan] marai tel sang blaoh muk ndan [nan] ew ndai [nai] Taluic lac caow ley tabiak mai ka cei aiek ndan [nan] mang ndai [nai] Taluic ndan [nan] lac cei halei kieng aiek dahlak blaoh tama dalam sang mai aiek halei tabiak nan dahlak di tabiak o, ndan [nan] mang cei Balaok La-u krân sep ndai [nai] Taluic [74] baruw mang cei Balaok La-u lakau di muk nan panar [pa-ndar] muk ndan [nan] ba cei Balaok La-u tama sang nao aiek, baruw mang muk ndan [nan] ba cei Balaok La-u tama nao aiek cei Balaok La-u tama nao tel blaoh ndai [nai] Taluic klak drei di ngaok pha cei Balaok La-u blaoh ndai [nai] Taluic hia blaoh ndai [nai] Taluic anyan [akhan] wek saong cei Balaok La-u abih baoh panuec krung ndai [nai] Tâh Tabha saong ndai [nai] Kacua ngap laik karah ndan [nan] tama tasik blaoh ndai [nai] Taluic huec di cei Balaok La-u puec jhak baruw mang ndai [nai] Taluic klak drei tama tasik tuei klaon karah ndan [nan] ndai [nai] Taluic nem [ndem] abih baoh panuec baruw mang cei Balaok La-u jang hia yah ndai [nai] Taluic jang hia, baruw mang muk ndan [nan] luai ka cei Balaok La-u saong ndai [nai] Taluic daok [75] hia saong gep nyu dalam sang ndan [nan] blaoh muk ndan [nan] tabiak mai daok pak lingiw blaoh muk ndan [nan] saong ong ndan [nan] daok sanâng saong daok peng ndai [nai] Taluic nem [ndem] saong cei Balaok La-u, ndan [nan] mang ndai [nai] Taluic saong cei Balaok La-u hia caok nem [ndem] puec saong gep blaoh ndai [nai] Taluic saong cei Balaok La-u tabiak marai nem [ndem] saong dua ong muk ong ndan [nan] abih baoh panuec blaoh cei Balaok La-u ba ong saong muk ndan [nan] saong ndai [nai] Taluic marai sang cei Balaok La-u, ndan [nan] mang cei ndan [nan] ba ndai [nai] Taluic marai tel sang blaoh cei Balaok La-u tama madhir pathau saong patao, ndan [nan] mang patao saong po bia nuec [nduec] tabiak marai kuer di takuéy [takuai] ndai [nai] Taluic blaoh patao saong po bia ndan [nan] hia ne [nde] gaok ne [nde] glah, halei ndai [nai] Tâh Tabha saong ndai [nai] Kacua lijang hia mang gam hia gam huec di [76] ndai [nai] Taluic, ndan [nan] mang abih drei pa-nraong iw pa-nraong hanuk saong abih drei mik wa adei sa-ai urang marai ain [auen] di ndai [nai] Taluic di grep nagar marai ain [auen], baruw mang ndai [nai] Taluic nem [ndem] abih baoh panuec krung ru-mbah ri-mbâp di dalam aia tathik habar lijang ndai [nai] Taluic nem [ndem] abih , baruw mang pa-nraong iw pa-nraong hanuk mik wa adei sa-ai urang halei lijang haok ia mata ka ndai [nai] Taluic je, bruw mang patao kaoh sa bi-ndah [binah] palei brei ka ong saong muk ndan [nan] bayar aen ngai ong su muk ndan [nan], blaoh patao brei dalah krung ndai [nai] Taluic manyim ndan [nan] ka muk nan, blaoh patao brei ka ong saong muk ndan [nan] sa ratuh radaih padai saong sa ratuh jon [jién] blaoh tel patao luic rai cei Balaok La-u [77] tagok rai jieng patao mayah hadei cei Balaok La-u luic rai ndan [nan] anâk cei Balaok La-u tagok rai jieng patao wek ./. ——————————————- n{ dlUk& k c] bOl_` lu md t` d{ k& n# s o) s tOc_* kOT_@ rvH m[# , n# m) dW o) tOc_* n# On_ m` xUH b ls] n# s cY-@ aY n# s kOd_H Rt\ aRm s Ev` pjY-~ Oq_` rEdH , ObL_H RtW` On_ m` xU` [ xUH ] p` Oq_` rOl~ , On_ t-& Oq_` rOl~ o) tOc_* hW` v-) ObL_H On_ m` xUH t-& RkIH pnY` [ pVY` ] mhU aY n# m) tOc_* n# On_ dWH aY mz.U On_ OvH aY tmUH d{ RkIH tl[ b` s tl[  [ 2 ] , brU* tOc_* n# mz.U ObL_H zU mn] , n# m) zU w-` mEr az# [ aK# ] Os= o) n# brU* m) o) n# pn^ [ pV^ ] tOc_* n# b On_ pOt_* aY n# k o) n# kY-~ mz.U , n# m) tOc_* n# b pOt_* On_ OvH aY d{ tl[ n# TU w-` ab[H , brU* m) o) n# tq[ tOc_* n# l! hb^ l! ObL_H OvH Od. n. bTH d{ tl[ n{ ObL_H o OvH aY o , brU* m) tOc_* n# l! w-` l! m) k^n[ dhL` OvH aY ERT% tl[ dhL` mz.U RTU$ mhU ObL_H dhL` mn] b` Rd] b` j# hb^ k! ar` n{ ObL_H aY TU ab[H Ec` , o) n# mhU aY d{ T-U  [ 3 ] lb[` kY-~ q$ hb^ o , n# m) o) n# pn^ [ pV^ ] tOc_* n# rw` xUH mEr pjY-~ ObL_H RtW` rEdH On_ s) , brU* m) tOc_* n# Od_` d{ s) Oy+ tjUH hr] g# ObL_H mtY# j- , n# m) Od. Of- gnW-^ l) Os+ ORp= aEnH dl. pl] m` o) Os= mU` n# , l! hb^ tOc_* o) sU mU` n# tY# ObL_H o OvH ps) o , n# m) o) Os= mU` l! dhL` lk-U n< [ V< ] w-` Os= Of- gnW-^ l) Os+ hl] tOc_* dhL` m) aEnH n- [ V- ] n{ d{ hU T-U n< [ V< ] pRkI OkL_ Os= T] o tOc_* dhL` t` d{ k& zU tW] o) zU On_ m` xUH p` Oq_`  [ 4 ] rOl~ ObL_H tOc_* dhL` mhU aY ObL_H zU On_ [ dWH ] aY mz.U zU On_ OvH aY tmU` [ tmUH ] d{ RkIH tl[ ObL_H zU mz.U Os= zU mn] ObL_H zU mEr az# [ aK# ] Os= o) zU ObL_H o) zU pn^ [ pV^ ] zU b o) zU On_ mz.U , n# m) zU b On_ mz.U OvH aY d{ tl[ n# TU w-` ab[H ObL_H dW o) tOc_* pjY-~ xUH w-` mEr s) j- , md tOc_* dhL` mtY# kyW mz.U aY d{ tl[ n# m[# , n# l) Os+ Of- gnW-^ ur) d{ m` o) Os= mU` Rt\ o , brU* m) tOc_* n# mtY# dlp# bl# n[H [ V[H ] d{ apW] anI` lk] w[& jY-~  [ 5 ] ObL_` lu md hr] md ORp= t-& t[jUH bl# T-U n< [ V< ] b` Ot+ TU# T-U nW-! [ VW-! ] mi[# rH tEk EgL b` kL-U TU# T-U gL-) pEb% , n# zU Em m) gL-) pEb% zU pn^ [ pV^ ] Em` zU papH zU d{ pOt_ k zU kY-~ gL-) kUb* pOt_ n# m) Em` zU l! w-` , l! hI tq[# tEk o hU Od. d{ glU~ On_ glU~ Em y-U n# , gL-) pEb% Ot` kL-U Rd] pEb% m[# Em` Od_` ku` hW-! n [ V ] k lh[` m[# ObL_H anI` pn^ [ pV^ ] Em` papH anI` d{ pOt_ k anI` kY-~ gL-) kUb* pOt_ hb^ k! kY-~  [ 6 ] kLH d{ lh[` , kb* ur) rOl- [ rOl ] y-U V# [ n# ] , Em` zU d{ papH zU o zU d{ p-) o s dW zU pn^ [ pV^ ] Em` zU On_ pW-! Os= pOt_ b[ hU k zU j- , V# [ n# ] m) Em` zU cY[$ On_ pW-! Os= pOt_ k zU j- , brU* m) Em` zU On_ pW-! Os= pOt_ , Em` zU On_ t-& pbH v-) j) pOt_ ObL_H aT-U ORg_H , V# [ n# ] m) pORn= i* pORn= hnU` ew tq[ , l! T] mEr ObL_H aT-U ORg_H , V# [ n# ] m) Em` bOl_` lu l! dhL` m[# , brU* pORn= i* pORn= hnU` tq[ l! Em hOt_ bY-# n{ , V# [ n# ] m) Em` bOl_` lu l! dhL` mEr pW-! Os=  [ 7 ] Of- gRn-H pERt md anI` dhL` j bOl_` lu pn^ [ pV^ ] dhL` Em pW-! ppH [ papH ] zU d{ Of- gRn-H pERt k zU kY-~ gL-) kUb* Of- gRn-H pERt brU* m) pORn= i* pORn= hnU` tm On_ pT-U pOt_ , l! kn DU& pl` tEk mH gRn-H pERt md pnW-! Em` bOl_` lu mEr pW-! kUb* Of- gRn-H pERt k anI` zU gL-) , V# [ n# ] m) pOt_ pn^ [ pV^ ] pORn= i* pORn= hnU` ew bOl_` lu Os= Em` j bOl_` lu mEr , brU* m) pORn= i* pORn= hnU` ew Em` bOl_` lu Os= bOl_` lu mEr  [ 8 ] brU* m) Em` bOl_` lu j bOl_` lu mEr , V# [ n# ] m) tq[ l! Em` j bOl_` lu b j bOl_` lu Em hOt_ , V# [ n# ] m-) Em` bOl_` lu l! kn DU& pl` tEk mH Of- md anI` dhL` j bOl_` lu pn^ [ pV^ ] dhL` mEr papH zU k zU kY-~ gL-) kUb* Of- V# [ n# ] m) pOt_ n# l! w-` l! kUb* k-U kL-U pLUH ur) Ob_& ObL_H gL-) d{ kj$ o d{ kLH d{ lh[` o , kUb* t-& kL-U rtUH tm# , ObL_H j bOl_` lu gL-) hb^ kY-~ k kj$ , brU* m) pOt_ ew j bOl_` lu mEr tq[ l! kUb* k-U t-& kL-U rtUH tm#  [ 9 ] hI gL-) d{ kj$ o n [ V ] n# m) j bOl_` lu l! dhL` gL-) kj$ m[# , brU* m) pOt_ l! w-` Os= Em` j bOl_` lu l! yH y-U V# [ n# ] j- j bOl_` lu ElW k zU Od_` w-` p` n{ pgUH m) pg- [ pOg- ] k zU On_ gL-) kb* , Em` bOl_` lu w-` On_ s) Eb` , V# [ n# ] m) Em` bOl_` lu w-` On_ s) , j bOl_` lu Od_` w-` Os= pOt_ t-& hdH m) pg- [ pOg- ] Od. Ob_& pOt_ p-H kb* k j bOl_` lu On_ gL-) p-H kb* tbY` d{ w^ ObL_H ur) Op` j bOl_` lu ORc= Oq_` Or= kb* bOl_H ur) tY$ kb* prOl_ On_ k zU gL-)  [ 10 ] p` Oq_` rOl~ Od. Ob_& pOt_ tY$ kb* pOl_ [ prOl_ ] t-& Oq_` rOl~ k j bOl_` lu ObL_H w-` mEr s) ObL_H zU n< [ V< ] Os= g-$ zU rH jl# Em l! Od. pOn_` Rd] ObL_H tY$ kb* prOl_ On_ k bOl_` lu gL-) V# [ n# ] q$ y-U Rd] tY$ kb* On_ plh[` OT_H Od. ur) V# [ n# ] zU Od_` n< [ V< ] Os= g-$ zU l! j bOl_` lu gL-) kb* V# [ n# ] d{ kLH d{ lh[` o , V# [ n# ] m) t-& jl ORp= kEV [ kEn ] tlW[! anI` pOt_ b ls] On_ k bOl_` lu On_ OvH Od. kb* Od_` v-) gU& g-$ ObL_H d{ OvH bOl_` lu o ; V# [ n# ] m) EV [ En ] tlW[! ew , l!  [ 11 ] bOl_` lu On_ hOt_ bOl_H o OvH o y [ y-U ] n{ El% ; V# [ n# ] m) ObL_` lu l! Of- ObL_H bOl_` lu glU~ Em Ot+ EV [ En ] tlW[! ObL_H m` ls] On_ hW` V# [ n# ] m) EV [ En ] tlW[! w-` mEr s) , t-& bY-^ hr] bOl_` lu tY$ kb* mEr s) ObL_H bOl_` lu Es@ tOg` Od_` Oq_` Or= kb* ObL_H tY$ kb* mEr s) kb* OvH ab[H d{ hU lh[` s Rd] hl] o t& ab[H V# [ n# ] m) pOt_ n[@ [ an[@ ] dl. hEt sn) l! manuus [ mnW[( ] ur) pOt_ s dpW-& ObL_H gL-) kUb* V# [ n# ] d{ kj$ o ObL_H ar` n{ j bOl_` lu tq[# o hU yH tEk l[j) o hU ObL_H  [ 12 ] zU gL-) kb* V# [ n# ] kj$ Ec` md dl. rU$ zU hb^ e , V# [ n# ] m) hr] hd] pn^ [ pV^ ] j bOl_` lu b g. aRm ObL_H yH OvH hEr` V# [ n# ] ruuic [ rW[! ] hEr` ObL_H gw) w\` d{ dOk [ dOk- ] kb* V# [ n# ] b mEr s) Eh pg Rd] tyH pj- rW[! pOt+ s hr] s d) j) hU s hr] 2 d) j) hU m[# md hr] md Rd] rW[! pOt+ pOt_ kk] Os= j bOl_` lu y-U V# [ n# ] , t-& tU\` hl] ur) p-H kb* k bOl_` lu On_ gL-) V# [ n# ] ur) Op` j bOl_` lu ORc= Oq_` Or= kb* Os= m` aRm ORc= Oq_` Or= kb* Os= bOl_` lu ObL_H ur) tY$ kb*  [ 13 ] prOl_ On_ k bOl_` lu gL-) j- , V# [ n# ] m) d{ hr] V# [ n# ] EV [ En ] tlW[! b lT] On_ k j bOl_` lu ObL_H EV [ En ] tlW[! On_ t-& cOm_H zU gL-) kb* V# [ n# ] ObL_H EV [ En ] tlW[! Rk` kY-~ gL-) bn[ [ bV[ ] baniai bOl_` lu ruuic [ rW[! ] hEr` hb^ V tq[# o hU tEk o hU , V# [ n# ] m) EV [ En ] tlW[! On_ OvH bOl_` lu Rc-) manuuis [ mnW[( ] ur) Ob_& B$ rbU* tm# kW-! rtUH hU mD[^ r[y pEb% pbW] mnU` kOx_` aT-U ORg_H hmU Os= s-$ rb$ mr{ hg^ Oc~ [ c-) ] aOd_H pRm- j bOl_` lu lk] kUm] as[@ ORp= d. dr mnI~ On_ dWH rW[!  [ 14 ] hEr` m-n) ur) gL-) kb* , V# [ n# ] m) EV [ En ] tlW[! Rk` Om= OvH b` mt b` adU~ , T-U k bOl_` lu gRn-H ObL_H EV [ En ] tlW[! Ec` dl. tY# d{ n< [ V< ] tbY` k ur) T-U o , V# [ n# ] m) EV [ En ] tlW[! ew q$ m-q$ dWH zU , EV [ En ] tlW[! ew , l! Em m` lT] hW` l- A bOl_` lu l-% , V# [ n# ] m) bOl_` lu pn^ [ pV^ ] Od. manuus [ mnW[( ] ur) Ob_& B$ lW` tm tnIH r[y ab[H , V# [ n# ] m) bOl_` lu glU~ Em Ot+ EV [ En ] tlW[! ObLaH m` lT] On_ hW` , V# [ n# ] m) EV [ En ] tlW[! w-` mEr s) ObL_H pOt_ tq[ l! mU tlW[! b lT] s v-) n{ hb^ ObL_H jl Ol-  [ 15 ] V# [ n# ] m) EV [ En ] tlW[! l! dhL` On_ w^ EgL jl# m[# Of- , V# [ n# ] EV [ En ] tlW[! pW-! pg@ pOt_ m[# EV [ En ] tlW[! Od_` jl Ol V# [ n# ] k ayW Od_` Rk` aY-` bn[ [ bV[ ] baniai bOl_` lu m[# , n# m) t-& bY-^ hr] ObL_` lu tY$ kb* mEr s) bOl_` lu Rc) w-` zU ew Od. Ob_& B$ manuus [ mnW[( ] ur) tOg` m) al tnIH r[y mEr mlY-~ kn zU mn) On_ gw) hEr` ObL_H w\` d{ dOk [ dOk- ] kb* mn) On_ tY$ kb* mEr pOt+ g-$ mn) ur) Od_` m-lY-~ kn zU , n# m) Od. Ob_&  [ 16 ] B$ gw) hErH [ hEr` ] ObL_H w\` d{ dOk [ dOk- ] kb* w\` d{ Rg-$ Rd] kb* ObL_H zU tY$ kb* prOl_ ObL_` lu mEr m) tIH jl# ObL_H bOl_` lu pn# [ pV^ ] Od. manuus [ mnW[( ] ur) lW` tm tnIH r[y w-` ab[H , V# [ n# ] m) ObL_` lu tY$ kb* mEr t-& s) V# [ n# ] pOt_ Od. d{ Od_` mOy+ Os= ab[H s ng^ lk] q# km] d. q# dr as[@ ORp= mOy+ ObL_` lu , pOt_ ew Od. Ob_& mEr hd] w\` hEr` d{ dOk [ dOk- ] kb* V# [ n# ] n) [ V) ] tjUH pl] Ob_& V# [ n# ] m) w\` hEr`  [ 17 ] d{ dOk [ dOk- ] kb* ObL_H ab[H , w\` hEr` d{ Rg-$ Rd] kb* ObL_H pOt+ n) [ V) ] s pLUH rEdH hEr` , V# [ n# ] m) t-& hr] hd] ObL_` lu On_ gL-) kUb* ObL_H EV [ En ] tlW[! b lT] w-` s v-) Rt\ ObL_H EV [ En ] tlW[! Rk` w-` , V# [ n# ] OvH ObL_` lu Rc-) w-` s v-) Rt\ , V# [ n# ] EV [ En ] tlW[! OvH mnW[( ur) lk] km] d. dr b` vL) b` kt) rbU* rbU* tm# tm# , Od_` mlY-~ kn ObL_` lu , ab[H aTU^ bY-$ d{ EgL RkU` rs\ l[m# Ok_` r[Om= cgU* Os= ab[H mt c} d{ EgL tYo) by-# aRm` cgU^ Ev! kRtU* cr* tEw@ d{ d# d{  [ 18 ] d# Ol` n{ mEr Ok= ObL_` lu mRkI d{ TU* lb[` kY-~ pg$ o , hmU Os= s! [ s$ ] rb$ mr{ c-) hg^ srEV [ srEn ] aOd_H pRm- ObL_` l[u , mnU` kOx_` aTU* ORg_H q$ y-U pl] ng^ ur) p` V# [ n# ] , EV [ En ] tlW[! n[` [ V[` ] Oq_` kUy-U ObL_H EV [ En ] tlW[! Od_` Om= , EV [ En ] tlW[! d{ hU Rb] rU$ EV [ En ] tlW[! k ObL_` lu OvH o , EV [ En ] tlW[! Oj_H hl ky-U j. rU$ w-` , EV [ En ] tlW[! Om= OvH ObL_` lu kY-~ gL-) , myH EV [ En ] tlW[! o n[` [ V[` ] ky-U ObL_H Om= o n# EV [ En ] tlW[! Om= d{ OvH ObL_` lu kY-~ gL-) o , V# [ n# ] m) EV [ En ] tlW[! n[` [ V[` ] Oq_` ky-U ObL_H EV [ En ] tlW[! Od_` gL-) OvH ObL_`  [ 19 ] lu tbY` d{ hr.U lu sY. l[k] d{ T-U lb[` kY-~ pg$ o , gnUH ObL_` lu tRz` hdH sY. lk] y-U pUrm[ s kL. ObL_H Od. Ob_& B$ Od_` aOt= hg^ aOt= c-) auak rb$ ayU` mr{ aOd_H pRm- ObL_H Ok= ObL_` lu Ot+ d^ rU$ ObL_` lu , hl] ObL_`
0 Rating 622 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On February 6, 2015
Tháp Poklaong GaRai, Ninh Thuận.* Dân tộc Chăm: Chủ Nhân Trên"di sản phi vật thể"Di sản phi vật thể là những lễ tục tín ngưỡng và niềm tin liên quan đến đền tháp. Kể từ đó, chủ nhân trên"di sản phi vật thể"của đền tháp này phải thuộc về dân tộc Chăm và do người Chăm quản lý theo truyền thống tín ngưỡng của họ.Nhân danh chính quyền có trách nhiệm đối với"di sản lịch sử" của quốc gia, nhà nước Việt Nam có quyền đưa ra chính sách nhằm bảo tồn"di sản vật thể"của đền tháp mà người Chăm đang thờ tự, nhưng không có quyền làm chủ trên"di sản phi vật thể"của đền tháp bằng cách thay đổi luật tục, nghi lễ và lòng tin của người Chăm đối với đền tháp của họ.Dân tộc Chăm là tập thể có quốc tịch Việt Nam nhưng xếp vào thể loại ngoại lệ, không hưởng quyền tự do tín ngưỡng như những người theo Phật Giáo hay Thiên Chúa Giáo. Bằng chứng cụ thể, nhà nước Việt Nam đã tước đoạt quyền quản lý trên các đền tháp nơi mà người Chăm đang thờ phượng qua các chính sách sau đây:*Quyết định tu sửa đền tháp Chăm nhưng không cần hỏi ý kiến của người Chăm và phong cách kiến trúc có mối liên hệ với tín ngưỡng của dân tộc này.*Xây dựng các khu dân cư hay Chùa Chiền quanh đền tháp Chăm đã làm phá vỡ không gian tín ngưỡng và phong cách trang nghiêm của đền tháp, nhưng không bao giờ xin quan điểm của bà con Chăm.*Không cần hỏi ý kiến người Chăm, nhà nước Việt Nam biến đền tháp Chăm thành trung tâm du lịch bằng cách xây dựng hàng rào chung quanh có cổng ra vào để thu tiền khách du lịch, trong khi đó người Chăm phải trả tiền để vào đền tháp của họ và phải đóng góp từng gia đình để có ngân sách hầu tổ chức các nghi lễ hàng năm rất tốn kém trên đền tháp. Chính đó mà người Chăm đã từng than phiền: Việt Nam buộc: "Thần linh Chăm" làm thuê không lương cho khách du lịch.*Tự tiện mở cửa tháp cả ngày lẫn đêm để phục vụ cho khách du lịch, trong khi đó đền tháp Chăm phải đóng cửa lại sau ngày lễ tục, để thần linh Chăm có giấc ngủ êm đềm theo tín ngưỡng của dân tộc này.Đền tháp Chăm là trung tâm tín ngưỡng có tập tục riêng không liên hệ gì với chùa Phật Giáo và nhà thờ Thiên Chúa Giáo, nơi mà tín đồ có quyền vào để cầu nguyện hàng ngày. Là di sản của Ấn Độ Giáo, đền tháp Chăm chỉ mở cửa trong những ngày hành lễ có sự hiện diện của giai cấp tu sĩ. Đóng cửa tháp sau khi hành lễ không phải là tín ngưỡng riêng của người Chăm mà là qui luật chung của các đền Ấn Giáo ở Ấn Độ, Bali(Indonesia)... Tiếc rằng, nhà nước Việt Nam xem tôn giáo của người Chăm chỉ là trò mua vui cho thiên hạ bằng cách mở cửa đền tháp ngày đêm cho khách du lịch vào xem để thu tiền. Đây là thái độ "vô văn hóa" đã làm đảo lộn thế giới tâm linh của dân tộc Chăm hôm nay.*Tại Việt Nam hôm nay, nhà nước Việt Nam công nhận chủ nhân của các chùa Phật Giáo và nhà thờ Thiên Chúa Giáo thuộc về tín đồ của hai tôn giáo này và không bao giờ nhúng tay vào những nghi lễ và quyền quản lý các nhà chùa và nhà thờ này. Tiếc rằng, các đền tháp Chăm trong hai tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận cũng là nơi thờ tự, nhưng không hưởng các qui chế pháp lý như các chùa Phật Giáo hay nhà thờ Thiên Chúa Giáo.Có chăng họ nghĩ dân tộc Chăm là tập thể người dân thua trận, không có quyền hưởng những qui chế tín ngưỡng mà nhà nước Việt Nam đã ban cho Phật Giáo và Thiên Chúa Giáo mà đa số tín đồ là dân tộc việt?.Tự do tín ngưỡng là quyền thiêng liêng ghi rõ trong hiến pháp Việt Nam. Chính vì thế, nhà nước công nhận rằng chủ sở hữu của Chùa Phật Giáo hay nhà thờ Thiên Chúa Giáo hoàn toàn thuộc về tín đồ của hai tôn giáo này.Họ có quyền mở cửa ra vào lúc nào cũng được, không cần xin phép bất cứ ai.Ngược lại, đền tháp của dân tộc Chăm do chính quyền Việt Nam canh giữ.Mỗi lần lên đền tháp tế tự, người Chăm phải viết đơn xin phép nhà nước, mặc dù đền tháp này do cha ông người Chăm để lại. Đây là chính sách chiếm đoạt đền tháp của dân tộc Chăm,một hiện tượng đàn áp tôn giáo chưa từng xảy ra trên thế giới. by Thong Thai Nghiem Source: facebook.com
0 Rating 158 views 1 like 0 Comments
Read more
By: On February 3, 2015
KHÓC NÀNG MỴ Ê                                            “Châu Giang một giải sông dài,                         Thuyền ai than thở một người Cung phi!...”                                                              Tản Đà.   Gió Châu giang, gió gào cung oán Trong sương mờ ai khóc thảm thương. Có phải nàng Mỵ Ê của Chiêm Thành năm ấy? Đã gieo mình xuống bãi sông đây. Ta nghe đâu đây, tiếng Chiêm nương than thở, Và lại buồn tiếc nhớ thuỡ xa xưa: “ - Cái thuở giang sơn còn chiến loạn, Phận má đào tựu cánh bèo trôi. Kẻ ngang tàn vùi hoa, dập liễu, Để Hoa Vàng rụng xuống bến sông sâu. Và từ đó tiếng lòng sông vang vọng, Như tiếng người con gái khóc đêm trăng.” Ta đứng đây, nơi Chiêm nương tuẫn tiết, Để khóc người thiếu nữ liệt trinh. Nàng không chết dù xác thân đã mất, Vẫn sống hoài sống mãi với non sông. Đây dưới đáy Châu giang thăm thẳm, Anh linh nàng vẫn khóc với nhân gian.  Ja shaklikei    
0 Rating 400 views 2 likes 0 Comments
Read more
By: On January 17, 2015
Hader Wek Ka Kadha Adaoh Gru Dang Nang Qua Thekwa Palei Ram Di kraong gah ka Bruh hu ralo banek nduec trun marai tel banek patau. Banek patau nan nduec aia nao ka dua mblang hamu, nan mblang hamu palei hamu Tanran saong mblang hamu palei hamu Craok.Tel di thun banek patau ni pacalah, gah hamu palei hamu Craok di hu aia ngap hamu pala padai o. Yau nan ye gru Dang Nang Qua hu panâh kadha adaoh “Palei Dahlak” yau ni: "Palei dahlak takik hamu o padaiGaok ndua pak thun dak raiTanâh len raong pa-ndar ni maraiMada nagar urang , kasaot min palei drei.Juai wer tanâh aia muk keiKhik kajep adei sa-ai manaok drei." Palei hamu Craok nan sa palei ngap gaok glah mâng haluk tanâh len hu pajieng mâng ong muk kei caik marai tel harei ni. Wak di harei dua, bulan sapluh, thun dua ribau sa pluh pak. Bel Seattle, Washington  --------------------------------------------***-------------------------------------------- hd-^ w-` k\ kD aOd_H RgU d) N-) k\W  d[ ORk= gH k\ RbUH hU rOl bn-` VW-! RtU# mEr t-& bn-` pt-U ; bn-` pt-U N# VW-! aY On_ k\ dW vL) hmU ; N# vL) hmU pl] hmU tRn# Os= vL) hmU pl] hmU ORc_` ;t-& d{ TU# bn-` pt-U n{ pclH ; gH hmU pl] hmU ORc_` d{ hU aY Q$ hmU pl pEd o ; y-U N# y| RgU d) N-) k\W hU pnIH kD aOd_H “pl] dhL`” y-U n{ :  pl] dhL` tk[` hmU o pEd Og_` VW p` TU# d` Er tnIH l-# Or= pV^ n{ mEr md ng^ ur) ; kOs_@ m[# pl] Rd] EjW w-^ tnIH aY mU` k] K[` kj-$ ad] SEA mOn_` Rd]  ; pl] hmU ORc_` N# s pl] Q$ Og_` gLH mI~ hlU` tnIH l-# hU pjY-~ mI~ o) mU` k] Ec` mEr t-& hr] n{ ; w` d{ hr] 2 ; bUl# 10 TU# 2014 ; b-& Seattle, Washington  
0 Rating 319 views 2 likes 0 Comments
Read more
By: On January 10, 2015
