Select
Tag Cloud

Anything in here will be replaced on browsers that support the canvas element

  • Facebook
  • Yahoo
  • Google
  • Live
  • Twitter
  • Live
By: On December 21, 2015
  Đại nhạc hội Champa 2015 Có thể nói năm 2015 là năm thành công nhất của Thanh Niên Champa hải ngoại kể từ khi rời bỏ quê hương đến định cư tại Hoa Kỳ sau năm 1975.  Cách đây không lâu, vào ngày 24/5/2015, một Nhóm Thanh Nữ Chăm đứng ra tổ chức Đại Hội Thanh Niên Champa thật hoành tráng tại trường Đại Học UC Davis California,  với chủ đề Hồi Sinh Champa - Tiếp nhận những di sản quí báu của tổ tiên từ quá khứ đến tương lai (Pahadiip Champa - Taduel krân krung krâc muk-kei mâng kal tel harei hadei). Thành quả nổi bật của Đại Hội là thu hút đông đảo người Chăm đến tham dự, trong đó có người từ Pháp quốc, Campuchia, Việt Nam và khắp các tiểu bang Hoa kỳ.  Điều cảm động nhất là đồng hương Chăm ba vùng: Campuchia, Châu đốc và Pandurangga lần đầu tiên trong lịch sử được ngồi chung trong một hội trường, có cơ hội làm quen với nhau và xác nhận chúng ta cùng nòi giống, cùng nguồn gốc văn hóa, lịch sử, nhưng bị ngăn cách địa lý trên 183 năm bởi hoàn cảnh điêu tàn của Vương quốc Champa (1832-2015). Đại Hội còn mang đến cho giới trẻ Chăm một ấn tượng sâu sắc về lịch sử và nền văn minh Champa rực rỡ, tỏa sáng một thời ở vùng Đông Nam Châu Á.  Sau đây là một số hình ảnh sinh hoạt trong ngày Đại Hội Thanh Niên Champa tại Trường Đại Học UC Davis, California để qúi độc giả cùng chia sẻ.   Kế đến, vào đầu tháng 10 năm 2015, chúng tôi lại nhận được thư mời tham dự Đại Nhạc Hội Champa sẽ tổ chức tại thành phố San Jose, California vào ngày 28 tháng 11 năm 2015 của Ban Thanh Niên Thiện Chí Chăm làm cho chúng tôi thật phấn khởi, không biết đây là sự thật hay chỉ là quãng cáo thương mại.  Không riêng gì Nhóm Cựu Học Sinh Poklaong (Hoa Kỳ) chúng tôi hồi hộp đón chờ đêm Đại Nhạc Hội Champa, nơi nào có đồng hương Chăm sinh sống chúng tôi đều nghe họ bàn đến Đại Nhạc Hội Champa.   Đồng hương Chăm tại Hoa Kỳ mong mỏi Đại Nhạc Hội Champa như nông dân Chăm ở quê nhà trông ngóng những cơn mưa đầu mùa để tưới mát cho những cánh đồng lúa khô hạn; họ mong đến dự Đại Nhạc Hội để được thưởng lãm những lời ca tiếng hát bằng lời Chăm thân thương ngọt ngào như lời mẹ ru khi lọt lòng, họ đến với Đại Nhạc Hội để được gặp lại anh em bạn bè sau bao nhiêu năm xa cách.  Dưới đây là một số hình ảnh và cảm xúc ghi lại trong Đêm Đại Nhạc Hội Champa và Kỷ Niệm 50 Năm Thành Lập Trường Trung Học Poklaong để quí độc giả, quí đồng hương xa gần không có cơ hội tham dự Đại Nhạc Hội Champa cùng chia sẻ, đặc biệt kính tặng bài viết này cho anh chị em thân hữu cựu học sinh Poklaong ở quê nhà.      Toàn Ban Văn Nghệ đang hợp ca bài Bangsa Champa, sáng tác:  Qasim Từ.              Hằng năm cứ độ tuần lễ thứ tư của tháng 11 Dương Lịch, nhân dân Hoa Kỳ lại rộn ràng lên để chuẩn bị đón mừng ngày Lễ Tạ Ơn.  Đồng hương Chăm tại Hoa Kỳ cùng hòa nhịp chia sẻ niềm vui chung với dân bản xứ, tổ chức tiệc Thanksgiving tại gia đình như mọi năm.  Đặc biệt trong dịp Lễ Tạ Ơn năm nay, Ban Thanh Niên Thiện Chí Chăm tự nguyện tổ chức Đại Nhạc Hội Champa (Adaoh Tamia Riya Champa) với chủ đề Đêm Tạ Ơn (Malam ndua phuel) vô cùng ngoạn mục tại thành phố San Jose, California Hoa kỳ.  Đồng hương Chăm đến xem khá đông từ khắp các thành phố, các tiểu bang Hoa Kỳ như:  New York, Washington, Alaska, Seattle, Oregan, Los Angeles, Sacramento, San Francisco, Modesto, v.v…  .  Họ đến Đại Nhạc Hội với tấm lòng tạ ơn đất nước Hoa Kỳ, nơi đã và đang cưu mang họ trên bước đường tìm tự do; tạ ơn Ông Bà và Tổ Tiên, nơi mà họ đã cất tiếng khóc chào đời; tạ ơn các Ca Nhạc Sĩ Chăm đã cống hiến những lời ca tiếng hát cho Đời, cho dân tộc Champa được sinh sôi, phát triển và tồn tại đến ngày nay.  Trong không khí thật vui tươi đầm ấm của Đêm Đại Nhạc Hội Tạ Ơn, khán giả được Ban Tổ Chức trình chiếu slideshow hình ảnh các Ca Nhạc Sĩ Chăm quen thuộc có những nhạc phẩm để đời như Ông Đàng Năng Quạ với các bài hát “Bhum Adei”,  “Khik Bhum Pasai”; Ông Jaya Mưrang với bài hát “Harei Pataom Mbaok”;  Ông Châu Văn Kên với bài hát “Jalan Nao”; Ông Quảng Đại Tựu với bài hát “Kak Tian Ka Anâk Nao Bac”; Ông Amưnhân với bài hát “Sep Gineng Harei Katé”. “Gặp Em Đêm Hội Ramưwan”; ngoài ra MC còn giới thiệu nhiều đến các Ca Nhạc Sĩ nổi tiếng khác như  Chế Linh và Từ Công Phụng, v.v.v…Khi nhìn lại những hình ảnh các Ca Nhạc Sĩ thân quen làm cho chúng tôi chạnh nhớ đến thời gian còn ngồi ghế học đường dưới mái Trường Trung Học Poklaong, nơi đã để lại trong tâm khảm chúng tôi biết bao nhiêu kỷ niệm thời còn là học sinh; nhớ những ngày tháng tập dợt văn nghệ cho lớp, cho trường để thi đua với các lớp bạn, hay với các trường khác trong tỉnh dưới sự hướng dẫn của Thầy Giáo kiêm Ca Nhạc Sĩ Đàng Năng Quạ.  Giờ đây Thầy đã thành người thiên cổ.    Mặc dầu tất bật với đời sống hàng ngày của xã hội Mỹ, một số anh chị em thanh niên nam nữ đã vượt qua mọi khó khăn để hội thảo, tập dợt văn nghệ hàng đêm trong thời gian chưa đầy hai tháng để cống hiến một chương trình ca múa nhạc Champa thật hấp dẫn đầy màu sắc dân tộc.  Khán giả như bị cuốn hút vào dòng chảy văn nghệ từ đầu đến cuối mà không muốn ra về.  Từ MC duyên dáng Ngọc Minh với chất giọng thánh thót trong sáng, đến MC Bá Trung Thiệu, Lưu Quang Sáng điển trai với chất giọng trầm ấm ngọt ngào, giới thiệu chương trình cả tiếng Chăm lẫn tiếng Việt rất lưu loát và chuyên nghiệp chẳng kém gì MC Nguyễn Cao Kỳ Duyên và Nguyễn Ngọc Ngạn của Trung Tâm Paris By Night.  Các diễn viên nam nữ mặc áo truyền thống Chăm thật xinh đẹp và đầy ấn tượng.  Ban Đạo Diễn đã chọn những bài hát Chăm thật đặc sắc và phong phú.  Ca sĩ nào hát cũng hay;  theo cảm xúc riêng của chúng tôi ba bài hát hay và gây xúc động nhiều nhất là bài hát “Bangsa Champa”, một sáng tác của Ca Nhạc Sĩ trẻ Qasim Từ, do toàn ban hợp ca;  bài hát “Sep Hari Bhum Cam” của Ca Nhạc Sĩ Đàng Năng Quạ, được trình bày bởi Ca Sĩ Chế Mỹ Lan và bài hát  “Harei Pataom Mbaok” của Nhạc Sĩ Jaya Mưrang do Ca Sĩ Phú Bình Khả trình bày.  Về các bài múa, chúng tôi nhận thấy múa “Ndua Buk”  (Đội Buk) thật dễ thương và duyên dáng, riêng màng múa nam nữ giao duyên cuối cùng cũng rất sống động và vui nhộn, tiếc rằng trang phục nam chưa được xinh đẹp cho lắm.                    Chương trình Đại Nhạc Hội kéo dài khoảng 3 tiếng rưởi đồng hồ, bắt đầu vào khoảng 6:00 tối đến 9:30 tối thì kết thúc, mọi người ra về nhưng lòng còn vấn vương không biết bao giờ lại được xem Đại Nhạc Hội Champa lần 2.  Qua đêm Đại Nhạc Hội Champa đầu tiên, đồng hương Chăm phải thừa nhận là chương trình rất thành công và cảm ơn Ban Tổ Chức đã tạo cơ hội cho người Chăm đến với nhau bằng tình tự dân tộc, quên đi mọi dị biệt bất đồng, thông cảm, thuận hòa và coi nhau như anh em một nhà, cùng hướng về mục tiêu chung là xây dựng một Cộng Đồng Champa lành mạnh và phát triển.   Ban Tổ Chức Đại Nhạc Hội Champa tại San Jose, California. Từ trái sang phải:  Sarip Chau, Xuan Thach, Linh Dang, Qasim Tu, Chinh Kieu, Sang Luu.   Chương trình ca múa nhạc Đêm Tạ Ơn vừa chấm dứt, Ban Tổ Chức Đại Nhạc Hội Champa kính mời toàn thể đồng hương Chăm cùng các anh chị cựu  Học Sinh Poklaong (Hoa Kỳ) đến tiền đình của hội trường để làm Lễ Kỷ Niệm 50 Thành Lập Trường Trung Học Poklaong.  Đây cũng là lần đầu tiên Thầy Trò cựu học sinh Trường Trung Học Poklaong có cuộc hội ngộ ngắn ngủi với sự tham dự của hai thầy cũ Thành Phú Bá và Lưu Quang Sang.  Mọi người tay bắt mặt mừng, tràn trề niềm vui, nước mắt rưng rưng cố nén nỗi cảm xúc dâng trào về cuộc tương phùng không hẹn mà đến. Thầy trò vui vẻ thăm hỏi, bạn bè hớn hở trò chuyện, quyến luyến nhau như không muốn tách rời. Hai thầy nay đã già, chẳng bao lâu nữa sẽ bước vào hạng U80. Còn các bạn đồng môn chúng ta ai cũng đã lên chức Ông Nội, Bà Ngoại cả rồi. Vui quá các bạn nhĩ!   Sau đó các trò mời thầy đứng chụp hình chung dưới tấm biểu ngữ ghi rõ dòng chữ akhar thrah : "50 Thun Pahader Nâm Krung Sang Bac Poklaong" (Kỷ Niệm 50 Năm Thành Lập Trường Trung Học Poklaong: 1965-2015). Bao nhiêu người chụp hình, quay phim thi nhau bấm nút, ánh sáng nhấp nháy liên hồi như tia chớp đầu mùa mưa. Bà con Chăm đứng bao quanh reo hò, vỗ tay chào mừng cảnh thầy trò Poklaong đứng dưới tấm biểu ngữ gợi bao thương nhớ về dĩ vãng của một ngôi trường mà hình ảnh luôn luôn hiện diện trong tâm thức người Chăm. Mặc dù một nửa thế kỷ đã trôi qua, hình ảnh đó vẫn chưa phai nhòa bởi nhiều lý do :   -Thứ nhất : Nhà trường được vinh dự mang tên một vị vua anh minh của Vương Quốc Champa : Poklaong Girai, gọi tắt là Poklaong.  Ngài là vị vua tài ba, kinh bang tế thế, triều chế vững mạnh, dân tình no ấm thanh bình.  Kỳ tích sáng chói liên quan đến đức vua để lại cho hậu thế là cụm đền tháp mang tên ngài đang đứng sừng sững trên ngọn đồi trầu (Mbon hala) gần Palei Cang và đập nước nổi tiếng Nha Trinh, mang nước tưới khắp cánh đồng Ninh Thuận, nuôi sống dân cư địa phương hằng bao thế kỷ qua.   - Thứ hai : Trường Poklaong được xem như một trung tâm đào tạo đông đảo trí thức Chăm.  Đa phần họ là những người thành đạt hôm nay, đang sinh hoạt trên nhiều địa bàn trong nước dưới nhiều ngành nghề khác nhau như :Tiến Sĩ Giảng Viên Đại Học; Nhà Văn, Nhà Thơ đang sinh hoạt trong hàng ngũ văn học Việt Nam; Họa Sĩ, Nhạc Sĩ có tiếng tăm; Bác Sĩ, Nha Sĩ, Dược Sĩ đang hành nghề khắp nơi. Có người làm Đại Biểu Quốc Hội, Chánh Án Tòa Án Nhân Dân; nhiều người làm Giáo Viên và Hiệu Trưởng các trường trung và tiểu học.   - Thứ ba : Trường Poklaong là cơ quan phát hành Tập San Chăm đầu tiên với tên gọi Ước Vọng (Caong Takrâ).  Trong đó có nhiều trí thức Chăm tham gia viết bài với nội dung phong phú, đề cập đến nhiều vấn đề văn hóa, xã hội Chăm.  Đặc biệt những bài viết bằng chữ Chăm truyền thống (akhar thrah) rất được các chú bác lớn tuổi ưa thích.  Mãi về sau này mới có những Tập San do người Chăm làm chủ như tờ Panrang, Tagalau phát hành trong nước; tờ Vijaya, Champaka phát hành ở hải ngoại.   - Thứ tư : Có sự trùng hợp khá lý thú giữa hoàn cảnh Trường Poklaong và thân phận Vua Poklaong Girai.  Theo truyền thuyết, nhà vua xuất thân từ đứa bé mồ côi mẹ rất sớm, sống với ông bà nuôi nghèo khổ.  Ban ngày Ông Bà phải đi mò cua bắt ốc nuôi cháu lớn lên từng ngày, ban đêm ẵm cháu đi xin bú nhờ ở các bà mẹ láng giềng. Ngài trưởng thành do nỗ lực vượt qua mọi khó khăn của hoàn cảnh và đạt được danh vọng vẻ vang bằng ý chí tự lực tự cường. Trường Poklaong cũng tương tự như thế, sinh ra trong hoàn cảnh côi cút, thiếu thốn mọi thứ: lớp học không có, thầy giáo không có, tiền bạc cũng không. Ông Chính phủ chỉ cấp tờ giấy phép thành lập trường và đề cử một ông Quản Đốc  trông coi rồi phủi tay, chẳng ngó ngàng tới nữa.  May mà có Cộng Đồng Chăm, đủ mọi thành phần, dang tay nâng đỡ nhà trường từng bước đi lên. Bên cạnh đó, không thể bỏ qua sự nỗ lực làm việc của thầy trò trường Poklaong. Thấm nhuần câu châm ngôn:  " Sinh hoạt tự túc, Kỷ luật tự giác, Tháo vác tự cường" do nhà trường đề ra, học sinh Poklaong tỏ ra rất xuất sắc trong công tác tự điều hành mọi sinh hoạt của nhà trường.  Họ đã lấy câu châm ngôn này làm kim chỉ nam xuyên suốt trong quá trình học tập và rèn luyện nhân cách, đồng thời cũng là hành trang mang theo trong cuộc sống sau này.  Có thể khẳng định rằng: Trường Trung Học Poklaong sở dĩ đạt được những thành quả tốt đẹp trong sự nghiệp giáo dục của mình là do hai yếu tố: Sự nỗ lực làm việc của thầy trò trường Poklaong cộng với sự yểm trợ tích cực của đồng bào Chăm.    Thầy trò cựu Học Sinh Trung Học Poklaong (Hoa Kỳ ) chụp hình lưu niệm nhân Kỷ Niệm 50 Năm Thành Lập Trường.                      Trường Trung Học Poklaong được chính phủ Việt Nam Cộng Hòa cho phép thành lập và hoạt động kể từ năm 1965.  Sau ngày 30 tháng 04 năm 1975, chế độ Miền Nam được thay thế bởi chế độ Cộng Hòa Xã Chủ Nghĩa Việt Nam, kể từ đó Trường Trung Học Poklaong đã bị giải thể và xóa tên, thay vào đó một tên khác rất xa lạ với đồng bào Chăm.  Năm mươi năm trôi qua, Trường Poklaong chỉ còn lại là những hoài niệm trong ký ức của người Chăm vong quốc.  Không biết đến bao giờ Chính Quyền Việt Nam hiện hành xót thương cho hậu duệ Champa còn sống xót sau cuộc tàn sát của Vua Minh Mạng đối với dân tộc Chăm vào những thập niên của năm 1830, để khôi phục lại tên trường Poklaong cho Đồng Bào Chăm?!   Trên đây là vài cảm nghĩ về Trường Poklaong sau 50 năm nhìn lại.  Nhân dịp Lễ Tạ Ơn và Kỷ Niệm 50 Năm Thành lập Trường Poklaong, chúng tôi xin mãn phép thay mặt toàn thể cựu học sinh Poklaong, kính dâng lời cảm tạ đến quý thầy cũ Trường Trung Học Poklaong nói chung, đặc biệt các thầy Thành Phú Bá, thầy Đàng Năng Quạ (đã mất), thầy Lưu Quang Sang và thầy Nguyễn Văn Tỷ luôn luôn sát cánh, đồng hành với nhà trường từ khi thành lập đến lúc giải thể; đến thầy Jay Scarborough (người Mỹ) từng tận tụy dạy học và giúp đỡ nhà trường rất nhiệt tình; đến Đoàn Thanh Niên Thiện Chí Chăm, tiêu biểu là Đoàn Trưởng Quảng Văn Đủ (tức Tiến Sĩ Po Dharma) đã làm việc cật lực không kể thời gian.  Ban ngày giúp xây dựng nhà nội trú, nhà vệ sinh, đào giếng v.v.v…, ban đêm hướng dẫn học sinh học tập, làm bài; đến Cựu Thiếu Tá Dương Tấn Sở, một vị ân nhân khả kính, đóng góp công lao to lớn trong việc hình thành và phát triển Trường Trung Học Poklaong; đến các bậc phụ huynh, bà con Chăm các thôn đã ủng hộ tiền bạc xây dựng ngôi trường hai tầng lầu xinh đẹp, nhưng rất tiếc ngày nay đã bị xóa hết dấu tích.   Chúng tôi biết các bạn trong nước không dễ dàng gì tập họp nhau làm Lễ Kỷ Niệm 50 Năm Thành Lập Trường Poklaong thân yêu của chúng ta. Thôi thì, chúng ta lên mạng gặp nhau, mặc sức tâm tình, kể chuyện Poklaong ngày xưa, chia sẻ những kỷ niệm vui buồn của một thời đầy ắp mộng mơ. Chúng tôi đề nghị các bạn mạnh dạn lập hồ sơ xin chính quyền Tỉnh Ninh Thuận cho phép thành lập Hội Thân Hữu Cựu Học Sinh Poklaong để chúng ta có ngôi nhà chung sinh hoạt, lâu lâu gặp nhau tâm sự, trao đổi, học hỏi, giúp nhau thăng tiến cuộc sống. Hy vọng chính quyền sẽ không hẹp hòi, phân biệt đối xử với tổ chức xã hội dân sự này. Chúc các bạn thành công.   Qua ba sự kiện nêu trên do thanh niên Chăm hải ngoại thực hiện trong năm 2015 là điểm son  đáng hoan nghênh. Hy vọng thành tích này là tiếng gọi đàn để giới trẻ Chăm  đứng lên, nắm tay nhau tiến bước trên con đường Hồi Sinh Champa (Pahadiip Champa).   Quang cảnh Hội Trường lúc sắp bắt đầu Chương Trình Đại Nhạc Hội Champa Nhân Lễ Tạ Ơn Năm 2015. theo Champaka.info  
0 Rating 121 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On December 6, 2015
  >> vào link để nghe nhạc phẩm Đồ bàn by Chế Mỹ Lan >> trang blog Đại Nhạc Hội Champa Đến với ngày Đại Nhạc Hội, bao nhiêu ký ức đẹp cách đây đã gần 20 năm lại thi nhau ùa về. Bà con Chăm đến với nhau lần ấy vào năm 1998 nhân dịp thành lập Hội Bảo Tồn Văn Hóa Champa. Tất cả các nhân sĩ trí thức Chăm khắp mọi nơi cùng về hội ngộ. Tay bắt mặt mừng trong niềm hân hoan vô bờ bến. Lần đầu tiên cũng tổ chức tại San Jose này, lúc ấy tôi hát bài Hận Đồ Bàn của Xuân Tiên được sự dàn dựng công phu của anh Kiều Đại Vinh với những lời ngâm Ariya thống khiết của ông Châu Văn Cẫm và những dàn diễn viên phụ họa rất sầu nảo làm cho khán giả đã rơi nước mắt. Mãi đến 17 năm sau tôi mới thấy lại hình ảnh này. Cuộc đời mình sống được bao nhiêu mà mãi đến gần 20 năm xa cách mới gặp lại nhau? Có cần phải đợi đến 17 năm không nhĩ! Cám ơn Ban Tổ Chức đã tạo cơ hội cho chúng ta đến gần với nhau sau bao nhiêu năm xa cách. ĐNH đã vẽ lên một bức tranh đầy màu sắc đẹp cả nội dung lẫn hình thức. Từ xa xa, các thanh niên thiếu nữ gọi nhau í ới, tiếng chào hỏi thân quen. những nụ cười rất gần gủi tay trong tay hân hoan dìu nhau bước chân vào hội trường. Những trang phục truyền thống đủ màu sắc trong ánh nắng lung linh của một ngày đẹp trời Cali càng tô điểm rạng ngời những đóa hoa Champa rực thắm. Trên nét mặt của mọi người ai ai cũng toát lên một niềm phấn khởi tràn đầy sức sống.    Các bậc trí thức Cham hội tụ từ nhiều Tiểu Bang khác nhau. Đầu tiên là bước vào phòng chụp ảnh lưu niệm, tấm thảm đỏ được đặc ngay ngắn đưa những bước chân đến những ngọn Tháp như xa lạ như thân quen vẫy chào những đứa con Chăm về với cội nguồn. Tháp đứng sừng sững trong kiêu ngạo và huyền bí làm sao. Ai ai cũng tranh thủ chụp vài tấm hình để lưu lại kỷ niệm đẹp trong đời. Tôi lấy làm vui mừng khi các Bác, các Cô Chú của tất cả các Hội Đoàn vai kề vai cùng chụp ảnh lưu niệm . Rời khỏi phòng chụp ảnh để bước vào phòng ăn uống, không khí lại càng vui nhộn bội phần. Trong căn phòng đầy ấp những tiếng cười giòn giã. Mọi người cùng nhau ngồi thưởng thức những món ăn cổ truyền dân tộc. Ăn uống xong, tất cả cùng dìu nhau vào bên trong sân khấu. MC Từ Công Ánh, MC, Hoa Hậu Ngọc Minh xinh đẹp duyên dáng của Champa chúng ta cùng hai MC đẹp trai phong độ Bá Trung Thiệu, Lưu Quang Sáng mở đầu chương trình rất độc đáo ngoạn mục khai mạc chương trình. Tấm rèm sân khấu từ từ mở hé ra, dàn nhạc vang lên sôi động tưng bừng rộn rã. Tiếng trống Paranưng, tiếng kèn Saranai như vỡ òa trong ngất ngây hạnh phúc. Âm thanh có lúc réo rắc du dương, có khi lại cháy bừng nhộn nhịp. Những bàn tay của những nhạc cụ Chăm thả hồn vào những điệu nhạc say sưa ru hồn người về một thời xa xưa. Ánh sáng nhuộm hoàng hôn tím buồn vời vợi, tím cả thời gian và không gian. Màu tím buồn trên sân khấu khỏa lấp cả khung trời và những mãnh đời cô đơn của những đứa con Champa tha hương lạc loài tìm đến với nhau . Không gian huyền ảo từ phía xa, Tháp đứng ngẩn ngơ sâu lắng tạo nên một bức tranh hoàn hảo rất thơ mộng. Đây có lẽ là bức tranh đẹp nhất từ xưa tới nay. Tiết mục hợp ca Bangsa Champa Khaol Ita cua Cei Juk qua phần hoà âm phối nhạc của nghệ sĩ Miêu Văn Tuấn đã vang lên hùng hồn. Bangsa ilimo khoal ita, Champa muk kei pajiak pajieng, Cam bani sa pajama, pajieng mal, Ahier Awal tajuh halau klau bimong, Champa angan bingo tanâh aia….Nghe xúc động bùi ngùi làm sao ấy. Rồi lần lược những bài ca bất hữu của cố nhạc sĩ Đàng Năng Qụa, nhạc sĩ Châu Văn Kênh, nhạc sĩ Amưnhân... nghe nức nỡ lòng người. Các tiết mục múa đặc sắc và điêu luyện của các cô thiếu nữ trong những bộ trang phục truyền thống uyển chuyển tha thướt đê mê ngây dại đến hoang đường.  MC Ngọc Minh - Trung Thiệu Đại Nhạc Hội lần này gợi nhớ lại bản sắc văn hóa dân tộc qua những bài hát mang giai điệu dân gian Chăm phản ánh đời sống văn hóa xã hội Chăm, nhắc nhở con cháu về lịch sử mất mát đau thương của dân tộc. Phổ biến văn hóa lịch sử âm nhạc dân tộc đến với các cộng đồng khác nhầm xóa bỏ sự nhận định phiến diện về nghệ thuật âm nhạc Chăm. Thể hiện qua trang phục độc đáo, sự uyển chuyển nhịp nhàng của các cô thiếu nữ xinh đẹp trong những điệu múa Chăm ngây ngất đến lạ thường. Đưa khán giả từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Tôi ngồi gần MC Hạ Vân, được cô chia sẽ: “rằng cô rất khâm phục một dân tộc có nền văn hóa đầy màu sắc. Đây là lần đầu tiên cô đã có dịp chiêm ngưỡng những bông hoa xinh đẹp Champa mà từ bấy lâu nay cô chưa hề biết. Cô rất vui khi được chứng kiến tận mắt những thiếu nữ Chăm  đẹp và duyên dáng. Ai ai cũng rất thân thiện và dể mến. Cô nói rằng; cô sẽ về và chia sẽ với đài phát thanh mà cô đang làm.” ĐNH cũng là những tiếng chuông cảnh tỉnh  đến những đứa con Chăm lưu lạc khắp mọi nơi trên thế giới quay về với cội nguồn. Kế tiếp, Nhạc sĩ Từ Công Phụng đã lên góp vui cho đêm ĐNH hai bài hát do ông sáng tác. Tôi hơi thất vọng vì tưởng rằng ông sẽ nhìn khác hơn những gì tôi mong đợi. Tôi hình dung một Từ Công Phụng phong độ trong bộ trang phục cổ truyền dân tộc, nói tiếng mẹ đẻ trên sân khấu dù chỉ vỏn vẹn một câu cũng được, hoặc hát một vài câu bằng tiếng Chăm nếu có thể . Có lẽ tôi hy vọng ở nơi nhạc sĩ Chăm này nhiều hơn thế nữa, nhưng dù gì đi nữa, ông đã đến với cộng đồng của mình trong phần cuối của cuộc đời còn lại, đến để gần gũi nhau hơn đã là tốt lắm rồi. Cũng có thể nói đây là một bước khởi đầu rất đáng khích lệ. Hy vọng trong tương lai, tôi và các bạn sẽ thấy một hình ảnh Từ Công Phụng khác hơn và gần gũi hơn và Chăm hơn.  Cám ơn các cô bác anh chị em tại San Jose về sự rất nhiệt tình phục vụ quên mình. Hy sinh tất cả gia đình con cái, tập dợt nấu ăn và còn phục vụ khách phương xa. Dù rất mệt nhưng các anh chị lúc nào cũng rất vui vẻ. Ở Mỹ ai cũng rất bận rộn, các anh chị em bỏ công sức tập dợt mỗi ngày sau giờ làm việc mệt nhọc. Hy sinh đến mức đó là cùng!. Mặc dù số lượng rất ít ỏi nhưng các cô bác anh chị cùng các anh chị em Sacramento làm nên một đêm Đại Nhạc Hội như thế này là một điều tôi không thể nào ngờ được. Tôi khâm phục ban tổ chức làm việc rất nghiêm túc và kỹ luật. Một sự thành công ngoài sức tưởng tượng của tôi. Xét về hình thức lẫn nội dung đều rất chuyên nghiệp và dĩ nhiên các anh chị đã không nói suông bằng lời mà đã hy sinh rất nhiều thời gian qúi báo của mình để có được một đêm ĐNH ý nghĩa này. G. CLÉMENCEAU nói không sai. “không phải chỉ nói suông mà có thể thay đổi được một tình trạng, chính phải biết hy sinh.” Về đến nhà đã mấy ngày rồi nhưng đầu óc vẫn còn nghe dư âm Đêm nhạc hội. Vẫn còn nhớ như in những hình ảnh các anh chị chạy tới chạy lui chuẩn bị cho tiết mục kế tiếp, sửa soạn trang phục cho nhau trước khi lên sân khấu, khích lệ nhau hãy trình diễn hết mình, những cái nhìn yêu thương trìu mến dành cho nhau lúc tập dợt. Lúc nhẹ nhàng lúc căng thẳng. Lúc lại vang lên những tiếng cười giòn giã. những tiếng chào nhau tay bắt mặt mừng, những vòng tay ấm áp làm mà khó quên đến thế. Tôi đã mang về cả tình cảm anh chị dành cho tôi, đem về hơi ấm tình tự dân tộc, những nỗi niềm yêu thương da diết. Một dư âm thật khó diển tả bằng lời.  