Pieh Khik Phun Pajaih CampaThanh Phu Ba       Anâk Cam drei thei thei jang caong khik phun pajaih Campa deng rai di ngaok dunya ni.       Nagar Campa lihik liwik biak jeh, min muk kei Cam hu caik wek ralo drap ar siam hatuah saong hadom anâk tacaow daok ka-ndaong, calah caluen grep gilaong. Manâng drei nduec nao aia lingiw pa-ndap daok yaong, manâng drei daok wek dalam aia khik peng paga ala sang.       Mâng kal dahlau, hu patao bia pakreng nagar, buel Cam dah danuh pajieng hu ralo drap ar caik rai.      Tel harei ni, buel Cam wer glai, mblung rakak ka palei nagar oh hu urang kaya pan akaok; adat ca-mbat mada harei mada hao karang, po halau janâng o khin ba jalan tuei tapak; akhar tapuk thruw duw ngap ka bhap bini ruw ri, calah tung tian.        Anâk Cam pok mata maong gep, thuak yawa, ké sanâng duah baoh kadha khik phun pajaih. Mayah Cam thau anit bengsa, marat hatai khik phun pajaih Campa nan hu macai jalan pieh ngap. Likau biai sa jalan biak asit min ba marai ligaih makrâ biak praong : Yau panuec bhian ndem "Sap Cam daok, pajaih Cam daok" Sap ndem anâk mânuis drei mai dahlau di hu akhar tapuk. Nyu pagem saong rup ita mâng harei tabiak di awal amaik tel harei tagok suor riga. Tapa sap ndem, khaol ita thau gep, peng gep, ba tung tian anit ranam gep. Khik hu sap ndem Cam nan khik hu pajaih Cam ye. Panuec sinbiai :      1/ Dom mik wa praong thun ngap amaik amâ ba jalan ndem harat sap Cam dalam ma-ngawom drei. Harei harei pahader anâk tacaow ndem sap Cam. Pakep nyu ndem sap urang lingiw dalam sang. Liwik harei jieng tana siam lo.      2/ Kanâ dom mik wa glaong akhar tapuk Cam wak jieng tapuk asit asit  pataow ndem sap Cam mâng akhar latinh pieh ka anâk ranaih mbuen si bac, payua nao grep libik palei Cam tok khik anguei.      3/ Dalam gruk nyaom biai, ngap cheh chai tamia adaoh halar kieng ndem harat sap Cam ka ralo drei peng para-ndap.      Harung wek, pieh khik pajaih Campa deng rai di baoh tanâh ni, Anâk Cam abih drei mâng dalam tel lingiw aia hader ew gep, kaih gep, ba gep ndem sap Cam. Ngak hu yau nan, paran Cam hadah hadai harei hadei. ------------------------------------------------------------***------------------------------------------------------------   pY-H K[` PU# pEjH c.f\ anI` c. Rd] T] T] j) Oc= K[` PU# pEjH c.f\ d-) Er d{ Oq_` dU#y n{..,,ng^ c.f\ l[h[` l[w[` bY` j-H, m[# mU` k] c. hU Ec` w-` rOl Rd$ a^ sY. htWH Os= hOd. anI` tOc_* Od_` kOV=, clH clW-# Rg-$ g[Ol=, mnI~ Rd]VW-! On_ aY l[q[* pV$ Od_` Oy=, mnI~ Rd] Od_` w-` dl. aY K[` p-) pg al s) ,, m) k& dhL-U  hU pOt_ bY pRk-) ng^ ,, bW-& c. dH dnUH pjY-) hU rOl Rd$ a^ Ec` Er,,t-& hr] n{, bW-& c. w-^ EgL, vLU~ rk` k\ pl] ng^ oH hU ur) ky p# aOk_` ,, ad@ cv@ md hr] md Oh_ kr), Of- hl-U jnI~ o K[# b\ jl# tW] tp` ; aK^ tpU` RTU* dU* Q$ k\ B$ b[n{ rU* r{ clH tU~ tY#,,   anI` c. Op` mt Om_) g-$, TW` yw Ok- Sn) dWH Ob_H kD K[` PU# pEjH,,myH c. T-U an[@ b-) S\ mr@ hEt K[` PU# pEjH c.f\ N# hU mEc jl# pY-H Q$,, l[k-U EbY s jl# bY` aS[@ m[# b\ mEr l[EgH mRkI bY` ORp= : y-U pnW-! BY# OV. "S$ c. Od_`, pEjH c. Od_`" S$ OV. anI` mnW[( Rd] Em dhL-U d{ hU aK^ tpU`, zU pg< Os= rU$ i[t m) hr] tbY` d{ aw& aEm` t-& hr] tOg` OsW^ r[g ,,tp S$ OV. OK_& i[t T-U g-$, p-) g-$, b\ tU~ tY# an[@ rn. g-$,,K[` hU S$ V. c. N# K[` hU pEjH c. y|,, pnW-! S[# EbY :1: Od. m[` w ORp= TU# Q$ aEm` amI b\ jl# V. hr@ S$ c. dl. mQ\Ow. Rd], hr] hr] phd-^ anI` tOc_* OV. S$ c.,, pk-$ zU V. S$ ur) l[q[* dl. s), l[w[` hr] jY-) tn sY. Ol,,2: knI Od. m[` w OgL= aK^ tpU` c. w` jY-) tpU` aS[@ aS[@ pOt_* V. S$ c. mI) aK^ lt[# k\ anI` rEnH vW-# s{ b!, pyW On_ Rg-$ l[b[` pl] c. Ot` K[` aqW],,3: dl. RgU` Oz+ EbY, Q$ C-H EC tmY aOd_H hl^ kY-) V. hr@ S$ c. k\ rOl Rd] p-) k\ f\N$,, hrU~ w-`, pY-H K[` pEjH c.f\ d-) Er d{ Ob_H tnIH n{, anI` c. ab[H Rd] m) dl. t-& l[q[* aY hd-^ ew g-$, EkH g-$,  b\ g-$ V. S$ c.,, Q` hU y-U N# pr# c. hdH hEd hr] hd] ,,  
0 Rating 638 views 4 likes 0 Comments
Read more
By: On December 24, 2014
NHỮNG CÂY XƯƠNG RỒNG NỞ HOA Tùy bút           Vùng đất Panduranga, nằm về phía cực Nam miền Trung đất nước, vùng đất đầy nắng, gió, ít mưa và khô hạn.Dải đất ấy tựa mình vào núi, bị biển bao phủ ở phía Đông, chỉ còn sót lại những cánh đồng nhỏ hẹp trên tuyến đường Bắc - Nam ở trung tâm xứ sở. Nơi ấy, hằng năm biển khơi cuồn cuộn mang trong mình tiếng “gào thét” cuồng nộ của những trận bão trùng dương đe dọa vào lòng đất mẹ.Mưa, những trận mưa hiếm hoi nhưng daidẳngđi theo gió bãolàm nát bờ kênh, con mương, làm cho đồng ruộng ngập tràn nước lũ, mùa màng thất bát, tan hoang…  Nhưng bão tố, phong ba và tiếng thét gào của trùng dương, không khắc nghiệt bằng cái nắng như thiêu như đốt, làm cháy da cháy thịt, bằng cái gió như rang, như tát và bằng cái khô hạn của xứ sở ít mưa nhất nước. Vào những mùa hạn ấy, sông cạn đấy, mặt đất nứt nẻ, hằng rõ những vết “chân chim”,  bóc lên một mùi “khen khét” như một chảo dầu đang nóng,  ruồng đồng thì khô héo, cây lúa héo hon, trâu bò đợi nước mòn mỏi… Kỳ lạ thay! Trên mảnh đất khô cằn, nứt nẻ, đất nằng và gió ấy! Có một loài cây vẫn trường tồn, với sức sống phi thường và mãnh liệt, dường như bất chấp tất  cả những khắc nghiệt, những khổ sở mà thiên nhiên “gieo” vào lòng đất mẹ. Trên những cồn cát của quê hương, cây xương rồng vẫn mọc lên, vẫn sinh sôi từ ngàn đời nay như thách thức tất cả những đe dọa, thử thách của nằng, của gió, của trùng dương muôn đời dậy sóng… Ở mảnh đất ấy, bên cạnh những đồi cây xương rồng là những Palei Chăm đã có từ lâu rồi, như là chứng nhân cho một thời quá vãng, khi tổ tiên họ còn là thần dân của vương quốc Champa xưa cũ. Trong đó có cái palei Krak, mà trên con đường vào Palei, bạt ngàn, bạt ngàn những cây xương rồng, tạo thành cả một rừng cây xương rồng.Rừng cây xương rồng ấy, dường như “ôm trọn” cả palei Krak trong mình nó. Cũng như các palei Chăm trên vùng đất Panduranga này, palei Krak mưa ít, nắng nhiều, năm nào cũng khô hạn. Con mương duy nhất chạy vào palei cách sông đến mười mấy cây số, ruộng đồng cũng vậy. Hằng năm cứ vào mùa hạn, cây lúa, cây khoai, cây bắp thiếu nước nằm chết yểu trên những đồng ruộng cằn khô, trơ sỏi đá, trâu, bò, dê, cừu… há hốc chờ nước, dáng đi xiêu quẹo, mắn nhấm mắt mở, rên lên những tiếng thoi thót…Nhìn cái cảnh tượng ấy, con người cũng ngao ngán, thở dài nhìn trời, nhìn đất mà trĩu nặng nỗi lo âu cho mùa màng năm tới. Thế nhưng! Cũng lạ kỳ thay! Cái palei Krak ấy, vẫn tồn tại từ bao đời nay, trên chính cái vùng đấtấy, con người vẫn sống, vẫn sinh sôi, vẫn con đàn, cháu đống. Đêm đêm cụ già vẫn vỗ trống Baranưng, ngâm cho lũ trẻ nghe những Ariya huyền thoại, những Damnưy cổ tích gợi nhắc về một quá khứ xa xăm huyền ảo. Dưới ánh trăng mờ, trai gái hẹn nhau bên bên nước, hát đối giao duyên ru lòng say đắm…Và đặc biệt, palei trong những mùa lễ hội - với điệu múa, lời ca, với tiếng xaranai, baranưng rộn rã, đàn em thơ khoe những tà áo mới, nam thanh, nữ tú dập dìu trẩy hội – lại chợt bừng tỉnh và đắm chìm trong niềm vui bất tận để quên đi những gánh nặng của đời thường.Lạ kỳ thay! Palei Krak, hay nói đúng hơn là những người con của palei này, có một sức sống mãnh liệt như chính những cây xương rồng nở quanh palei vậy! Trong cái palei nhỏ này, những người già như ông Than Takok, bà Nai Para như những cây xương rồng già, dù đã đuối sức sau một đời ròng rã, dù trên bóng thân ngà đã xuất hiện những nếp nhăn như những vết nứt trên thân những cây xương rồng già cổi. Nhưng các cụ, các bà lại có một sức sống bền bỉ, nghị lực phi thường dìu dắt và trở thành mẫu mực cho những thế hệ trẻ như những cây xương rồng tuy già, nhưng vẫn vươn mình che chở cho những cây xương rồng non mọc lên và trưởng thành, trong gió xương của những trận bảo cát, của cái hạn trên quê hương. Cụ Than Takok, một người đứng đầu làng, người điều hành hội đồng phong tục của cả palei. Cụ vẫn cần mẫn lưu giữ những kho sách cổ hiếm hoi, những điệu dân ca còn sót lại, rồi đêm đêm cụ đem ra đọc, hát và dạy cho những đứa trẻ. Cụ vẫn miệt mài gieo vào lòng con cháu vài ba ngôn ngữ cha ông, vài ba câu truyện cổ, dạy chúng biết thổi kèn Xaranai, đánh trống Ginang, kéo đàn Kanhi… Bà Nai Para, vợ ông, người chủ tộc họ Bàlamôn uy tín nhất thôn, bà vẫn đêm ngày truyền dạy cho những thiếu nữ những gia huấn ca Patauw Adat Kamei, dạy những cô gái biết dệt, biết múa, biết ca như ngày xưa bà và mẹ của bà dạy bà vậy…Những cụ già như ông Than Takok, bà Nai Para… như những người giữ “ngọn lửa” truyền thống của cái palei này vậy! Những thanh niên, thiếu nữ của palei Krak, thì như những cây xương rồng trưởng thành, đang vươn sức mình lên, cống hiến tuổi thành xuân cho cuộc đời để làm cho rừng cây ngày càng tươi trẻ, đậm sức sống trước những phong xương, bão táp. Những thiếu nữ như Mưsa vẫn hằng ngày múa những điệu khoang thai, với giọng hát trong ngần đêm đến niềm vui, tiếng cười cho cuộc đời. Mưsa là người thiếu nữ đẹp nhất palei, nàng làm duyên sau khung cửi, ngày ngày dệt những sợi chỉ ước mơ, tô vẽ thêm cho sắc thắm của cuộc đời, nàng duyên dáng trong áo Dhai dân tộc, với chiếc khăn Matra nhung huyền trong những đêm hẹn ước… Còn những nam thanhnhư Para, lại cống hiến sức khỏe, sự cường tráng của mình vào lao động, chàng ngày ngày gặt ruộng, trồng khoai,… xây bồi sự ấm no của xóm làng. Những người thanh niên như chàng đã đem lại cho palei những hạt thóc đầy bồ, tôm cá đầy khoang, cho câu hạt nhặt quang mãi âm vang trên đất quê mình. Những cây xương rồng non, bé hơn, mới đâm chồi lại như những đứa trẻ thơ của cái palei Krak vậy. Chúng là những rặng xương rồng yếu, gai rất mềm dễ tổn thương, nhưng chính chúng lại được che chở, hấp thụ dinh dưỡng được san sẻ từ những cây lớn hơn. Những đứa trẻ của palei hồn nhiên, trong trẻo, chúng rong chơi trên trong xóm thôn quen thuộc, chúng thả hồn mình vào tiếng sáo, bóng diều, ngày ngày reo ca tiếng ca mục đồng. Và những buổi chiều giăng câu bắt cá, đêm đến chúng hát ca, reo hò, vui đùa ngộ ngĩnh, palei trong những đêm như vậy lại chợt rộn ràng, chợt tươi trẻ. Những đứa trẻ, như những xương rông non vẫn nở, để cho cuộc đời tươi trẻ, vui ca, để cho những gánh nặng, những suy tư về cuộc sống vơi đi ít nhiều. Trên dậm dài mảnh đất quê hương khô cằn, nắng, gió, nghèo nàn này, con người, nhất là người Chăm, như cái palei Krak vậy, họ vẫn sống, vẫn trường tồn, vẫn sinh con, đẻ cái. Và hơn hết, trong điều kiện kham khổ ấy, họ vẫn vui ca, vẫn hát hò, người già vẫn lưu giữ và truyền dạy cho con cháu mình những truyền thống của dân tộc. Nhưng nam thanh, nữ tú vẫn yêu nhau, vẫn mộng mơ vẫn đem cho đời câu ca, điệu múa vẫn lao động để tô điểm cho đời dù đời còn nhiều khó khăn thử thách. Những đứa trẻ, đem tuổi thời làm vui tượi và rộn ràng thôn ấp, chính chúng đã làm cho người lớn vơi đi phần nào những nỗi âu lo từ nụ cười hồn nhiên, ánh mắt trong trẻo, ngây thơ của mình. Lạ thay! Giữa cái xứ sở, cái mảnh đất thiếu vắng phì nhiêu, trải đầy nắng hạn.Con người vẫn vươn lên, không chỉ tồn tại mà còn phát triển, còn hát ca, còn bồi đắp cho cõi đời thêm tươi đẹp và dạy cho con cháu phải lưu giữ truyền thông, tiếp tục bồi đắp cho cuộc đời thêm tươi đẹp. Họ, như những cây xương rồng mọc lên ở mảnh đất này từ ngàn đời nay vậy! Và, ở đấy, họ đã nở hoa, như chính những bụi cây xương rồng nở hoa trên vùng trời đất mẹ.                                                                         JASHAKLIKEI                                                                         Panrang, tháng 11, 2014
0 Rating 186 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On December 7, 2014
VĂN HÓA CHĂM: BẢN SẮC VÀHỘI NHẬP (Tiếp cận từ góc nhìn đương đại) Đặt bút, viết lên những dòng này, tức là trong tâm tưởng[của tôi] đang chứa đầy những ưu tư, trăn trở về một dân tộc [Chăm] trong thế đứng của nó ở một thời đại [hội nhập hay toàn cầu hóa]. Bản sắc của một dân tộc, là cái hồn túy tạo nên đặc trưng riêng có của dân tộc đó, cốt lõi của nó chính là văn hóa dân tộc, văn hóa ở đây bao gồm ngôn ngữ, chữ viết, văn chương, trang phục, nghi lễ, hội hè, phong tục, tạp quán...Văn hóa có tính “động”: thời đại nào, thì văn hóa đó, nói thế tức làvăn hóa sẽ biến đổi theo từng thời kỳ,  nhưng cái cốt tủy, cái căn cơ cấu thành văn hóa thì không bao giờ được biến đổi, một khi biến đổi thì tức là mất văn hóa, mất bản sắc. Thời đại – từ phía nó - luôn đặt ra cho văn hóa những lo lắng, yêu cầu phải làm thế nào để vừa hội nhập, biến đổi văn hóa theo thời đại, mà lại vừa giữ gìn những cốt tủy của văn hóa? Không biến đổi, một số hiện tượng văn hóa sẽ trở nên lạc hậu, lỗi thời,làm trì trệ dân tộc; nhưng nếu biến đổi quá nhanh, không kiểm soát, thiếu chọn lọc thì những giá trị văn hóa quý báu, lành mạnh sẽ có nguy cơ bị mai một và đánh mất, khi đó dân tộc không còn văn hóa nữa, bởi vì bản sắc - cốt tủy của văn hóa - không còn nữa. Câu hỏi đặt ra lớn là làm thể nào để vừa hội nhập mà vẫn giữ vững bản sắc? Để vừa “hòa nhập mà không hòa tan”? Mahatma Gandhi, nói: “Tôi không muốn ngôi nhà của mình bị vây kín giữa những bức tường và những khung cửa sổ luôn luôn bịt chặt, tôi muốn văn hóa của mọi miền đất tự do thổi vào ngôi nhà đó. Nhưng tôi sẽ không bị cuốn đi bởi bất cứ ngọn gió nào”.Đểthực hiện nhiệm vụ này mỗi dân tộc cần phải có: bản lĩnh văn hóa. Trãi qua biết bao biến thiên, thâm trầm của lịch sử, bản sắc Chăm cũng biết bao lần biến đổi. Từ thuở ban sơ, khi người Chăm chỉ biết đến thần trời, thần đất, thần mưa, thần biển,... chưa biết gì đến Shiva, Po Awlaoh,... chỉ biết các thầy mo, thầy cúng chứ chưa biết gì đến Basaih, Po Acar... chỉ biết Chăm Jat chứ chưa biết đến Chăm Hier, Awal hay Chăm Islam. Cho đến khi, Ấn Độgiáo, Hồi giáo theo đường biển truyền vào Champa làm biến đổi tín ngưỡng, tôn giáo của người Chăm, cứ mỗi lần như vậy, văn hóa Chăm lại bao lần biến đổi. Và cứ mỗi lần như vậy, bản lĩnh văn hóa Chăm lại luôn được thể hiện.Trong quá trình ấy, người Chăm không hấp thụ toàn bộ Ấn Độ giáo, Hồi giáo mà đã biến đổi làm cho các tôn giáo này khi du nhập vào không còn như nguyên bản mà bị bản địa hóa, tạo nên những đặc thù của văn hóa Chăm trong đó các tôn giáo (với hệ thống đền tháp, thánh dường, tăng lữ) kết hợp với chế độ mẫu hệ, tục thờ cúng đa thần và ông bà, tổ tiên… Nhưng cũng trong quá trình biến thiên ấy, đã biết bao lần người Chăm lãng quên hoặc dần đánh mất các giá trị truyền thống trong nền văn hóa của mình. Những cuộc biến loạntrong các năm 1471, 1832 làm cho người Chăm không còn đồng nhất phân biệt làm Chăm giữa, Chăm Đông, Chăm Tây, Chăm Việt Nam, Chăm Campuchia…Kéo theo đó ngôn ngữ và phong tục của mỗi cộng đồng cũng có nhiều dị biệt. Mặt khác, từ những cuộc chạy loạn ấy, bao sách vở, văn bản Chăm cũng bị thất tán, mất đi rất nhiều giá trị văn hóa. Người Chăm ngày nay không còn hoạt động kinh tế biển, do đó dấu ấn văn hóa biển rất mờ nhạt, nhiều phong tục tập quán được ghi trong thư tịch cổ cũng không được duy trì… Dù vậy, cho đến hôm nay, người Chăm vẫn còn giữ được rất nhiều truyền thống văn hóa quý báu như duy trì các lễ hội, lễ tục như Rija nưgar, Kate, Ramưwan… Nhiều người già vẫn còn giữ nhiều ciet sách, vẫn biết ngâm nhiều ariya, damnưi…vẫn còn các nghệ nhân thổi kèn Saranai, đánh trống Baranưng, Ginang, đàn Kanhi…Đặc biệt, ngôn ngữ Chăm dù có bị lai căng, pha tạp rất nhiều, nhưng vẫn được các nhà nghiên cứu, chuyên gia và một số người Chăm quan tâm và duy trì (dù con số này cũng ít ỏi)… Nhưng,thế giới ngày nay đã “phẳng”, người ta có thể gọi thế giới và cách mà các thực thể trong thế giới này liên kết với nhau bằng các mỹ từ như hội nhập, toàn cầu hóa hay bất cứ thuật ngữ nào khác, nhưng tựu chung lại nó ám chỉ một thế giới mà ở đó, ranh giới giữa các dân tộc, các nền văn hóa là rất nhạt nhòa. Thế giới đương đại là một thế giới hội nhập, hội nhập không ngừng với tốc độ vũ bão. Nhân loại đã trải qua nhiều cuộc hội nhập, tiếp xúc giữa các dân tộc, các nền văn hóa nhưng hôm nay hội nhập diễn ra ở quy mô toàn thế giới, với mức độ hội nhập mạnh mẽ gắp nhiều lần. Truyền thông hiện đại, làm cho con người ở khắp nơi liên kết với nhau dễ dàng, từ đó văn hóa, ngôn ngữ, lối sống của dân tộc này sẽ tiếp xúc, ảnh hưởng văn hóa, ngôn ngữ, lối sống dân tộc khác. Những nền văn hóa này sẽ hòa nhập vào nền văn hóa kia, nhiều hiện tượng văn hóa của dân tộc khác sẽ ảnh hưởng và phổ biến vào dân tộc này. Chẳng hạn, Hàn Quốc thông qua truyền thông đa phương tiện (phim ảnh, âm nhạc) đã du nhập thời trang, âm nhạc, cách sống vào các quốc gia khác. Các sản phẩm văn hóa ngoại lại (từ tinh thần đến vật chất) không có chút gì mang dấu ấn dân tộc tồn tại đầy rẫy,… Trong trào lưu đó, những yếu tố truyền thống được ông, cha lưu giữ tự bao đời rất có nguy cơ bỉ những thứ văn hóa lai tạp, hiện đại, nhất thời ấy làm biến đổi, mai một vàlúc nào cũng cóthể nuốt chửng các giá trị văn hóa truyền thống ấy, con người hiện đại mà đa phần là giới trẻ đang cuốn theo những trào lưu văn hóa hiện đại, ngoại lai mà lãng quên dần văn hóa dân tộc – Chăm cũng vậy! Thế giới cần phát triển, cần hiện đại, nhưng thử thách đặt ra là phải làm thế nào vừa phát triển nhưng vừa không đánh mắt bản sắc dân tộc?Thomas L.Friedman trongchiếc lexus và cây Ôliu viết: “…Bất cứ xã hội nào muốn thịnh vượng về kinh tế đều phải cố gắng chế tạo cho được xe Lexus và lái chúng ra thế giới. Nhưng người ta cũng đừng bao giờ ảo tưởng rằng chỉ tham gia tích cực vào kinh tế thế giới không thôi mà có thể tạo được xã hội lành mạnh…Một đất nước không có những rặng cây Ô liu khỏe khoắn sẽ không bao giờ có được cảm giác nguồn gốc được duy trì hay an tâm để có thể đón nhận và hội nhập với thế giới. Nhưng một đất nước mà chỉ có những rặng Ô liu không thôi, chỉ lo giữ cội rễ, mà không có xe Lexus, thì sẽ không bao giờ tiến xa được. Giữ cân bằng giữa hai yếu tố nói trên là một cuộc vật lộn triền miên…”. Dân tộc Chăm, tồn tại trong kỷ nguyên toàn cầu hóa, không thể không hội nhập, không thể đứng ngoài tiến trình phát triển. Nhưng cũng như các nền văn hóa khác, Chăm cần phải giữ cho được bản sắc, đối với Chăm đây thật sự là một thách thức, “một cuộc vật lộn triền miên”. Qủa thật không ngoa khi nói như vậy! Hiện thực sinh hoạt văn hóa Chăm đương đại, cho phép chúng ta nghi ngờ đến một viễn cảnh đánh mất bản sắc dân tộc và những nguy cơ đó sẽ là sự thực nếu chúng ta không có những hành đồng kịp thời và hữu hiệu.           Cứ xem, palei Chăm nơi tự bao đời lưu giữ các giá trị truyền thống, tính cố kết cộng đồng, nơi mà ở đó mỗi người con ý thức được vai trò, nghĩa vụ của mình với gia đình, dòng họ, xóm làng, nơi ở đó luật tục (adat) được bảo tồn, tình làng nghĩa xóm và các giá trị văn hóa được lưu giữ…Ngày nay,dưới ảnh hưởng của đô thị hóa, các palei  đã thay đổi sâu sắc, đó không còn là một không gian khép kín, nơi mà các giá trị truyền thống được lưu giữ biết bao đời.Mà mang nhiều hướng mở, nhiều giá trị bên ngoài xâm nhập vào palei, kéo theo đó nhiều giá trị văn hóa truyền thống cũng không ngừng nhiều biến đổi.           Đã không còn nữa, hình ảnh những cụ già, dưới ánh trăng, đêm đêm ngâm những dòng ariya, damnưi cho con cháu, người Chăm của mấy chục năm gần đây, đã không còn được trưởng thành từ những câu ca dao, tục ngữ, truyện cổ Chăm, giới trẻ chỉ biết có truyện Con rồng cháu tiên, Thánh Gióng, Tám Cám, Cây tre trăm đốt…chứ không biết đến truyền thuyết Po Inư Nagar, Po Kloang Garai, Po Rame hay Ja Li-u… Những đứa trẻ lớn lên lại được cha mẹ nó đưa vào giất ngủ những câu truyện cổ tích của dân tộc khác, chứ không hề biết gì đến các truyện cổ của dân tộc mình.           Từ xưa, dân tộc Chăm có một kho tàng văn chương rất phong phú, nhưng thời gian và sự quên lãng của con người khiến nó tản mát đi rất nhiều. Ngày nay, nhiều nhà nghiên cứu, học giả đã bỏ nhiều công sức ra - để gọi là - sưu tầm lại những tác phẩm văn chương Chăm. Nhưng đó chỉ là công việc mang tính hàn lâm, đa số người Chăm vẫn không quân tâm đến nó, đối với họ những mẫu chuyện của người Kinh đã ăn sâu vào tâm trí ngay từ lúc còn ngồi trên ghế nhà trường và đến lược họ, lại kể những câu truyện đó cho con cháu mình nghe.           Không chỉ trong văn học, ngày nay, nhiều giá trị dân gian khác như âm nhạc, diễn xướng cũng đang bị thế hệ hội nhập dần dần lạnh nhạt. Trong cộng đồng không còn bao nhiêu nghệ nhân biết hát xướng dân ca, đánh đàn Kanhi, trống Baranưng, Ginăng, kèn Saranai…Dù ở quê nhà, cũng như tại Sài Gòn đã tổ chức nhiều lớp học nhạc cụ truyền thống nhưng số người theo học vẫn rất ít so với số đông những người Chăm quay lưng lại với truyền thống, mà phần nhiều trong đó là các bạn trẻ.           Ngày nay, nhiều thanh niên Chăm không còn thích nghe các bài dân ca, các ca khúc viết về quê hương xứ sở, về palei Chăm với những hình ảnh những ngôi tháp Chàm cổ kính, con sông quê hương, xóm thôn Chăm mùa gặt, tình yêu thủy chung của trai gái làng Chăm… những ca khúc ấy tự bao đời đã trở thành bệ đỡ tinh thần cho bao đứa con Chăm, gợi nhắc trong họ tình yêu quê hương, sứ xở.  Ngày nay, đa phần người trẻ chỉ hướng về các dòng nhạc hiện đại, mang nhiều tính thị trường của Vpop, Kpop…mà lãng quên dần các bài dân ca, các bài hát về quê hương, dân tộc.           Bên cạnh đó, một hiện tượng văn hóa cũng đang ngày càng mai một, ngay trong tâm thực của người Chăm hiện đại đó là trang phục truyền thống Chăm. Người Chăm có nhiều loại trang phục cổ truyền phong phú, mang tính thẩm mỹ cao và chứa đầy giá trị tinh thần, tạo nên một nét đặc trưng của tộc người.Thế nhưng, hiện nay, trừ những người đã cao tuổi, hầu hết những người hai mươi, ba mươi tuổi không còn thích mặc váy, áo dài truyền thống mà chỉ mặc áo sơ mi, quần tây trong đời sống hằng ngày (kể cả nam lẫn nữ), trừ các dịp lễ hội người ta mới khoác lên mình những trang phục mang đậm hồn dân tộc ấy!               