Ca nhạc sĩ Từ Công Phụng,  MC Hạ Vân - Sáng LưuThiết nghĩ, trong cuộc sống có đôi khi chúng ta chìm sâu trong sự im lặng qúa lâu. Chìm đấm đến gần như quên đi cảm giác gần gủi thân mật. Đôi khi nhìn lại chẵng có gì trầm trọng cả, chỉ là những cái không đáng kể. Đôi khi chúng ta chưa thật sự hiểu nhau hay chúng ta hiểu lầm nhau bởi không cùng hiểu một nghĩa. Georges DUHAMEL (la possession du monde) có nói: “Những danh từ là những ý tưởng… Con người thường xâu xé lẫn nhau chỉ vì những danh từ mà họ không cùng hiểu một nghĩa. Nếu họ hiểu nhau hơn, họ sẽ ngả vào lòng nhau.” Đại Nhạc Hội Champa chính là cơ hội để đưa chúng ta đến gần với nhau và hiểu nhau hơn. Đêm ĐNH đã nói lên được rằng tinh thần Champa vẫn cháy bỗng. Những đứa con Chăm đã vượt qua biên giới Đạo Giáo, Chủ nghĩa cá nhân, vượt qua Vị trí Địa Lý để đến với nhau. Hơn bao giờ hết, những đứa con Champa trên khắp mọi nơi vẫn còn đau xót cho dân tộc mình, họ vẫn còn hướng về quê hương đổ nát, cùng nhau xây dựng mái nhà Champa yêu dấu. Tất cả đã hòa quyện vào nhau trong vòng tay ấm áp. Ai có đến với ngày Đại Nhạc Hội mới chứng kiến được những cảnh các Chú các Bác cùng nắm chặt tay nhau, cùng nhau làm việc mới cảm nhận được tinh thần đoàn kết của Champa vẫn còn sâu đậm lắm. Ai cũng hăng say góp một bàn tay, chẵng phân biệt tuổi tác hay địa vị. Có lẽ đây là một bài toán mà đã bấy lâu nay chúng ta chưa giải đáp được. Bài toán chứng minh tinh thần đoàn kết dân tộc Champa của chúng ta. Chúng ta sống trên đất khách quê người , ít có cơ hội gặp mặt nhau. Chúng ta hãy biết tạo cơ hội để đến với nhau nối vòng tay lớn. Cùng nhau gìn giữ bản sắc dân tộc. Cùng cầm tay nhau hàn gắn tình đoàn kết, xóa đi những ngộ nhận đáng tiếc trong cộng đồng. Đồng thời hâm nóng lại bản sắc dân tộc. Gợi nhớ hoài cổ, hướng về cố quốc. Kết tụ dân tộc, tình yêu tốt đẹp cần thiết phát triển mọi mặt trong tương lai. Hy vọng một ngày gần trong tương lai.   Anh em diễn viên đang reo hò, vui mừng sau chương trình ĐNH kết thúc. Hãy đến gần với nhau hơn nữa, bởi lẽ, một khi chúng ta đã gần gũi nhau thì những mâu thuẫn sẽ tan biến và nhường chổ cho sự đồng cảm yêu thương, sẵn sàng bỏ qua những bất đồng về quan điểm, sẵn sàng tha thứ cho nhau. Một khi chúng ta đã yêu thương nhau rồi thì mọi thứ khác đã không còn gì đáng kể. Chúng ta hãy biết nắm lấy cơ hội để sích lại gần nhau, đừng để đợi đến một phần tư của cuộc đời mới gặp lại. Hãy đến, cùng nắm chặt tay nhau để cùng nhau làm tốt hơn nữa. Hơn bao giờ hết, hãy gạt bỏ những tư tưởng sai về nhau để cùng nhau đắm chìm trong hạnh phúc như thế này. Hãy cùng nhau gìn giữ bản sắc dân tộc để con cháu sau này còn hãnh diện về dân tộc mình. Ban tổ chức hãy cố gắng duy trì sân chơi bổ ích này để chúng ta giao lưu với nhau. Hãy duy trì một phong cách làm việc vượt lên trên bất cứ sự khác biệt của nhau như thế này nhé. Đây chính là chìa khóa đưa đến sự thành công trong lần ĐNH này. Nếu trong thâm tâm của mỗi cá nhân trong ban tổ chức vẫn còn có tư tưởng phân biệt em Bàlamôn, tôi Bàni, anh thì Islam thì dù có tổ chức bao nhiêu lần ĐNH vẫn quay lại vị trí cũ , không đi về đâu cả. Hy vọng chúng ta sẽ gặp nhau sớm hơn, không phải đợi đến 17 năm nữa, lúc đó Chế Mỹ Lan già rồi không còn hát được nữa đâu. Các bạn có muốn chúng ta gặp nhau một ngày rất gần không? Chúc các Bác các cô Chú và các anh chị về đến nhà vui vẽ bình an, cùng nhau quay quần bên gia đình và người thân. Cùng nhau chia sẽ và ôn lại kỷ niệm đẹp khó quên trong đêm ĐNH và truyền ngọn lửa yêu thương tỏa khắp nơi trong cộng động Champa của chúng ta. Chúc một mùa Giáng Sinh an lành.        
0 Rating 538 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On October 14, 2015
 Nếu ai có chút quan tâm về tình hình thế giới thì sẽ không quên hình ảnh hai lãnh tụ cựu thù của hai thế giới tư bản và cộng sản gặp nhau ngày 19 tháng 11 năm 1985 tại Geneva, Thuỵ Sĩ. Một thành phố nhỏ so với nhiều nơi trên thế giới, nhưng rất xinh xắn và được nhiều người biết tới. Vì đây là cái nôi của Hội Hồng Thập Tự, cùng sự có mặt của hơn 200 tổ chức quốc tế thuộc  chính phủ và phi chính phủ. Đây là cuộc gặp gỡ lịch sử mang đến kết quả thay đổi cả cục diện thế giới, nên khi nói đến sự chấm dứt chiến tranh lạnh giữa Đông và Tây người ta thường nhắc đến ông Reagan và Gorbachev. Nhưng ít ai biết tên một nhân vật trọng yếu khác đã khiến cho sự gặp mặt ấy thành hình, đó là bà Thatcher thủ tướng nước Anh lúc bấy giờ. Khi Reagan lên làm tổng thống nước Hoa Kỳ vào năm 1981, bà Thatcher đã nhanh chóng hình thành mối quan hệ thân thiết với ông, đến nỗi một thời đã từng là đề tài khai thác của giới truyền thông báo chí, song sự quan hệ ấy chỉ dừng lại ở mức độ của một tình bạn đơn thuần. Nhưng sau khi Gorbachev, lúc ấy đang là nhân vật thứ hai trong bộ chính trị của Liên Xô, nhận lời mời của bà Thatcher đến viếng thăm nước Anh vào ngày 16 tháng 12 năm 1984, thì đây thật sự đánh dấu một giai đoạn quan trọng khác thường. Mở đầu cho cuộc tiếp xúc với cái nhìn mới mẻ giữa Đông và Tây, giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa cộng sản, giữa hai ý thức hệ khác nhau cho thấy thay vì đối đầu họ lại chọn đối thoại mà lâu nay chưa từng có vậy! Sau năm tiếng đồng hồ đàm đạo, Gorbachev và phu nhân cùng đoàn tháp tùng đi dạo thành phố London thăm nơi Lenin đã phát hành tờ báo đầu tiên vào năm 1903, cùng viếng thư viện nước Anh xem chiếc ghế Karl Marx đã dùng ngồi viết cuốn Tư Bản Luận trong khi Thatcher vội vã chuẩn bị cho chuyến bay sang Hoa Kỳ để thuyết phục tổng thống Reagan, bà bảo: “Gorbachev rất khác người, tôi thật lòng quý trọng ông ta và tôi nhận thấy mình có thể hợp tác được. Dù ông ta hoàn toàn trung thành với chế độ Xô Viết, nhưng ông ta sẵn sàng lắng nghe, đối thoại chân thành và có thể tự quyết định theo ý ông ta.” Sự tin tưởng lạ lùng của thủ tướng Thatcher, cộng với lý lẽ mạnh mẽ và thấy có lý của bà đã thuyết phục được Reagan. Nên phải nói thủ tướng Thatcher chính là trung gian mở đường cho cuộc gặp đầu tiên này, đánh dấu mốc quan trọng trong lịch sử hai nước và mở ra một khởi đầu mới cho quan hệ ngoại giao giữa hai siêu cường. Thay vì chọn theo con đường cứng rắn họ lại gặp nhau, và tại cuộc họp thượng đỉnh này đại diện hai nước trao đổi với nhau nhiều vấn đề, cùng thẳng thắn nói cho nhau nghe một cách trực tiếp quan điểm của phía mình. Dĩ nhiên là có những cuộc tranh luận, nhưng cũng không thiếu phần lắng nghe. Hai nhà lãnh đạo thật sự cởi mở trao đổi với nhau những suy nghĩ của riêng mình, hầu có thể hiểu nhau và qua đó cùng tìm ra giải pháp làm bớt đi sự căng thẳng ngày càng leo thang giữa hai bên, mà đã có hồi chiến tranh sắp bùng nổ. Và tôi suy nghĩ, làm sao Thatcher thủ tướng của một nước theo chính thể quân chủ lập hiến, Reagan tổng thống của một nước theo thể chế cộng hoà với tam quyền phân lập và Gorbachev tổng bí thư của một nước cộng sản theo chế độ độc tài đảng trị mà họ có thể ngồi lại với nhau được? Trong khi chúng ta là người Chăm trong cùng một dân tộc, vậy mà khi nghĩ chuyện đến với nhau sao thấy thật quá xa vời! Điều mà ba vị nguyên thủ này đã làm là họ vượt qua quyền lợi của cá nhân, đảng phái mà đặt quyền lợi của quốc gia dân tộc lên trên hết. Nhờ vậy mà họ đã làm nên việc lớn, góp phần đem lại sự an vui chẳng những cho quê hương đất nước của họ thôi, mà còn cho sự yên vui của toàn thế giới nữa. Thế mới thật đáng khâm phục! Là người Chăm nếu còn quan tâm đến nhau, chúng ta hãy nên học bài học lịch sử này! Với tôi, ai làm được điều gì tốt cho Chăm dù lớn hay nhỏ đều đáng được quý trọng. Đã là đấu tranh thì ngay cả trên lãnh vực văn hoá và xã hội, mọi sự thành tựu đều phải kinh qua nhiều gian nan. Do đó, nếu ai vì tấm lòng thành muốn làm cho Chăm mà lỡ thất bại thì cũng đừng có quá nhiều lời chê trách, mà hãy rút từ kinh nghiệm đau thương ấy những bài học giá trị hầu làm tốt mai sau. Dân tộc Chăm còn khổ, công việc Chăm còn nhiều nên chúng ta còn cần phải có nhau. Cho nên ao ước của tôi, là sao chúng ta làm được điều như những vị lãnh đạo trên đã làm, bỏ qua những khác biệt để đến cùng nhau hầu qua đó có thể hoá giải những bất đồng! Thuỵ Sĩ là một nước giàu với dân số chỉ hơn 8 triệu người, có thiên nhiên rất đẹp nhiều phong cảnh thật hữu tình, đất nước mà tôi đã có cơ duyên được đến đó vài lần. Là nơi mà nguyên thủ của hai cường quốc lúc bấy giờ chọn cho cuộc gặp gỡ đầu tiên, mở ra một bước ngoặt quan trọng cho sự liên hệ mới củahai nước sau này. Nhờ đó đã đem lại sự an vui cho nhiều người, chẳng những ở bên kia bức màn sắt mà còn cho thế giới tự do nữa. Nên mong ước của tôi, là làm sao chúng ta người cùng dân tộc có thể đến với nhau cùng cởi mở tâm tình. Đến để nói với nhau, ngay cả những điều khó nhất, hầu qua đó mà có sự cảm thông. Có thế chúng ta mới cùng nhau mở ra một trang sử mới, đem lại niềm tin và hy vọng cho mọi người Chăm!   Chân Thành (độc giả gời bài qua info@nguoicham.com)    
0 Rating 168 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On September 3, 2015
  Người Chàm trong mắt tôi Nguyễn Ngọc Chính Một ngày biếc thị thành ta rời bỏ Quay về xem non nước giống dân Chàm (Chế Lan Viên) Ngoài tên gọi “Chàm” ta còn dùng các danh xưng như “Chăm”, “Hời”, “Chiêm Thành”… để chỉ một dân tộc đã từng có một quốc gia độc lập, hùng mạnh trong lịch sử, có nền văn hóa phát triển và là hậu duệ của các cư dân nền văn hóa Sa Huỳnh thời kì đồ sắt.            Ngoài Việt Nam, người Chàm ngày nay còn tản mát đi các nước như Campuchia, Mã Lai, Thái Lan và Hoa Kỳ. Dân số tại Việt Nam theo điều tra năm 1999 là 132.873 người và theo tài liệu của Ủy ban Dân tộc năm 2008 là khoảng hơn 145.000 người, xếp thứ 14 về số lượng trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam.            Vấn đề đặt ra là giữa “Chàm” và “Chăm” thuật ngữ nào đúng? Thật ra thì từ năm 1979 người miền Nam mới thấy xuất hiện chữ “Chăm” từ chính quyền mới sau 30/4/1975. Trước đó, từ miền Trung trở vào Nam, chữ “Chàm” đã từng xuất hiện trong các địa danh, tên gọi cũng như danh từ riêng như Tháp Chàm, Cù Lao Chàm, giếng Chàm, vàng Chàm…            Để chỉ người Chàm, người Việt tại miền Nam còn dùng những tên gọi như “Hời”, “Chiêm”, “Người đàng thổ” (khác với Người đàng quê là người Việt)… Theo một giải thích thì những chữ đó được dùng một cách “miệt thị” nhưng tôi thiết nghĩ đó là một nhận xét sai lệch, suy diễn bất hợp lý.            Trước năm 1975 đã có những công trình học thuật như Từ điển Chàm – Việt – Pháp (của Cham Dohamide và Dorohiêm), Nguyễn Khắc Ngữ nghiên cứu về dân tộc học qua tác phẩm “Mẫu hệ Chàm” hoặc học giả Thiên Sanh Cảnh có một loạt bài về “Đám ma Chàm”… Rõ ràng là chữ Chàm ở đây không thể nào được dùng một cách “miệt thị” trong nghiên cứu.            Lại nữa, một số tác giả người gốc Chàm đã dùng chữ Chàm hay Chiêm trong bút hiệu của mình như Khaly Chàm, Chiêm Nhân… Không lý nào các tác giả đó lại tự miệt thị mình! Nhưng một khi nhận xét về sự “miệt thị” này xuất phát từ những người “có quyền” thì nó trở thành một quyết định và ngành văn hóa chỉ biết gọi là Chăm thay vì Chàm như lúc trước.            Trong bài viết “Tiếng Chăm của bạn” trên Tuyển tập Tagalau [1], Inrasara cho rằng: “Dù sao, quy định của Nhà nước vẫn phải được tuân thủ. Tuân thủ, nhưng nếu có ai dùng từ “Chàm” trong bài viết, nhất là khi có người viết đúng các tên gọi cũ như Trung tâm Văn hóa Chàm, Ma Lâm Chàm chẳng hạn, ta phải chấp nhận và không biên tập. Bởi sự thể không có gì sai hay miệt thị người Chàm cả”.  