Đặc biệt nhất, đáng báo động nhấtlà thực trạng ngôn ngữ và chữ viết của dân tộc Chăm. Trong khi những chuyên gia về ngôn ngữ Chăm vẫn đang có những bất đồng về truyền thống và cải biên, vẫn chưa tìm được một tiếng nói chung thì ngôn ngữ Chăm đang hằng ngày, hằng ngày lụi tàn, giãy chết. Thực trạng người Chăm giao tiếp với nhau trong đời sống hằng ngày trộn đến 50% tiếng Việt là một điều đáng quan ngại, vì nhiều từ ngữ sẽ bị lãng quên, muốn biết, muốn hiểu nghĩa người ta lại phải tra từ điển và sách vỡ, đây là một thực trạng phổ biến trong đời sống Chăm đương đại và đã được nhiều nhà nghiên cứu, chuyên gia báo động. Đó là về ngôn ngữ nói, về chữ viết, người Chăm ngày nay cũng không nhiều người biết viết tiếng Chăm nữa. Cho dù, trong các trường tiểu học ở các làng người Chăm, có dạy tiếng Chăm, nhưng khi lên các lớp lớn do không có điều kiện học thêm và tiếp xúc, chủ yếu trong đời sống họ viết và sử dụng toàn tiếng Việt nên sẽ không thể nhớ được, dần dần lãng quên nó. Tiếng Chăm, đối với nhiều người,không còn quan trọng nữa, không ứng dụng gì nhiều trong cuộc sống nên họ không cần thiết phải viết nó. Một số sinh viên, có ý thức bảo tồn chữ viết dân tộc đã tham gia vào các lớp học tiếng Chăm, nhưng số lượng này không được bao nhiêu, và khi hoàn thành khóa học do không có điều kiện, thời gian tiếp xúc viết, nói hằng ngày nên lâu dần lại quên. Thành ra, tiếng nói đã lai căng, chữ viết Chăm lại càng bị mai một, không còn bao nhiêu người biết viết chữ mẹ đẻ nữa, ngôn ngữ Chăm thành ra một thứ ngôn ngữ hàn lâm (tức là chỉ sử dụng cho giới tu sĩ, giới nghiên cứu, học giả…) ngày càng xa rời đại chúng, trong khi một thứ ngôn ngữ ngoại lai lại pha tạp vào tiếng nói hằng ngày và lấn áp chữ viết dân tộc– đó là tiếng Việt, cái mà chúng tagọi là tiếng phổ thông. Ngôn ngữ Chăm, không chỉ là đặc trưng cho bản sắc văn hóa, nó còn là phương tiện để con người hiện đại liên kết với quá khứ. Một khi ngôn ngữ này càng ngày càng bị mai một thì nó cũng sẽ kéo theo các giá trị văn chương, các văn bản cổ Chăm sẽ không còn ai lưu giữ, bảo tồn và truyền lại cho thế hệ sau, dòng chảy văn hóa của dân tộc sẽ bị gián đoạn. Không còn ngôn ngữ, người Chăm cũng sẽ mất đi nhiều giá trị văn hóa, mất đi bản sắc, câu truyện của 2500 ngôn ngữ đã mất (theo Unesco) là một cảnh báo cho chúng ta. Trong suốt tiến trình tồn tại, văn hóa Chăm đã bao lần biến đổi có lúc nó hấp thu rồi tiếp biến các giá trị bên ngoài, tạo thành cái riêng, cái đặc sắc của mình, thế là tốt! Nhưng cũng có những lúc thăm trầm và đen tối, nó bị văn hóa ngoại lai thống trị và xâm nhập, khiến cho một số truyền thống bị lụi tàn…Nhưng, may mắn thay! Hôm nay,  Chăm vẫn còn giữ được một số bản sắc văn hóa như ngôn ngữ, sách cổ, các lễ hội, lễ tục và tính cố kết cộng đồng…Điều đó cho thấy, dù trải qua bao biến thiên người Chăm vẫn luôn thể hiện được bản lĩnh văn hóa của mình. Trước thềm toàn cầu hóa, hội nhậplà yêu cầu khách quan không thể chối bỏ, nhưng làm thế nào để vừa hội nhập mà lại vừa không đánh mất bản sắc? Ở đây,tôi bày tỏ đồng cảm với Pauh Catwai, lời người xưanhư vẫn còn nguyên giá trị, thuở ấy, năm 1832, quốc gia mất đi, dân tộc phải đối mặt với nguy cơ mất luôn cả văn hóa, những người trí thức đương thời như Pauh Catwaiưu tư, trăn trở cho việc lưu giữ bản sắc văn hóa dân tộc: “…Sa bauh cơk tajuh giloang, sibơr ka throang bhap ilimo…” (một núi bảy đường, biết đường nào thông cho văn hóa dân tộc). Hôm nay, chúng ta phải ý thức rằng: dân tộc này, theo thời gian đã mất mát rất nhiều giá trị văn hóa, đừng để mất luôn những giá trị còn giữ lại được, để rồi đánh mất luôn chính bản sắc dân tộc. Nếu có hỏi tôi có quá bi quan không khi nói vậy? Xin trả lời: Không. Vì rằng, dù Chăm, hôm nay vẫn còn ngôn ngữ, người Chăm hôm nay vẫn biết xướng hát dân ca, thuộc lòng các kho tàng văn chương…Nhưng số này rất ít, hầu hết đều đã già, nay mai cũng trở thành người thiên cổ, trong khi giới trẻ rất ít ai mặn mà, thậm chí còn quay lưng lại với chúng. Vậy, thử hỏi: Văn hóa Chăm, còn giữ lại bao nhiêu để mà cợt đùa, để mà không quan ngại? Đối với Chăm nhiệm vụ bảo tồn bản sắc trong thời đại này lại càng khó khăn, nhất là khi chúng ta chỉ là một cộng đồng thiểu số, bị phân hóa thành các palei tách biệt và hằng ngày có những sự tiếp xúcnhiều với một cộng đồng đa số, có một nền văn hóa dị biệt, lúc nào cũng có thể hút chúng ta vào tầm ảnh hưởng của nó. Tôi chợt nghĩ đến một viễn tượng đáng buồn của tương lai: “…nơi người Chăm nói với nhau bằng một thứ tiếng lai căng, mất gốc; nơi những bài dân ca, ariya, những nhạc cụ được đưa vào bảo tàng vì không có ai ngâm nga, diễn xướng; nơi chữ viết Chăm trở thành cổ vật phi vật thể vì không ai biết viết; nơi các lễ hội Chăm chỉ là những huyền thoại xa vời;…; nơi những đứa trẻ Chăm được truyền thụ và tự ý thức rằng tổ tiên chúng ta là con của rồng, cháu của tiên…” Hãy nhìn vào quá khứ mà suy ngẫm, tạo nên một giá trị đã khó, giữ cái giá trị đó đến muôn đời lại càng khó hơn. Đừng để những giá trị mà bao đời tổ tiên gây dựng mất đi, nếu vậy, không phải chúng ta - những kẻ hậu thế - hổ thẹn với tiền nhân lắm sao? Một lần nữa và hơn lúc nào hết, người Chăm (tất cả người Chăm) cần thể hiện bản lĩnh văn hóa của mình trong bối cảnh mới – bối cảnh toàn cầu hóa.  Ja shaklikei (Nguồn: Tagalau 16)                                                                
0 Rating 453 views 1 like 0 Comments
Read more
By: On December 7, 2014
 THÁP THIÊN THU Trên những dải cồn cát xa xăm Giữa những cánh đồng miên man gió thổi Và trùng dương muôn đời dậy sóng Dáng những tháp Chàm vận in dậm nơi đây. Từ thuở gò cao, gạch Chàm chất đống Cho đến lúc thành hình, nghệ sĩ tác dung nhan Tháp động mình trần, khói hương trầm nghi ngút Tăng lữ xướng kinh, quân vương dâng lễ  Tiếng kinh cầu vang vọng trốn linh thiêng Trải gió xương, lịch sử bao lần Tháp vẫn đứng hiên ngang từ độ ấy! Dù tuổi già đã ngấp nghé trên thân. Nhớ, thuở Khu Liên lập quốc Đến dặm đường Ô, Lý xót xa Chế Bồng Nga hành quân về ải Bắc Thành Đồ Bàn thất thủ máu xương tan. Phía biển khơi Cei Sit trở về Để đất nước lại ngập tràn hy vọng Dù chỉ là hy vọng thoáng qua mau Cho đến buổi chiều tàn trên xứ sở  Khi dân Chàm, máu cuộn, xương tuôn Nơi rừng sâu ai vong thân vị quốc? Phía đường mòn, lớp lớp kẻ lưu vong. Tháp vẫn đứng u buồn trên đất mẹ Thách thức phong trần, đánh đố thời gian Tháp vẫn đứng dù người đời quên lãng Nhìn thế nhân mà khóc biết bao lần. Ai, có thử một lần nhìn lại? Thấy mảnh gạch Chàm mà nhớ đến cố nhân Thấy những bức phù điêu vàng úa,  mà nghĩa về quá khứ lệ rưng rung. Thấy rêu xanh, in hằng lên dáng tháp  Mà nhớ về cố quốc Hay chăng? Thấy những vết chân chim trong lòng tháp, mà để lòng đau đấu nổi thương tan? Có thấy Siva trầm ngâm trên cửa Tháp,  chốn thiêng đường uất hận thâu canh? Có thấy vũ nữ apsara đang múa,  những điệu tang ca cho chốn điêu tàn?  Và có thấy chăng, trong lòng tháp cổ, tiếng oán than của kiếp đá mòn? Suốt mấy trăm năm, trên khắp miền đất mẹ Tháp lặng im đứng giữa cõi xa vời. Rồi một lần có ai chợt nhìn lại, Thấy Tháp kia, chết đứng, chạnh lòng? Ai, có biết chăng nỗi lòng của Tháp,  Vẫn ngậm ngùi, nức nở suốt thiên thu?    Ja shaklikei  
0 Rating 286 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On November 9, 2014
1CÂU CHUYỆN CỦA KHATHAYTác giả: Lựu Hoàng Điệp (Người dân tộc Chăm).Email: luuhoangdiep92@gmail.com2Chămpa hay Chiêm Thành là một vương quốc cổ ở miền trung Việt Nam. Chămpagồm 4 tiểu vương quốc, theo thứ tự từ bắc xuống nam là: Amaravati, Vijaya, Kautharavà Panduranga. Indrapura (đô thị sấm sét) là một đô thị thuộc xứ Amaravati, đây cũnglà kinh đô Chămpa từ năm 875 đến năm 982. Ở nơi đây từng tồn tại phật viện ĐồngDương lớn nhất Đông Nam Á lúc bấy giờ.Năm 982, Indrapura bị tàn phá, người Chăm phải dời đô về phía nam. Kinh đô mới cótên là Vijaya, thuộc địa khu cùng tên Vijaya. Khathay là nhân vật sống trong thời kỳloạn lạc này.Về cuộc chiến tranh giữa Chămpa và Đại Cồ Việt năm 982. Đại Việt Sử Ký Toàn Thưcó chép lại như sau:“Vua thân đi đánh Chiêm Thành, thắng được. Trước đó vua sai Từ Mục, Ngô TửCanh sang sứ Chiêm Thành, bị người Chiêm bắt giữ. Vua giận, sai đóng chiến thuyềnsửa binh khí, tự làm tướng đi đánh, chém Bê Mi Thuế tại trận. Chiêm Thành thua to.Bắt sống được quân sĩ của chúng nhiều vô kể, cùng là kỹ nữ trong cung trăm người vàmột nhà sư người Thiên Trúc, lấy các đồ quý đem về, thu được vàng bạc của báu kểhàng vạn, san phẳng thành trì, phá hủy tông miếu, vừa một năm thì trở về kinh sư”.3CÂU CHUYỆN CỦA KHATHAY (P1)Xưa kia, ở kinh đô Indrapura của vương quốc Chămpa cổ, có một đôi vợ chồng sinhsống bằng nghề buôn bán nhỏ. Cuộc sống của họ không thể nói là khá giả nhưng cũngkhông thiếu thốn. Hai vợ chồng chỉ sinh được một đứa con trai duy nhất, họ đặt tênđứa con ấy là Khathay, theo tiếng Chăm cổ lúc đó có nghĩa là "ánh sáng".18 năm sau, năm 979 sau công nguyên.Khathay bây giờ đã 18 tuổi. Cậu cùng với cha mẹ sống trong một gia đình yên ấm.Khathay nổi tiếng là người rất thông minh, cậu học rất nhanh và rất ham tìm hiểunhững thứ mới lạ. Cuộc sống yên ấm kéo dài không lâu thì biến cố xảy đến.Năm đó, vua Chămpa là Parameshvaravarman cử binh sang đánh nước Đại Cồ Việt.Khathay đã trưởng thành nên được triều đình huy động làm binh sĩ. Cậu phải vàodoanh trại để rèn luyện. Không lâu sau, Khathay giả từ cha mẹ, họ hàng, quê hương,cậu ra đi cùng với hơn 8 vạn chiến binh khác. Cậu vẫn luôn nhớ tới lời cha dặn trướckhi đi: "hãy trở về với cha mẹ".Năm 979, hạm đội Chămpa hơn tám vạn quân và 1200 chiến thuyền đã theo đườngbiển sang tấn công kinh đô Hoa Lư của Đại Cồ Việt.Ba ngày trôi qua trên biển. Hàng vạn thủy binh Chămpa vẫn tiếp tục khẩn trương tiếnlên trên những chiến thuyền. Tiếng hò vang như sấm của hàng vạn binh sĩ. Trời ngàycàng nhiều mây, gió ngày càng mạnh, sóng ngày càng lớn, những đàn chim khổng lồche kín cả bầu trời, chúng gào thét bay qua trên đầu đoàn quân viễn chinh báo hiểuđiềm chẳng lành.Một cơn bão mạnh đang tràn tới. Tiếng những binh sĩ la hét trong vô vọng. Nhữngchiến thuyền sừng sửng giờ như những khúc gỗ nhỏ bé trên dòng lũ dữ. Những chiếnthuyền lần lược bị cơn bão đánh chìm tan tác. Khathay và đồng đội vẫn còn bám trụtrên những chiếc thuyền, họ đang dùng tất cả những khả năng mình có để chống lại tửthần. Khathay phải bám thật chặt vào một cái cột và phải chứng kiến cảnh nhữngngười lính khác bị sóng cao, gió bão và mưa nặng hạt quật ngã xuống biển mà khôngthể làm gì cho họ. Khathay la lên “Pô Yang lơi, tại sao người lại trừng phạt chúngcon?”. Tiếng cha già vẫn văng vẳng bên tai cậu "hãy trở về với cha mẹ".Sau cơn bão, toàn bộ quân viễn chinh đã bị tan rã.Gần một ngày sau, những chiến thuyền sống sót cũng trôi dạt vào bờ. Cảnh tượng trênbờ thật khủng khiếp, hàng vạn binh sĩ bị chết đuối, bụng sình lên, bị những con kênhkênh bới móc. Bên cạnh những xác chết là hàng ngàn chiến thuyền đã bị tan nát, hưhỏng trôi dạt vào bờ. Cảnh tưởng hôi thối, chết chóc và hoang tàn ấy trãi dài trên mộtvùng bờ biển.Vừa lên bờ, kiệt sức vì mệt, Khathay cùng hàng vạn đồng đội sống sót khác bị nhữngbinh lính người Việt đón bắt và giải về trại tù binh. Trại có hơn hai vạn tù binh Chămcòn sống sót sau cơn bão, hầu hết họ đều mệt mỏi, đói và khát. Số phận của họ sẽđược định đoạt bởi vua nước Việt. Trong trại tù binh, ngồi nhìn hàng ngàn binh sĩ mệtmỏi, đói khát như những phế nhân. Khathay đang nghĩ ngợi, cậu không ngờ mình vẫncòn sống trên trần thế này."LƯƠNG THỰC", "LƯƠNG THỰC", "LƯƠNG THỰC".Tiếng hô vang của hàng ngàn binh sĩ Chăm. Đã hai ngày trôi qua, trại tù binh hơn 24vạn người được cung cấp lương thực một cách vô cùng thiếu thốn. Đã có gần trăm tùbinh chết đói. Cứ tình hình này thì tất cả các tù binh sẽ bị chết đói hết.Ngày thứ ba trong trại tù binh, thêm nhiều người chết đói, xô xác đã xảy ra giữa tùbinh và binh sĩ Việt.Ngày thứ tư, trại tù đã sắp hỗn loạn, lại xảy ra xung đột giữa binh lính và tù binh. Máuđã đổ, hàng chục binh lính và tù binh đã bị giết chết.Ngày thứ năm, lính Việt bắt hàng trăm tù binh chém đầu. Nhưng tình hình vẫn khôngđược cải thiện. Trại tù đã quá hỗn loạn, sắp xảy ra cuộc huyết chiến. Thấy sắp khôngthể kiểm soát được tình hình, viên quan canh giữ trại tù đã cử người lên Hoa Lư thôngbáo tình hình cho triều đình định đoạt.[Hoa Lư-kinh đô Đại Cồ Việt-cuối năm 979].Vua của nước Việt bấy giờ là Đinh Toàn mới 6 tuổi, quyền lực thực tế nằm trong taythập đạo tướng quân Lê Hoàn là nhiếp chính. Nước Việt mới trải qua cơn bão, lươngthực đang thiếu thốn. Lê Hoàn nổi tiếng là một người máu lạnh và dứt khoát. Sau khinhận được tin báo từ trại tù binh, ông ra lệnh:-chúng ta không có đủ lương thực cho bọn xâm lược, nhưng nếu thả chúng về nước sẽlà một mối hoạ cho nước ta sau này, hãy giết sạch bọn chúng, thực hiện việc này trướcsáng ngày mai.Triều đình Hoa Lư điều quân đến trại tù để thực hiện cuộc tắm máu. Nhưng ngay đêmhôm đó, tù binh đã nổi loạn. Gần 2 vạn tù binh liều chết phá trại, họ chiến đấu liềulĩnh, máu đã đổ rất nhiều. Cuối cùng, do vượt trội về số lượng, họ đã làm chủ đượctrại, cướp được nhiều vũ khí và lương thực. Nhận được tin quân Việt sắp tới, họnhanh chóng chạy xuống phía nam, họ chạy không ngoảnh mặt lại, sau được gần mộtngày đêm thì quân Việt đuổi kịp.Khathay cùng khoảng 3000 binh sĩ Chăm còn khoẻ mạnh đã tình nguyện cầm vũ khícướp được, họ đi sau cùng đoàn người, và sẽ quyết tử chiến nếu quân Việt đuổi tới.Đoàn người đang chạy qua một cây cầu bắt qua một con sông lớn nước chạy siết, đãrất gần biên giới Chămpa. Đoàn người qua được sắp hết thì hình như mặt đất đang hơirung rung nhè nhẹ. Khathay áp tai xuống sát đất nge. Đó là tiếng vó ngựa, tiếng bướcchân của hàng vạn binh sĩ. Khathay hô lên "QUÂN VIỆT ĐẾN RỒI". Cũng vừa kịpđoàn người đã qua cầu hết.Từ xa xa đã nghe thấy tiếng ngựa hí, đã thấy cờ hiệu màu vàng, là cờ hiệu quân Việt.Mọi người dùng hết sức, mọi cách để có thể phá sập cầu, nhưng cầu quá vững chắc,không thể phá sập ngay được. Khathay cùng khoảng 3000 quân Chăm quyết định ở lạibên này cầu chiến đấu nhằm ngăn chặn bước tiến của quân Việt và tạo thời gian chonhững người bên kia phá cầu.Quân Việt tiến đến cách quân Chăm một đoạn thì dừng lại, chuẩn bị cho cuộc giáp lácà. Hai vạn quân Việt binh phục đỏ-vàng, cờ hiệu vàng; và 3000 quân Chăm binhphục trắng-đen, cờ hiệu trắng. Trên một cây cầu hẹp thì số lượng trở nên vô nghĩa. Đólà một buổi chiều năm 979, mây đen phủ bầu trời như sắp mưa, tiếng những con kênhkênh đang bay lượn qua lại chuẩn bị cho bửa tiệc sắp sửa. Gió thổi ớn lạnh như cómùi tanh trong đó, Mây đen kéo đến nhiều hơn, và mưa đã bắt đầu trút.5Những hạt mưa đầu tiên vừa chạm đất. Tướng quân Việt hạ lệnh tấn công. QuânChăm quyết tử chiến, mũi giáo 2 bên đã bắt đầu chạm nhau, sắc đỏ đã chạm sắc trắng.Tiếng chém xoàn xoạt, tiếng đao kiếm chạm nhau ben ben, tiếng những con ngựachiến bị chém ngã quị xuống, tiếng la hét từ giả cõi đời của những binh sĩ, nhữngdòng máu bay tung toé hoà với những giọt mưa đang rơi, những cái đầu lăn lóc,những thân xác bị chém đứt không được vẹn toàn. Khathay cùng các binh sĩ Chămchiến đấu liều mình, do cây cầu hẹp nên quân Việt dù đông hơn vẫn không thể vượtqua. Sau một hồi giao chiến, tướng Việt bèn hạ lệnh lui quân.Một lúc sau, cung thủ Đại Cồ Việt tới, hàng ngàn cung thủ bắn những đợt cung tênhướng vào quân Chămpa. Hàng vạn mũi tên bay như những đàn châu chấu khổng lồgăm vào binh sĩ Chăm, quân Chăm bị trúng tên, chết gối lên nhau. Khathay bị trúngtên ở cánh tay, trong lúc hoang mang cậu bị đẩy rớt xuống cầu.Khathay đang rơi, chàng vẫn kịp nhìn thấy các đồng đội còn lại bị mũi tên xuyên thân,đâu đó vẫn văng vẳng tiếng la ó, nhìn những hạt mưa rơi theo như xen lẫn những giọtmáu đỏ.6CÂU CHUYỆN CỦA KHATHAY (P2)Ngay sau khi đã tiêu diệt quân Chăm, quân Việt liền tràn qua cầu. Qua được một nữathì cầu bị sập, người ngựa đều rơi xuống sông. Không thể qua sông nên quân Việtphải lui về. Mười mấy ngàn người Chăm nhờ thế mà có thể bình an trở về quê hương.Lại nói đến Khathay, sau khi rơi xuống nước thì bị cuốn theo dòng nước. Nhìn thấycầu bị sập, có nhiều khúc gỗ lớn nổi trên mặt nước. Chàng dùng tất cả sức lực còn lạicủa mình bơi ngược dòng bám chặt lấy một khúc gỗ lớn. Nhờ vậy mà chàng sống sót.Một lát sau, khúc gỗ trôi qua bên kia sông. Khathay lên bờ sông, người mệt lã lại bịthương, chàng ngủ thiếp luôn trên bãi cát trắng. Màng đêm buông xuống, có một ônglão tốt bụng đi ngang qua, thấy có người bị thương đang nằm trên bãi cát thì tiến đếngần kêu dậy:-Cậu ơi! Dậy đi, cậu ơi!Khathay vì mất nhiều máu nên đã bất tỉnh, thấy vậy ông lão bèn cõng chàng về cănnhà của ông lão gần đó để chữa trị.Chàng tỉnh dậy, thấy vết thương trên cánh tay đã được băng bó cận thận. Đang đói,thấy bát cháo trước mặt nên chàng liền húp sạch cháo. Ăn xong bát cháo, chàng cảmthấy mình đã khỏe lại nhiều. Một lát sau thì một bà lão bước vô nhà. Bà nhìn chàngmột lúc rồi hỏi:-Cậu tỉnh rồi à, cậu thấy trong người khỏe hơn chưa?Không hiểu tiếng Việt nên Khathay không biết phải nói gì. Bà lão nói tiếp bằng tiếngChăm.Bà lão: Cậu làm sao mà bị thương vậy?Khathay: Tôi, tôi bị tên bắn. Sao bà lại nói được tiếng Chăm?Bà lão: Tôi vốn là người Chăm, qua đây sinh sống đã lâu.Gặp được đồng hương thì Khathay vô cùng mừng rỡ. Chàng quì xuống nắm lấy tay bàlão:-Cảm ơn lão nhiều lắm! không có lão thì chắc tôi chết nơi đây rồi!Hai ông bà lão ấy sống với nhau trong một căn nhà tranh ven sông. Lúc trước vì bàlão bị vu oan là phù thủy nên phải lánh nạn qua đây sống, tuy sống ở đất người, nhưnghai lão vẫn ngày đêm nhớ về quê hương, nhớ về đứa cháu gái vẫn còn đang ở cốhương. Gặp được người đồng hương bị nạn, hai ông bà ra sức giúp đỡ.Khathay ở căn nhà đó dưỡng thương được ba ngày thì đã khỏe hẵn lại. Hai ông bà lãocung cấp cho chàng lương khô và ngân lượng để chàng có thể trở về quê hương.Khathay: Nay con phải trở về, ân tình này của hai lão, con nguyện ghi nhớ suốt đời!Ông lão: Ừ, thì đã đến lúc con phải về. Khi đã qua nơi ấy, ta có một việc muốn congiúp đỡ.Khathay: Hai lão cứ nói, bằng bất cứ giá nào con cũng sẽ giúp.Bà lão lấy ra một cái khăn trắng, hoa văn màu đỏ đưa cho Khathay rồi nói:-Con hãy tìm đến Plây Căm (Làng Căm), xứ Amaravati. Ở nơi đó có cháu gái ta tên làSasa. Hãy đưa cái khăn này cho nó, nói rằng ông bà ở quê người vẫn bình yên!Khathay: Vâng, con nhất định sẽ trao chiếc khăn này cho Sasa. Nhất định!Nói rồi, Khathay vĩnh biệt hai ông bà lão rồi ra đi.7Ba ngày sau, Khathay đã qua địa phận Chămpa, khi đang đi ngang qua một khúc sôngthì thấy có một cô gái nhảy xuống sông tự vẫn. Không kịp nghĩ nhiều, Khathay liềnnhảy xuống sông vớt cô ấy lên. Cô ta vẫn còn sống. Được vớt lên, cô gái trừng trừngnhìn Khathay. Tưởng cô gái giận mình, Khathay phân minh:-Tôi, tôi biết là cô muốn chết, nhưng tôi không thể thấy chết mà không cứu.Cô gái ấy lại trừng trừng nhìn Khathay hơn nữa nhưng lại không nói gì.Khathay nói tiếp: Cô tên gì? Cô còn trẻ, sao lại muốn chết chứ?Cô gái: Tôi tên Garê. Hồi nãy tôi còn muốn chết, nhưng giờ thì tôi lại rất muốn sống.Cũng nhờ anh, nếu không thì tôi chết vì quyết định dại dột của mình rồi, cảm ơn anh!Khathay cười rồi nói: Không có gì, thấy sự như vậy, giúp được thì giúp thôi.Garê: Nay, anh theo tôi về làng tôi nhé, nhờ anh mà tôi vẫn còn sống. Tôi phải báođáp anh.Khathay: Ôi không, tôi còn phải về, nhà tôi xa lắm. Ơn này, cô không cần phải báođáp đâu.Garê: Không! Anh nhất định phải về với tôi, nếu anh không về với tôi, tôi sẽ lại nhảyxuống con sông này. Coi như anh tốn công cứu người vô ích.Thế là Khathay phải cùng Garê về làng của cô ấy. Làng của Garê tên là Plây Cang,một ngôi làng ven biển chuyên đánh bắt cá và buôn bán. Ngôi làng ấy ở phía bắc xứAmaravati, nơi giáp ranh giữa Đại Cồ Việc và Chămpa . Garê năm nay 16 tuổi, Garêcó một người cha giàu có. Ông ấy tên là Khang, vợ ông Khang mất sớm chỉ để lại mộtđứa con gái nên ông rất quí đứa con gái ấy. Garê vốn bướng bỉnh, cô ta đi chơi thâuđêm mới về nhà, bị cha đánh rất đau. Nhất thời nóng giận nên muốn tự vẫn. Ở PlâyCang, Khathay được cha của Garê đối xử rất hậu. Chàng thật thà, lại khôi ngô, khỏemạnh nên rất được Garê yêu quí. Tối hôm đó, trời trăng thanh gió mát, chỉ hai người ởbên ngọn lửa dưới gốc cây. Garê tựa đầu vào vai Khathay.Garê: Ai nhu lơi! (Chàng ơi!)Khathay: Chàng đây!Garê: Em yêu chàng nhiều lắm!Khathay: Chàng cũng yêu em nhiều lắm!Garê: Trời hôm nay mát lắm, trăng đêm nay đẹp lắm. Dưới gốc cây này, bên ngọn lửanày. Ta nguyện sẽ yêu nhau mãi nhé chàng!Khathay: Ừm, Ta sẽ mãi mãi yêu nhau, bên nhau suốt đời!…Lúc đó, ở Plây Cang có một con hổ thường đi quanh làng bắt người ăn thịt. Ngày thìcon hổ ở yên trong rừng gần đó để tránh thanh niên làng đi lùng bắt. Đêm về thì hổ điquanh làng, thấy ai thì hổ vồ ăn thịt. Dân làng rất khiếp sợ, dân làng quen đi biển,không biết đi rừng nên khó mà bắt được hổ. Nhiều người trong làng bị ăn thịt,Khathay thấy vậy thương lắm, cảnh tượng đau xót lắm. Chàng quyết định vào rừngmột mình trong đêm tối để giết cho được hổ, mặc cho ông Khang và Garê ngăn cản.8CÂU CHUYỆN CỦA KHATHAY (P3)Khathay tạm biệt ông Khang, Garê và dân làng Plây Cang. Chàng mang theo gươm,cung tên rồi vào rừng một mình. Nhiều trai làng khác muốn cùng đi với chàng, nhưngKhathay từ chối, sợ đi nhiều người sẽ làm kinh động hổ, khó mà giết được nó.Khathay bước đi, chàng bước từng bước nhẹ nhàng nhưng vững chắc, phong thái củamột binh sĩ già dặn. Chàng băng qua đồng cỏ tiến tới khu rừng. Vầng trăng sáng chiếulối chàng đi. Tới gần khu rừng, Khathay trèo lên một cái cây cao cho dễ quan sát. Đợicon hổ đi ra khỏi khu rừng sẽ dùng cung tên mà bắn nó. Gần nữa đêm thì hổ xuấthiện. Trái với tưởng tượng của Khathay, đây không phải là một con hổ to lớn đầy sứcmạnh mà chỉ là một con hổ gầy gò, đói khát và còn bị thương tật ở sau chân trái. Conhổ đang bước đi những bước mệt mỏi. Không còn nhiều thời gian để suy nghĩ,Khathay dùng cung tên bắn liền liên tiếp ba mũi tên. Một mũi tên trúng ngay môngphải con vật. Con vật gầm lên đau đớn rồi quay đầu chạy vào rừng. Khathay nhanhchóng lao xuống cây đuổi theo con vật. Tuy con vật đã chạy mất hút vào sâu trongrừng nhưng vẫn còn vết máu nó để lại trên đường chạy. Ánh trăng rất sáng giúpKhathay có thể lần theo vết máu mà tìm ra nơi ẩn náo của hổ. Chàng cứ theo vết máu,băng qua cánh rừng đầy thú dữ và trùng độc. Một hồi sau, chàng cũng tìm được nơi ấnnáo của nó. Đó là một cái hang đá nhỏ. Ánh trăng rọi vào trong hang giúp chàng cóthể quan sát bên trong. Ẩn nấp bên ngoài hang, chàng thấy trong đó không chỉ có mộtcon hổ mà còn có 5 con hổ con. Mỗi con hổ con chỉ nhỏ bằng con mèo. Con hổ mẹ bịthương nằm đó, nhìn kỹ vết thương ở chân trái, Khathay nhận ra đó là vết thương dotên bắn. Chàng ngẫm nghĩ rồi hiểu ra sự tình. Thì ra, con hổ đang nuôi con của nó,chân nó bị con người bắn bị thương nên nó không thể săn được các con thú trong rừngđể nuôi con. Nó đã phải đi xa tới tận biển để săn người. Vì người yếu ớt, dễ săn hơn.Thì ra, chính con người đã ám hại nó trước. Có thể nó muốn trả thù con người, hoặccó lẽ nó không còn con đường nào khác là phải săn người.Khathay từ từ bước vào trong hang, con vật gầm gừ cố mọi sức đứng dậy. Khathaycầm thanh gươm lên chuẩn bị kết liễu con vật. Nhưng nhìn năm con hổ bé nhỏ kiachàng lại động lòng, nếu mẹ nó chết thì ai sẽ nuôi chúng? Chưa kịp nghĩ nhiều thì hổmẹ đã dùng tất cả sức lực còn lại của nó bay lên định vồ lấy Khathay. Nhanh như cắt,Khathay dùng thanh gươm đâm xuyên ngay cổ của hổ mẹ. Sau khi giết được hổ.Khathay mang đầu hổ về Plây Cang. Người chàng đầy máu. Dân làng thấy đầu hổ thìvô cùng mừng rỡ. Ai ai cũng kính phục Khathay, chàng được dân làng tặng nhiềuvàng bạc châu báu.Sau khi ở Plây Cang được một thời gian, Khathay xin phép ông Khang trở vềIndrapura để thăm Cha mẹ mình. Chàng hứa sẽ quay về kết hôn với Garê. Đêm trướcngày ra đi, Khathay và Garê đã gặp nhau để tâm sự lần cuối.Garê: Chàng sẽ quay về sớm chứ?Khathay: Vâng, anh hứa anh sẽ quay về thật sớm với em!Garê: Em lo lắm. Em lo chàng sẽ gặp ai đó xinh đẹp hơn em, hiền dịu hơn em, rồichàng sẽ quên mất em.Khathay: Em yêu ơi!Garê: Ơi!Khathay: Ai ních thầy lô lô! (Anh yêu em nhiều lắm!). Anh đã yêu thì anh sẽ chỉ yêumình em thôi, dù được nàng tiên yêu thì anh cũng sẽ từ chối. Anh yêu mình em thôi,em hiểu không?!Garê: Hihi! Em không hiểu! Chàng mà không giữ lời, thì coi chừng em. Em sẽ lùngsục mọi nơi để tìm cho được chàng. Chàng nhớ lấy!9Sáng hôm sau, Khathay rời khỏi Plây Cang. Lần này, chàng đi với một con ngựa. Gầntới phía bắc Indrapura, chàng ghé qua Plây Căm để thực hiện lời hứa với hai ông bàlão đã cứu mình ở nước Việt. Đi tới gần đầu làng thì chàng thấy một bà lão đang gánhmột bó củi, chàng bèn hỏi:Khathay: Bác ơi! Ở đây có ai tên Sasa không?Bà lão suy nghĩ một hồi rồi nói: Có, ở đây chỉ có một người tên là Sasa.Khathay: Vậy bác có biết nhà của Sasa ở đâu không? Bác chỉ cháu với.Bà lão: Ừ. Cháu cứ theo bác.Khathay: Bó củi này để cháu gánh dùm bà!Bà lão: Cảm ơn cháu!Khathay đi theo bà lão vào trong làng. Đi được một đoạn thì đến nhà của Sasa. Đó làmột căn nhà làm bằng bùn đất, tre và rơm. Trước nhà có hai cây dừa tỏa bóng rất mát.Xung quanh nhà là hàng rào chỉ cao ngang ngực người. Bà lão gọi to: Sasa ơi, cóngười tìm con kìa. Sasa bước ra, đó là một thiếu nữ tuổi 17, 18. Sasa mặt bộ áo dàimàu trắng hồng. Trông nàng thật xinh đẹp. Sasa nhìn bà lão rồi nói: Con không quenngười này. Bà lão nghe vậy thì nhìn vào Khathay, chờ lời giải thích.Khathay: Ừ đúng rồi, cô không biết tôi. Chúng ta chưa bao giờ gặp nhau cả.Sasa: Vậy anh tìm tôi làm gì?Khathay: Tôi là binh sĩ, hồi đánh nước Việt vừa rồi, tôi được Ông Bà cô ở bên nướcViệt cứu sống.Sasa: Vậy à, tôi nhớ ông bà lắm! Anh mau mau vào nhà, chúng ta sẽ còn nhiềuchuyện để nói!Tối hôm đó, Khathay, Sasa và bà lão đã nói chuyện với nhau rất nhiều. Khathay đượccho ăn ngon, được cho uống rượu no say. Chàng chìm sâu vào giấc ngủ lúc nào cũngkhông hay, chàng vẫn chưa kịp trao chiếc Khăn cho Sasa. Nửa đêm hôm đó, bỗng cónhiều người cầm đuốc, cầm vũ khí xông vào nhà. Lấy bao bịt đầu chàng lại, lấy dâytrói tay chân chàng lại rồi đưa chàng đi. Sasa và bà lão không hề ngăn cản mà còngiúp cho đám người đó. Thì ra, cô gái mặt áo dài trắng hồng không phải là Sasa.Mười năm trước, ở Plây Căm xảy ra một đại dịch. Rất nhiều dân làng chết thảm.Người ta cho rằng thần linh trừng phạt họ. Họ tế gà, tế dê, tế trâu nhưng bệnh dịchvẫn không dứt. Gia đình của Sasa mới chuyển đến sống ở Plây Căm chưa lâu, gia đìnhchỉ gồm hai ông bà và cháu gái, trước đó họ ở xứ Panduranga. Có người vì mâu thuẫnvới ông bà của Sasa nên đã gài bẫy họ, tố cáo họ là phù thủy, là nguồn bệnh. Đang lúclý trí lu mờ, dân làng kéo nhau đến vây bắt hai ông bà, nhưng vì đã biết trước sự tìnhnên hai ông bà đã trốn sang nước Việt. Lúc đó, Sasa không có ở nhà, vậy là ba ông bàcháu lạc mất nhau. Hai ông bà nghĩ cháu gái còn nhỏ, chắc sẽ không bị hại nên đanglúc khẩn cấp đã cắn răng mà bỏ lại cháu gái ở Plây Căm, đợi sau này sẽ tìm cách cứucháu gái. Nhưng sau khi không tìm thấy hai ông bà lão, dân làng càng nghi ngờ họ làphù thủy. Họ đổ mọi tội lỗi cho Sasa, họ bắt Sasa lại, định thiêu sống để tế thần.Nhưng một số người chính nghĩa trong làng đã ngăn chặn việc làm man rợ này, họ đãgiải thoát cho Sasa. Kể từ đó không ai biết tung tích của Sasa nữa. Và cũng thật trùnghợp, từ đó, dịch bệnh ở Plây Căm cũng chấm dứt.10CÂU CHUYỆN CỦA KHATHAY (P4)Tuy dịch bệnh đã qua đi, nhưng dân làng vẫn tin rằng ông bà của Sasa là phù thủy, vàmột ngày không xa họ sẽ trở lại trả thù dân làng. Dân làng rất sợ hãi bệnh dịch, họ lưutruyền những câu chuyện thêu dệt về hai người, nói rằng hai người có nhiều phép biếnhóa. 10 năm trôi qua, những câu chuyện cứ được kể đi kể lại rồi được thêm bớt chothêm phần ly kỳ. Dần dần người ta tin chắc rằng ông bà của Sasa là phù thủy.Hôm đó, Khathay hỏi một bà lão về Sasa. Điều đó gợi cho bà lão nỗi sợ hãi về dịchbệnh 10 năm trước, về sự trả thù của phù thủy. Để bảo vệ con cháu mình, để bảo vệdân làng mình. Bà lão đã dựng mưu bắt lại Khathay để tra xét cho rõ. Cô gái mặt áotrắng hồng chính là cháu gái của bà lão đó.Sau khi bị bắt, Khathay bị dẫn đến một căn nhà cách xa ngôi làng. Chàng vẫn còn bịcột tay chân lại. Họ nói với Khathay là đã gửi người tới Indrapura để xác minh, nếuKhathay thật sự là binh sĩ thì họ sẽ thả đi.Nửa đêm hôm đó, tiếng ếch kêu, gió lạnh. Bọn người canh gác thấy Khathay đã bị tróichặt chân tay thì chủ quan. Họ uống rượu say, ngủ hết, chẳng còn biết trời đất là gì.Có một cô gái áo đen, tay cầm con dao sắt. Cô ta bình tĩnh bước qua lũ người đangngủ la liệt bên đống lửa. Khathay không biết, chàng vẫn đang ngủ. Cô ta tiến đến gầnKhathay, ánh dao sắt loáng chói vào mặt anh. Cô ấy vỗ vào Khathay rồi gọi nhẹ:-Anh dậy đi, tôi đến để cứu anh. Khathay mở mắt ra, gật đầu tỏ vẻ hiểu. Cô gái lấydao cắt dây trói rồi hai người cùng chạy trốn.Cô gái: Tôi chính là Sasa.Khathay: Cô đây à, trông cô đen đen, không giống như tôi tưởng!Sasa cười rồi nói: Tôi phải phơi nắng, nên đen.Thật ra Sasa vẫn ở quanh Plây Căm. Cô vẫn chờ đợi một ngày nào đó ông bà sẽ đếnvới mình. Cô đổi tên, sống lang thang đây đó. Cô làm đủ mọi việc vất vả, da cô rámnắng, trông cô không được đẹp, nhưng lòng cô trong sạch. Càng ngày cô càng lớn.Trừ chính cô, không còn ai biết cô là Sasa. Nghe tin có người đến tìm mình, cô mừngrỡ vô cùng. Cô tìm đến căn nhà nhốt Khathay, ẩn nấp quanh đó, chờ thời cơ để cứuanh. Đến gần sáng thì hai người cũng đã cách Plây Căm khá xa.Khathay: Đây là chiếc khăn mà ông bà cô đã nhờ tôi gửi cho cô.Sasa: Đúng rồi, hoa văn đỏ này chính là biểu tượng của dòng tộc tôi.Khathay: Chắc cô muốn đư&#
0 Rating 327 views 4 likes 0 Comments
Read more
By: On November 5, 2014
Mộng Tình Xứ ChămPa( tác giả : Ngọc Tảo )Phần1. - Bông Hoa Không NởNgày xưa, khi vương quốc Chăm Pa còn là một đất nước hưng thịnh và phồn hoa, tiểu vương quốc Vijaya là một lãnh địa rộng lớn giàu có, các thương nhân ở nhiều nơi khác đổ về làm ăn, cảnh tượng xem thấy thật đông đúc và rất thịnh vượng, nhưng nhân dân nơi đây vẫn phải chịu cạnh cơ cực do chiến tranh và nạn cướp phá.Năm 1373 niên lịch Saka (tức năm 1451 sau CN) . Bắc ChămPa có đô thành tên Đồ Bàn thuộc tiểu vương Vijaya, Đồ Bàn là một kinh đô to lớn và nhộn nhịp, đó là nơi ở mà vua của các vua ngự đã hàng trăm năm nay, Đồ Bàn cũng là nơi tập trung và chỉ huy hạm đội thủy quân và lục quân lớn nhất mà ChămPa thời đó có, Đồ Bàn được bao bọc bởi tường thành lũy hào vững chắc, kiên cố và hiểm trợ nhằm ngăn chặn các cuộc đánh úp vào kinh đô hòng dành vương quyền tối cao của các lãnh chúa liên bang ở phía nam và cả những ý đồ diệt phá từ các nước phương bắc và tây nam. Bên ngoài thành là vùng đất trồng trọt và những khu rừng quý.Cách ngôi thành Đồ Bàn không xa ở phía trong rừng có một ngôi nhà tranh mái lá, trong nhà chỉ có một bà mẹ và một đứa bé trai mới được ba tuổi, đứa bé này tên JaNin, họ vốn ở tận đất Indrapura, sau khi hoàng gia để mất đất vào tay của người phương Bắc, dân Chăm sống trong cảnh cơ cực và nghèo nàn, sau bao nhiêu trăm năm ở đây với hoang phế và tàn tích của một vương triều đã mất, họ quyết định bỏ xuống phía Nam, nhưng vẫn còn một số ở lại vì không nỡ rời bỏ đất đai, nhà cửa, gia đình JaNin thuộc trong số ở lại, họ và nhiều người khác cố gắng bám vào số ruộng đất đã khai hoang để sống, nhưng họ sống mà không được yên; hàng tháng bọn lính phương Bắc thường đến với số lượng đông, chúng kiểm dân,bắt bớ,lũ trai thanh niên cũng bị bắt làm lính cho chúng, mùa màng đến thì dân Chăm phải trả tiền thuế với giá ở trên trời, mọi của cải và những tặng phẩm mà dân Chăm tích góp đưa cho vị quan ở đây cũng không làm thỏa mãn lòng tham và tội ác của chúng. Những cuộc nổi dậy bùng lên, lửa chưa bén thì đã bị dập tắt hoàn tàn và tàn khóc, nhiều người bị giết và bỏ đói vì không đủ tiền đóng thuế, những ai nổi dậy chống đối thì gia đình bị giết sạch vì tội che giấu và đồng lõa, Cha JaNin dẫn đầu đám đông đánh trả bọn lính, thế là gia đình JaNin bị tàn sát hết, người mẹ phải bồng đứa bé là JaNin trốn trong một đống rơm lớn mới thoát được nạn, sau đó người mẹ bế JaNin chạy dài về hướng nam đến xứ Vijaya và dựng một ngôi nhà tranh nhỏ ở ngoài thành Đồ Bàn, hằng ngày bà mẹ dắt đứa con vào thành tìm cách làm thuê, làm mướn, ở đở cho người ta chỉ để nuôi con và sinh sống qua ngày, cuộc sống hết sức khốn khổ.Thời gian đằng đẵng trôi qua, người mẹ ấy bây giờ mái tóc đã nhanh chóng nhuốm màu mây, từng nếp nhăn đua nhau in vết trên khuôn mặt hốc hác, người mẹ ấy giờ đã già đi nhiều. Còn đứa bé thì đã khôn lớn, trở thành một chàng trai lực lượng và khôi ngô, chàng JaNin năm nay được mười chín tuổi, JaNin da ngâm, tóc xoăn, mặt vuông mũi cao, lưng to vai rộng, dáng đi như loài mãnh sói. Nin rất khỏe, có hôm chàng tìm được một cái thân cây to vốn là loài gỗ quý ở trong rừng, ước chừng nặng hơn cả một xe bò chở thóc, chàng ta liền chặt xuống vác vào thành đem bán để đổi gạo, ai ai trông thấy cũng tấm tắc khen là một người có sức khỏe. Nin rất thích nhìn và ngắm nghía những loại vũ khí mà chàng thấy, vào thành Đồ Bàn, hễ thấy thanh gươm nào hình thù kì lạ là chàng chăm chú nhìn thật lâu, sau đó chạy liền ngay về nhà chặt cây chế tạo lại thanh gươm đó bằng gỗ y chang, chàng giấu những thứ vũ khí bằng gỗ đó trên cây vì sợ mẹ nhìn thấy, hẳn nhiên mẹ chàng không chịu dựng nhà trong thành mà dựng nhà tranh ngoài rừng là có nguyên do, mẹ JaNin đã từng chứng kiến và chịu đựng quá nhiều sự mất mát, mất cha mẹ, mất chồng, anh chị em và họ hàng, mẹ JaNin không muốn mất thêm JaNin, từ nhỏ JaNin được mẹ dạy và dặn rất nhiều lần, mẹ chàng ngăn cấm chàng gây thương tích cho người khác, không dùng vũ khí, chỉ được dùng nỏ và một số thứ để đi săn, JaNin hiểu và không muốn mẹ trông thấy những cái vũ khí tuy rằng bằng gỗ đó, hằng ngày JaNin tập luyện với những thứ vũ khí mà chàng chế tác, chàng có thể sử dụng thành thạo và điêu luyện mọi thứ vũ khí mà chàng tạo ra. Tính chàng như thế nhưng chàng rất thương người, Nin rất thật thà và chàng thương mẹ lắm, hằng ngày chàng được mẹ dạy cho cái chữ, chàng thấy cái chữ của Chăm mình ngoằn nghèo cong nghoeo cũng hay hay nên rất ham thích.Một ngày trời mưa lưa thưa mát mẻ, JaNin bẫy được một lúc cả hai con nai và một con lợn rừng, chàng nhìn vào mắt con nai, không hiểu sao cảm thấy chảnh lòng nên chàng thả cho hai con nai này chảy đi, còn lợn rừng thì chàng liền vác mang vào trong thành ở chỗ ngoài chợ bán cho người bán thịt. Bên trong thành Đồ Bàn, ở trong chợ kẻ bán người rao, người mua dạo chợ đông như hội, con nít nối đuôi nhau đùa nghịch, những nàng thiếu nữ Chăm xinh tươi tuổi đôi mươi cũng ra đây, họ đi chợ và dạo mua những thứ trang sức, những chiếc khăn và những thứ vải quý giá, các thương nhân và ngoại nhân mang mọi thứ quý hiếm ở khắp nơi mang về đây, thật là tấp nập và nhộn nhịp, bọn thanh niên nhìn thấy những thiếu nữ ấy lấy làm vui và thích mắt vô cùng.Trong thành có rất nhiều người đẹp và duyên, trong đó có một người con gái tuổi vừa mười tám, nàng tên là PaRa, PaRa vừa đẹp người lại vừa đẹp nét, đôi mắt thơ ngây to tròn trong vắt của nàng nhìn vào như người mới tỉnh ngủ, quyến rũ ánh nhìn của người khác một cách vô tình và lạ thường; nàng có khuôn mặt tròn, mi nàng cong, môi nàng phai nồng, dáng người gọn gẽ, tiếng nói thỏ thẻ nhưng rất chính chắn và chuẩn mực, nàng có nụ cười duyên làm đắm đuối biết bao nhiêu con trai mang trong mình cái dại dột của tình ái, nàng nhăn mặt củng đủ làm cho người con trai đứng bên cạnh phải thẫn thờ. PaRa mồ côi cả cha lẫn mẹ, nàng sống nhờ trong nhà một người chú từ nhỏ, vì cảm lòng chú nuôi nấng nên nàng làm việc rất chăm chỉ, nàng nấu ăn rất ngon, múa lại càng rất hay, bọn con trai làng thường đua nhau mang quà đến tận nhà tặng nàng nhưng nàng chỉ mỉm cười mà không lấy. Hôm nay nàng PaRa cũng đi chợ, nàng đi với một người em trai tám tuổi lúc nào cũng tươi cười và đòi theo chị gái, đó là em họ của PaRa, họ ra chỗ người bán thịt, chàng JaNin cũng đang ở đấy. Vừa trông thấy PaRa, JaNin đã đứng chôn chân tại chỗ, chàng chưa bao giờ được đứng gần nhìn một người con gái như thế này, Nin mê mẩn tâm thần chăm chú ngắm đôi mắt, đôi môi và đôi khuyên tai nhỏ đáng yêu của nàng, Nin dường như đã bị PaRa hớp hồn ngay từ lần gặp đầu tiên, đúng là cảm giác của đứa con trai lần đầu trông thấy một người con gái xinh đẹp. Còn nàng PaRa thấy có người con trai bên cạnh nhìn mình như vậy, nàng mỉm cười và nhìn JaNin, hai đôi mắt nhìn nhau, nàng thấy khuôn mặt của JaNin thật là ngây ngô và nó làm nàng như muốn bật cười, nàng e dè lấy chiếc khăn choàng đầu che mặt lại, ngoài trời mưa vẫn rơi lưa thưa làm trời thật thoáng mát.Cạnh chỗ người bán thịt đó có những người thợ săn kia, họ mang về một con hổ to lớn, cực kì hung dữ, con hổ bị nhốt trong lồng, mấy đứa con nít súm lại quanh cái lồng reo hò ầm ĩ, chẳng may cửa lồng bị con hổ xé toạc sợi dây, con hổ phóng mình lao ra làm cửa lồng bị gãy gập làm hai, con hổ to lớn thoát ra khỏi lồng, những ai ở quanh đó đều lo mà chạy, trẻ con đàn bà thì ôm nhau đứng núp, những người thợ săn thì thủ thế giăng dây cầm giáo nhưng không ai giám tiến lại gần cả, con hổ to lớn bị bỏ đói nhiều ngày, thấy con lợn rừng chỗ hàng thịt, lại thấy nàng PaRa ở trước mặt liền nhe những chiếc răng nanh gầm lên, nhún đôi chân sau nhảy vồ tới định ngoặm cái đầu nhỏ của nàng PaRa, Nin đứng gần đó, chàng nhanh chân lao tới đẩy PaRa ngã xuống thoát khỏi cái chết trong gang tất, PaRa sợ quá ngất đi mất, con hổ nhanh chóng quay lại về phía JaNin, nhảy tới dùng móng vuốt vồ JaNin, JaNin không kịp trở tay, chàng bị con hổ cào chảy máu nhiều ở ngực, chàng ngã quỵ xuống, con hổ xoay mình và định nhảy tới lần nữa, con hổ gầm lên, Nin nhanh chóng đứng dậy, máu chảy ướt đẫm áo và người của chàng, Nin xé toạc áo mình để lộ thân hình cơ bắp, chàng rút con dao trong người ra,dựng cả tóc gáy, trợn mắt cau mày, điên tiết hét lên một tiếng lớn vang như sấm sét đang muốn xẻ đôi cây to, Nin bước tới,con hổ nghe tiếng thét sợ hãi bước lui mấy bước rồi nằm phục xuống, Nin bước tới thì con hổ càng nằm xuống thấp hơn và tỏ ra vẻ co ro, ai trông thấy cũng kinh sợ , những người thợ săn liền mang cái lồng úp lên con hổ rồi cột lại cửa lồng thật chặt, ai cũng khen Nin tài giỏi và ca ngợi không ngớt lời, chuyện chàng JaNin thuần phục con hổ được mọi người trông thấy truyền tai nhau. Còn nàng PaRa được người nhà đưa về, tới đêm mới tỉnh, nghe kể lại mọi chuyện mới nhớ ra là mình đã được JaNin cứu, từ đó nàng đem lòng ngưỡng mộ và thầm mong nhớ JaNin, chỉ cầu được gặp lại chàng để cảm ơn và thể hiện lòng thật của mình.Chàng JaNin từ nhỏ đã theo mẹ đi làm thuê mướn cho người trong thành, mẹ chàng có làm công cho một nhà giàu nọ, sau này chàng lớn lên cũng làm thuê trong nhà này, trong nhà đó chàng có quen thân với một người thanh niên hơn chàng một tuổi, người thanh niên ấy tên Bố Ca, là một cậu chủ trong gia đình, JaNin xem Bố Ca như là bạn thân và người anh của mình. Bố Ca dáng người vừa, mặt sáng mày ngược, đôi mắt nhìn không thẳng, tính tình đa nghi và tính toán, Bố Ca biết JaNin là một người sức khỏe có thể làm việc gấp hai những kẻ khác nên mới lân la làm thân, thường xuyên cho người mang thức ăn ngon về cho mẹ JaNin để JaNin cảm cái ơn ấy mà làm việc hết sức vì nhà mình hơn, mẹ JaNin tưởng Bố Ca là người tốt nên nói con trai mình phải cố gắng làm việc vì chủ, cũng kể từ ấy mà JaNin chỉ đi săn và làm việc cho nhà Bố Ca mà thôi.Chiều ngày hôm sau Nin vào thành xin Bố Ca cho chàng nghỉ mấy ngày vì chàng bị thương do hổ vồ, nàng PaRa tìm đến gặp, JaNin và PaRa gặp nhau, PaRa và JaNin đưa nhau ra bờ sông tâm sự, bỗng nhiên trời mưa, cả hai nắm tay chạy vào núp trong Tháp Cánh Tiên, đôi trai gái lần đầu tiên được ngồi gần nhau nên cả hai ai cũng ngượng ngùng, trong câu chuyện nàng PaRa tỏ ý cảm kích cái ơn cứu mạng, lời nói hết sức e thẹn và ý nhị làm cho chàng JaNin siêu lòng lúc nào không hay, chàng ấp úng mãi mà chẳng nói thành lời được, hai cặp mắt nhìn nhau đắm đuối, tưởng chừng như là đã thuộc về nhau tự bao giờ, một nụ hôn đầu được trao đi nhẹ nhàng, mưa vẫn rơi trên khung nền lãng mạn của tình yêu. Và kể từ đó trở đi, JaNin và PaRa đem lòng yêu mến nhau, thường xuyên gặp gỡ trao đổi tâm tình.Bố Ca vốn cũng biết đến PaRa, PaRa là một người con gái xinh đẹp mà Bố Ca đã mang lòng mê mẩn nhưng nhiều lần mang quà đến tìm gặp mà không bao giờ gặp được, nay bỗng nhiên nghe PaRa và JaNin là một đôi thì hết sức ghanh tị, lại được JaNin đem chuyện chàng yêu thương PaRa kể thật cho nghe thì Bố Ca lại càng căm tức, hắn ta nghĩ JaNin là một đứa nghèo hèn trong tay chẳng có cái gì mà PaRa lại đi thân với người như vậy, còn nhà mình thì bạc vàng tuy ít nhưng cũng không hề thiếu thốn, gia đình lại giàu có thì kém thua thằng JaNin chỗ nào, từ đó Bố Ca tỏ ý ghen ghét JaNin, những công việc nặng nhọc đều khéo léo sắp xếp để cho mình JaNin làm, buổi sáng ông mặt trời còn chưa ló mặt thì JaNin đã phải lùa đàn trâu ra chăn,chàng hết đi lấy những bó củi to đùng thì lại ra rẫy khai hoang, hết ghánh nước cả ngày thì lại thức trắng đêm đi gặt lúa, có ngày Bố Ca giả cách bị đau kêu JaNin trèo lên tận núi cao hái lá cây thuốc về cho hắn ăn, hắn chỉ mong cho JaNin lên núi bị rắn rít cắn chết, ma quỷ bắt đi cho hắn được một mình yêu lấy PaRa, một bên Bố Ca bốc lột sức JaNin, một bên lại sai người mang thêm nhìu thứ ngon quý đem tặng cho mẹ JaNin,lại chu cấp thêm tiền bạc, JaNin thì vẫn cố gắng làm việc cho tốt, chàng không biết là người bạn thân duy nhất và cũng là người anh mà chàng coi đang cố gắng tìm cách hại mình.Cuộc sống nơi xứ sở Chăm cứ như vậy trôi qua từng ngày, những tai ương cứ âm thầm tìm đến.Năm 1391 niên lịch Saka (tức năm 1469 sau CN)Một ngày mới lại đến trên kinh đô Đồ Bàn. Nhà vua tối thượng ban lệnh cho tất cả thần dân và quân đội chuẩn bị cho cuộc vượt biển tiến đánh một khu vực trọng yếu ở phương bắc, sau những cuộc họp hoàng gia và quan thần, vùng đất được chỉ định đánh phá lần này là Vuyar – thành Hóa châu (Châu Lý), một vùng đất xưa kia của ta đã đánh mất vào tay nước Đại Việt, cần phải đánh phá Hóa châu vì đây là nơi tích trữ gạo dồi dào nhằm cung cấp lương thực cho quân binh của Đại Việt trên đường di chuyển cả đường bộ và đường thủy để đánh chiếm kinh đô của ta.Cả thành dường như chấn động và tấp nập hẳn lên, ở ngoài khơi, những chiếc thuyền độc mộc được dẹp sang một ngả để hàng ngàn những chiến thuyền to lớn của ta vào luân chuyển lương thực và sửa chữa chuẩn bị cho ngày xuất quân, binh lính được chọn lựa và tuyển thêm, bọn thanh niên háo hức đua nhau xin nhập quân, hầu như ai cũng muốn đi đánh trận này, đây chắc chắn là một trận thắng vì nó là một sự bất ngờ được dành cho địch,tinh thần của binh lính thoải mái lúc nào cũng có sự sẵn sàng, đây chỉ là một cuộc đi cướp phá và ai cũng biết là ai đi cũng sẽ có chiến lợi phẩm để mang về, Bố Ca cùng đám bạn cũng đi, Bố Ca nghĩ quân ta đông và nhiều như thế, đi cho biết một lần thế nào là đánh trận và nếu gặp may thì hắn sẽ mang về những chiến lợi phẩm có giá trị. Tất cả được chuẩn bị kĩ lưỡng cho cuộc xuất phát sau nửa tháng nữa.