Tagalau 12: Tuyển tập Sáng tác – Sưu tầm  – Nghiên cứu văn hóa Chàm            Khi còn nhỏ, người Chàm trong mắt tôi là những ông “Hời” ngồi bán thuốc dạo bên cạnh những chiếc giỏ đặc biệt… kiểu Chàm. Họ là những người có vẻ “thần bí” với những câu tiếng Việt lơ lớ, một cách rao hàng vừa tức cười nhưng cũng không kém phần… đe dọa: “Này, ngồi xuống đây tôi coi bệnh cho, mặt của anh có bệnh rồi…”. Tôi sợ lắm nên không trả lời, vội bước đi mà không dám ngoảnh đầu trở lại.            Lớn lên khi tìm hiểu thêm, người Chàm ở Ninh Thuận lại cùng quê hương với Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu! Thêm một phát hiện khiến nhiều người phải ngạc nhiên, trong đó có tôi, về mối tương quan giữ chiếc áo dài của người Chàm và người Việt.           Các nhà nghiên cứu cho thấy chiếc áo dài Việt Nam là sự tổng hợp từ chiếc áo dài của người Chàm và chiếc “xường xám” của Thượng Hải. Theo Bùi Minh Đức trong Từ điển tiếng Huế, NXB Văn Học, 2009:            “Chiếc áo dài của đàn bà Việt Nam khởi phát từ thời Chúa Nguyễn Phúc Khoát (cuối thế kỷ XVIII) với nền tảng là chiếc áo dài phụ nữ Chàm, kết hợp với chiếc áo tứ thân ở Bắc… Áo dài hai vạt của đàn bà Huế có được là do ảnh hưởng Chàm…”           Lê Quý Đôn viết: “Chúa Nguyễn Phúc Khoát hùng cứ ở xứ Đàng Trong, sau khi chiếm trọn nước Chiêm Thành, mở mang bờ cõi về phương Nam… Để chứng tỏ tinh thần độc lập, Chúa Vũ Vương Nguyễn Phúc Khoát đã chú trọng đến vấn đề cải cách xã hội, phong tục mà điều quan trọng là cải cách về y phục…”            Lần tìm trong “Đại Nam thực lục tiền biên” ta bắt gặp đoạn văn sau đây: “Chúa Nguyễn Phúc Khoát xưng vương, ông đã triệu tập quần thần tìm phương thức xưng vương và dựng một tân đô. Ông đã thay đổi lễ nhạc, văn hóa và trang phục.            Để thay đổi, phụ nữ miền Bắc mặc váy, phụ nữ miền Nam phải mặc quần có đáy (hai ống) giống đàn ông. Võ Vương đã gây ra một cuộc khủng hoảng về trang phục. Phụ nữ đã phản đối kịch liệt.                     Về sau Võ Vương không ưng ý với trang phục đó, Ngài giao cho triều thần nghiên cứu, tham khảo chiếc áo dài của người Chàm (giống hệt áo dài hiện nay nhưng không xẻ nách), và áo dài của phụ nữ Thượng Hải (xẻ đến đầu gối) để chế ra áo dài của phụ nữ miền Nam”.             Do đó, những chiếc áo dài đầu tiên của người Việt giống như áo dài người Chàm và có xẻ tà. Vậy là chiếc áo dài Việt Nam ngày nay có đủ hai yếu tố văn hóa phương Bắc và phương Nam.  Chiếc áo dài của người Chàm            Nói đến người Chàm là phải nói đến Chế Lan Viên [2], một hiện tượng thơ văn Việt Nam nhưng lại đậm nét Chàm với tập thơ Điêu tàn được xuất bản năm 1937. Bút hiệu Chế Lan Viên khiến người đọc thơ của ông liên tưởng đến Chế Bồng Nga, tên hiệu của vị vua thứ 3 thuộc vương triều thứ 12 (tức là vị vua đời thứ 39) của Chiêm Thành.            Trong thời kỳ Chế Bồng Nga cầm quyền, đất nước Chiêm Thành rất hùng mạnh, từng đem quân nhiều lần xâm phạm Đại Việt của nhà Trần. Ông hy sinh năm 1390 khi tấn công Thăng Long lần thứ 4.            Điểm đặc biệt ở chỗ Chế Lan Viên lại là một nhà thơ mang dòng họ Việt, Phan Ngọc Hoan, nhưng đã mượn hình ảnh của người Chàm để thể hiện một trường phái thơ mà ông gọi là Trường Thơ Loạn trong tập thơ Điêu tàn. Đặc biệt hơn nữa, khi xuất bản Điêu tàn, Chế Lan Viên chỉ mới 17 tuổi!                 “Ta hãy nghe, trong lòng bao đỉnh Tháp                Tiếng thở than, lời oán trách cơ trời                Ta hãy nghe, trong gạch Chàm rơi lác đác                Tiếng máu Chàm ri rỉ chảy không thôi”                (Chế Lan Viên – “Bóng tối” trong tập thơ Điêu tàn)                  “Bên cửa Tháp ngóng trông người Chiêm Nữ                Ta vẩn vơ nhìn không khí bâng khuâng”                (Chế Lan Viên, “Đợi người Chiêm nữ” trong tập thơ Điêu tàn)                “Chiêm nương ơi, cười lên đi, em hỡi!                Cho lòng anh quên một phút buồn lo!                Nhìn chi em chân trời xa vòi vọi                Nhớ chi em sầu hận nước Chàm ta?”                (Chế Lan Viên, “Đêm tàn” trong tập thơ Điêu tàn)                “Nước non Chàm chẳng bao giờ tiêu diệt                Tháng ngày qua vẫn sống với đêm mờ”                (Chế Lan Viên – “Bóng tối” trong tập thơ Điêu tàn)                “Tháng ngày qua, gạch Chàm đua nhau rụng                Tháp Chàm đua nhau đổ dưới trăng mờ!                …                Tạo hóa hỡi! Hãy trả tôi về Chiêm quốc!                Hãy đem tôi xa lánh cõi trần gian!”                (Chế Lan Viên, “Những sợi tơ lòng” trong tập thơ Điêu tàn)   Chế Lan Viên (1920 – 1989)            Thành Đồ Bàn là tên kinh đô của Chàm trong thời kỳ có quốc hiệu là Chiêm Thành. Thành Đồ Bàn, hay Vijaya, còn gọi là Thành cổ Chà Bàn hoặc thành Hoàng Đế, nay thuộc địa phận xã Nhơn Hậu, Thị xã An Nhơn và cách thành phố Qui Nhơn (tỉnh Bình Định) khoảng hơn 20km.            Trong lãnh vực âm nhạc, nhạc sĩ Xuân Tiên đã để lại cho hậu thế một tác phẩm bất hủ mang tên Hận Đồ Bàn với những lời thống thiết của người dân Chàm:                 “Rừng hoang vu, vùi lấp chôn bao uất căm hận thù                Ngàn gió ru, muôn tiếng vang trong tối tăm mịt mù                Vạc kêu sương, buồn nhắc đây bao lúc xưa quật cường                Đèn đóm vương, như bóng ai trong lúc đêm trường về…            Trong kho tàng âm nhạc Việt Nam trước năm 1975 có rất ít những bản nhạc mang tính cách lịch sử của một dân tộc “vong quốc” với những ca từ diễn tả tỉ mỷ đến từng chi tiết như một bài thơ:                 “Rừng rậm cô tình, đèo cao thác sâu, đồi hoang suối reo hoang vắng cheo leo                Ngàn muôn tiếng âm, tháng năm buồn ngân, âm thầm hòa bài hận vong quốc ca                Người xưa đâu, mà tháp thiêng cao đứng như buồn rầu                Lầu tháp đâu, nay thấy chăng rừng xanh xanh một màu…”                “Về kinh đô, ngàn thớt voi uy hiếp quân giặc thù                Triệu sóng xô, muôn lớp quân Chiêm tiến như tràn bờ                Tiệc liên hoan, nhạc tấu vang trên xứ thiêng Đồ Bàn                Dạ yến ban, cung nữ dâng lên khúc ca về Chàm                “Một thời oanh liệt người dân nước Chiêm lừng ghi chiến công vang khắp non sông                Mộng kia dẫu tan cuốn theo thời gian nhưng hồn ngàn đời còn theo nước non                Người xưa đâu, mộ đắp cao nay đã sâu thành hào                Lầu các đâu, nay thấy chăng rừng xanh xanh một màu…”  Kiến trúc và điêu khắc ở thân tháp Po Klaung Garai, thế kỷ 13            Không một ca sĩ nào hát Hận Đồ Bàn "có hồn" bằng Chế Linh [3]. Lý do cũng dễ hiểu vì anh mang tâm sự của một người Chàm với tên thật là Chà Len (Jamlen) và tên Việt là Lưu Văn Liên. Anh ra đời năm 1942 tại làng Hamu Tanran thuộc Phan Rang, nay là tỉnh Ninh Thuận.            Người ta biết nhiều đến Chế Linh qua dòng nhạc ca tụng những người lính trong quân lực VNCH mặc dù anh chẳng đi lính ngày nào vì thuộc dạng “miễn dịch” dành cho “dân tộc thiểu số”. Về dòng nhạc này, có người khó tính lại bảo Chế Linh thuộc thành phần… “lính chê”.            Người thương thì nói rõ ràng là anh bị “lính chê” nên mới được “miễn dịch”, một số khác, trong đó có cả những người đang mặc áo lính, lại không ưa những ca từ anh ca tụng họ. Họ bảo những bài hát đó được trình bày theo phong cách… “sến”.            Nhưng với Hận Đồ Bàn, mọi người đều có một nhận xét chung: bài hát đã đưa tên tuổi Chế Linh thâm nhập vào làng ca nhạc Việt Nam với tâm trạng của một người Chàm “vong quốc”. Chỉ tiếc một điều, những bài hát có tầm vóc như Hận Đồ Bàn rất hiếm trong nền ca nhạc nên Chế Linh phải bước sang một dòng nhạc gây nhiều tranh cãi [4].            Người ca sĩ gốc Chàm, được gọi là “tài hoa” cũng có một đời tư thật… “hào hoa”: Chế Linh nổi tiếng là người có nhiều vợ con, tính cho đến năm 2007, anh đã có 4 vợ và 14 đứa con. Ta khám phá được nhiều điều về Chế Linh qua bài viết của Jaya Bahasa, “Mừng sinh nhật lần thứ 57 của chị Nguyễn Thị Thúy Hằng” trên trang web Inrasara [5].            Vào giữa thập niên 1970 Chế Linh kết hôn với cô Nguyễn Thị Thúy Hằng (sinh ngày 1/12/1953, mất ngày 26/4/1974). Cuộc hôn nhân giữa một ca sĩ người gốc Chàm với một cô gái người Việt đã khiến giới báo chí Sài Gòn tốn khá nhiều giấy mực.            Jaya Bahasa viết: “Như một định mệnh hai dân tộc, hạnh phúc này nhanh chóng đổ vỡ bởi những mù khơi mà không ai có thể biết được. Vì muốn minh chứng cho tình yêu của mình được sống mãi, chị Thuý Hằng quyết định quyên sinh bằng một liều thuốc ngủ mà luyến tiếc để lại hai đứa con trai thơ dại.                     Cái chết của Thuý Hằng đến quá đột ngột và bất ngờ, một lần nữa, cánh báo chí và giới nghệ sĩ Sài Gòn thêm bàn tán rôm rả. Nhưng không người nào biết được căn nguyên. Bởi chị không một lời nào trăn trối ngoài ba lá thư để lại cho gia đình.             Lá thư thứ nhất viết cho người mẹ mà chị gọi bằng Mợ, xin tha thứ vì những lỗi lầm này và mong mợ hãy yêu thương đứa con của chị để được thấy chị qua hình ảnh đứa con. Lá thư thứ hai viết riêng cho hai đứa con yêu quý mà chị đặt tên là Sơn và Ca, một loài chim có giọng hót tuyệt vời. Lá thư thứ ba viết riêng cho ca sĩ Chế Linh, vài dòng ngắn ngủi với sự muộn màng và chỉ xin Chế Linh cho một nắm đất đắp lên mộ”.  Thúy Hằng và Chế Linh (Ảnh trên trang web Inrasara)             Chuyện tình Chế Linh – Thúy Hằng với đoạn kết đầy nước mắt khiến người ta liên tưởng đến một chuyện tình vương giả trong lịch sử Việt-Chàm. Huyền Trân là một công chúa đời nhà Trần, con gái của vua Trần Nhân Tông. Năm 1306, Huyền Trân được gả cho vua Chiêm Thành là Chế Mân để đổi lấy hai châu Ô và Lý (từ đèo Hải Vân, Thừa Thiên đến phía bắc Quảng Trị ngày nay).            Một năm sau đó, khi hoàng hậu người Đại Việt vừa sinh xong hoàng tử Chế Đa Đa, thì tháng 5/1307, quốc vương Chế Mân băng hà. Theo tục lệ nước Chiêm, khi vua chết hoàng hậu phải lên giàn hỏa để tuẫn tang. Vua Trần Anh Tông biết tin, sai Trần Khắc Chung vờ sang viếng tang, tìm cách cứu Huyền Trân.            Trần Khắc Chung bày kế thành công, cứu được Huyền Trân đưa xuống thuyền về Đại Việt bằng đường biển. Cuộc hải hành này kéo dài tới một năm (?) và theo “Đại Việt Sử ký Toàn thư” thì Trần Khắc Chung đã tư thông với công chúa.           Theo di mệnh của Thượng hoàng Nhân Tông, công chúa đầu gia Phật giáo ở núi Trâu Sơn (nay thuộc Bắc Ninh) vào năm 1309, dưới sự ấn chứng của quốc sư Bảo Phát. Công chúa thọ Bồ tát giới và được ban pháp danh Hương Tràng.             Trong dân gian, có lẽ vì thời đó người Việt coi người Chàm là dân tộc thấp kém, nên đã có câu:            Tiếc thay cây quế giữa rừng             Để cho thằng Mán thằng Mường nó leo  Đền thờ Huyền Trân Công chúa                      Nói đến lãnh vực âm nhạc của người Chàm như trường hợp của ca sĩ Chế Linh tôi lại nhớ đến nhạc sĩ Từ Công Phụng, vốn là bạn học năm Đệ Nhất tại trường Trần Hưng Đạo Đà Lạt. Chúng tôi chỉ quen nhau trong một niên học nhưng có nhiều chuyện để nhớ khi tuổi tác ngày một cao.            