Được tin, JaNin đang cày ruộng, lại thêm mấy đứa bạn rủ nhập quân, JaNin lập tức chạy quay về nhà tìm mẹ, thấy mẹ đang ngồi nhai trầu trước cửa chàng ngồi xuống cầu xin mẹ cho chàng được gia nhập thủy quân, chàng từng theo mấy đứa bạn ra biển đánh cá, chàng thích cái cảm giác được lướt đi trên đầu những con sóng, ở trên những con thuyền giữa đại dương bao la khiến chàng thấy mình thật nhỏ bé giữa thiên nhiên, giữa trời này, chàng thầm cảm ơn các Yang đã ban cho chàng, cho mẹ chàng, PaRa và tất cả mọi người có được một cuộc sống thú vị và vui vẻ. Giữa biển xanh này, chàng thấy thoải mái và tự do. Chàng thích thú khi kể cho mẹ nghe về cảm xúc của chàng trong những lần ra khơi, chàng nài nỉ mẹ cho chàng được đi đánh trận này, chàng sẽ lập công và nhận được những phù hiệu cao quý, những chiến lợi phẩm mang về chàng sẽ đem đổi thành tiền mua vải tặng mẹ, chàng sẽ mua gạo để dành trong nhà, chàng vui mừng khi nghĩ đến những điều đó, nhưng câu trả lời của mẹ làm chàng thất vọng vô cùng.Mẹ chàng ôn tồn đáp :- “ Không đi và đừng đi. Nin! ”Mẹ chàng lấy khăn choàng đầu lâu mồ hôi trên mặt chàng rồi nói tiếp :- “ Hãy hiểu cho nỗi lòng và sự cố gắng của mẹ bấy lâu nay. Mẹ đã thấy con đang sẵn sàng, người khác nhìn vào nghĩ mẹ thật ích kỉ khi giữ con ở nhà. Mẹ không cần những thứ lợi phẩm mà con nói đến từ việc theo theo đoàn quân đi đánh phá. Ngày xưa mẹ ẵm con bỏ làng chạy về nơi này là mong tìm được cuộc sống bình thường với những niềm vui. Nói cho mẹ nghe, con đã giết hay cắt đầu một ai chưa ? “JaNin buông giọng đáp :- “Dạ ! chưa một lần nào, đi đánh trận con sẽ thử”Mẹ chàng khuyên:- “ Con giết người khác hay người khác giết con, mẹ không muốn con đi chết ở đất người. Nhà mình nghèo, mẹ đi làm thuê lấy gạo nấu cháo nuôi con từ ngày con biết bò đến lúc con biết chạy, biết nói, lời mẹ nói con hãy nghe, trận này con không được đi.”JaNin nghe mẹ nói, thất vọng tràn trề, chàng như một đứa trẻ con, chàng buồn, chàng chạy ra ngoài nhảy xuống con suối ở trước nhà tắm để quên đi nỗi buồn này. Đúng lúc đó thì PaRa mang một mớ rau đến, nghe mẹ JaNin kể lại, trông ra ngoài thấy JaNin đang kì cọ tắm mình ở con suối trước nhà thì hai người phụ nữ nhìn nhau cười rất tươi.Đến thời gian hạm đội xuất phát, người ta kéo nhau ra tiễn người thân, PaRa cũng ra tiễn người thân, JaNin thì ra tiễn Bố Ca vì chàng coi Bố Ca như là người anh trai, Bố Ca đắc ý và coi thường JaNin khi thấy JaNin không có mặt trong đội hình xuất phát. Cãnh tiễn người ra trận diễn ra trong nước mắt và cả những niềm vui. Hàng ngàn chiến thuyền dần dần biến mất ở nơi xa tít.Hằng ngày JaNin vẫn đến nhà Bố Ca để nhận công việc làm thuê như bình thường, cứ đến buổi trưa thì PaRa mang cơm đến hai người cùng ăn, tình cảm càng trở nên mặn nồng. Ngày qua ngày, hết JaNin qua nhà PaRa chơi thì JaNin lại dẫn PaRa về nhà với mẹ mình, hai gia đình và chòm xóm láng giềng ai cũng khen là đôi bạn trẻ rất đẹp đôi.Chưa được một tháng thì tin tức truyền về, trận đánh phá thắng lợi, bên ta mất mát ít, thu được khá nhiều chiến lợi phẩm. Gần hai tháng thì hạm đội với những chiếc thuyền to lớn trở về biển của ta, mọi người cùng nhau ra đón trong niềm vui gặp mặt lại người thân. Người nhà Bố Ca ra đón nhưng nhận được tin giữ, Bố Ca và một toán binh của ta bị địch phục kích và bắt sống mang đi vì ham mải miết đuổi theo một gia đình phú hộ trên đường vận chuyển tài sản tháo chạy, thuyền của ta neo ngoài biển nên không thể mạo hiểm tiến sâu vào vùng nội địa để giải cứu toán quân này. Gia đình Bố Ca đau đớn khóc lóc rất thảm thiết, JaNin đang ở ngoài đồng, khi về mới được tin, JaNin tỏ ra rất buồn và oán giận quân địch, gia đình Bố Ca có ơn với chàng, chàng rất muốn đi tìm anh Bố Ca.Ngày tháng trôi qua, tình cảm của PaRa và JaNin dành cho nhau ngày càng sâu nặng. PaRa một đêm mang chuyện nàng yêu và muốn lấy chàng JaNin làm chồng cho người chú nghe, người chú này vốn cũng mến cái tài sức khỏe của chàng JaNin nên hứa sẽ đồng ý kết duyên chàng JaNin cho cháu mình. PaRa đem chuyện ấy nói JaNin nghe, JaNin bên vui bên buồn, chàng vui vì mình thân nghèo mà sắp lấy được vợ, chàng buồn vì người anh của mình là Bố Ca bị bắt ở xứ người ta, sống chết bây giờ chưa rõ, và quan trọng nhất là chàng thương người mẹ già, PaRa phải nói lời an ủi thì JaNin mới đỡ buồn được phần nào. Chàng về nhà mang chuyện PaRa và Bố Ca tỏ rõ tâm tư của mình cho mẹ nghe, chàng nói:- “ Thưa mẹ ! nay mai người ta sẽ đến nhà mình hỏi con về làm chồng, nhưng lòng con chỉ muốn đi tìm anh Bố Ca về rồi sẽ tính chuyện vợ chồng sau, không biết ý mẹ như thế nào..? “Lần này mẹ JaNin đồng ý cho chàng đi tìm Bố Ca, đây cũng có thể là một trận đánh của riêng chàng mà chẳng cần một hạm đội thủy quân nào cảSau khi suy nghĩ, người mẹ từ tốn nói :- “ Người ta không chê nhà mình nghèo mà muốn lấy con về là người ta thật lòng với con, nhưng nhà Bố Ca đã giúp đỡ hai mẹ con ta rất nhiều, tình là một chuyện nhưng nghĩa con không bao giờ được quên,con hãy nhớ lấy.”JaNin xúc động thưa rằng:- “Lòng con cũng nghĩ như vậy, nhưng hành trình con đi sẽ không biết bao giờ trở về, để mẹ một thân già yếu ở nhà lòng con không an tâm.”Nói xong chàng ta nằm xuống tựa đầu vào đôi chân mẹ già, người mẹ xoa đầu JaNin, rớt nước mắt nhìn ra ngoài hát lên một khúc dân ca.JaNin nghe câu hát ru rồi thiu thiu ngủ đi lúc nào không hay. Đêm đó, JaNin đi đến nhà PaRa nói thật nỗi lòng của mình, bên nhà PaRa cũng không vội nên đồng ý ý muốn của chàng, sau đó JaNin và PaRa cùng nhau ra chỗ Tháp Cánh Tiên ở giữa thành, trời lại bỗng mưa, ông trời thật biết khéo đùa, mỗi lần hai người ở bên nhau thì mưa lại rơi xuống, nhưng chỉ một lúc sau thì mưa đã tạnh, hai người trao cho nhau những tình cảm yêu thương chân thành, những giãi bày, tâm sự của đôi trai gái thì thầm dưới ánh sáng lung linh của ánh sao xuyên qua tàn cây in lên bóng Tháp một thứ màu sắc mê hoặc,những lời hứa được trao đi, những lời thề được trao lại, một tình yêu giản dị và thơ mộng của đôi trai gái Chăm, dưới bóng Tháp hùng vĩ, PaRa tặng cho JaNin một bài múa, nàng đứng lên múa,nàng bắt đầu bước đi, nhịp điệu có khi nhanh có khi chậm, cung cách đi đứng hết sức ý tứ, những bàn tay của nàng lúc xòe ra lúc uốn cong như loài bông hoa nở rộ, nụ cười thơ ngây càng tô thêm màu sắc cho điệu múa đẹp đẽ, JaNin dường như bị hoa mắt trước nàng tiên trước mặt, chàng cũng yêu thích múa hát, chàng đứng dậy bước đến gần PaRa cất tiếng hát, những bàn tay của chàng cũng xòe ra khép vào đung đưa theo cánh tay PaRa, đôi chân chàng nhanh hơn, chàng bước tới nhanh rồi chậm rãi lui xuống, vừa múa vừa hát vòng quanh nàng, PaRa và JaNin như hai con chim non bay quấn quýt đùa dỡn nhau, điệu múa như là tìm thấy được niềm vui trong cuộc sống vậy.Sáng sớm hôm sau, PaRa và mẹ JaNin cùng ra tiễn chàng, nàng PaRa tháo ba chiếc vòng vàng ở tay ra cho JaNin mang theo phòng lúc cấp bách, để có tiền đi đường cho con, mẹ JaNin đem hết những thứ trong nhà có giá trị đổi thành ít tiền vàng cho JaNin, JaNin một mình một ngựa thẳng theo con đường đến hướng bắc mà chạy, phía sau chàng là những giọt nước mắt chia ly của người mẹ và người yêu, , , , hai người phụ nữ với những đôi mắt xa xăm nhìn theo bóng JaNin khuất dần sau những bụi cây rồi mất dạng về đường chân trời, mẹ JaNin vẫn đứng đó nhìn dù JaNin đã đi rất xa. Làm sao có thể hiểu được hết ý nghĩa những giọt nước mắt mà một người mẹ dành cho đứa con mình.“ Mẹ mang con trong bụng,trời sinh raĐôi chân con chưa vững, cất tiếng khóc ê aMẹ dạy con ba tiếng : ChămPa, Mẹ và ChaDòng máu chảy trong con là đất và quê nhàBầu sữa mẹ căng tròn, con nằm ngoan chờ đợiMẹ ru con giấc ngủ, cha nâng bước con điCha mẹ đi trồng lúa,thành hạt cơm thơm phứcNhững lời con đã cãi, cha mẹ chẳng trách chiTrời làm cảnh mưa gió, Mẹ nuôi con khó nhọcCha ghánh đời nghèo khó,ghánh cả con trên lưngNhững chiếc áo mỏng vai, Cha Mẹ mặc từ đóSông núi lớn trước mắt rồi con sẽ thấy rõ.Nè ne neChim non cất cánh từ trong ổCá con vẫy vùng ra biển khơiChim khôn cá lớn ngày tháng dàiCon đã nên người con trả cho ai “JaNin ngày đi đêm nghỉ, chàng đi hơn tháng trời mới đến được nước Việt, tin tức về Bố Ca và toán binh lính của ta hầu như không ai biết cả, nhưng JaNin vẫn không nản lòng, tiền bạc trong người hết, chàng phải bán luôn con ngựa của mình, nhưng chiếc vòng vàng PaRa trao cho chàng vẫn giữ bên mình, ngày tháng tìm kiếm tha phương, hai tháng trời trôi qua nhanh chóng trong niềm vô vọng, một ngày kia chàng đi đến một vùng núi mỏ vàng, ở đây con người thay nhau làm việc cả ngày lẫn đêm, mặt mũi ai nấy lem luốc và bơ phờ vì công việc khổ cực, tiền bạc trong tay đã hết sạch, JaNin xin vào làm ở mỏ vàng này và người ta nhận ngay bởi nhìn vào là biết JaNin là người có sức khỏe, ở trong mỏ, nhìn từ xa JaNin trông thấy một hình dáng thân quen, tuy không nhìn rõ mặt nhưng chàng nhận ra ngay đó là anh Bố Ca, JaNin tìm đến gặp thì quả đúng là Bố Ca thì vui mừng khôn xiết, Bố Ca nhận ra JaNin, cảm động quá ứa nước mắt mà khóc rống lên như đứa trẻ con, nói cũng chẳng thành lời, JaNin liền xin người ta cho chàng làm thay anh mình để Bố Ca nghỉ ngơi, tới đêm JaNin mới xong việc, hai anh em ngồi nói chuyện với nhau, Bố Ca kể về những chuyện mà mình đã trải qua,từ khi qua đây , Bố Ca bị áp bức, bị đánh,bị chửi mắng, ăn uống lại hết sức khổ sở, nay gặp lại JaNin thì dường như được cảm thấy cơ hội thoát thân chắc hơn và hắn đỡ cô đơn rất nhiều,JaNin kể về những chuyện ở quê, kể về mẹ, về PaRa, bây giờ tìm đã tìm được Bố Ca, chàng hứa sẽ tìm mọi cách để đưa anh mình về đoàn tụ với gia đình.Sáng hôm sau, JaNin lại đi làm thay Bố Ca, trong lúc làm, chàng quan sát địa hình, hỏi thăm địa vật, xác định đường đi nước chạy ngay từ trong đầu, chàng nhận thấy cạnh quả núi này có một con sông chảy quanh khu mỏ vàng, sông rộng và sâu, nước chảy rất xiết, người ta lại không xây cầu, nhiều người bị chết đuối khi qua sông này vì bỏ chạy,tất cả nơi ở của người và vùng mỏ đều được lắp hào, lại để ý thấy bọn canh gác rất đông, chúng thay phiên nhau ba lần một ngày, việc thoát khỏi nơi này tưởng chừng như không dễ một chút nào.JaNin ngày đêm suy nghĩ, tìm cách cứu Bố Ca, còn Bố Ca thì giả cách bị bệnh, nằm liệt tại cái chòi của mình không đi làm, tên quản đốc thấy JaNin làm thay cho Bố Ca là tên có sức khỏe thì cũng thầm đồng ý, không hỏi đến Bố Ca nữa. JaNin đem suy nghĩ của mình nói cho Bố Ca nghe, chàng nói cần thời gian để tìm cách, chỉ cần có sơ hở thì hai anh em sẽ thoát được, bằng nếu hết cách thì sẽ lấy ba chiếc vòng vàng của PaRa cho để đổi lấy sự tự do của anh Bố Ca, còn thân mình sẽ tính sau, nói xong chàng mang ba cái vòng vàng ra cho Bố Ca xem, Bố Ca trông thấy vòng vàng, trong ánh mắt rạng rỡ vui mừng ánh lên những toan tính, lấy cớ JaNin đi làm mang theo vòng vàng dễ bị đánh rơi nên Bố Ca đòi giữ những chiếc vòng ấy cho an tâm, tất nhiên là JaNin không từ chối.Một tuần trôi qua, vẫn không thấy JaNin nhắc đến chuyện bỏ trốn, Bố Ca cảm thấy hết sức sốt ruột, cũng không thể giả bệnh hoài. Sáng hôm đó, chờ khi JaNin đi làm rồi, Bố Ca lén mang ba cái vòng vàng tìm đến tên quản đốc, ở đây một thời gian dài nên Bố Ca cũng hiểu và biết nói tiếng người nước Việt, Bố Ca dùng lời ngon ngọt và lí lẽ tỏ rõ cho tên quản đốc nghe, tên quản đốc này tính lại tham lam, thấy vàng thì nhận ngay, hắn nghĩ cho Bố Ca về, để JaNin lại thì cũng tốt, chỉ lợi chứ không hại, hắn liền cho người mở cổng thả cho Bố Ca đi, lại thấy Bố Ca yếu ớt nên cho thêm con ngựa già, Bố Ca được ra ngoài, cắm đầu phi ngựa mà chạy, không biết trời đất là gì, cũng không nhớ tới JaNin đang ở phía sau nữa, hắn chỉ biết là cuộc sống mới và nàng PaRa đang ở phía trước mà thôi.Đêm JaNin làm về, hỏi thăm thì biết Bố Ca dùng vàng đổi thân, đã được thả đi từ sáng, trong lòng JaNin buồn bã, cô đơn vô cùng, chàng nhớ mẹ và nhớ PaRa rất nhiều, chàng không trách Bố Ca, chàng còn mong cho Bố Ca được mau mau về đến nhà chu cấp một phần nào đó cho người mẹ già của chàng.Nhắc qua PaRa, từ khi tiễn biệt JaNin, ngày nào nàng cũng đến nhà JaNin săn sóc cho mẹ người yêu, mặc dầu chưa phải là dâu nhưng dẫu tất cả công việc nàng đều làm hết thảy, nàng không để người mẹ phải đụng đến chân tay dù là việc nhỏ nhất, thường ngày nàng lên núi hái rau rừng, xuống suối bắt con tôm con cá về nấu những bữa cơm đạm bạc cho hai mẹ con, người mẹ cảm thấy nếu có được người con dâu như PaRa là hết sức may mắn cho con mình, căn nhà tranh mái lá đơn sơ với hai người đàn bà ngày đêm trông ngóng JaNin trở về.Hơn một tháng sau, Bố Ca về đến nhà, cha con Bố Ca thấy mặt, ôm nhau khóc lóc kể lệ sự tình. Mẹ JaNin và PaRa được tin Bố Ca về, niềm vui như muốn vỡ òa, hơn nhiều tháng nay chờ đợi cuối cùng họ cũng quay về, hai người liền dắt nhau tìm đến nhà Bố Ca với niềm hân hoan trong lòng. Vừa trông thấy mẹ JaNin, Bố Ca đã quỳ xuống dưới chân người mẹ khóc lóc rất thảm thiết, như cảm thấy điều gì bất an đã xảy ra, người mẹ liền đỡ Bố Ca lên hỏi ngay sự tình, gặng hỏi mãi Bố Ca mới ấp úng dối rằng trên đường trốn chạy về đây, JaNin đă bị trăm mũi tên của quân Việt bắn chết rồi, chỉ một mình hắn là trở về được. PaRa nghe đến đấy, chân tay run rẩy, nước mắt vỡ tan, cả người như không đứng vững. Mẹ JaNin nghe xong, đứng sững một chỗ, định nói lời gì đó nhưng chưa kịp thốt lời nào đã ngã lăn ra đất, bất tỉnh từ đó.Những ngày hôm sau, người mẹ vì quá thương con nên việc ăn uống không điều độ, PaRa hết sức ngày đêm săn sóc nhưng mẹ JaNin không muốn dùng đến thuốc than, hằng ngày người mẹ cố lê từng bước mỏi mệt ra ngoài tựa đầu vào cửa khóc đứng đó nhìn xa xa chờ con, đôi mắt hốc hác người mẹ tưởng chừng như đã khóc đến cạn khô nước mắt rồi. PaRa cũng gầy đi thấy rõ, không đêm nào là nàng không đẫm lệ nhớ thương, nàng không giám khóc trước mặt mẹ già vì sợ làm bà buồn thêm,nàng cố nén lòng, ban đêm đi ngủ mới sụt sùi nước mắt nhớ thương người yêu, nàng chẳng ngủ được, trong giấc mơ nàng thấy hình bóng JaNin rất gần, ngôi nhà tranh chìm trong màn cảnh buồn đau.Nửa tháng sau, sức khỏe mẹ JaNin yếu hẳn đi, bà không thể ngồi dậy được nữa, đến lúc hơi thở cuối cùng, bà kêu PaRa lại bên giường, nắm tay nàng, nói rằng:- “ Khi mẹ chết đi rồi, xin con mang xác đem chôn ở trên đỉnh núi cao để hồn mẹ có thể trông thấy thân xác JaNin, được như vậy mẹ có thể yên lòng biết nhường nào. Còn con PaRa, con phải đi tìm một chỗ dựa khác cho riêng mình, JaNin đã chết rồi, chết thật rồi, con đừng buồn bã và suy nghĩ mãi mà sống cuộc đời một mình, con còn trẻ,đường hạnh phúc còn dài, PaRa con hãy nghe lời mẹ.”Nói xong những lời dặn dò thì đêm đó người mẹ JaNin buông tay nhắm mắt, thân ở lại đất, hồn bay về trời, một kiếp người trôi qua trong trần gian đau thương. PaRa khóc nức nở, ôm lấy mẹ JaNin, nàng kêu tên JaNin, nước mắt nàng làm ướt cả khuôn mặt hồng hạc cô đơn, bây gi
0 Rating 236 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On October 27, 2014
Wa Praong -fb PANUEC LANGKAR EW YANG ( Lời khấn vái trong các nghi lễ) Likau da-a Po Harei siam tuk tanyruahHarei ligaih tuk makrâPo deh di danaokPo daok di Cam. Aia patil aia pataPo kalung papah thah tageihala nduen hala khailisei sapluh limâ salaoahar thong ahar cambah. Manuk yauakaok takai hatai hajaiphik la aguen. Hadiip pasang muk Jukduah hu ngao jiengthau phuel thau yaomka Po muk Po keiPo Praok Po PatraPo Patri Po Nabi Daliwetdalam sang dalam danaokbilan Katé bilan Cambur bilan than uh bilan than auenPo dai thau dai hamiitjuai aen juai kaden. Likau da-a Poliéng phuel liéng yaomliéng likau liéng kunâliéng pajiak liéng pajiengsaong mbeng trah thombeng trah angantrah harak trah agalthraiy juai kandonganak dam klaong juai kawak. Dei tra likau mbai padaongtapeng paga ala sanghadiip hataom[pataom] pasanganak hataom amaiksuma hataom matuwcek hataom tacaowadei hataom sa-aimik hataom kamuen. Saong mbai padaongjalan nao jalan maijalan trun jalan tagokpandiak praong padaong di Po rimbuk praong padaong di Po nao tel cek wek tel sangnao tel glai mai tel sangakaok yau basei drei yau habanakaok yau basei drei yau talithei brei Po breithei pajieng Po pajienglaik likei daok likeilaik kamei daok kamei. Likei ngap kajang lang ciéw tiap asau raow manuk kumei daok di khan di aw taik khan tamâ khan taik aw tamâ aw ka Po Muk Po Kei Po praok Po Patra Po Patri Po Nâbi Daliwet ngap dhaong jieng dhaong ngap kanu jieng kanu ngap hamu hu padai nao raglai hu tangey ngap hamu sa phun sa taok sa laok sa ribuw sa phun sa taok sa laok sa tamân ndom saong yuen ranam ndom saong cam anit peh pabah klao urang kacaw mâh brei peh pabah puec urang kuec mâh brei. Anâk tacaow Po daok dom ro rah kakah kaghak likau di Po juai aen kaden hanaik kajaok thei jhak hatai iniai yak Po paoh mbaok mâng likuk mbuk mâng anak ngap mbeng hu ginup jieng mâda yak yum jum pataom yau rakaom mâng baoh di aia yau caraoh bak banâk mâk oh mada thraok jhaok oh mada karang kheng yau Po tanâh Po riya thei caong oh taklok thei rok oh magei ribuw thun tamân thun. Haiy laih....!! likau thuk kunâ siam likau kajep kunâ karo Po brei Po pajieng oh mâng da hu hagait tra,,,, Sohaniim _ Sưu tầm.
0 Rating 215 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On October 14, 2014
                                        KATÊ CHỢT NHỚ ! Một sớm mai, tôi bàng hoàng tĩnh giất Nhìn hàng cây trụi lá, dáng hao gầy. Nhìn lá đổ, phủ vàng ngoài hiên vắng Mưa sương buồn, se lạnh cả tâm cam. Tôi đâu ngỡ thu về nhanh đến thế? Gió thu sang, chợt thoáng chút ngỡ ngàng. Tôi đâu ngỡ, trên vùng thân thương ấy Thu đã về, gieo rắc cả nhân gian?   Tôi chợt nhớ quê hương tôi ngoài đó Cũng gió thu nồng, cũng nắng thu sang. Tôi chợt nhớ đến những mùa thu cũ Katê đã về trên khắp nẻo đường quê. Nắng sớm palei, nắng tràn thôn ấp Gió thơm nồng, hương lúa phía nông trang.   Tôi chợt nhớ: Lũ em thơ rộn ràng kheo áo mới Ánh mắt sáng ngời, trong tiếng cười vang. Bóng mẹ già bồi hồi bên hiên vắng Mắt xa xăm, mong ngóng lũ con về. Phía đầu thôn, những chuyến xe đến vội Lũ con về, thăm lại chốn quê cha.   Tôi chợt nhớ: Dáng em tôi thấp thoáng sau khung cửi Áo mới điểm tà, khoe nét kiêu sa. Buông suối tóc, khăn makra choàng vội Nở môi cười, khoe sắc với muôn hoa. Tôi liên tưởng đến những vùng ân ái Bóng hồng nhan chợt tỏa khắp thân ngà.     Tôi chợt nhớ: Trong những ánh nắng ban mai vàng nhẹ Trên những vùng tháp cổ ngống trông thu. Những đoàn người hành hương lên trẩy hội Katê muôn màu, muôn vẻ thiên thai. Tượng Siva nước sông thiên gột rửa Cột đá linga làm lễ tẩy trần. Thần mặc áo mới, đón mùa lễ hội Lũ con dân, đưa lễ cúng dâng người. Vị tăng lữ đốt hương trầm cầu nguyện Tiếng kanhi réo mãi khúc xưng thần.   Tôi chợt nhớ: Trong những ngày Kate xưa cũ ấy Palei tôi bừng tỉnh khúc giao mùa. Cả xóm thôn, ngập tràn trong vũ hội. Điệu múa, lời ca vang mãi chẳng ngừng. Và nhà nhà đắm chìm trong hoang hỉ Chén rượu mùa vui, ngâm suốt đêm trường.   Tôi lại nhớ, những mùa Kate ấy! Trong một ngày, gió nhẹ chốn tha hương. Tôi chợt nghĩ đến Katê quê mẹ Chắc giờ này, thôn xóm cũng vui ca. Katê ơi! katê sao đến vội? Để tôi ngồi tôi nhớ chốn quê hương. Gió thu ơi! Có về nơi đất mẹ. Nhớ gửi lời, dùm cho kẻ xa quê: Palei giờ này có gì thay đổi, Katê đã về, ai có thấy vui không?   JASHAKLIKEI  Bai Gaor, Katê, 2014.
0 Rating 175 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On September 21, 2014
Chiếc vòng tay nước mắt Đêm hôm ấy, một đêm thu, trăng sáng, không một tiếng động, hoa sứ nhà ai tỏa hương thơm ngào ngạt? Quấn lấy cái không gian yên tĩnh, chợt như đang lắng động lại trong lòng đôi bạn trẻ, Jadu và Mưsa ngồi đó, lặng thinh. Nước mắt trào ra, chạy dài trên đôi má Mưsa từ lúc nào? Nàng không biết và cũng chả muốn lau. Tay của Jadu đã bầm tím lên vì chàng ghì nó quá chặt vào mảnh đá chàng đang ngồi.   Đêm nay, hai người hẹn nhau để nói điều gì đó, nhưng – nhường chỗ lại cho cái khoảng không tỉnh mịch – họ không nói gì cả, vì họ đều biết cả hai đang muốn nói điều gì. Mưsa không thể chờ đợi lâu hơn, nàng gạt nước mắt, rồi quay sang phía Jadu, dúi vào tay chàng chiếc vòng tay mà chàng đã tặng nàng năm tốt nghiệp cấp ba, hai người xem đó như chiếc vòng đính ước, đêm nào Mưsa cũng lau chùi, ngấm nghía nó, rồi lại cười tủm tỉm, nó đã theo nàng hằng đêm vào giất ngủ. Mưsa bỏ chạy, nàng về nhà và khóc suốt đêm đó. Jadu ngồi đó, khóc nấc lên như một đứa trẻ, chưa bao giờ chàng khóc nhiều đến thế, chưa bao giờ chàng đau khổ đến thế… … Mưsa sinh ra trong một gia đình Bàlamôn đầy uy tín trong thôn, mẹ của nàng mất – vì bệnh hiểm nghèo – khi nàng mới ba tuổi, kể từ đó, nàng sống trong sự nuôi dưỡng của bà. Bà của Mưsa, người đứng đầu của tộc họ, người phụ nữ đầy quyền uy và trọng vọng đối với cộng đồng Bàlamôn. Người đàn bà đó, thừa hưởng một gia tài lớn của gia tộc là những sách cổ và các đồ dùng quý giá. Mẹ của Mưsa, con gái út của bà, người sau này bà hy vọng sẽ truyền lại để lưu giữ những tài sản tinh thần quý giá đó của gia tộc. Nhưng, mẹ Mưsa lại mất quá sớm, ngày mẹ nàng mất, bà của nàng đã buồn lắm, bà khóc rất nhiều, người đầu bạc tiễn kẻ đầu xanh, đứa con gái yêu quý của bà đã không còn trên đời này nữa, bà đã đau khổ lắm. Lúc ấy, Mưsa hãy còn nhỏ quá, nàng chỉ biết khóc theo bà và cha. Từ đó, bà dành mọi tình yêu của mình cho Mưsa, bà thương nàng vô cùng, thương nàng còn hơn thương con gái của mình, bà thương nàng mất mẹ từ tấm bé, sợ nàng thiếu thốn tình thương của mẹ. Những đứa cháu khác của bà dù nội hay ngoại, chưa bao giờ được bà cho ngủ chung, chưa bao giờ được bà chăm sóc từng miếng ăn, giất ngủ như nàng. Và từ đó, bà xem nàng như là người mà sau này sẽ truyền thừa lại kho tàng của tổ tiên, người mà bà sẽ giao lại vai trò của người đứng đầu dòng tộc, nàng còn quá trẻ để biết điều đó, nhưng bà sợ mình không sống lâu hơn được nữa, bà dạy cho nàng cách làm người con gái Chăm, đêm đêm bà ngâm những bài ariya Patauw Adat Kamei hay Muk Thruh Palei cho nàng, cho dù nàng không hiểu triết lý và bài học trong những gia huấn ca ấy cho lắm! Cha của Mưsa, một nhà giáo, nhà nghiên cứu văn hóa Chăm mẫu mực và nổi tiếng trong cộng đồng Bàlamôn, là cựu sinh viên Đà Lạt, ông trở về tham gia sáng lập và giảng dạy tại trường Pô Klong, sau đó về làng mở trường dạy chữ Chăm cho những đứa trẻ trong thôn. Ông gặp mẹ Mưsa, hai người yêu nhau và kết hôn như bao cặp tình nhân cùng đạo khác. Sau khi mẹ Mưsa qua đời, ông buồn bã và đau khổ, người vợ thân yêu của ông đã không còn nữa, ông lao đầu vào viết sách và nghiên cứu, ông rong ruổi khắp các làng Chăm sưu tầm các văn bản cổ, tham gia soạn giáo trình, từ điển tiếng Chăm, làm thơ, sáng tác nhạc về Chăm, con người đó thật sự đã tạo nên uy tín rất lớn được nhiều người ngưỡng vọng. Đối với giới chức sắc Bàlamôn ông còn là người có công lớn, ông đã đóng góp rất nhiều kinh phí tổ chức lễ tết cho làng xóm, cũng như cộng đồng, không bậc tu sĩ Bàlamôn nào không biết và không tri ân ông. Đối với làng, ông là người đã đứng ra tổ chức nhiều hoạt động văn hóa, tổ chức thôn xóm và xây dựng nếp sống trong thôn. Chính vì phải hằng ngày lao mình vào công việc ông không có thời gian chăm sóc cho Mưsa, nhưng ông thương nàng lắm, ngoài thời gian nghiên cứu, ông làm nông, như bao người Chăm bình thường khác. Ông viết sách và nghiên cứu ngoài tinh thần dân tộc, còn là để nuôi cho Mưsa ăn học thành người. Mưsa lên lớp sáu, năm ấy gặp mùa hạn, không có tiền, ông đã bán những tác phẩm sáng tác văn chương và âm nhạc của mình cho người khác với giá rẻ mạt để có tiền cho nàng kịp nhập học, điều mà một nhà viết lách chuyên nghiệp như ông, không bao giờ muốn làm. Người cha, không thể biểu hiện tình cảm yêu thương của mình ra bên ngoài như bà và mẹ, nhưng cha của Mưsa đã yêu thương nàng bằng cái cách thầm lặng nhưng dạt dào tình cảm như vậy đó! Ngày lại qua ngày, Mưsa lớn dần theo tình thương mà bà và cha đã dành cho nàng. Nàng không mãi là cô bé, cô bé của cái thời trẻ dại, khi mái tóc còn chấm ngang vai, khi đôi chân vẫn còn để trần rong chơi khắp xóm làng. Nàng đã trở thành thiếu nữ, đôi mắt long lanh với những cái nhìn gợi cảm, mái tóc dài thước tha tung bay trong gió, nụ cười duyên làm lộ hai má lún đồng tiền, làm cho ai bắt gặp cũng phải xuyến xao. Mưsa đã là một thiếu nữ thật sự, nàng đã biết sửa soạn, biết trau chuốt, biết làm duyên trước lũ con trai cùng lứa. Có bao người đã thầm yêu trộm nhớ nàng, và nàng cũng đã có những người để mà thương, mà nhớ, nhưng tất cả chỉ là những mối tình vụn trộm, ngây dại của cái tuổi mới lớn, nàng chôn chặt những tình cảm đó vào trong, chưa bao giờ dám thổ lộ. Cho đến cái năm mười sáu tuổi, cái tuổi đẹp nhất của đời người con gái, nàng gặp Jadu. Jadu sinh ra trong một gia đình chức sắc Bàni ở thôn bên cạnh, cha chàng là một vị tăng lữ có địa vị và tiếng nói, tương lai sẽ là Cả sư (Po Gru) của thôn. Chàng là con thứ sáu, con trai út, trong gia đình trước đó đã có năm đứa con gái. Cha mẹ chàng mãi mới có một người con trai, chàng là hy vọng của cha mẹ, mẹ sinh ra chàng khi bà đã gần bốn mươi tuổi, đối với cha mẹ, ông bà chàng là con cầu con khẩn, con mà Po Aulwah đã ban cho gia đình. Vì vậy, ngay từ nhỏ chàng được cha mẹ rất mực cưng chiều, ngay từ nhỏ, cha đã cho chàng làm lễ trưởng thành (katat) và đưa chàng đi học chữ Bini để lớn lên chàng gọi ông bà tổ tiên về chứng dám trong các dịp tảo mộ (nau ghur) và cúng tổ tiên (ew muk kei). Có thể nói, gia đình chàng, hy vọng ở chàng nhiều lắm, họ muốn chàng là một người Bàni thật sự, xứng đáng là con của một Po Acar, mà sau này có thể lên chức sư cả (Po Gru), tuổi thơ chàng thanh bình lớn lên trong tình thương đầy ấp mà cha, mẹ giành cho chàng. Mưsa và Jadu gặp nhau khi cả hai đều bắt đầu bước vào trường Pô Klong, hai người học chung một khóa ở cái ngôi trường giàu truyền thống này. Ở ngôi trường này, biết bao nhiêu thế hệ những người con Chăm và Raglai ưu tú đã trưởng thành, cũng từ ngôi trường này biết bao thế hệ bạn bè đã trở nên thân thiết, từ ngôi trường này cũng có biết bao câu truyện tình yêu lứa đôi đã được nở hoa kết trái, những năm tháng được học dưới mái trường này, thật sự là một kỷ niệm không thể nào quên được trong ký ức tuổi học trò của những con em Chăm và Raglai nhiều thế hệ. Trong những năm tháng đó, đôi bạn trẻ của tuổi mười sáu ấy – cái tuổi mười sáu trinh bằng, ngây dại như những đóa hoa Tagalau mới nở mỗi độ hè về – gặp nhau và yêu nhau. Hai người học khác lớp nhưng cạnh nhau, buổi ban đầu biết nhau họ chưa phải lòng nhau. Cho đến cái ngày tổ chức hội trại của trường… Đêm hôm ấy, khi buổi sinh hoạt văn nghệ hội trại của trường đã xong, khi đám con gái đã vào trại ngủ rồi, ở bên ngoài trại lớp, lũ con trai rủ nhau ngồi lại hát hò, Jadu cầm ghi-ta, đàn cho lũ bạn hát, những nam sinh Chăm và Raglai ngồi bên nhau, quay quần bên ánh lửa trại, cất lên tiếng hát, hát những khúc nhạc về quê hương dân tộc. Giất mơ Chapi, Đêm hội Raglai, Điệu ru đất tháp, Mùa xuân trên tháp cổ… những bài ca ấy gợi nhớ về những hình ảnh xa xăm, bình dị của buôn làng Raglai: “với những ngôi nhà sàn đơn sơ, nơi những con người sống cuộc đời thanh bình, không lo toan, không tính toán, hay những hình ảnh của đêm hội say sưa bên ghè rượu cần, nam, nữ, già, trẻ nhảy múa bên ánh lửa, trong tiếng cồng , chiêng vang vọng núi rừng…”. Hay từ những khúc ca gợi những liên tưởng, những ký ức về những palei Chăm: “… hằng đêm vẫn vang lên tiếng đàn kanhi đắm say, ngất ngây tâm hồn, hình ảnh của đàn chim Chrao tung bay trên vòm trời xanh thẳm, những xóm làng lại rộn lên trong những mùa gặt hái, hay hình ảnh hoa tagalau nỡ đầu xuân,  bên tiếng trống ginang, tiếng kèn saranai, đàn em mùa hát bên tháp Chàm đón mừng ngày hội quê hương và cả xóm làng như hòa mình vào ngày hội của quê hương, dân tộc…”. Tiếng ca hòa lẫn tiếng đàn, vang lên trong đêm lửa trại, không biết tự khi nào đánh thức đám con gái hòa mình vào cuộc vui, từ các trại bên cạnh các học sinh kéo đến cũng ngồi vây quần tham gia vào cuộc vui khó cưỡng, tiếng đàn của Jadu, lời hát của những chàng trai Raglai, Chăm đã lôi cuốn được đông đảo mọi người. Theo lời giới thiệu của một người bạn trong lớp, Mưsa hát cho mọi người nghe bàiBhum Adei, cái bài ca thắm đượm tâm tư, tình cảm và tiếng lòng của người con gái Chăm. Tiếng hát trong ngần của Mưsa cất lên, tiếng đàn Jadu say theo từng câu hát, giọng hát của nàng thanh thót, âm vang, tiếng đàn của chàng du dương, da diết,  hòa vào tiếng hát, làm cho cả không gian dường như tỉnh lặng, mọi người ngồi nghe không một tiếng động. Mưsa nhìn Jadu, mĩm cười, nàng hát: “…jwai wơr palei adei ơy xa-ai, jwai bboh mưda wơr kathaut rah mai…”. Jadu như say sưa trong tiếng hát của Mưsa, chàng chưa bao giờ chơi bản nhạc nào có hay đến thế! Chàng thấy, lời nhắn gửi của bài hát dường như nhắn gửi riêng cho mình. Tiếng đàn của Jadu cũng làm trái tim Mưsa xao động, nó đã đánh lên tiếng lòng của người con gái, nàng cảm thấy xuyến xao lạ thường, nàng xuyến xao tiếng đàn, hay xuyến xao người nghệ sĩ chơi đàn, nàng cũng không biết nữa? Đêm hôm ấy, những nữ sinh, nam sinh Chăm – Raglai, ngồi với nhau bên ánh lửa bập bùng, không tiếng mã la, không tiếng chapi, không tiếng cồng chiêng, không có kanhi, ginang, saranai, không có ghè rượu cần, không phải ở giữa buôn làng, giữa palei. Nhưng ở nơi đây, qua lời hát, qua tiếng đàn họ như sống lại những lúc còn ở quê nhà, ở những buôn làng, những nhà sàn của người Raglai, ở những palei Chăm vào mùa lễ hội. Lời hát, tiếng đàn làm cho những người anh, em Chăm – Raglai học xa nhà, nhớ quê hương hơn, nhớ người thân hơn, nhưng ở nơi đây họ được sẽ chia bên tình bạn, ở nơi đây họ trở thành một khối, quyện chặt vào nhau, bên nhau cho vơi đi nổi nhớ. Tình bạn đó sẽ theo họ đến suốt cuộc đời này, rồi sau này khi trưởng thành, nó sẽ mãi là những kỷ niệm không bao giờ quên trong lòng tất cả. Cũng trong đêm cái đêm lửa trại ấy, Mưsa và Jadu đã tìm được một nửa của cuộc đời mình, ở đó, hai trái tim đồng điệu đã cũng thổn thức, đêm nay sẽ là cái đêm không bao giờ quên trong ký ức của mỗi người. Kể từ cái đêm hôm ấy, không khi nào Mưsa không nghĩ về Jadu, không khi nào không nhớ về chàng, hằng đêm nàng đưa chàng vào trong giất ngủ của mình, cái hình ảnh nàng hát, Jadu đàn, cứ ghi sâu trong tâm trí nàng, nàng đã biết yêu thật rồi! Jadu cũng vậy, chàng say mê tiếng hát của Mưsa, nàng kiều diễm với nụ cười làm duyên lúc nào cũng khắc sâu trong tâm trí chàng, chàng gặng hỏi lũ con trai cạnh lớp để biết về Mưsa. Kể từ đêm đó, hai người đã biết chỉnh chu hơn trong mắt nhau, và đôi lúc – ngoài giờ học – trộm liếc nhìn nhau, lúc gặp mặt nhau chỉ nở một nụ cười e thẹn, ánh mắt nhìn nhau trìu mến, nói với nhau những lời ngượng ngùng. Và đêm về lại nghĩ về nhau, đưa nhau vào suy nghĩ, vào giấc mơ, họ chợt nhận ra mình yêu người kia, tự lúc nào cũng không biết? Thông qua lũ bạn cùng lớp, Jadu biết số điện thoại của Mưsa, hai người nhắn tin qua lại cho nhau, gần hai tháng, cho đến cái ngày Jadu quyết định chàng sẽ hẹn nàng ra quan nước trước trường. Lần đầu – chỉ hai người – ngồi cùng trong quán nước, có một chút thẹn thùng, một chút ngượng ngạo, nhưng rồi Jadu cũng chủ động bắt chuyện với Mưsa, chàng hỏi đủ thứ chuyện về học hành, về bạn bè trong phòng của Mưsa, không chuyện nào ăn nhập với chuyện nào, chàng còn hơi bối rối, nàng cũng vậy. Thoáng chốc, hai người không còn ngượng ngùng, rụt rè như ban đầu nữa – từ lúc nào – đôi bạn hiểu nhau hơn, thân mật hơn và tự nhiên hơn. Đêm về, họ lại tin qua, tin lại cho nhau, Mưsa và Jadu yêu nhau như vậy đó, mối tình đầu của họ – mối tình thuở học trò – là những lần hẹn nhau ngoài quán nước, là những lần đi dạo dưới sân trường, là những chiều mưa đứng ngoài ban công tâm sự, là những dòng nhắn vội lúc đêm về, là những lời quan tâm, âu yếm… là những ngày lưu luyến mãi về nhau! Họ yêu nhau, biết đối phương nghĩ gì, nhưng chưa bao giờ nói tiếng yêu. Jadu đã hỏi Mưsa, nhưng Mưsa nghẹn ngùng không muốn đáp, nàng cứ lần hồi, lần hồi mãi… Cho đến cái ngày họ sắp ra trường, một chiều mùa mưa trên hành lang lớp học, Jadu tặng cho nàng chiếc vòng tay kỷ niệm, chàng ngập ngừng: – “Không biết ra trường rồi, làm sao mình gặp nhau liên tục được nữa, tôi sợ cái cảm giác không được thấy Mưsa hằng ngày lắm, Mưsa à”. Một hồi yên lặng, Mưsa đáp: - “Mưsa cũng vậy, không biết từ khi nào Mưsa cũng có cảm giác như Jadu vậy?”. - “Thế sao Mưsa không trả lời tôi đi, Mưsa còn suy nghĩ đến bao giờ nữa” – Jadu tiếp lời nàng – “chúng ta sắp tốt nghiệp rồi, không biết có còn được gặp nhau nữa không”. Mưsa nói: - “Jadu nói chuyện gì vậy, Mưsa không hiểu?”. Jadu: “thì chuyện tôi yêu Mưsa, muốn làm bạn trai Mưsa đó, Mưsa không nhớ sao?” Mưsa thoáng chút e thẹn trên nét mặt, nàng cười và nói: “Mưsa và Jadu chẳng phải đã là bạn của nhau đó sao, Mưsa không nói, nhưng tự khi nào, em đã xem Jadu như người yêu của mình rồi”. Nghe những lời đó, chàng như mở cờ trong bụng, chàng lấy chiếc vòng tay – chàng đã mua để tận Mưsa từ lâu, tính hôm nay nói chuyện và tặng nàng – tặng cho Mưsa, chàng nói: - “Quen nhau đó giờ, Jadu không có gì để tặng Mưsa cả, nay tặng cho Mưsa, Mưsa cứ xem đây như là tình cảm cua tôi”. Mưsa không dám nhận: - “Sao vậy được, Mưsa không dám lấy quà của Jadu đâu”. Chàng đáp: - “Đây không phải là món quà bình thường đâu, Mưsa à! Nó là tình cảm của Jadu tặng cho Mưsa, Mưsa không nhận tức là từ chối tình cảm của Jadu đó, hay Mưsa cứ xem nó như là kỷ niệm cũng được”. - “Jadu nói vậy thì Mưsa nhận” – nàng đáp. Ngoài trời, mưa vẫn rơi, những cơn mưa đầu mùa ở cái xứ sở nắng nóng Panduranga. Jadu và Mưsa ngồi đó – chỉ hai người – bên hành lang lớp học. Thế là, đã hai năm trôi qua kể từ đêm lửa trại, đêm hai người bắt đầu yêu nhau, hôm nay họ mới chính thức trao lời cho nhau, chiếc vòng tay mà Jadu tặng Mưsa như một minh chứng cho tình cảm của họ. Họ gặp nhau, yêu nhau, như bao đôi lứa Chăm bình thường khác, họ không nghĩ rào cản Chăm – Bàni có thể chia cắt được tình yêu của họ, họ nghĩ thời đại đã phát triển, người ta sẽ không còn ngăn cản con gái Bàlamôn yêu con trai Bàni như xưa nữa. Tình yêu sẽ giúp họ có đủ can đảm để vượt qua tất cả và đến với nhau, như nhiều trường hợp đã diễn ra như vậy. Thế là hai, ba mùa mưa nữa lại trôi qua, tình yêu của họ lớn dần theo năm tháng. Cả hai người đều là sinh viên đã ra trường, họ quen nhau trọn vẹn năm năm rồi, mối tình của họ đẹp như thơ, êm ả nhưng cũng mãnh liệt như dòng sông Lu vẫn chảy trên quê hương từ nghìn đời, nồng nhiệt như cái nắng, cái gió của xứ sở. Thời gian càng trôi mối tình đó lại càng thêm sâu đậm, họ cảm thấy mình yêu nhau lắm rồi! Không có gì có thể chia cắt nổi tình yêu đó. Yêu nhau, họ không bao giờ nghĩ đến những rào cản nào cả, có nghĩ đến nhưng cũng tin rằng, tình yêu sẽ giúp họ vượt qua tất cả và đi bên nhau đến bến bờ hạnh phúc. Tình yêu của hai người đến một ngày cùng đến tai của người lớn. Đêm hôm ấy, khi bữa cơm vừa xong, cha của Mưsa, ngồi bên ngoài hiên nhà, nhâm nhi tách trà nóng, Mưsa cảm thấy trên khuôn mặt cha hiện lên một nét lo âu gì đấy. Bà nội gọi Mưsa vào trong và nói chuyện với Mưsa, trên nét mặt bà cũng hiện lên những nỗi âu lo như vậy, nàng cảm nhận thấy một điều gì đó? Bà hỏi Mưsa về chuyện tình cảm của mình, sau một hồi nàng thú nhận đang yêu Jadu – người con trai Bàni. Nét lo âu trên khuôn mặt bà giờ được thay thế bằng giọt nước mắt ướt đẫm, người đàn bà cứng rắn nhất tộc họ, lần thư hai đã khóc – lần đầu là lúc mẹ Mưsa mất – bà thương Mưsa, nhưng bà không thể cho Mưsa lấy người con trai khác đạo được. Ở nhà nào bà không cần biết, ở trong nhà của bà, đăc biệt là người cháu thừa kế của bà không thể lấy người Bàni được, bà thương Mưsa, nhưng chính bà cũng không thể thoát khỏi cái rào cản này được. Bà là trụ cột của tộc họ, bà phải làm gương cho tộc họ. Mưsa đêm ấy, không ngủ được, nàng khóc sướt mướt. Nàng nghĩ, chẳng lẽ mình phải chia tay với Jadu sao? Nàng không thể, nàng yêu Jadu lắm rồi, nàng không thể sống mà không có Jadu được, như con thú không thể sống mà không có rừng, như con cá không thể sống mà rời xa nước. Hôm sau nàng nói chuyện này với Jadu, chàng cũng buồn lắm không biết phải tính sao nữa, gia đình chàng cũng đã biết chuyện này, cha nói tuyệt đối không được lấy con gái Bàlamôn, nếu muốn thì cha sẽ từ con, còn hơn là làm mất thể diện. Nghe đến đây mẹ Jadu cũng khóc, bà khóc cho đứa con của bà, đứa con mà bà hằng hy vọng làm rạng danh gia đình, nay lại đòi lấy người con gái Bàlamôn, bà chỉ khóc và không nói gì cả, thà bà cứ đánh, cứ chửi Jadu, thì chàng không cảm thấy áy náy và đau khổ, đằng này không nói gì cả, cứ ngồi khóc, cứ buồn rầu, bà đổ bệnh mấy ngày liền, cha không cho vào thăm, mà cứ gặp Jadu là bà lại khóc. Jadu tự nghĩ chàng không thể là người con bất hiếu, nhưng biết làm sao được? Chàng yêu Mưsa như sậu đậm mất rồi, một ngày xa nàng là một ngày khắc khoải, là một ngày ăn không yên, ngủ không ngon, chàng nhớ nàng, như con chim Chrao nhớ đàn, như chàng Đam San nhớ nữ thần mặt trời vậy! Họ tiếp tục yêu nhau – bắt chấp sự ngăn cản của gia đình – được hơn năm nữa, hai người cố gằng thuyết phục hai bên nhưng hoài vô vọng, cho dù ở trong họ niềm tin về sự chiến thắng của tình yêu lúc nào cũng chảy. Chàng đã nhiều lần đến xin gia đình nàng nhưng không được tiếp, lũ con trai trong họ nghe tin nhiều lần dọa đánh chàng, nếu chàng không từ bỏ Mưsa, trong gia đình chàng ai cũng xa lánh chàng, vì sợ gần chàng sẽ làm cho cha chàng phật ý, mẹ chàng từ đó, cũng đổ bệnh, không ngớt thuốc thang, chàng cũng thường xuyên vắng nhà vì sợ về lại làm mẹ đau lòng. Mưsa, cũng vậy, bà nói với nàng: “khi nào tao chết thì mày hãy lấy nó, lấy nó để mà làm người ngoài tộc, lấy nó để mà chết làm con ma hoang ở ngoài làng”. Bà thương nàng lắm, bà kể với nàng, ngày xưa bà cũng yêu một người con trai Bàni, nhưng bà lại là người thừa kể của dòng họ, bà từ bỏ tình yêu để làm tròn hiếu hạnh, bà là con của tộc họ, do tộc họ sinh ra, bà phải có trách nhiệm với cội nguồn, bà nói với Mưsa: “đừng vì một thằng con trai, mà từ bỏ dòng họ, từ bỏ tổ tiên, như người mất gốc, rồi chết đi không được nằm trong kut của tộc họ, không được siêu thoát linh hồn con ạ”. Cha Mưsa, cũng buồn lắm, ông vốn ít nói, nhưng biểu hiện ra mặt, ông không còn quan tâm đến Mưsa nhiều hơn trước nữa, nàng dọn cơm, nấu nước ông không ăn, ông gọi cô cháu gái đến để nấu cơm, nấu nước trong nhà đã hơn nửa năm nay. Uy tín của một nhà Chăm học, một người hoạt động cho dân tộc, khiến ông không thể chấp nhận điều này. Thế là cứ hằng đêm, hằng đêm cuộc hẹn hò của hai người chìm cho nỗi buồn và nước mắt, Mưsa đã chảy bao nhiêu giọt nước mắt rồi, hằng đêm nàng không ngủ được, chỉ biết khóc, xanh xao và gầy hẳn đi. Jadu, thì ít cười hơn trước, chàng bỏ bê mọi thứ, suốt ngày cứ suy nghĩ mông lung như kẻ mất hồn. Thế rồi, chuyện gì đến sẽ phải đến, Mưsa không thể làm người con bất hiếu, và càng không thể để Jadu, vì mình mà cũng là người con bất hiếu, mẹ chàng đã bệnh lâu lắm rồi, nàng không muốn người bên nàng cứ sang mắng chửi cha chàng không biết dạy con, để cho chàng đi dụ dỗ con gái. Nàng cứ suy nghĩ mãi, cái lần mẹ chàng dù bệnh tật, không đi nỗi, phải có người dắt díu, cũng đến gặp nàng và nói: “Ta yêu Jadu lắm! Nó yêu con, ta biết con cũng yêu nó lắm! Ta cũng yêu con lắm! Nhưng gia đình ta là một chức sắc Bàni, ta không cho con làm con dâu ta được, nếu cha nó chỉ là một lão nông phu nghèo hèn, và gia đình ta chỉ là một gia đình bình dân, ta sẽ cho con lấy nó… ta tin rằng gia đình con cũng sẽ không bao giờ chấp nhận chuyện này, ta không muốn con trai ta bị mắng chửi là đi dụ dỗ con gái nhà lành, bị đánh đập mỗi lần sang nhà con nữa! Ta không muốn nó phải từ bỏ chữ hiếu, vì con, ta không muốn nó khi chết đi, không được làm lễ nhập Ghur, mà phải làm con ma vất vưởng, mãi không thể siêu thoát.  Ta yêu nó lắm, ta đau khổ khi nhìn nó ra nông nỗi này lắm, khi nào có con, con mới biết ta yêu nó như thế nào con ạ!… Con đừng trách cha nó, đừng trách ta, cũng đừng trách gia đình con, nếu trách hãy trách số mệnh, trách tiếng khen che, giễu cợt của người đời, con ạ!…” Đến đây, Mưsa lại nhớ đến câu nói của bà: “… Ta và con đều từng yêu một người Bàni, nhưng số mệnh đã sinh ta ra là người Bàlamôn, số mệnh sinh ta ra là người thừa kế của dòng tộc này. Ta không thể vì tình yêu mà trở thành một người con bất hiếu, ta thương con, nhưng ta không thể vì con làm mất thanh danh dòng họ, con có thể lấy bất kỳ ai con muốn, nhưng con không thể vì hạnh phúc của mình mà phải để gia đình, dòng tộc phải chịu lời vô tiếng ra của người đời, con không thể vì người khác mà làm ô nhục gia tộc được. Ta thà từ bỏ con chứ không bao giờ chấp nhận truyện này, hãy trách số mệnh, trách người đời, chứ đừng trách ta, trách cha con, trách gia đình mình…”. Thế là xong, nàng yêu Jadu, nhưng nàng không muốn vì tình yêu của mình mà cha, mẹ chàng phải buồn, nàng yêu chàng, không muốn chàng phải chịu khổ, chịu nhục vì yêu mình nữa, chàng không muốn Jadu phải vì mình mà làm một người bất hiếu. Nàng lại càng không muốn bà và cha mình phải buồn, càng không muốn vì mình mà dòng họ lại phải chịu tai tiếng, bị người đời chê bai. Bà nàng và mẹ Jadu nói đúng: “… Nếu trách hãy trách số mệnh, trách tiếng khen che, giễu cợt của người đời…”. Nàng tự hỏi, không biết mình sẽ sống thế nào khi không được ở bên Jadu? Năm năm yêu nhau, thật khó để mà có thể kết thúc, biết bao nhiêu kỷ niệm, biết bao nhiêu tình cảm, giờ phải chấm dứt như vậy sao? Nàng tự hỏi. Những rồi, nàng phải lựa chọn, chia tay tốt hơn cho cả hai, cứ mỗi lần nghĩ vậy, nàng lại khóc, đôi mắt nàng thâm quần lên vì hằng đêm không ngủ. Cứ hằng đêm, nàng nằm dài trong tuyệt vọng, những giọt lệ vẫn hằng ngày ước đẫm đôi môi, ướt đẫm cả mối tình nàng, ướt đẫm tâm tư người con gái, trái tim nàng đớn đau như rỉ máu: “Chàng hỡi! Chàng ơi! Em yêu chàng nhiều lắm, những ngại mẹ cha, nhưng ngại gia đình, em phải làm sao? Không phải lỗi của đôi mình mà là lỗi của số mệnh, nếu em không sinh ra trong một dòng tộc danh vọng trong làng, nếu chàng không phải là con của một Po Acar đầy uy tín… có lẽ ta đã đến được bên nhau, có lẽ và có lẽ!…” Mưsa có kìm cái mối riêng tư ấy lại, cho dù nàng biết nó sẽ để lại một nỗi đau không thể nào nguôi trong lòng mình. Nàng hẹn chàng để trả lại chiếc vòng tay mà chàng tặng lúc tốt nghiệp cấp ba – chiếc vòng tay minh chứng cho tình yêu của họ, chiếc vòng tay đã theo họ trải qua những nỗi nhớ, những niềm vui, những hy vọng thuở đang yêu, đã theo họ nếm trải những nỗi buồn, nước mắt lúc khổ đau – đó là một đêm mùa thu – hai người nói tiếng chia tay – một đêm mùa thu, Mưsa và Jadu không còn là của nhau nữa, không còn bên nhau nữa, cho dù vẫn rất yêu nhau.“Nếu trách hãy trách số mệnh, trách tiếng khen che, giễu cợt của người đời…”. Đâu đó, ở trong xã hội Chăm đương đại, vẫn còn có những chuyện tình buồn như chuyện tình Mưsa và Jadu. Đâu đó – dù đã có nhiều tiến bộ – nhưng người Bàni vẫn không thể lấy người Bàlamôn. Và ở đâu đó Ariya Cam – Bini thuở xưa vẫn được tái hiện bằng cách này hay cách khác, không khắc nghiệt, thê thảm như chuyện xưa nhưng cũng thấm đẫm đầy niềm đau và nước mắt. Đêm nay, bỗng từ đâu vang lên khúc dân ca Chăm – Bini: “Cam saung Bini hu min Vơy adei nhu lơy, min hu min. Thei, thei lac ong khin? Dwix nan, đwa nhu đwa, dwix nan, đwa nhu đwa » (Chăm và Bàni được thôi, hỡi em vẫn được thôi.