Từ Công Phụng ngày đó là một học sinh từ Ninh Thuận lên Đà Lạt học năm cuối trung học. Có lẽ anh là gốc người Chàm nên hình như luôn có một khoảng cách vô hình với đám học sinh chúng tôi. Anh “góp tiếng” tham gia ban nhạc nhà trường bằng giọng hát và chúng tôi rất ngạc nhiên khi nghe một giọng trầm, buồn và còn đặc biệt hơn nữa chỉ hát những bài “lạ”…             Đó là hai bài “Bây giờ tháng mấy” và “Mùa thu mây ngàn” do chính anh sáng tác. Thật không ngờ, khi mới 16 tuổi anh đã tự học về âm nhạc qua một cuốn sách của Robert de Kers, viết bằng tiếng Pháp, với tựa đề “Harmonie et Orchestration”. Đến năm 17 tuổi anh đã có nhạc phẩm đầu tay “Bây giờ tháng mấy”…             Hồi đó đang có cuộc thi tài giữa “trường Ta” là Trần Hưng Đạo và “trường Tây” của các sư huynh dòng La San là trường College d’Adran trên sân khấu thành phố Đà Lạt. Vì là trường Tây nên Adran chơi nhạc Beatles, đàn cũng là kiểu Beatles còn Trần Hưng Đạo chúng tôi khiêm tốn hơn, chơi đàn Fender theo các bản hòa tấu của The Shadows.             Có thêm Từ Công Phụng “chuyên trị” nhạc Việt thể loại “tình cảm” trở thành… “hoa thơm cỏ lạ” trong chương trình văn nghệ. Thoạt đầu Từ Công Phụng “khớp” không dám lên sân khấu nhưng anh em trong ban nhạc cứ khen những bài “tự biên, tự diễn” của Phụng và bảo đảm là sẽ nổi bật trong đêm văn nghệ.           Từ Công Phụng bỗng trở thành một hiện tượng tại Đà Lạt. Khán giả hoan nghênh nhiệt liệt đến độ Đài phát thanh Đà Lạt mời anh ghi âm để phổ biến qua làn sóng điện, tên tuổi của Từ Công Phụng được người Đà Lạt biết đến cùng với Lê Uyên Phương trong ban nhạc Ngàn Thông trên Đài phát thanh.             Cuối năm Đệ Nhất ban nhạc của chúng tôi tản mát mỗi người một phương. Họ Từ về Sài Gòn và ngay sau đó nổi lên như một nhạc sĩ ăn khách cùng thời với Vũ Thành An, Ngô Thụy Miên, Trịnh Công Sơn và Lê Uyên Phương.            Sau 30/4/1975, các sáng tác của Từ Công Phụng bị cấm lưu hành tại Việt Nam và mãi cho đến năm 2003 mới được… “cởi trói”. Anh rời Việt Nam năm 1980 và định cư tại Portland, Oregon. Năm 1998, anh trở về thăm quê hương Ninh Thuận và năm 2008, anh trở lại với chương trình "45 năm tình ca Từ Công Phụng" tại một phòng trà có tiếng ở Sài Gòn.             Nhạc sĩ kiêm ca sĩ Từ Công Phụng đã 2 lần vượt qua căn bệnh ung thư gan và ung thư túi mật nhưng vẫn mong đủ sức khỏe để sáng tác trong những ngày cuối đời. Với tình bạn học của buổi thiếu thời tôi chỉ mong anh sẽ sống mãi với chúng ta, chuyện sáng tác chỉ là vấn đề phụ vì những tác phẩm đã ra đời của anh đã là chứng nhân cho một nhạc sĩ tài hoa người Chàm.  Từ Công Phụng            Hồi còn đi học tại Ban Mê Thuột, tôi có một vị giáo sư người gốc Chàm. Thầy Nguyễn Văn Tỷ, quê quán tại Ninh Chữ, một bãi biển thuộc thôn Bình Sơn, thị trấn Khánh Hải, tỉnh Ninh Thuận.            Tôi cùng thầy Bùi Dương Chi đã dẫn đoàn sinh viên Mỹ đến bãi biển Ninh Chữ được coi là một trong những bãi biển đẹp nhất Việt Nam. Kết hợp với địa danh Bình Sơn, Ninh Chữ đã trở thành cụm du lịch Bình Sơn - Ninh Chữ đem lại diện mạo, thương hiệu và thu nhập cho tỉnh Ninh Thuận.            Thầy Nguyễn Văn Tỷ đã về hưu và sinh sống tại Ninh Chữ. Ông trở thành một “nhân sĩ” trong làng và vẫn tiếp tục nghiên cứu văn hóa Chàm để truyền bá lại cho lớp trẻ người Chàm. Ông cũng là một cộng tác viên kỳ cựu của Tuyển tập Tagalau như đã nói ở trên.            Tháng 10/2009 ông đến California để tham dự lễ Katê của cộng đồng người Việt gốc Chàm tại đây. Ông đã được mời phát biểu cảm tưởng tại buổi lễ. Theo ông, dân tộc Chàm muốn sống với nhau tốt, muốn tồn tại tốt cần thể hiện 3 yếu tố: Đoàn kết, Bảo tồn và Phát triển.             Đối với người Chàm, đoàn kết được thì sẽ được tất cả, và không đoàn kết thì sẽ mất tất cả. Điều này mang ý nghĩa sau khi bị “vong quốc” sẽ lại phải “vong thân”.            Người Chàm cần bảo tồn ngôn ngữ và chữ viết của mình, vì “tiếng Chàm còn thì người Chàm còn; tiếng Chàm mất thì người Chàm mất”.             Nếu tồn tại được mà không phát triển thì chỉ “tồn tại như một dân tộc bần cùng”, “vùi dập trong cuộc sống lạc hậu, tối tăm”.            Có lẽ đó cũng chính là lời kết của bài viết này về… “Người Chàm trong mắt tôi”.  Thánh địa Mỹ Sơn *** Chú thích: [1] Tagalau tiếng Chàm là cây bằng lăng hoa tím, mọc nhiều ở miền núi Ninh Thuận và Bình Thuận. Tuyển tập mang tên Tagalau vì nó tượng trưng cho tính dân dã, sức chịu đựng, sự khiêm tốn: nỗ lực nở hoa dù phải mọc trên mảnh đất nghèo cằn.Tagalau là Tuyển tập chứ không phải là Tạp chí nên không ra định kỳ, mà chỉ được xuất bản khi tập hợp đủ bài vở. Số đầu tiên của Tuyển tập Tagalau ra mắt vào lễ Katê của người Chàm năm 2000. [2] Chế Lan Viên (1920 – 1989), tên thật là Phan Ngọc Hoan, ra đời tại xã Cam An, huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị. Ông lớn lên và đi học ở Quy Nhơn, đỗ bằng Thành chung rồi đi dạy tư kiếm sống. Có thể xem Quy Nhơn, Bình Định là quê hương thứ hai của Chế Lan Viên, nơi đã để lại những dấu ấn sâu sắc trong tâm hồn của nhà thơ. Ông bắt đầu làm thơ từ năm 12 tuổi. Năm 17 tuổi, với bút danh Chế Lan Viên, ông xuất bản tập thơ đầu tay nhan đề Điêu tàn, có lời tựa đồng thời là lời tuyên ngôn nghệ thuật của "Trường Thơ Loạn". Từ đây, cái tên Chế Lan Viên trở nên nổi tiếng trên thi đàn Việt Nam. Trước năm 1945, thơ Chế Lan Viên là một thế giới đúng nghĩa "trường thơ loạn": Kinh dị, thần bí, bế tắc của thời Điêu tàn với xương, máu, sọ người, với những cảnh đổ nát của tháp Chàm. Những tháp Chàm "điêu tàn" là một nguồn cảm hứng lớn đáng chú ý của Chế Lan Viên. Qua những phế tích đổ nát và không kém phần kinh dị trong thơ Chế Lan Viên, ta thấy ẩn hiện hình bóng của một vương quốc hùng mạnh thời vàng son, cùng với nỗi niềm hoài cổ của nhà thơ. Phong cách thơ Chế Lan Viên rất rõ nét và độc đáo. Thơ ông là sức mạnh trí tuệ được biểu hiện trong khuynh hướng suy tưởng - triết lý, "chất suy tưởng triết lí mang vẻ đẹp trí tuệ và sự đa dạng, phong phú của hình ảnh thơ được sáng tạo bởi một ngòi bút thông minh, tài hoa". Con gái ông, bà Phan Thị Vàng Anh, cũng là một nhà văn nổi tiếng. [3] Hận Đồ Bàn do ca sĩ Chế Linh trình bày: http://mp3.zing.vn/bai-hat/Ha-n-Do-Ba-n-Che-Linh/IW7AZZCO.html [4] Tham khảo về Chế Linh tại: http://chinhhoiuc.blogspot.com/2013/08/sen-hay-sang.html [5] Tham khảo trang web của Inrasara về chuyện Chế Linh và Nguyễn Thị Thúy Hằng:http://inrasara.com/2010/11/26/theo nguoidongbang.blogspot.com.au (Nguồn: Chinhhoiuc)    
0 Rating 3.9k+ views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On August 18, 2015
Mộng Tình Xứ Champa(tác giả: Ngọc Tảo)Phần cuối – Những Bản Anh Hùng Ca ...Sau buổi tối ngày hôm đó, JaNin trở lại bình thường trong sự ngạc nhiên của nhiềungười, chàng không kể cho ai nghe về chuyện mà chàng đã gặp trong hang động, trong lòng chàng luôn tin tưởng vào thần linh. JaNin nhanh chóng hiểu ngay thời cuộc và chàng xin nhập vào đại quân. PaRa cũng bắt đầu hiểu ra sự tha thứ của JaNin dành cho Bố Ca, điều đó thật cao thượng, và rồi nàng cũng dần dần tha thứ cho Bố Ca. Ngoài chiến trận, chiến sự đã bắt đầu thay đổi. Saka năm 1393 (tức vào tháng 1 năm 1471 sau CN), đại quân địch đóng ở thừa tuyên Thuận Hóa (nay là đất Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên-Huế) đây vốn là đất các châu Bố Chính, Địa Lý, Ma Linh, Châu Ô,Châu Rí của ta đã đánh mất, địch bắt đầu có dấu hiệu động quân, những toán quân xung kích của địch qua sông Trường Định (nay thuộc địa phận Đà Nẵng) rồi chiếm lấy cửa quan của ta.Bên ta, đức vua tối thượng ban lệnh cho người em trai mình cùng nhiều quan tướng đại thần dẫn năm mươi ngàn quân cùng trăm voi chiến tiến quân ra nơi địch hạ trại, quân ta xuất phát tiến thẳng đến gần doanh trại chúng rồi án binh chờ thăm dò tin tức và quan sát tình hình bên địch.Cả hai bên đều án binh bất động, bốn ngày sau, chẳng cần hứa ngày động quân, đại quân của địch đánh trống giục quân tiến đánh quân ta bất ngờ , quân địch rất mạnh và rất đông, bên ta kháng cự chống đỡ kịch liệt nhưng yếu thế nên phải rút quân, trên đường rút chạy về Đồ Bàn qua các con đường núi và những khu rừng,ta luôn bị địch chặn đánh. Quân ta chưa kịp rút tới thành cổ Châu Sa, vừa mới đến ngọn núi Mộ Nộ thì bất ngờ quân địch ở đâu đã mai phục trước xông ra ép đánh quân ta dồn về phía chân núi cao, những toán quân khác của địch ở nhiều phía tiếp tục xông ra với mật độ rất đông, bên ta vỡ đội hình, yếu ớt chống cự trong vũng máu, năm mươi ngàn quân của ta mất mát rất lớn, quân ta cố gắng vượt đường núi rút về thành Đồ Bàn, rút chạy đến cửa biển Thái Cần (thuộc địa phận Quảng Ngãi ngày nay) thì bị đội quân hung hăng của địch đã mai phục trước chặn đánh, số thương vong bên ta ngày càng tăng, tàn quân còn lại sống sót nhắm hướng Đồ Bàn mà chạy. Ở trong thành Đồ Bàn, tin tức chiến trận được truyền về, cả thành náo loạn, nhà vua cùng các quan thần cao tuổi họp nhau tìm kế kìm chân kẻ thù, họp cả ngày cũng chẳng tìm ra được cách gì. Cuối cùng tất cả cùng đồng ý cho một giải pháp bất đắc dĩ là cử một người trong hoàng gia mang nhiều lễ vật đến sang bên địch xin hàng, đồng thời cấp tốc tuyển chọn binh lính tinh nhuệ đi đến thành Thị Nại để tổ chức hàng tuyến phòng ngự vững chắc đề phòng kẻ thù không chấp nhận yêu cầu xin hàng của ta. Thị Nại là ngôi thành quân cảng có vị trí và vai trò rất quan trọng, Thị Nại như là một tấm khiên vững chắc bảo vệ cho kinh đô Đồ Bàn, quân Đại Việt đã xua quân đến tận đây thì việc tiến đánh Đồ Bàn chỉ là trong ngày một ngày hai, nên ta cần phải cố gắng giữ thành Thị Nại cho bằng được nhằm không cho kẻ thù tiến đến sát nơi mà nhà vua của ta ngự.JaNin từ hôm không được đi đánh trận đầu thì thất vọng không ngừng, nay nghe lệnh vua ban tuyển binh tinh nhuệ thì lập tức đến gặp vị tướng quân lãnh đạo đội quân xin được cùng đi đến thành Thị Nại, vị tướng nhìn qua JaNin là biết một kẻ sức khỏe y như một chiến binh thực thụ thì chấp nhận và bố trí cho chàng vào đội hình. Bố Ca được tin, đến kêu JaNin xin vị đại tướng cho Bố Ca được đi theo đánh giặc giữ thành, JaNin dành lời khen ngợi cho Bố Ca, nhưng chàng biết Bố Ca đã quyết tâm muốn đi thì cố gắng khuyên ngăn Bố Ca cách mấy cũng không được nên chàng gật gù đồng ý sẽ đến xin thử, nhưng JaNin lại không làm như vậy, chàng không muốn Bố Ca đi, chàng muốn Bố Ca ở lại bảo vệ cho PaRa, chàng lo cho PaRa và đất nước của mình.Ngày hôm sau, đội quân xuất phát ra thành Thị Nại, JaNin được sắp xếp cùng với nhiều người khỏe mạnh khác canh giữ cửa chính của thành, JaNin đã chuẩn bị sẵn sàng dành cái chết cho bất kì tên giặc nào giám xông vào thành đầu tiên.Lời xin hàng của ta được vua của Đại Việt chấp thuận, mọi người trong thành Thị Nại và cả trong thành Đồ Bàn thở phào nhưng không vì thế mà bớt đi sự lo toan trong lòng.Nhiều ngày trôi qua, binh lính giữ thành Thị Nại bắt đầu hiện tượng bê trễ, việc canh phòng không còn nghiêm ngặt như tình thần ban đầu được đặt ra, JaNin khuyên răn nhiều người nhưng cũng bằng không, chàng xin tìm đến gặp người tướng quân dùng lời thẳng thắn nói rõ tình hình lòng quân của ta, viên tướng quân ầm ừ cho qua truyện rồi khen JaNin có trách nhiệm cao nhưng rồi đâu cũng lại vào đấy.Tháng 10 năm 1393 niên lịch Saka ( vào