0 Rating 182 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On June 1, 2014
  Tắc đường. Mới bảnh mắt đã ùn đống tại các ngã ba mà trước đây chưa bao giờ tắc. Lê Đại Hắc đi ngược chiều giữa một đám đông ngơ ngác. Từ Mỹ Sơn tỏa sang vùng lân cận có tới bảy chốt đã được cấp tốc lập ra để chặn bắt thủ phạm. Chẳng mấy ai tin vào cách này nhưng Lê Đại Hắc thừa nhân lực để không bỏ sót phương án nào dù là thô sơ nhất. Tuy chưa biết hung thủ thuộc thành phần nào nhưng ông ta chắc chắn đó là một kẻ tà đạo khát máu có bộ mặt gớm giếc. Sáng nay ông đã thẩm vấn ngót chục đối tượng khả nghi có tiền án tiền sự nhưng không hé ra được manh mối gì. Kẻ sát nhân chọn hiện trường là khu di tích tôn giáo, cách giết người lạ lùng với những nghi lễ chưa từng có đã buộc ông chú ý đến các đối tượng khác người. Cuộc trao đổi với viên kiến trúc sư trên hiện trường đã trang bị cho ông một cặp kính mà ông tin có thể nhìn sâu hơn vào các tổ chức ma giáo. Các thầy lang, thầy cúng, thầy phù thủy và các gia đình có thân nhân bị bệnh được cho là ‘’ma ám’’ được ông cho người theo dõi. Tuy nhiên ông để mắt nhiều hơn đến các các đạo sĩ, trí thức, những người mà ông tin rất thông tường pháp thuật và nghi lễ của phái Balamon. Họ có thể là các giáo sư, tiến sĩ, nhà nghiên cứu hoặc đơn giản những kẻ cuồng tín hay mang bệnh hoang tưởng. Trong khi ông đang cho lính ráo riết săn lùng khắp hang cùng ngõ hẻm thì hung thủ có lẽ đang giảng đạo trên thánh đường, trên bục giảng, hoặc ngồi trong công sở hay đang vùi đầu trong thư viện với các cuốn sách cổ kinh dị. Lê Đại Hắc nảy ra ý định gặp ngay hội đồng khảo cổ, nơi tập trung rất nhiều đoàn chuyên gia đang thất sủng sau khi buổi khai quật bị hủy đột ngột. Tên hung thủ biết đâu là một trong số họ, hoặc nếu không thì nhóm trí thức kia sẽ giúp ông gỡ rối phần nào mối tơ vò này. Máy cầm tay reo vang, ông nghe xong rồi nói. - Đoàn nào đến?... Khẩn trương lắm hả?... Bảo họ đợi chốc lát, tôi sẽ về ngay. Hóa ra không chỉ ông muốn gặp các nhà khảo cổ, mà chính họ cũng đang cần chất vấn ông. Lê Đại Hắc dập máy rồi lên xe trở lại đại bản doanh của mình. Về đến nơi, ông đã thấy một nhóm người ăn mặc lịch sự, kẻ đứng người ngồi đầy vẻ nôn nóng trong phòng khách và nổi bật nhất là giáo sư Huỳnh Lẫm. - Xin chào các vị, các vị đợi tôi đã lâu? - Chào ông cảnh sát, tìm ra hung thủ chưa? – Giáo sư Huỳnh Lẫm hỏi. - Tôi đang muốn tìm các vị giúp sức đây. - Lê Đại Hắc lắc đầu đáp. Giáo sư Huỳnh Lẫm nói: - Lẽ ra không đến phiền ông nhưng chúng tôi vừa nhận được một công văn khẩn từ Bộ ngoại giao giới thiệu một chuyên viên người Campuchia sang làm việc. Lê Đại Hắc nhìn thấy một người đàn ông da ngăm đen ngồi bên cạnh vị giáo sư. - Xin tự giới thiệu, tôi là Sray Ka Mou, phó chánh văn phòng Bộ Du lịch campuchia. Paul Morierre đang mang một số tài liệu tối mật liên quan đến Campuchia. – Người khách nói. - Nếu tài liệu này lọt ra ngoài thì hậu quả khó lường nổi. Chính vì lẽ đó mà tôi được cấp tốc phái sang đây gặp các ông. - Tìm tài liệu nào? tôi chưa hiểu? - Tôi sẽ giải thích. – Giáo sư Huỳnh Lẫm rút ra một cuộn hồ sơ rồi nói. - Thưa ngài cảnh sát, Paul đang nắm tài liệu về một kho báu bí mật trong lòng đất thuộc lãnh thổ Campuchia. Nếu kẻ xấu lấy được tài liệu này thì chúng sẽ tìm thấy kho báu đó. Vì vậy người ta cần ông tìm kiếm và thu lại ngay các giấy tờ này. - Gay thế cơ hả, chúng tôi đang vã mồ hôi hột tìm hung thủ đây. Mà có gì thì cũng chờ chúng tôi bắt được chúng đã chứ. Tuy nói vậy nhưng Lê Đại Hắc vẫn đón lấy tập hồ sơ ra xem. Ông biết đây là một công trình cổ kính chứa nhiều hiện vật quý. Kẻ ngoại đạo như ông không đánh giá hết ý nghĩa. Giáo sư Huỳnh Lẫm nói tiếp: - Phần lớn tài liệu này đang trong tay Paul. Hay nói đúng hơn là số tài liệu về kho báu này Paul đã chuyển cho chính phủ Campuchia một phần rồi. Ông ta chỉ giữ trong người phần cốt yếu nhất để đích thân đi khai quật kho báu này nhưng chưa thành thì đã gặp nạn như ông biết. Lê Đại Hắc nghe qua đã thấy độ khẩn cấp và sức nóng của công việc. Hóa ra đây là một chuỗi hậu quả dây chuyền sau cái chết của Paul, vụ việc đã vượt ra khỏi phạm vi biên giới. Điều này gợi ra một hướng điều tra mới mà ông chưa bao giờ nghĩ tới, đó là: động cơ giết người là vì tài liệu. Do đó thủ phạm có thể sẽ chạy sang Campuchia – hướng về kho báu. Lê Đại Hắc nói. - Chúng tôi đã khám hiện trường nhưng không thấy gì. Nạn nhân đã bị lột trần truồng không còn thứ gì trên người. Nếu ông ta mang gì đó theo người thì chắc chắn đã bị hung thủ mang đi rồi. Chúng tôi đang căng ra tìm hung thủ và có gắng thu về mọi tang vật. - Có lẽ tài liệu này chưa hẳn đã nằm trong tay hung thủ. - Giáo sư Huỳnh Lẫm nói. – Paul thừa khôn ngoan để cất giấu nó hoặc gửi cho một người thân cận nào đócủa ông ta. - Theo giáo sư thì ai là người thân cận? Tất cả nhìn nhau nhưng không cất tiếng. Lê Đại Hắc nói. - Các ông cứ suy nghĩ cho kĩ những ai đang nhòm ngó kho báu này. Chỉ có những kẻ có học mới đủ tầm làm những việc như vậy. Các ông là người trong nghề nên dễ nhận dạng bọn họ. Các vị ngại nói ra ở đây thì có thể nhắn tin vào máy cho tôi. Còn bây giờ tôi có việc rất gấp phải đi ngay. Lê Đại Hắc đứng dậy đi ra cửa. Từ khi xảy ra án mạng ông tập trung chỉ đạo truy tìm hung thủ nên ông đã coi nhẹ căn phòng của nạn nhân ở Rex. Tuy đã báo cho cảnh sát khu vực đến niêm phong nhưng ông không mấy tin vào sự khẩn trương của họ. Lê Đại Hắc bỗng dưng thấy nôn nóng khác lạ, nếu Paul có một tài liệu tuyệt mật tầm cỡ như vậy thì chắc chắn đang nằm trong két sắt ở khách sạn. Ông lao ra ngoài gara, một phút sau chiếc Land Cruiserchở nhóm cảnh sát lao hết tốc lực về phía Đà Nẵng.                            ***   Kì Phương mở ba-lô lấy tờ giấy anh chép dòng chữ sáng nay ra so với dòng chữ trong bức ảnh.Thật kinh ngạc. Hai chữ này là một. Vậy làchữ đó đã từng xuất hiện tại một thánh địa khác ở một thời điểm khác. Kì Phương gợn lên một nỗi hoang mang rằng liệu những gì xảy ra với Paul sáng nay có giống như vợ ông ta ở Naga 12 năm về trước không? Nếu đúng thì cái chết của Paul đã được lập trình từ trước và hôm nay, tên sát thủ đã trở lại. - Ai giết mẹ cô? – Kì Phương đột nhiên hỏi. - Tôi không biết. - Ba cô phải biết chứ? - Tiếc rằng ba tôi cũng không nhìn thấy kẻ giết người. Đó là cái chết khủng khiếp đã ám ảnh ba suốt bao năm nay. Đã có lần trên giường bệnh ba tôi đã mê sảng và hét lên rằng ‘’Đừng giết ta, đừng giết con ta’’. Rõ ràng có ai đó muốn giết ba con tôi. Kì Phương suy ra một điều rằng Paul đã bị một lực lượng nào đó đeo bám để trả thù từ khi rời kho báu Naga. Sáng nay giáo sư Huỳnh Lẫm đã vô tình gieo một câu mà anh cứ nhớ mãi ‘’chưa có kẻ nào đụng vào thần hộ mệnh Chăm mà toàn mạng trở về’’. Kì Phương cố gạt nỗi ám ảnh trong đầu rồi lật các trang sách hòng tìm chứng tích nào đó về hung thủ nhưng các bức ảnh còn lại chỉ là hang động âm u không có sự sống. - Ba cô có bao giờ tiết lộ thánh địa này ở nơi nào không? - Không, không bao giờ. - Thi Nga lắc đầu dứt khoát. – Ba nói vị trí này phải được giữ tuyệt mật vì tính mạng của tôi. Ba sợ tôi sẽ tìm cách vào đó và sẽ lại mất mạng... Ba nói nó là thánh địa có chủ hàng mấy thế kỉ nay. Những chủ nhân bí ẩn này sẵn sàng có mặt bất cứ đâu để ban cái chết cho bất cứ ai nhăm nhe xâm phạmnó. Ba mẹ tôi may mắn đã đặt chân đến đó nhưng mẹ tôi đã không thể trở về. Ba tôi căm thù chúng đến tận xương tủy và thề rằng ngày lôi chúng ra ánh sáng không còn lâu nữa! - Nhưng ba cô đã...- Kì Phương định nói chết rồi nhưng may kìm được. Tuy rất dằn vặt nhưng anh vẫn trấn an lòng mình rằng tìm xong Naga anh vẫn kịp đưa cô về viếng ba mình. Hơn nữa, linh hồn và thể xác mẹ cô thảm thương hơn vì đã mười hai năm không người nhang khói. Nhìn Kì Phương đứng ngây người, Thi Nga giằng lấy cuốn sách trong tay anh rồi nói: - Nếu anh sợ, tôi sẽ đi tìm Naga một mình. - Ơ kìa. - Kì Phương giằng lại cuốn sách. – Ai bảo tôi sợ? mà cô biết Naga đâu mà đi một mình? - Tôi sẽ tự đi tìm. Kì Phương không hiểu cô gái này sẽ tìm cách nào giữa núi rừng bao la xứ người. Mà tình cảnh cô lúc này cũng rất éo le, ở lại cũng không ổn, đi cũng không xong và anh không nỡ bỏ cô lúc này. - Tôi sẽ đi cùng cô.Chúng ta sẽ cùng đi Naga. - Anh không sợ tai vạ à? Nếu có mệnh hệ gì thì sao? Thật tình Kì Phương cũng rất ớn khi nghe cô kể và nhất là tận mắt thấy xác Paul nhưng đến nước này mà rút lui thì ê mặt nam nhi. Anh cất cuốn tài liệu vào balô rồi nói. - Tôi chỉ lo cho thân gái của cô thôi. Nhìn thấy sự quyết tâm của Kì Phương, mặt cô rạng rỡ trở lại. - Chúng ta phải tìm ra Naga trước chiều mai. - Cô nói. – Nếu muộn hơn e phải đợi thêm... mười hai năm nữa đấy. Kì Phương gật đầu rồi nói nửa thật nửa đùa. - Không bản đồ, không manh mối, không người dẫn đường, hi vọng mười hai năm sau tìm thấy là vừa. - Tại sao lại không có manh mối chứ? Kì Phương chợt nhớ ra mẩu giấy của Paul và cả dòng chữ trên yoni. Rất có thể con đường đến Naga đang ẩn trong đó. - Chắc cô biết tiếng Chăm chứ? - Tôi chỉ học một ít qua ba thôi. – Cô đáp thoáng chút ngượng ngùng. - Thế là tốt, hơn một trăm ba mươi ngàn người Chăm trong nước cũng chỉ vài chục người đọc thông viết thạo tiếng mẹ đẻ là cùng. Còn để đọc được tiếng Chăm cổ thì chỉ đếm đầu ngón tay. - Mà anh hỏi để làm gì? Kì Phương đưa cho cô tờ giấy có dòng chữ Chăm lạ. - Anh lấy đâu ra? - Sáng nay tôi thấy trên yoni nên đã chép lại đấy. - Yoni nào? tại sao tôi không thấy gì nhỉ? - Yoni có máu đấy. Sáng nay nó mới hiện rõ hơn, mà quan trọng là cô có hiểu chữ này là gì không? Thi Nga ngơ ngác nhìn dòng chữ hồi lâu rồi hỏi. - Đây đâu phải tiếng Chăm? - Đây không phải là chữ thảo Akhar Thrah, nhưng có thể là một chữ Chăm cổ. Cô nên nhớ là từ thời lập Quốc đã có đến hàng trăm phiên bản đấy. Thú thực Kì Phương cũng không thể biết hết người Chăm đã sáng tạo ra bao nhiêu và khai tử bao nhiêu loại chữ. Là một người Kinh, anh không khỏi mến mộ và khâm phục tổ tiên người Chăm đã tô những nét son đặc sắc có một không hai cho nền văn hóa lâu đời trên dải đất chữ S này. Anh đã dành trọn ba năm để học chữ Chăm cổ nhưng giờ cũng chỉ đạt đến mức trên đánh vần mà thôi. Ngoài chữ thảo Akhar Thrah có từ thời vua Pô Rôme đã tròm trèm năm thế kỉ thì còn vô số phiên bản cổ xưa hơn nhiều. Chữ Chăm cổ đó lại được phân ra nhiều loại khác nhau như chữ thánh Akhar Rik, chữ con nhện Garlimang, chữ bí ẩn Akhar Yok và nhiều chư lai Arập và Mã Lai nữa... Sự phân loại còn dựa trên vật liệu để viết: chữ Hayep viết trên bia kí, kim loại, chữ Baar viết trên giấy, chữ Agal viết trên lá buông, chữ Tapuk viết trên giấy gió... Chính vì quá nhiều và phức tạp nên hầu như không ai có thể liệt kê hết bao nhiêu chữ Chăm cổ. Nhìn tờ giấy xong Thi Nga lắc đầu. - Tôi chịu, có vẻ như là chữ trên bùa chú? - Không phải, chữ trên bùa chú của người Chăm thường là hình vẽ hoặcviết phăng trên nền chữ Akhar Thrah nên xem qua là dễ đoán được ngay. Vả lại ai đó vẽ bùa lên đây để làm gì chứ? - Hay đây là một loại bùa chú của dân tộc khác muốn trấn yểm người Chăm? - Ý cô muốn nói tộc Kinh của tôi chắc? - Tôi thấy hao hao giống bùa chú của phái... Mật tông Tây tạng! Kì Phương nhìn cô đầy tâm đắc nhưng không ngại lắc đầu phủ nhận. Quả thật, cô ta có trí nhớ hình ảnh khá tốt. Lúc sáng, khi thấ
0 Rating 675 views 6 likes 0 Comments
Read more
By: On May 4, 2014
  Bilan than-uh than-on  Hamit grum mưnhi gah pur, pai  (Khi nghe tiếng sấm hướng Đông Nhân dân hớn hở mới hòng yên thân) Thành ngữ Chăm.  Hằng năm, cứ mỗi độ hoa Tagalau (bằng lăng) nở tím khắp cả những vùng đồi xứ sở, những đàn chim Chrao từ đâu bay về, lượn quanh bên những cánh đồng xa xăm bát ngát chạy vào những palei Chăm, trên những sa mạt các vàng cắt đôi vùng trời ra làm hai phần phía trước tầm mắt, trên những đỉnh tháp uy nghi, đứng đó tự bao đời. Khi cái nắng, nóng của đất trời lên đến đỉnh điểm, những tiếng sấm rầm vang khắp vùng trời, báo hiệu một năm mới lại về trên quê hương, xứ sở Panduranga. Đó cũng là lúc người Chăm bắt đầu chuẩn bị cho ngày lể cầu đảo đầu năm, đánh dấu thời khắc chuyển mùa, cầu cho mưa thuận gió hòa, quốc thái dân an, con cháu đầy đàn, tôm cá đầy khoang. Lễ Rija Nưgar thường tổ chức vào những ngày đầu của tháng giêng Chăm lịch. Trong thời gian ấy, các palei Chăm rộn ràng, nô nức trong không khí lễ hội đầu năm. Ngay từ sáng sớm, khi những giọt sương long lanh vẫn còn đọng trên những phiến lá, khi mặt trời chỉ mới vừa hé dạng ở đằng đông, những phụ nữ Chăm chuẩn bị sắm sửa lễ vật gồm trái cây, trầu, cơm, canh, rượu, trà… Rồi khi trời sáng hẳn họ đem lễ vệt đến nơi hành lễ để dâng lên thần linh để cầu mong hạnh phúc, sung túc. Dòng người đi dâng lễ và xem lễ gồm phụ nữ, nam giới, già, trẻ… mặc những trang phục đẹp nhất, mới nhất. Dòng người đi hội làm cho không khí của những làng Chăm trong buổi lễ đầu năm càng thêm nhộn nhịp, tưng bừng, tạo nên cái sắc thái vui tươi, náo nhiệt của một buổi lễ cầu đảo với ý nghĩa tống cựu nghinh tân – tiễn năm cũ, chào đón năm mới. Lễ Rija Nưgar được tổ chức theo quy mô từng làng, thường diễn ra trong một nhà lễ (kajang), được dựng tạm ở một mảnh đất trống đầu thôn. Nhà lễ được dựng lên có hai mái, có hai cây kèo làm trụ, xung quanh được che chắn bằng tre. Dù ảnh hưởng một số tôn giáo như Ấn Độ giáo, Hồi giáo nhưng nổi bật trong tư duy tín ngưỡng của người Chăm vẫn là tính bản địa với tục thờ đa thần. Lễ Rija Nưgar là một sự kết hợp giữa hai tín ngưỡng Awal – Ahier, theo tư duy lưỡng phân lưỡng hợp. Theo đó, người Chăm quan niệm rằng Tamư yang biruw, tabiak yang klak (Ngày vào thần mới, ngày ra thần cũ) hay Tamư mưnuk tabiak pabaiy (Vào cúng gà, ra cúng dê) tức là ngày đầu tiên của lễ sẽ là việc chúc tụng, dâng cúng các vị thần mới, tức là các vị thần Awal (Chăm ảnh hưởng Hồi giáo) lễ vật cúng chính là gà; ngày thứ hai kết thúc thì dạng cúng các vị thần cũ (yang bimong) những vị thần của Chăm Ahier (ảnh hưởng Ấn Độ giáo), lễ vật cúng chính là dê. Đặc trưng của Rija Nưgar chính là tính chất diễn xướng, kết hợp giữa vũ đạo của thầy Ka-ing (thường mặc áo đỏ) với phần tụng ca của thầy Mưdwơn, thường mặc áo trắng vỗ trống baranưng (gồm có 3 người một người hát chính, hai phụ lễ), bên cạnh đó, còn có hai nghệ nhân đánh trống ginơng, một nghệ nhân thổi kèn saranai. Ngoài ra, phần vũ đạo của ông Ka-ing còn có thêm các vật hổ trợ như 1 cây mía đỏ (tượng trưng cho cây chèo); 1 cây quạt, 1 chiếc khăn và 1 cây roi ngựa. Tất cả đạo cụ, ngoài khăn và quạt được thầy Ka-ing cầm tay, còn lại là để tại bàn tổ. Tại bàn tổ, là nơi để lễ vật và đạo cụ múa, còn có một cán rìu (tượng trưng cho công cụ lao động). Ngoài ra, ở ngoài nhà lễ còn có salih – các hình nhân, sẽ được thẻ trôi song vào cuối buổi lễ. Khi đã chuẩn bị đầy đủ tất cả mọi thư cho buổi lễ, khi đám đông đã tề tựu đầy đủ quanh nơi tổ chức lễ, trong không khí linh thiên của một tín ngưỡng truyền thống, thầy Mưdwơn rót rượu và tụng các bài thánh ca về các vị thần, kết hợp với vũ điệu linh thiêng của thầy Ka-ing, hòa theo tiếng trống baranưng, ginơng, tiếng kèn saranai đồng thanh vang lên, họ lần lượt mời các vị thần về để dâng lễ và cầu xin thân linh phù hộ độ trì. Mở đầu lễ Rija Nưgar, thầy Mưdwơn vỗ trống Baranưng, hát bài tụng ca mời gọi thần Po Tang: “…gahluwcuh pahwơl yak ia, klaung khwai da-a yang Po Tang… likau kanư kajap bhih drei yang Po Tang …” (Chúng con xông hương trầm, kính cẩn mời Po Tang về …phù hội độ trì cho chúng con). Sau đó là Po Riyak (Thần Sóng biển), Po Tang Ahauk (Thần chèo thuyền), thầy Mưdwơn vỗ trồng hát về sự tích chèo thuyền: thần đang đi thuyền nhuộm màu chàm, lênh đênh trên biển khơi xa… Thầy Ka-ing cầm cây mía đỏ, biểu tượng cho mái chèo, ông múa điệu chèo thuyền như sóng nhấp nhô trên biển cả. Sau đó lần lượt các vị thần như Cei Sit, Cei Tathun, Cei Dalim… được mời về, thầy Mưdwơn vỗ trống và đọc các bài tụng ca cac ngợi các thần. Đến đoạn ca ngợi và mời gọi thần Po Haniim Par, thầy Mưdwơn hát: “… Mưyaum Po Haniim Par biak ginrơh, Po crauk di Po siam đei, Po klak palei nau ngak nưgar…”. Cùng lúc ấy, ông Ka-ing cầm roi ngựa ngất ngây trong điệu múa, trong tiếng trống, tiếng kèn và tiếng vỗ tay reo hò của đám đông xem lễ, ông Ka-ing thăng hoa và nhảy vào đạp tắt đóng lửa (đã được đốt sẵn) tượng trưng cho nắng nóng khô hạn và hy vọng năm mới mưa thuận gió hòa, mùa màng tốt tươi. Phần quan trọng nhất, được chờ đợi nhất chính là phần mời gọi Po Nai, thầy Mưdwơn đọc bài tựng ca về tiểu sử thần, thầy Ka-ing hóa thân thành nữ với chiếc khăn trắng đội trên đầu, tay cầm khay trầu và trái cây để múa. Chính lúc này, Po Nai nhập vào thầy Ka-ing và đưa ra lời phán xét đối với, nhân dân vừa lắng nghe lời phán xét vừa khấn vái, cầu xin Po cho nước, phù hộ cho nhân dân làm ăn… Ngoài ra, rất nhiều vị thần được mời về và dâng lễ như Po Klaung Girai, Po Rome, Po Sah Inư, Bia Than Can, Bia Than Cih… Sáng ngày hôm sau phần lễ được tổ chức tương tư nhưng lễ vật cúng chính là dê, ngoài ra điểm khác với ngày lễ hôm trước là việc thả trôi song hình nhân thế mạng (Salih) vào cuối buổi lễ. Hình nhân thế mạng này được làm bằng bột gạo, gồm bốn hình người (hai đàn ông, hai đàn bà) và một số con vật như trâu, heo… đặt trên cái đan bằng tre. Người nặng các hình nhân này là thầy Mưdwơn và Ka-ing, khi đang nặng thầy Mưdwơn vừa vỗ trống, vừa hát bài tụng ca các vị thần. Những hình nhân này đại diện cho những sự khô hạn, nắng nóng, những điều xui xẻo, không may mắn của năm trước. Cuối buổi lễ, người ta thả các hình nhân này ở trên sông (hoặc ở ngã ba đương), những hình nhân này sẽ mang đi những điều xui xẻo và mất mùa của năm cũ, đem lại hạnh phúc, sung túc và sức khỏe cho dân làng trong năm mới.   Lễ hội Rija Nưgar, một lễ hội được diễn ra lúc đầu năm, cũng là thời điểm chuyển giao giữa mùa khô – với cái nắng hạn đạt đến đỉnh điểm và những đồng ruộng khô cháy, đất đai khô cằn ở xứ sở Panduranga – với mùa mưa, nên thực chất bản nguyên chỉ là một lễ thức cầu đảo (cầu mưa). Người Chăm, gắn liền đời sống của mình với nông nghiệp, với ruộng đồng, truyền thống đó có tự bao đời nay, đời sống nông nghiệp cũng hình thành tư duy nông nghiệp, lúc nào họ cũng khát vọng mưa thuận gió hòa, đất đai tươi tốt để có những mùa màng bội thu, hay ít nhất cũng đủ ăn. Khát vọng đó được họ phó thác vào niềm tin về sức mạnh của tự nhiên thông qua các đấng siêu nhiên, họ cầu xin và cúng tế các vị thần để được thỏa mãn ước nguyện. Lễ Rija Nưgar, thể hiện rõ nhất khát vọng đó của cư dân Chăm, hình ảnh vũ điệu đạp lửa thể hiện khát vọng xóa bỏ những khô hạn, nắng nóng, cầu cho mưa xuống, tươi tiêu ruộng đồng, cây trái tốt tươi và con người sinh sôi nảy nở. Và cứ mỗi độ Rija Nưgar được tổ chức thì các vùng người Chăm lại có mưa – những cơn mưa đầu mùa, điều này còn phản ánh tư duy khoa học của người Chăm trong việc tính toán lịch pháp trong việc tính toán thời điểm chuyển mưa để tổ chức Rija Nưgar. Rija Nưgar, còn là nơi phô bày nghệ thuật điễn xướng của dân tộc Chăm thông qua sự kết hợp của những điệu vũ của thầy Ka-ing, với những lời tụng ca, những kho tàng văn học dân gian đầy giá trị của người Chăm như các bài tụng ca về tiểu sử Po Inư Nưgar, Po Rome, Po Klaung Girai… Việc xướng lên những bài tụng ca này trong các dịp lễ hội, chẳng hạn như Rija Nưgar là cách tốt nhất để bảo tồn giá trị văn hóa dân gian truyền khẩu của dân tộc. Ngoài ra, trong Rija Nưgar, dàn đồng ca dân tộc gồm trống Baranưng, Ginơng, kèn saranai… cũng được diễn tấu, tạo nên một sự kết hợp hoàn hảo những giá trị văn hóa tinh thần của dân tộc. Rija Nưgar – ngoài dịp cầu đảo (cầu mưa) – còn là một dịp diễn xướng dân gian với sự kết hợp văn học dân gian với các nhạc cụ Chăm. Chính sự kết hợp tính chất tâm linh và nghệ thuật đó đã tạo cho Rija Nưgar thành một buổi lễ đặc sắc. Không khí linh thiêng kết hợp với các hoạt động diễn xướng làm cho quê hương, xứ sở rộn ràng, lòng người nức nở, người người – từ già đến trẻ, nam thanh, nữ tú - sắm sửa những bộ cánh mới nhất, đẹp nhất đi chảy hội, tạo nên một không khí nhộn nhịp, sôi động, làm bừng tĩnh các vùng đất có người Chăm sinh tụ. Một năm mới lại về, một Rija Nưgar nữa lại đến, quê hương, xứ sở lại đón mừng một mùa xuân mới với ước vọng mưa thuận gió hòa, mùa màng phát đạt, thóc lúa đầy bồ, tôm cá đầy khoang,… cầu ơn trên, cho những ước vọng của chúng con được như ý!  Jashaklikei  Saigon, tháng 4 năm 2014. 