ngày 27 tháng 2 năm 1471 sau CN), quân địch trở mặt và bội ước, trong đêm tối mang đại quân vây đánh thành Thị Nại, quân ta trong thành quá bất ngờ không kịp cho sự chuẩn bị tốt nhất, lực lượng hai bên lại chênh lệch nhau, JaNin cùng tất cả số quân trong thành ra sức chống đỡ nhưng quân địch nhanh chóng phá được các cổng rồi xua quân tàn sát, quân trong thành mở đường rút chạy, trong đêm tối JaNin và rất nhiều người khác quan sát các vì sao chọn hướng mà chạy thẳng về Đồ Bàn, quân ta chạy rất nhanh, quân địch cũng đuổi theo rất gắt, một toán quân của kẻ thù đã đuổi kịp, dẫn đầu chúng là một tên tướng dữ dằn cầm hai cây chùy khá nặng làm vũ khí, tên này hét to dục ngựa chạy về phía quân ta, JaNin đang cắm đầu chạy, chàng quay đầu lại thấy đằng sau là rất nhiều người cũng đang cắm đầu chạy như chàng, ở xa là những ngọn đuốc sáng của địch lớm chớm đuổi theo. Đang chạy cùng với những người khác thì đột nhiên JaNin chạy chậm lại, chàng bước đi từ từ suy nghĩ rồi bỗng chuyển hướng quay lại chạy về phía bọn địch, JaNin chạy xuyên qua những dòng người của ta đang chạy tới, chàng chạy rất nhanh, trên tay chàng là thanh gươm cực kì bén, mọi người thấy JaNin chạy lại thì hết sức hoảng hốt, họ cũng bắt đầu chậm lại rồi bỗng hiểu ý của JaNin, từng người từng người một quay đầu chạy theo JaNin quay về hướng bọn giặc đang tiến tới với những sự tức giận đã lên cao. JaNin lao tới, tên tướng kia cưỡi ngựa chảy đến vung chùy vào đầu JaNin, JaNin né được rồi rất nhanh kéo chân hắn làm tên tướng ngã ngựa xuống đất một cái thật mạnh, những người anh em phía sau vừa kịp chảy đến vung đao đâm thương bầm tên tướng thành đống thịt nát, đám quân giặc phía sau thấy tướng mình chết thì chùn bước chân, quân ta chạy tới áp sát đánh cho toán quân này phải chạy ngược về lại thành Thị Nại, đại quân của chúng đang ở đó, JaNin gọi mọi người không đuổi theo, tất cả lại hướng về phía thành Đồ Bàn mà chạy. Ngày hôm sau, đại quân của địch xuất phát từ thành Thị Nại hướng thẳng về kinh đô Đồ BànJaNin và nhiều người khác rút về đến kinh đô thì liền ngay vào điện thông báo tin cho Vua biết. Cả hoàng gia và toàn thành Đồ Bàn, ai nấy cũng đứng ngồi chẳng yên, giặc đã ở trước mắt, trong ánh mắt và khuôn mặt của tất cả mọi người in rõ sự lo lắng tột cùng.Tháng 10 năm 1393 lịch Saka ( vào ngày 29 tháng 2 năm 1471 sau CN), đại binh của Đại Việt đã đến kinh đô Đồ Bàn, giặc bao vây thành đông nghịt, bốn cổng của Đồ Bàn không có lối thoát dù chỉ một con muỗi cũng không bay được ra ngoài, quân giặc gõ khiên đạp đất làm nhuệ khí của quân ta mất đi tinh thần chiến đấu, JaNin cùng vô số binh lính chống giữ tòa thành gần cửa phía tây, ba cửa còn lại cũng được khóa chặt và chống đỡ rất chắc, Bố Ca giữ vị trí trên tòa thành ở gần cửa cổng phía nam.Giặc dùng thang leo thành nhưng bị ta kháng cự quyết liệt, trên dãy thành là nơi chiến đấu ác liệt nhất, ta cố gắng không cho một tên địch nào vào được.Vua và một số tướng quân của ta lên tòa thành quan sát thì thấy lực lượng quân địch đông như kiến, ngài truyền cho sứ giả mang rất nhiều lễ vật sang xin hàng, nhưng giặc vẫn tiếp tục công kích quyết tâm phá thành. Giặc cho bắn tên vào thành, chúng tiếp tục dùng thang cố gắng leo vào, quân ta chống giữ và đáp trả rất kiên cường, dân chúng và gia đình trong thành là hậu phương tinh thần vững chắc cho ý chí của quân ta.Ngày thứ hai, những tặng vật cao quý của ta lại được mang đi sang bản doanh của địch để xin hàng nhưng vẫn không được đáp ứng, quân địch bắt đầu đánh trống thúc quân đánh phá dữ dội, đến chiều thì cửa thành phía đông bị phá tan, quân giặc ùa vào như nước vỡ bờ, quân ta dồn về phía đông thành ra sức chiến đấu nhưng chống đỡ không nổi, quân giặc vào được thành ra sức chém giết, binh lính và người dân hỗn loãn. Đại quân của địch theo cửa đông tiến vào, chúng tiến thẳng đến điện nhà vua ngự, chém giết và bắt bớ hết tất cả những ai trong hoàng gia và quan thần.JaNin đang ở trên thành chiến đấu, trông thấy phía xa cửa đông quân giặc tiến vào ồ ạt chém giết khắp nơi thì chàng nghĩ ngay đến PaRa, chàng xuống thành và chạy ngay đến nhà PaRa, xung quanh chàng là tiếng khóc của những người mẹ chạy đi tìm con, tiếng gọi đau đớn của người vợ kêu tên chồng mình, những gương mặt bơ phờ của đứa cháu tìm bà, con tìm cha, những tiếng kêu cuối cùng của người thanh niên bị quân giặc cắt cổ, tiếng binh đao giáo mác cứa vào nhau. JaNin vừa chạy vừa khóc trước cảnh tượng chua xót và đau thương. JaNin chạy rất nhanh, dưới chân chàng, nền đất bị tưới ướt bởi dòng sông máu, chàng cố gắng giằn vặt đôi mắt của mình nhắm lại để không trông thấy thảm cảnh xung quanh, ngôi nhà PaRa đang ở trước mắt chàng, có một đám địch đang dàn quân trước cổng vào nhà PaRa, JaNin giương mắt nhìn vào thấy một tên giặc to lớn đang bóp cổ Bố Ca ở giữa sân, thì ra Bố Ca đã về cứu PaRa trước, JaNin chạy tới nhảy qua hàng rào rồi thật nhanh lao tới rút gươm chém một nhát rất mạnh, máu vung tóe trên khuôn mặt chàng và Bố Ca, cái thây của tên giặc to lớn ngã xuống, đầu hắn lăn long lóc văng ra xa; đám quân bên ngoài thấy JaNin chặt đầu tướng của mình thì hốt hoảng loạn đội hình, một tên tướng to lớn khác đang giết người ở nhà bên cạnh tròn mắt bước đến nạt đám lính rồi hắn cầm thanh đao to đùng đi tới chỉ vào mặt JaNin nói gì đó mà JaNin không hiểu, hắn vung đao chém JaNin, JaNin né ngay, Bố Ca đứng gần cầm cây thương hai lưỡi đâm hắn, hắn dùng khiên đỡ được rồi chém Bố Ca một nhát vào tay, JaNin vừa né được đao thì dùng gươm đâm vào bụng gã nhưng bộ giáp gã này mặc rất dày, gươm không xuyên qua được, hắn dùng khiên tạt thẳng một cái vào đầu JaNin làm chàng ngã xuống, đầu JaNin chảy máu, Bố Ca bị một nhát nơi cánh tay thì bước lui mấy bước tựa vào tường nhìn vào bên trong nhà. Trong nhà, nàng PaRa ôm đứa con trốn trong phòng ngủ, đứa con khóc lên, tên tướng nge thấy tiếng khóc của trẻ con trong nhà thì ra lệnh cho đám quân bên ngoài bắn tên tẩm lửa lên mái nhà, Bố Ca vốn hiểu được tiếng của người nước Đại Việt, nghe thấy tên tướng định cho người đốt nhà thì Bố Ca lao tới, phi cây thương đang cầm trong tay thật mạnh về tên giặc to lớn, hắn dùng đao đỡ mũi thương bay đến, Bố Ca bước tới thì hắn chém Bố Ca thêm một nhát vào cánh tay còn lại, rồi hắn dùng đao đâm Bố Ca, Bố Ca ngã gục xuống trong vũng máu. Tên giặc bước tới nhìn JaNin đang nằm dưới đất bên dưới một cái cây, chàng bị choáng, JaNin giương mắt nhìn hắn, ở bên trên đầu hắn, JaNin thấy đứa em trai của PaRa đang ở trên cây, hắn đạp JaNin mấy cái vào ngực, em trai của PaRa ở trên cây nhảy xuống với một cục đá to trên tay nhắm đầu tên giặc đập một cái rất mạnh phát ra thứ âm thanh nghe như quả trứng bị vỡ, tên tướng ngã xuống, JaNin vực dậy đè lên người hắn rồi dùng thanh gươm đâm mạnh vào cổ tên tướng, hắn không còn cơ hội để sống. Năm mũi tên chấm lửa được bắn lên mái nhà , lửa bắt rất nhanh, JaNin nhìn vào trong kêu to : - “ PaRa ! …thoát khỏi đó đi, chảy ra đi… “ PaRa ở trong nhà ẵm con chạy ra ngoài, thấy Bố Ca nằm dưới đất mình mẩy đầy máu thì nàng không kìm chế được nước mắt. JaNin nói : - “ PaRa, hãy đứng sau lưng anh.. “ Mái nhà tranh bốc lửa làm khói mù mịt, tàn tro theo gió bay xuống khắp sân nhà. Ở đằng xa, lửa bốc lên khắp nơi, bọn giặc hung ác đốt nhà giết người trong tiếng thét của lời cầu xin vô vọng, một cột khói khổng lồ bay ra từ điện của vua, tất cả mọi thứ đang bị quân giặc đập phá và thiêu đốt.Một tên tướng khác tới cổng nhà PaRa cùng với đám cung thủ của hắn, nhìn thấy hai tên tướng nằm dưới đất, bên trong là một tên lính và một đứa trẻ đứng bảo vệ cho một người phụ nữ cực kì xinh đẹp đang ôm đứa con thì tên tướng này hiểu ngay mọi chuyện. Hắn giương cung, JaNin lập tức nhặt cái khiên của tên tướng ban nãy lên rồi kéo đứa em trai của PaRa núp sau mình, một mũi tên bắn tới, JaNin dùng khiên đỡ được; hắn tiếp tục giương cung, lần này là ba mũi tên sắp được bắn về phía JaNin, JaNin nhìn thấy liền quỳ gối một chân xuống thấp, đứa em trai cũng quỳ gối một chân áp thật sát sau lưng JaNin, nàng PaRa hiểu ý cúi người thấp xuống, một tay ôm con, một tay ôm chặt sau lưng em trai mình, JaNin cầm khiên che hết cả ba. Mũi tên bắn tới, ba mũi đều dính chặt vào khiên, cả ba người không hề hấn gì cả. Tên tướng tức giận hét to ném cung xuống đất, hắn cầm hai thanh đao lao vào, JaNin một tay cầm khiên, tay kia cầm gươm đỡ những đường đao tới tấp, hắn lấy hết sức vung một đao cực mạnh làm cái khiên vỡ làm hai, em trai PaRa nhặt một mũi tên chảy tới nhảy lên bám vào vai tên tướng rồi đâm mũi tên vào cổ hắn, tay hắn bỏ đao nắm đầu đứa trẻ đẩy mạnh ra chỗ cổng, một mũi tên bắn tới găm thẳng vào lồng ngực đứa trẻ xuyên qua sau lưng làm em trai PaRa bị đẩy lùi về phía sau rồi ngã xuống, PaRa la lên kêu tên em mình rồi nàng ôm con chạy tới, nàng ngồi xuống, nàng mặc váy, hai chân nàng xếp gọn sang một bên, tay nàng ôm đầu em trai khóc thét gọi tên. Tên tướng bị em trai PaRa đâm tên vào cổ, lại bị JaNin đâm thêm một gươm vào đùi, hắn loạng choảng chạy về phía quân của mình nhưng chưa kịp đến cái cổng thì gục xuống đất máu chảy lai láng. JaNin chảy đến kéo PaRa ra khỏi cái xác của em trai, phía sau ngôi nhà đang cháy dữ dội, khắp nơi đều là kẻ thù, chẳng còn con đường nào để chạy nữa. Bên ngoài, đám cung thủ xếp thành hai hàng, giương cung nhắm về phía JaNin và PaRa, đứa con PaRa khóc, nàng cũng khóc, JaNin cũng rơi nước mắt theo, chàng ôm hai mẹ con PaRa vào lòng, JaNin và PaRa nhìn đứa con rồi họ nhìn nhau, đó là những ánh mắt của ngày xưa, những ánh mắt đau đớn với những dòng nước mắt tiếc thương cho đất nước, cho số phận và cho cả tình yêu đôi lứa. JaNin xoay lưng mình về phía đám cung thủ, chàng ôm hai mẹ con PaRa thật chặt rồi lui một bước, hai người đứng đối diện nhìn nhau, JaNin nhìn lên bầu trời, chàng hướng đôi mắt nhìn về phía Tháp Cánh Tiên, bên tai chàng văng vẳng những tiếng thét, tiếng kêu la, tiếng binh đao, tiếng lửa cháy, tiếng máu chảy, tiếng những viên gạch thành Đồ Bàn sụp đổ, chàng nhìn sâu vào mắt PaRa đang thắm đẫm nước mắt, chàng nói : - “PaRa ! Mãi……” Một làn tên nhanh chóng bắn tới ghim thật mạnh vào phía sau lưng JaNin, PaRa giật mình trông thấy những đầu mũi tên từ đâu chui ra từ ngực, từ bụng, từ cổ chàng, những dòng nước mắt thi nhau tuôn ra từ đôi mắt nàng, hai tay JaNin đặt lên hai bờ vai PaRa, đôi mắt chàng ứa máu nhìn PaRa,….và rồi chàng tắt thở, đôi chân chàng vẫn đứng đó để che cho PaRa. Đám cung thủ bên ngoài tưởng JaNin chưa chết, chúng dàn thêm ba hàng rồi giương cung nhắm về phía JaNin. Đứa con PaRa đang khóc, nàng đặt một nụ hôn lên má con mình rồi thì thầm vào tai đứa con yêu: - “ Likei ngoan, Likei ngoan của mẹ đừng khóc. “ Đứa bé với đôi mắt to tròn non thơ nhìn mẹ rồi nín hẳn.PaRa gỡ hai tay JaNin đang đặt trên vai mình ra, một làn tên mới được bắn đến, PaRa đẩy nhẹ JaNin làm chàng ngã gục, nàng ngồi xuống đặt con nhẹ nhàng dưới đất, nàng nhìn con với tất cả tình yêu thương và niềm hy vọng, những mũi tên bay đến găm vào lưng, cổ và đầu nàng, nàng chết bên cạnh con, cạnh JaNin, Bố Ca và em trai mình. Đứa con PaRa ngồi bên cạnh mẹ, nó không hiểu chuyện gì đang xảy ra cả, đôi mắt thơ ngây lặng thinh của nó nhìn về phía bọn giặc.Một làn tên mới được bắn tới..............[ Ngày 1 tháng 3 năm 1471, thành Đồ Bàn của ChămPa bị hạ dưới tay Đại Việt, vua Chăm là Trà Toàn và hàng chục người trong hoàng gia bị bắt, gần 60 ngàn người Chăm ngã xuống, 30 ngàn người bị bắt làm nô lệ, thành Đồ Bàn bị phá huỷ hoàn toàn, người Chăm bắt đầu di cư với số lượng lớn sang Cao Miên (Khmer) và bán đảo Malaca (Malaysia), lãnh thổ ChămPa dần dần bị thu hẹp xuống phía nam. ] theo facebook.com