0 Rating 284 views 1 like 0 Comments
Read more
By: On April 19, 2014
Chiêm ngưỡng PokLong Garai Rất nhiều người từng nghe qua giai điệu "Tiếng trống Paranung" trước khi tận mắt nhìn thấy nhạc cụ đó. Giai điệu và những gì được mang trong ca từ của ca khúc ấy là yếu tố chính thúc đẩy tôi đi hết những nơi mà văn hóa – con người Chăm hiện hữu.   Đây là một trong số ít tộc người ở Việt Nam sở hữu khối tài sản văn hóa vật thể và phi vật thể nguyên vẹn, chi tiết còn tồn tại đan xen nhau. Nhờ vậy, người ta có thể chiêm ngưỡng, khám phá trong tâm trạng vừa ngưỡng mộ, vừa vui sướng vì được xem - nghe - thấy cùng lúc. Trong nhiều năm, cuối cùng tôi đã hoàn thành được phần nào ước nguyện đi hết những chặng đường núi, gió, cát, sóng để đến với nền văn hóa này. Cánh cửa đầu tiên mở ra đón tôi đến với nền Văn hóa Chăm huyền thoại là Tháp Nhạn – ngọn tháp sừng sững, vời vợi trên đỉnh núi Nhạn. Với kiến trúc chóp vuông 4 tầng vững chắc, quay về hướng Đông – ngày đón gió biển, đêm nghe tiếng sông Ba rì rầm, Tháp Nhạn ghim một ấn tượng sâu sắc về sự bề thế, oai nghiêm vào lòng mỗi người đến với Phú Yên. Bắt đầu từ công trình kiến trúc từ Thế kỷ 12 của Đồng bào Chăm vùng Châu Thổ sông Ba đó, tôi đã đi theo những con đường riêng, với những thời gian khác nhau để thỏa mãn niềm đam mê của mình.Sau Tháp Nhạn, tôi đến Tháp Bà Ponagar – nơi thờ Thiên Y Thánh Mẫu Ana – nữ thần tối quan trọng trong tín ngưỡng Champa. Đây là hàng cột bình đài phía trước - kiến trúc đặc sắc của tháp bà Ponagar. Tôi may mắn có mặt đúng dịp Tháp Bà đón đội ca múa nhạc Chăm Huệ Dương – Ninh Thuận tới biểu diễn. Lần đầu tiên được tận tai nghe những thanh âm truyền thống Chăm qua tiếng kèn Saranai réo rắt hòa với tiếng trống Ghi năng rộn ràng ngay dưới chân tháp cổ oai nghiêm. Tôi được tận mắt chiêm ngưỡng những điệu múa Vò, múa Gáo, múa Quạt sôi nổi của các thiếu nữ Chăm, hay tận tay chạm vào những vò, bình gốm đặc trưng cho văn hóa, mỹ nghệ dân tộc này. Đi dọc một vòng văn hóa Chăm, nhất định phải chiêm ngưỡng khu di tích Mỹ Sơn nổi tiếng. Người ta không thể không choáng ngợp trước vẻ bề thế của hệ thống đền tháp giữa rừng núi này. Hệ thống đền tháp Mỹ Sơn vốn là nơi các vương triều Champa cổ tiến hành cúng tế. Ở đây, có những ngôi tháp quy mô còn nguyên vẹn, những di vật nhuốm màu thời gian sau hơn chục thế kỷ, vẫn hiên ngang đứng đó, là biểu tượng cho nghệ thuật kiến trúc – điêu khắc Champa kiệt xuất. Trên đường xuôi vào Ninh Thuận, chúng tôi ghé thăm cụm Hòa Lai – Ba Tháp - những kiến trúc tháp thành công nhất, đẹp nhất của Chăm Pa còn lại theo đánh giá của các nhà nghiên cứu. Nổi tiếng nhất trong các tháp Chăm còn lại chính là tháp PoKlong Garai – cụm tháp hùng vĩ nhất còn tồn tại đến ngày nay ở tỉnh Ninh Thuận với 3 phần: Tháp Chính, Tháp Lửa và Tháp Cổng. Đây là đường lên Tháp Chính : địa điểm tổ chức Lễ hội Kate – Lễ hội lớn, đặc sắc nhất của đồng bào Chăm mỗi ngày 1/7 lịch Chăm hàng năm. Chiêm ngưỡng PokLong Garai Không chỉ được chiêm ngưỡng những di sản vật thể, tôi còn được những người Chăm hiền hòa, tốt bụng giới thiệu và chia sẻ những nét văn hóa đặc trưng khác. Tôi đã quàng chiếc khăn Mat'ra trứ danh thực sự, ngồi vào khung dệt thổ cẩm làng Irahani (Mỹ Nghiệp), đã tận tay gõ vào mặt trống Paranưng, nâng niu những vò gốm vừa ra lò ở Paley Hamu Trok (Bàu Trúc) – làng nghề cổ nhất Đông Nam Á. Tôi đã đi xuyên những trảng cát trắng ven biển đến với ngôi làng Chăm còn nguyên những người phụ nữ mặc váy quàng khăn và những người đàn ông mặc xà rông cũng quấn khăn. Đã đến tận những ngôi làng Chăm đầu nguồn Sông Hậu ở Tân Châu – An Giang, nơi có những ngôi nhà gỗ sàn cao luôn sẵn sàng trước những trận lũ về.     Những thánh đường Đạo Hồi đẹp đẽ, uy nghiêm ở Châu Đốc – An Giang. Kiến trúc mái vòm đặc trưng của Đạo Hồi cùng với màu trắng – màu sắc tôn kính, thiêng liêng trong văn hóa Chăm. Nụ cười Chăm luôn dành cho tôi trên mỗi chặng đường của những con người da nâu hiền hòa sống cùng đền tháp, gió cát và sông nước... mà tôi hết sức yêu mến.   Theo Thùy Mai (Infonet)-24h.com.vn
0 Rating 199 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On March 19, 2014
Nó là Chăm! Vì cha, mẹ nó đều là Chăm. Dù nó sinh ra ở nơi đâu, dù màu da, ánh mắt, dáng vẻ nó không có gì là Chăm, cho dù bản thân nó suy nghĩ như thế nào, đi chăng nữa? Nó vẫn là Chăm, Chăm một trăm phần trăm. Người ta không có quyền chọn lựa dân tộc của mình khi sinh ra, nhưng phải sống có trách nhiệm với dân tộc đã sinh ra mình. Mẹ sinh nó ra, nuôi nó khôn lớn, từ lúc còn đỏ hỏn trên tay, cho đến lúc đến lớp, đến trường trong một môi trường xung quanh toàn là những người không cùng dân tộc với nó. Lúc còn bé, nó nghĩ, nó chẳng khác gì những người sống xung quanh cả, nó cũng có thể nói rặt tiếng Việt, nó có thể học A, B, C nhanh hơn lũ bạn cùng lứa với nó. Nhưng đến một ngày, mẹ nó với nói : « Con là người Chăm, phải nói tiếng Chăm, con ạ ! ». Lúc ấy, nó hãy còn ngây thơ và bé nhỏ quá, nó cảm thấy xấu hỗ khi mẹ nó nói tiếng Chăm với nó trước mặt lũ bạn, nó cảm thấy xấu hỗ khi tự xưng mình là Chăm trước mọi người. Từ trong suy nghĩ, nó ước mình không phải là Chăm, nó muốn như những đám bạn nó, không phải bị chúng nó nhìn bằng cái ánh mắt xa lạ của những kẻ không chung dân tộc. Mỗi lần cha, mẹ đem nó về quê, mọi thứ đều xa lạ và ngỡ ngàng đối với nó, mọi hình ảnh đều tạo một cái cảm tưởng khó chịu đối với nó. Hình ảnh những vị chức sắc làm cho nó sợ, hình ảnh những bà già ăn trầu làm cho cảm giác ghê ghê. Ở đó, người ta nói một thứ tiếng xa lạ đối với nó, rồi họ nhìn nó, xúm nhau lại nói bân quơ gì đó, rồi lại nhìn nó cười te tét, cứ như nó ở trên trời rơi xuống ấy ! Mọi thứ đều xa lạ với nó, nó chợt thấy mình hụt hẵn, dường như nơi đây không thuộc về nó. Nó chỉ ước ao, có cánh để ngay lập tức bay về nhà. Nó còn nhỏ và hãy con dại lắm ! Cái suy nghĩ vô thức của nó vô tình làm cho nó trở thành một kẻ không quê hương, không nguộn cội. Nó nghĩ, nó hạnh phúc hơn khi sống ở giữa lòng người Kinh, nhưng nó quên mất rằng, nó là Chăm, từ bỏ Chăm chính là từ bỏ gốc tích của chính nó. Rốt cuộc, nó không thuộc về « thế giới » nào cả, « thế giới » mà nó đang sống, đang hạnh phúc chỉ là « thế giới » tạm, ở đó nó chỉ là một kẻ ngoại lai; « thế giới » Chăm mà nó lãng quên lại chính là cội nguồn, gốc tích của nó, nó tưởng, nó thuộc về bên này, nhưng nó lại thuộc bên kia và rốt cuộc nó không thuộc về bên nào cả, tự nó đã lạc lõng giữa hai « thế giới ». Thomas. L. Priedman viết “…Một mình, bạn có thể là người giàu có. Một mình, bạn có thể là nhà thông thái. Nhưng bạn không bao giờ là người hoàn chỉnh nếu đứng một mình. Bạn phải là người có cội nguồn” với cái suy nghĩ đó nó là một con người không hoàn chỉnh, là một kẻ không có cội nguồn. Năm lên mười, cha, mẹ đưa nó về quê và ở đó suốt ba tháng hè. Nó không thể ngờ rằng, chuyến đi này, sẽ tao ra những đổi thay từ từ, trong tâm hồn của nó. Tại đây, lần đầu tiên, nó tiếp xúc với những đứa trẻ cùng trang lứa, và quan trọng hơn cùng giống nòi với nó. Nó vẫn còn nhớ như in những buổi sáng thức giấc, nó cùng lũ bạn rong ruỗi khắp xóm làng, đến chiều về lại chơi đùa với nhau ở sân nhà, hay trên những cánh đồng quê xa xăm, bát ngát, nó đã vui, đã cười, cho dù rất mệt. Nó còn nhớ cả những lần chúng nó rủ nhau đi hái trộm soài, ổi để ăn…những điều đó, chưa bao giờ nó được trải nghiệm. Đêm đến, dưới ánh trăng, trong tiếng gió âm vang của đất trờ xứ sở, nó ngồi bên cạnh lũ bạn, nghe người già kể chuyện đời xưa, bên tách trà nóng, bên ngọn lửa hồng, giọng cụ già mới vang vọng và truyền cảm làm sao? Ông ngâm cho chúng nó nghe những dòng ariya trữ tình, kể cho chúng nó những sakarai thần thoại, những dâmnay cổ tích, cụ già ngâm: “Glơng anak linyaiy likuk jang oh hu,  bhian drep ngap ralo, pieh hapak khin ka thraong…” (Ariya Glơng Anak). Vốn từ Chăm của nó, không cho phép nó hiểu hết toàn văn, nhưng nó vẫn nắm được những nội dung cốt lõi, và không biết, từ khi nào, những ariya, sakarai, dâmnay đưa nó chìm dần vào giất ngủ, với những giất mơ về mảnh đất và con người nơi đây… Nó, lại nhớ cái lần cùng lũ bạn lên tháp Po Kloang Girai cổ kính, trong dịp lê Kate. Tháp thiên đứng đó, uy nghi và bí ẩn, từ trên đỉnh Chà Bang nhìn xuống, cả một dải giang sang gấm vóc tươi đẹp trước cặp mắt long lanh của nó. Nó nhìn khắp bốn hướng, kia cả một vùng biển xanh ngắt, sóng vỗ quanh năm, đây đập Nha Trinh hiện lên như một hồ nước nhân tạo tuyệt đẹp giữa lòng đất mẹ, kia núi Cà Đú chợt hiện lên đen ngắt giữa một vùng trời xanh thẳm… nó cảm nhận được cái nắng, cái gió của quê hương. Nó cảm nhận được cái linh thiên của không khí lễ hội, mà lần đầu tiên nó được chứng kiến, vị tăng lữ đốt lên nén hương trầm, làn khói bay nghi ngút, người ta tắm cho thần bằng nước thiêng, xông cho thần bằng ngọn lửa thiên, mặc áo cho thần rồi đọc những lời kinh mời gọi các vị  thần về chứng dám, cầu cho quốc thái dân an, mưa thuận gió hòa, những nghệ nhân biểu diễn saranung, kanhi, ginang, baranưng, các cô gái Chăm, trong bộ áo dài truyền thống, dịu dàng và thước tha theo điệu múa quạt, dòng người tấp nập chen nhau đi xem lễ…Cái không khí đó, cái không khí mà nó được đấm mình vào, rộn ràng và nhộn nhịp làm sao? Từ những trải nghiệm ấy, nó thấy hết được cái tình cảm mà mọi người giành cho nó, dân quê Chăm nghèo khó thiệt đấy! Một nắng hai xương, bán mặt cho đất, bán lưng cho trời thật đấy! Nhưng cũng dạt dào tình nghĩa, thấm đượm tình quê thật đấy! Từng câu truyện, từng con người mà nó đã chứng kiến trong thời gian đó đều khắc ghi vào trong tâm hồn bé nhỏ của nó, bên trong những suy nghĩ, nhận thức của nó, dường như đang có những đổi thay lạ kỳ, mà chính bản thân nó cũng chả nhận ra được nữa! Nó cảm thấy nơi này thân thiết biết bao nhiêu? Không biết tự lúc nào, trái tim nó lại trở nên thổn thức với nơi này, nó ý thức rằng nơi đây là nguồn gốc của nó, từ mảnh đất này nó đã ra đời và nơi đây cũng sẽ là nơi cuối cùng nó phải trở về, trong cái kiếp người của nó, bởi vì đây là quê hương, là đất mẹ, là cái “nôi” đã sản sinh ra nó. Năm mười hai, mười ba tuổi, những bản dân ca, những bài hát về quê hương, xứ sở (mà cha vẫn thường hay nghe) lại làm cho tâm hồn nó xao động lạ kỳ. Nó, như thả hồn theo từng điệu nhạc và tưởng tượng về những hình ảnh nên thơ, đầy tình cảm, thấm đượm hồn dân tộc: “một giếng nước mát trong bên một cây bàng”,  “Nắng lên trên đỉnh tháp thiên, đàn chim Chrao tung cánh trời cao”, Hay “bên tháp Po Gloang Girai điệu chồng em múa say đắm tình cô gái Chăm” (A Mư Nhân), rồi cái hình ảnh của một cô gái Chăm e ấp nhắn gửi đến người yêu “mai rawang plei adei hơi xaai, choi boah mada ploah wan chôi xa ai” (Đàng Năng Qụa). Từ bài “Kaik tian ka anưk nao bac”, nó lại thương cho những bà mẹ Chăm tảo tần, cực khổ đi “mót” từng hạt thóc cho những đứa con của bà được đi học, nghĩ đến đây, nó lại không cầm được nước mắt… Nó đã nghe, nghe đi nghe lại, nghe như thuộc lòng từng câu hát, nhưng cứ mỗi lần nghe lại, những liên tưởng xa xăm về những hình ảnh thân thương của cái plei Chăm nghèo của nó, lại chợt hiện về trong tâm tưởng: đây những cánh đồng bát ngát xa xăm nhìn lên tháp cổ, những cô thôn nữ dịu dàng trong xóm ấp, những đôi trai gái mặn nồng tình tứ bên nhau hằng đêm, những bà mẹ Chăm lam lũ một đời…Những hình ảnh từ trong những lời hát, vần thơ, chợt hiện ra miên man trong tâm trí nó, những hình ảnh ấy, tự bao giờ, đã in hằng trong suy nghĩ nó, khiến cho nó lưu luyến mãi không thôi! Năm mươi lăm, mười sáu tuổi, tìm trong tủ sách của cha những cuốn sách về lịch sử Champa, nó bắt đầu đọc, đọc như mê, như dại, không rời một bước, nó đọc và như thả hồn vào từng trong viết, cái lịch sử của dân tộc này dường như có một ma lực, kéo nó vào sâu trong đó. Nó, chợt suy tưởng ra cả một vương quốc, cái vương quốc trong suy ngẫm của nó, một vương quốc với những đền tháp hùng vĩ và linh thiêng, nơi nhà vua, giới tăng lữ đến cầu nguyện thần Siva, dâng lễ cho thần…với những lầu cát, cung điện nguy nga, nơi đón chào đoàn tượng binh hay thủy binh của Chế Bồng Nga trở về mừng chiến thắng, nơi hằng đêm “những cung nữ dâng lên những khúc ca về Chàm”, nơi “vua quan Chiêm say đắm thịt da ngà”. Vương quốc Champa trong suy nghĩ nó, là những đoàn quân đã biết bao lần đánh đuổi kẻ thù, những đoàn thủy thủ xa xăm đắm mình trong biển khơi dữ dội, những nghệ nhân bật thầy của nghệ thuật điêu khắc ngày ngày làm việc cần mẫn, sáng tạo ra những tác phẩm tuyệt vời, hay những vũ nữ apsara múa những điệu mê đắm, đưa con người thoát khỏi trằm luân, nghĩ về cái cõi vô thường nào đó?…Vương quốc Champa, như ru hồn nó, từ đó, nó lại rất đỗi tự hào về cái tổ quốc xưa cũ ấy, cái dân tộc thân yêu ấy! Năm mười bảy tuổi, nó đọc Điêu Tàn, cũng cái năm mười bảy tuổi ấy, Chế Lan Viên của chúng ta đã viết tập thơ này. Nó, nhìn thấy những cảnh tượng tan hoang và đổ nát của những cung điện, đền đài, nó thấy “Thành Đồ Bàn cũng không thôi nức nở”, “những đền xưa đổ nát dười thời gian”, hay “những tượng Chàm le lói rỉ rên than”, “những ma Hời sờ soạng dắt nhau đi”…Những cảnh tượng huy hoàng trong cái vương quốc trong suy nghĩ của nó trước đây, nay chỉ còn thế này thôi sao? Nó cảm thấy tiếc thương cho vương quốc đó, tiếc rẻ cho những “cảnh tượng huy hoàng trong Chiêm quốc”. Nó buồn thương cho những đền tháp đổ nát, hoang vắng giữa vòm trời u ám, đang hằng ngày đối mặt với sự hủy hoại của con người và thiên nhiên. Nó buồn thương cho những lầu cát, những thành trì nằm sâu dưới lớp bụi đất của thời gian, nó buồn thương cho những bóng ma “Hời” vẫn hiện hữu đâu đó, kêu lên những tiếng ai oán bên những dòng sông, những ngọn núi, khóc thảm thiết, rên la một cách ma quái quanh những đền tháp, thành trì một thời huy hoàng tráng lệ. Với nó, cái  cảnh tượng tan hoang, u ám của những đền đài, những bóng ma ấy cứ “tháng ngày qua ám ảnh mãi không thôi”. Nó ước (ước chỉ để mà ước thôi!): “Ngày mai đây xuân về nơi Chiêm quốc, nước non Chàm vang dạy tiếng vui ca”… Nó nghẹn ngào trong những dòng suy nghĩ và cảm thấy lòng se thắt lại. Nó chợt nhận ra, nó và tất cả những đồng bào của nó, chỉ là những người mất nước. Hai mươi tuổi, cái tuổi đời của nó hãy còn quá trẻ, nhìn lại những năm tháng đã đi qua, hai mươi năm quá là dài đối với nó. Trong suy nghĩ, trong nhận thức của nó đã thay đổi đến biết bao nhiêu lần, nó chợt nhận ra đâu là cội nguồn, đâu là xứ sở. Nó là Chăm, nó yêu Chăm và yêu cả cái nước Champa cổ xưa của nó nữa, tình yêu của nó xuất phát từng tình yêu những thứ đơn giản nhất như yêu cái rêu phong, cổ kính và hoang tàn của những ngôi tháp, yêu hình ảnh của những chuỗi ngày rong chơi trong xóm thôn quen thuộc, yêu hình ảnh nhộn nhịp của xóm làng mùa gạt hái, yêu hình ảnh những người nông dân hăng say đang gặt dưới những cánh đồng chín mộng, những phụ nữ đội lu đi lấy nước, những đứa trẻ nô đùa trên đường làng, yêu hình ảnh những cụ ông hằng đêm ngâm ariya, những cụ bà têm trầu rồi bỏ vào miệng nhai móm mém, yêu hình ảnh những cô gái Chăm duyên dáng yêu kiều bên khung cửi, với nụ cười có thể làm xao xuyến bất kỳ kẻ lữ khách nào từng thấy qua, những cặp nam nữ ê ấp nghẹn ngùng bên nhau dưới ánh trăng mờ mờ ảo ảo. Nó yêu món canh môn với rau rừng bà thường hay nấu cho chúng nó ăn, cái mùi mấm nêm, mắm đồng vừa cay, vừa nồng đậm tình xứ sở… Nó yêu cái hình ảnh làng Chăm vào mùa lễ hội, cái không khí náo nức vào những dịp Ramưwan, cái tấp nập của dòng người đi tảo mộ (nao ghur), cái rộn ràng của không khí nấu bánh tét, bánh ít, làm mâm cươm chuẩn bị cúng gia tiên (ew mukei), rồi đêm đến, khi thánh đường mở cửa, những tu sĩ dâng tiếng kinh cầu, những người già đứng bên trong sân lễ, những cô gái trẻ mặc áo dài đội mâm cổ, những thanh niên đứng cạnh nhau bên góc thánh đường, tất cả dường như hòa mình vào cái không khí lễ hội của quê hương, dân tộc…Những hình ảnh ấy, mới đẹp làm sao? Những hình ảnh ấy, tưởng chừng như giản đơn, nhưng tự bản thân nó đã tạo nên cái hồn túy của dân tộc này, xứ sở này, để rồi mỗi người con Chăm khi xa quê lại luôn luôn lưu luyến, mong chờ. Chính những hình ảnh đó, làm cho nó thấy yêu Chăm hơn, thấy nó tự hào về Chăm hơn, nó cảm ơn dân tộc này đã sinh ra nó, cảm ơn cha mẹ đã sinh ra nó, dạy cho nó biết: nó là Chăm! Nó tự nhủ, không bao giờ được quên bên trong cơ thể nó chảy một dòng máu Chăm. Dù mai đây nó có ở những nơi như Sài Gòn, Hà Nội, Kuala Lumpua, Paris…hay bất kỳ nơi nào khác nữa? Dù những nơi ấy có xa hoa, tráng lệ, văn minh đến đâu đi chăng nữa? Cũng không bao giờ sánh bằng quê hương Panduranga của nó.  Không biết tự bao giờ? Nó lại yêu cái mảnh đất khô cằn, đầy nắng và gió ấy! Phải chăng? Tình yêu ấy xuất phát từ sự thân thương mà những con người ở nơi đây giành cho nó, hay những trải nghiệm mà nó đã đi qua, đã chứng kiến trong suốt thời ấu thơ của mình. Phải chăng? Ở nơi đây, mọi hình ảnh, mọi kỷ niệm, mọi con người đều khắc ghi vào tận trong tâm khảm nó, nơi đây là cội nguồn của nó, nơi “chôn rau cắt rốn”, nơi có mồ mả ông bà nó, nơi cha, mẹ nó đã sinh ra và lớn lên. Và rồi cũng ở nơi đây nó có một chốn để đi về, mai đây khi về với cát bụi nó sẽ nằm xuống mảnh đất này, mãi mãi. Nó tự nhủ với lòng rằng: nó là Chăm, nó không có gì phải xấu hỗ như trước nữa, nó nghĩ cái vương quốc Champa của nó, rất đáng tự hào chứ nhĩ! Vương quốc này dù chỉ còn quá khứ, nhưng đã để lại nhiều di sản văn minh vĩ đại, dân tộc Chăm của nó cũng vậy, dân tộc đó có một nền văn hóa rực rỡ. Nó sẽ tự hào nói với người Kinh, nó là Chăm, nó sẽ nói với họ về lịch sử dân tộc nó, văn hóa dân tộc nó. Nó tự hào với những người Chăm rằng, nó biết nói tiếng Chăm sau họ, nhưng nó yêu Chăm không kém gì họ, hôm nay nó đã học được Ka, kha, ga, gha, ngư, nga…ngày mai nó sẽ ngâm ariya cho họ nghe: “Ni ariya sa-ai ngap, panưh ba tabiak, pieh ka ra peng…” (Ariya Cam – Bini).  Nó tự nhủ, nó là Chăm, nó phải có trách nhiệm bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa – văn minh của dân tộc nó. Nó ý thức sâu sắc rằng: Nó và đồng bào nó là những kẻ vong quốc, nhưng không bao giờ chấp nhận vong thân. Còn các bạn thì sao?                                                                              JASHAKLIKEI                                                                   Sài Gòn, tháng 3, năm 2014.
0 Rating 387 views 4 likes 0 Comments
Read more