0 Rating 216 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On August 18, 2015
Mộng Tình Xứ Champa( tác giả: Ngọc Tảo ) Phần2 – JaNin gaok Yang ( JaNin gặp thần ) ...JaNin chạy về nhà, nằm trên giường nghĩ ngợi về những ngày tháng qua, đến bây giờ chàng vẫn không thể tin sự thật lại là như vậy, ruột gan chàng bây giờ đau thắt, Một lúc sau thấy hai người đàn ông vác mười bầu rượu đến để trước nhà, đây là hai người làm thuê ở nhà Bố Ca, JaNin cũng quen, hai người này kể hết sự tình những ngày qua cho JaNin nghe, JaNin nghe hai người này kể lại rằng mẹ chàng vì bệnh già yếu nên đã mất, JaNin đau đớn thét lên trong tiếng khóc thảm thiết, họ chỉ cho JaNin chỗ mẹ chàng nằm trên ngọn núi,JaNin ngã gục xuống bãi đất mồ, chàng chỉ có mẹ là người thân duy nhất mà bây giờ mẹ cũng đã bỏ chàng ra đi, chàng nằm khóc bên mộ mẹ, xé áo mình tan tành, tiếng khóc của chàng vang cả khu rừng trong cả ngày đêm, thật đau thương và thật tội nghiệp. Từ đó trở đi, JaNin không vào thành nữa, chàng không thể nào tin rằng PaRa đã là vợ của Bố Ca, PaRa đã không đợi được chàng và thay đổi tình cảm chóng vánh, đúng là trò đùa, JaNin bắt đầu học cách cười nhếch môi để chế giễu việc đời. JaNin giờ như một người điên dại, chàng làm bạn với rượu. Sáng,trưa,chiều, tối, chỉ rượu,rượu và rượu, rượu làm chàng quên bớt được buồn đau, làm chàng quên đi cái kỉ niệm đáng ghét, có cái gì đó bị vướng ở trong trái tim khi chàng say, đó ắt hẳn là thứ được gọi là Tình Yêu, chàng đã từng say mê PaRa, chàng đã từng dành trọn tất cả tình cảm cho nàng, giờ sẽ không say hay si mê người con gái với thứ tình cảm tầm thường này nữa, chàng sẽ chỉ say rượu, chàng yêu rượu như đã từng yêu PaRa vậy. Ôi rượu thật là ngon ! Một tháng trôi qua, nhưng đã là tháng thứ tám PaRa mang thai, đứa con dĩ nhiên không phải là của JaNin, vì nàng với JaNin chỉ có một thứ tình yêu trong khuôn phép, thứ tình yêu không vượt qua khỏi vòng lễ giáo và luân lý của dòng tộc. Bố Ca sắp được làm cha, hắn cảm thấy yêu PaRa hơn và một niềm vui mừng trong lòng không tả được, Bố Ca hy vọng đứa con của hắn với PaRa sẽ là vị thuốc cực tốt để xóa lành quá khứ và cắt đứt tình cảm của PaRa dành cho JaNin, hắn thừa biết tình cảm của vợ mình dành cho JaNin là nhiều đến chừng nào. Sự có mặt đột ngột của JaNin vào chiều nay làm nảy ra trong đầu Bố Ca biết bao nhiêu suy nghĩ và tính toán. Đêm đó Bố Ca nằm mơ thấy JaNin cầm dao xé toạt miệng mình, hắn thét lên vì sợ nhưng hét không ra tiếng, PaRa đứng gần bên cúi đầu xuống, một tay chỉ lên trời, Bố Ca ngước cổ lên thì JaNin dùng dao cắt đầu mình, đầu Bố Ca lăn lóc xuống cái đầm bùn hôi thối cạnh đấy, hắn không thấy đau mà chỉ thấy choáng, Bố Ca choàng tỉnh dậy mình mẩy sướt mướt mồ hôi, hắn ngồi dậy định thần rồi từ từ suy nghĩ. PaRa từ khi gặp JaNin, trong lòng hối hận vì phụ lòng chàng, nàng không ngờ là JaNin vẫn còn sống nhưng nàng bây giờ là người đã có chồng và sắp làm mẹ, nàng không thể làm gì hơn là đành chấp nhận số phận trớ trêu và cợt đùa, nàng buồn bã đến sinh bệnh nhưng vì đứa con nàng đã cố gắng rất nhiều, nàng trách Bố Ca, nàng hận Bố Ca, nàng nhớ JaNin, nàng thương JaNin, trong cơn mơ nàng kêu tên JaNin. Bố Ca vừa mới gặp ác mộng, ngồi dậy nghĩ ngợi, lại nghe thấy vợ kêu tên thằng JaNin trong giấc mơ càng làm cho Bố Ca nghe thấy sôi sục cả ruột gan, Bố Ca nghĩ trước kia mình đã bỏ JaNin một mình trở về, thế nào cũng bị JaNin trả thù như trong giấc mơ vừa rồi, rõ ràng là trong mơ lúc nãy thì PaRa đứng về phía JaNin đồng lõa hại mình, không định liệu trước thì sau này mất PaRa mà tính mạng mình e cũng chẳng còn, nghĩ thế liền ngày đêm tìm cách hại JaNin, hắn nghĩ phải tìm cách đuổi JaNin ra khỏi đất này, ra khỏi khu rừng và biến mất mãi mãi trước mặt PaRa.Trong một lần đi mua hàng hóa ở ngoài bến cảng, Bố Ca tình cờ được sự chỉ dẫn của một đạo sĩ Bà La Môn, người này chỉ cho Bố Ca con đường đi đến ngôi làng ở bên kia hai đỉnh núi, ở đó có một người đàn bà điên nhưng lại nắm rõ và sự dụng được khá nhiều bùa thuật. Bố Ca tức tốc một mình tìm đến chỗ người đàn bà đó.“Nhà tiên tri lửa” là cách gọi mà người đàn bà điên này tự xưng cho mình, nhưng người ta vẫn thường gọi bà ta là Muk Mâtah. Muk Mâtah hiển nhiên cũng không phải là quá điên như người ta truyền tai nhau, bà ta chỉ thích ăn sống những loài động vật nhỏ thân mềm nên người ta mới gọi bà là Muk Mâtah( nghĩa là Bà Sống) Những người xung quanh sợ những hành động quái gở của Muk Mâtah, người ta sợ khi thấy một người đàn bà tóc xõa lưng khòm đi như là chạy, Muk Mâtah đi rất là nhanh.Ngày xưa, khi Muk Mâtah còn trẻ, Muk Mâtah cũng bình thường như những người khác, bà cũng có một căn nhà tranh, một người chồng và một đứa con trai mới sinh. Một ngày kia, người chồng của Muk Mâtah lên rẫy bẫy thú rồi không thấy trở về nữa, anh em họ hàng cùng nhau lên tìm hết quả núi mà không thấy, ai cũng cho là người đàn ông xấu số bị thú dữ cắn rồi tha đi hoặc bị ma quỷ bắt. Muk Mâtah buồn bã và cứ sống như thế nuôi con. Một buổi chiều mát, Muk Mâtah ẵm con nhỏ lên rẫy để trồng đậu và định ở đó một đêm, khi đi sắp đến rẫy của mình thì thấy một đàn gà rừng nhìn rất lạ mắt chạy ngang qua đường định chui vào bụi gai, Muk Mâtah nhanh tay nhặt một cục đá ném trúng chân một con, bà ta bắt lấy con gà này rồi mang lên rẫy, càng nhìn con gà này đúng là càng lạ, Muk Mâtah chưa thấy loại gà nào có bộ lông màu sắc như thế này. Đến ngôi chòi nhỏ trên rẫy thì trời cũng vừa chập tối, Muk Mâtah bé con nhỏ vào ru trên chiếc võng trong chòi, khi con đã ngủ thì bà ta ra bếp nấu cơm rồi đun nước chuẩn bị làm thịt con gà tội nghiệp lúc nãy, Muk Mâtah mài cho con dao đã rỉ sét một phần cho nó bén hơn, bà ta nhổ lông cổ gà, dùng dao cứa một đường thật sâu vào cổ nó, con gà gáy lên một tiếng thì trong nhà đứa con của Muk Mâtah cũng khóc lên rất to, đến lúc con gà im thì đứa bé trong nhà cũng lặng đi không khóc nữa, Muk Mâtah nghĩ là con mình thức giấc vì đói bụng, bà ta tặng thêm một đường cứa nữa vào cổ con gà này cho máu nhanh chảy hết, con gà gáy thêm một tiếng cuối cùng trước khi Muk Mâtah thả nó ra, bên trong nhà đứa con lại khóc rống lên càng to, Muk Mâtah đút thêm mấy cây củi vào bếp lửa rồi đi rửa tay, đến lúc này thì con gà rừng đã chết, đứa con trong chòi cũng im hẳn. Bà ta bước vào trong cái chòi nhỏ thì hoảng hốt giật mình không thấy đứa con đâu, chiếc võng thì vẫn còn đó đong đưa trong sự kinh dị, ánh lửa của cây nén cũng bị gió thổi tắt đi, Muk Mâtah hoảng quá chảy vòng ra sau nhà, vừa khóc vừa tìm vừa kêu tên con, bà ta bước xuyên qua bụi gai sau nhà chạy đi tìm con mình, Muk Mâtah thảm thiết kêu tên đứa con và chạy đi tìm hết cái rẫy nhà mình mà cũng không thấy, bà ta chạy vào nhà bếp, cơm đã khét mùi cháy, con gà rừng hồi nãy cũng biến mất, Muk Mâtah rất sợ, bà ta rút một cây củi có lửa dưới đáy nồi ra rồi chạy lại vào chòi, vừa mới bước một chân vào cửa chòi thì Muk Mâtah bị một cánh tay nhơ nhuốp máu tát mạnh một cái vào mặt, Muk Mâtah bất tỉnh tới sáng.Sáng hôm sau, những đứa trẻ mục đồng chăn bò vào rẫy Muk Mâtah xin nước, thấy mặt người phụ nữ dính đầy máu thì liền đi chạy về làng gọi người tới cứu. Người ta đến xem, chăm sóc một hồi thì Muk Mâtah tỉnh dậy, nhưng đứa con nằm trên cái võng trong căn chòi thì đã tắt thở tự bao giờ, Muk Mâtah ôm con khóc mãi. Sau khi tự tay chôn xác đứa con, Muk Mâtah dường như bị biến đổi thành người khác, bà ta ẩn mình trong rừng, ít khi về làng, cũng kể từ đó, không biết Muk Mâtah được ai hay một thứ gì đó dạy mà bà ta bắt đầu sử dụng được những bùa thuật cổ xưa. Muk Mâtah trở nên quái dị, nhiều lời đồn cho rằng chính bà đã tự tay giết con, dần dần người ta cho bà là điên và đặt cho cái tên là Muk Mâtah thay vì cái tên cũ là Gliu.[….]Bố Ca tìm được đến nhà Muk Mâtah, Bố Ca sợ quá khi thấy Muk Mâtah đang nuốt mấy con thằn lằn đang ngoe nguẩy cái đuôi, bà ta cười to lên ngoái tay gọi Bố Ca đang đứng ngoài hàng rào vào nhà, nói chuyện với người đàn bà này một hồi, Bố Ca nhận thấy bà ta lúc điên lúc tỉnh, không biết có nhờ vả được chuyện không. Một cuộc thương lượng được diễn ra, những yêu cầu của Muk Mâtah Bố Ca đều có thể đáp ứng được chỉ trừ một việc, người đàn bà này đòi Bố Ca mang đến cho bà ta một đứa bé sơ sinh khi mọi việc xong xuôi, khi Bố Ca hỏi cần đứa trẻ để làm gì thì Muk Mâtah chỉ lo nuốt số thằn lằn còn lại trong tay mà không trả lời, Muk Mâtah há miệng làm lộ hai cái răng nanh dài hơn người thường, Bố Ca sợ quá gật đầu đồng ý đại, về đến nhà xong việc sẽ định liệu sau, bù lại những gì Bố Ca đáp ứng, Muk Mâtah sẽ phải hại một người mà về đến nhà Bố Ca sẽ nói rõ chi tiết. Thế là ai cũng có những ý định và ý muốn của riêng mình. Trưa hôm đó cả hai xuất phát về Đồ Bàn, giữa đường ngủ qua đêm trong rừng, chứng kiến cảnh tưởng Muk Mâtah mặc váy trèo cây cao như một loài bò sát làm Bố Ca choáng váng, đúng là bà ta đang trong cơn điên, Bố Ca thì lúc nào cũng thủ một con dao trong người, Bố Ca mệt mỏi rồi ngủ đi. Sáng sớm cả hai tiếp tục lên đường, Đồ Bàn thành đã ở trước mắt, đó là một ngày trời âm u.PaRa ngày ngày ra ngồi trước hiên, đôi mắt trông về phía xa xăm, không lúc nào là nàng không nghĩ đến chiều hôm ấy, nàng hiểu được JaNin, chắc chắn JaNin đang rất buồn, nàng thì cũng sắp đến gần kì sinh nở, nàng đã cố gắng rất nhiều để không ảnh hưởng đến đứa con trong bụng, kể cả việc kìm nén nỗi buồn, nàng muốn đi đến nhà JaNin nhưng nàng không thể làm điều đó.Thấy Bố Ca đưa về một người đàn bà lớn tuổi, PaRa như người đang trong cơn mơ, nàng cũng chẳng muốn quan tâm đến Bố Ca nữa.Bố Ca sắp xếp chỗ ở cho Muk Mâtah trong một thời gianNửa tháng sau, vào một buổi tối trăng sáng, JaNin đang rất say,chàng say cái say của men rượu, men rượu lại có vị của tình ái. Thế sự, chuyện đời và lòng người thật là phức tạp, JaNin nằm mơ màng trên cái giường gỗ cũ phủ bụi trong nhà, cũng chẳng thèm ăn cái gì vào bụng nữa, chàng ngủ say mèm. Bên ngoài cửa, trăng cũng bắt đầu lên, chậm rãi và khổ cực. Những ngôi sao băng hôm nay bay ngang nhà JaNin rất nhiều, đó là những dấu hiệu. Trăng càng lúc càng sáng, có một bóng người đứng ngoài cửa nhìn chằm chằm vào JaNin đang ngủ, cái bóng người mặc áo đen, xõa tóc, đi chân không, đó chính là Muk Mâtah, bà ta bước rất nhanh vào giữa nhà, ánh sáng từ trăng càng chiếu rõ cặp mắt lạnh lùng và sâu hoắc của bà ta, Muk Mâtah liếm qua mọi vật dụng và mọi thứ trong nhà, thật kinh tởm nếu một đứa con nít trông thấy cảnh này. JaNin thì vẫn nằm bất động, chàng ngủ bỏ quên cả trời đất, Muk Mâtah tiến gần hơn đến cái giường mà JaNin đang nằm, ngắm nghía khuôn mặt JaNin một hồi rồi từ từ rút lấy cái bầu rượu lở chừng gần cạn mà JaNin đang ôm, bà ta uống ngay một ngụm. JaNin qửa quậy nghiêng người về phía Muk Mâtah, mắt chàng vẫn nhắm, chàng nói rất to : “ PaRa ! …thoát khỏi đó đi, chảy ra đi… ….PaRa, hãy đứng sau lưng anh.. “Muk Mâtah không chút sợ hãi khom lưng ghé tai vào sát hơn để nghe gã say rượu nói, Muk Mâtah nghĩ gã này chắc chắn là đang mơ một giấc mơ khổ sở với nhân tình đây nên mới như vậy, Muk Mâtah cầm bầu rượu cạn sạch số nước còn sót trong bầu rồi nhét lại cho tên say rượu ôm rồi tự cười đắc ý một mình, sau đó Muk Mâtah niệm thật lâu một câu chú cổ, JaNin vẫn ngủ say như chết, Muk Mâtah dạo một vòng quanh trong nhà rồi bước ra cửa định đi về, bỗng nghe tiếng của JaNin nói lẫn với thứ tiếng nói vang, thứ âm thanh khác hẳn tiếng nói của con người nhưng Muk Mâtah nghe rõ mồn một :“Ngươi, Gliu ! đêm đen. Hãy tự làm dịu mong muốn trống rỗng của ngươi và biết cách làm hài lòng Ngài bằng những tặng phẩm “Muk Mâtah quay lại thì thấy JaNin vẫn ngủ im lìm ở cái giường đó, mùi của rượu vẫn nồng nặc, trong căn nhà tăm tối và rách mướp này thì giọng nói vừa nãy là của tên kia hay của ai khác, mà tên kia thì say như vậy, ai có thể gọi đúng tên cũ của bà ta đã bỏ từ rất lâu rồi. Muk Mâtah mặc kệ, bà ta quay đầu lại định chạy ra về, bước được mấy bước thì lại nghe tiếng của JaNin lẫn tiếng nói ban nãy :“ Gliu. Hạt giống. Cơn ngủ. Tự ngươi chọn lấy”Đến đây thì bà ta nổi giận, Muk Mâtah quay lại định bước nhanh về phía JaNin tặng cho chàng vài câu bùa chú nữa, nhưng chưa được nửa bước thì Muk Mâtah chôn chân tại chỗ, tròn hoe cặp mắt già nua bởi cạnh tưởng trước mặt: ánh sáng của trăng chiếu qua cửa sổ bỗng làm cho căn nhà rực lên như ban ngày, giờ thì mọi ngóc ngách trong nhà có thể thấy được rõ ràng, trong căn nhà nổi lên một cơn gió , ngoài kia gió cũng bắt đầu thổi và gọi nhau, ở trên giường bây giờ là một vóc dáng to lớn và hình hài khác người đang ngồi tựa lưng vào bức tường đất, khuôn mặt không phải là của JaNin, mà là một khuôn mặt sang trọng, cao quý và mang một vẻ siêu nhiên, tóc được búi lên gọn gàng, trên mình của người này có hai con rắn đang trườn quanh cơ thể săn chắc không mặc áo, đôi cánh tay mang những hạt chuỗi chân trâu, miệng mỉm cười nhưng đôi mắt vẫn nhắm. Đây rõ ràng không phải là cái tên JaNin lúc nãy với bộ áo rách mướp, đây là không phải là người, đây là…Muk Mâtah sợ hãi nhắm mắt lại lao mình chạy liền ra ngoài, chạy đến cửa bà ta không quên nhìn lại một cái thì hay chăng, cảnh tượng ban nãy đã biến mất, tên JaNin vẫn nằm đó đang ôm chai rượu không, vẫn cái bộ áo rách đó, vẫn cái mùi nồng nặc của men rượu trong nhà bay ra, Muk Mâtah không giám nghĩ và đứng lại nữa, bà ta chạy ngay về và bắt đầu để ý nhiều đến JaNin.Những tia nắng đầu tiên của ban mai nhanh chóng ùa nhau đến, JaNin thức dậy trong cơn đau đầu choáng váng, JaNin cố bước tới con suối trước nhà rửa mặt, chàng không đứng vững nên rơi xuống nước, phải mất một lúc JaNin mới dậy được và đi thay quần áo, chàng tìm rượu trong nhà, chàng cảm thấy phát điên khi không còn cái bầu nào còn rượu, JaNin đi ra ngoài, cái thành Đồ Bàn to lớn phía trước làm cho chàng thật chướng mắt, hôm nay mọi thứ đối với chàng thật xấu xí, khu rừng phía sau thật đen tối và bít lối, chàng chán ngẩm khi bàn chân chàng giẫm lên mớ đất bùn mà chàng cho nó là rất bẩn thỉu, tiếng kêu của chim rừng làm chàng ta nhức tai, thật ngộp ngạt và vô vị, đến gần thành, chàng nhếch miệng cười khi thấy cặp bò lì lợm không chịu nhấc chân bởi những trận roi, cách người chủ xe lẩm nhẩm cũng thật là khó chịu, và có cái gì đó dẫn đôi chân chàng đi vào trong thành.JaNin lê chân đến chỗ chợ, ở đằng kia có nhiều đứa bé và cả người lớn đang đứng xem cái gì đó, Nin bước đến, thấy Muk Mâtah đang diễn trò, người ta vỗ tay không ngớt khi thấy Muk Mâtah làm ba con cá khô quẩy đuôi bơi lội trong lu nước, JaNin nhìn Muk Mâtah rất quen, Muk Mâtah thấy JaNin, hỏang hồn nhớ lại hình ảnh đêm qua, bắt gặp ánh mắt lạnh lùng của Muk Mâtah, JaNin cười một cái rồi đột ngột dùng tay khuấy lu nước bóc ba con cá khô đó lên nhai ngon lành rồi chúc đầu vào lu uống nước trong đó làm ai trông thấy cũng há hốc thè lưỡi tròn con mắt vì phát ớn, mọi người có nghe biết đến chuyện của chàng, họ thương chàng nhưng không nghĩ là chàng lại thành ra như thế này, JaNin tội nghiệp dường như không tự chủ được chính mình.Muk Mâtah lặng lẽ bò ra khỏi đám đông, JaNin nhận thấy nên cũng đi theo Muk Mâtah, Muk Mâtah đi thẳng đến nhà Bố Ca, Muk Mâtah đi rất nhanh nhưng JaNin vẫn bắt kịp, đến nhà Bố Ca, Muk Mâtah núp sau cái cây dừa cạnh hàng rào quan sát JaNin, JaNin bước vào trong sân thì không thấy Muk Mâtah đâu, chàng cũng không nhớ rõ đây là nhà PaRa quen thuộc nữa, chàng đứng sững giữa sân, Muk Mâtah thì vừa nhìn chằm chằm vào JaNin vừa suy nghĩ về chuyện tối qua mà bà ta nhìn thấy ở nhà JaNin.Hôm nay cũng chính là ngày PaRa chuyển dạ, một người phụ nữ đỡ đẻ giỏi nhất được Bố Ca mời đến, vừa mới đưa người phụ nữ đến cổng thì đã thấy JaNin đứng trong sân, thấy Bố Ca về, Muk Mâtah chạy ra thì thầm cái điều gì đó vào tai Bố Ca làm Bố Ca cười đắc ý, Bố Ca đưa người phụ nữ đỡ đẻ vào nhà qua con đường phía sau, rồi lấy mấy củ khoai đã bị mốc ném ra ngoài sân chỗ JaNin đang đứng, JaNin nhặt ngay rồi ngồi bẹt xuống nhai ngấu nghiến hết, giờ thì Bố Ca đã nhận thấy được JaNin đang bị hóa điên, JaNin cười rất tươi khi thấy Bố Ca mang ra thêm cho mình một bầu rượu, Muk Mâtah thì bò nhanh lên cây không giám lại gần mà chỉ quan sát JaNin. Đứa em trai nhỏ của PaRa thấy JaNin như thế thì rất thương, nó tuy có chín tuổi nhưng cũng đủ hiểu mọi chuyện chị PaRa của mình, trước kia khi PaRa chưa lấy chồng, JaNin thường đến chơi và thường nặn trước những chiếc xe trâu nhỏ hoặc động vật bằng đất bùn để cho đứa em trai của PaRa chơi, nó thích lắm và nó rất quý JaNin, bây giờ thấy JaNin đang ăn sống mấy củ khoai mốc thì nó liền chạy vào bếp cạo hết số cơm còn lại trong nồi chấm thêm ít muối mang ra cho JaNin ăn, JaNin nhìn nó bằng ánh mắt biết ơn và lạ lẫm. Bên trong nhà, người ta đang quấn quýt đón chờ thành viên mới của gia đình, PaRa không biết JaNin đã bị hóa điên đang ở ngoài sân, nàng đang sắp làm mẹ, nàng đang cố gắng nghe theo những lời người đàn bà đỡ đẻ nói, và..một đứa bé trai chào đời, cả căn nhà reo hò trong niềm vui, người vui nhất có lẽ là cha của nó - Bố Ca. JaNin ngồi ăn cơm ở ngoài sân, nghe thấy tiếng trẻ thơ khóc, bỗng cảm thấy trong lòng thanh thản, chàng nở một nụ cười hạnh phúc rồi cầm bầu rượu đứng lên chậm rãi đi ra ngoài. Muk Mâtah ở trên cây, nghe tiếng đứa bé khóc trong nhà thì chợt nhớ đến đứa con của mình trước kia; trước khi nhận lời Bố Ca làm JaNin hóa điên, Muk Mâtah từng yêu cầu Bố Ca mang cho bà ta một đứa bé và Bố Ca cũng đã đồng ý, nay việc sắp xong, nghe thấy tiếng khóc con nít trong nhà Bố Ca, Muk Mâtah nghĩ ra những tính toán, Muk Mâtah định sẽ lấy đứa con của PaRa khi cơ hội đến và biến mất sâu trong khu rừng của bà ta mà đừng hòng có ai tìm thấy được, Muk Mâtah trèo xuống và dòm qua cửa sổ thấy đứa bé càng làm bà ta đắc ý với ý định của mình.Một tháng sau.Có tin quân thám thính của ta về cấp báo, quân Đại Việt đích thân vua đã mang quân vào được đất của ta, chúng đang đóng trại và tập luyện, quân địch đến với số lượng rất đông, số lượng lục quân của chúng vào khoảng một trăm năm mươi ngàn tên, ở ngoài biển có đến gần một ngàn chiến thuyền lớn, mỗi chiếc đếm được khoảng một trăm tên lính, ước chừng tổng cộng cả thủy quân và lục quân của địch có đến trên hai trăm năm mươi ngàn, con số này rất lớn, bằng khoảng tổng số dân của một trăm làng Chăm đông nhất cộng lại. Đó là vào thời điểm tháng 8 năm 1392 lịch SaKa (tức vào tháng 12 năm 1470 sau CN). Tin tức nhanh chóng lan ra khắp thành, mọi người bắt đầu lo lắng, nhà vua ban sắc lệnh huy động quân đội gấp, bây giờ thì cảnh tượng đã trở nên lo sợ hơn, tất cả đang chuẩn bị cho một cuộc chiến ác liệt.Bố Ca lần nữa được gọi nhập quân, JaNin bị điên nên chẳng ai ngó ngàng, cứ cách hai ba ngày thì chàng lại tìm đến nhà PaRa để chờ đứa em trai của PaRa cho cơm ăn, PaRa ẵm con trông thấy JaNin như thế thì nàng đau buồn không nguôi, nàng dặn đứa em trai ngày nào cũng phải dọn cơm thật tử tế chờ JaNin đến ăn, JaNin không đến thì nàng kêu đứa em đi tới tận nhà gọi chàng, Bố Ca biết rõ những chuyện đó nhưng cũng không lo lắng lắm, JaNin đã bị điên thì cũng chẳng ý thức và nhớ những chuyện trước kia nữa, một mặt cũng vì Bố Ca sợ PaRa vì nàng vẫn chưa chịu tha thứ cho hắn, bây giờ Bố Ca chỉ lo có mỗi một chuyện tìm mua đứa bé nào đó cho mụ đàn bà nửa điên nửa tỉnh là Muk Mâtah cho bà ta nhanh chóng rời khỏi nhà hắn.Hôm sau, vào buổi chiều tối, Bố Ca đi canh gác chưa về, JaNin lại tìm đến nhà PaRa vì chàng đói bụng, kể từ lúc bị điên, JaNin chỉ toàn ăn cây rừng, hôm nay chàng đến nhà PaRa ăn cơm, JaNin cứ ăn cơm xong là đòi rượu nhưng PaRa không cho, JaNin không có rượu uống thì nằm ngay tại chỗ rồi khóc, khóc xong rồi nói hát lung tung, PaRa thấy thương chàng nên kêu đứa em trai vào nhà trông cháu để nàng ra ngoài mua rượu cho JaNin, tiện thể mua cho chàng một bộ quần áo mới vì chiếc áo chàng đang mặc bị chắp vá rất nhiều chỗ. Muk Mâtah chỉ chờ có thế, bây giờ trong nhà chỉ còn một đứa trẻ con với một gã điên, bà ta đã chờ khá lâu, sẽ không có cơ hội nào tốt hơn bây giờ, Muk Mâtah thả cho hai con bò nhà PaRa bị cột ở ngoài sân rồi đánh cho chúng rống lên chạy ra ngoài, Muk Mâtah liền chạy vào trong nhà kêu đứa em PaRa ra ngoài chặn mấy con bò đó lại, còn đứa bé đang nằm trên võng cứ để mình trông giúp, đứa em trai đắn đo một hồi rồi liền chạy ra ngoài đuổi theo, Muk Mâtah ở trong này tròn mắt nhớ lại cảnh con mình chết, Muk Mâtah bế con PaRa lên ngó nghía xung quanh, đứa con bật khóc rất to làm JaNin đang nằm hát nhảm ở bên ngoài ngồi dậy ghé tai lắng nghe tiếng khóc, Muk Mâtah lấy một chiếc khăn quấn đứa bé lại rồi vắt chéo ở trước ngực chạy nhanh ra ngoài, đứa bé càng khóc thêm to hơn, JaNin đang ngồi thẫn thờ ở hiên, thấy Muk Mâtah từ trong nhà chạy ra ngoài cộng thêm tiếng khóc của trẻ thơ đi theo dường như làm cho kẻ điên đã hiểu ra được chút gì, nên chàng đứng dậy rồi đi theo Muk Mâtah, Muk Mâtah đi rất nhanh, JaNin suýt bị bỏ xa nhưng chàng vẫn bám theo được, tiếng khóc của đứa bé mà Muk Mâtah đang ôm làm nhiều người tò mò để ý nhưng họ không biết là đang có chuyện gì xảy ra, Muk Mâtah nhanh chóng ôm đứa bé chảy ra cửa tây của thành rồi chạy nhanh lên ngọn núi trước mắt, JaNin nghe tiếng khóc đi theo, dường như đang có thứ gì đó dẫn đôi chân chàng bước đi. PaRa mang rượu và quần áo về đến nhà thì không thấy JaNin nữa, nàng đặt mọi thứ xuống một bên rồi gọi tên đứa em trai nhưng không thấy em mình đáp, PaRa vào nhà thì cũng không thấy gì cả, không thấy đứa em và con của mình, lúc đó Bố Ca cũng vừa mới về đến nhà, PaRa hỏi Bố Ca ngay trên đường về có thấy đứa em trai không, Bố Ca không biết và cho rằng chắc nó ẵm cháu đi chơi quanh đây thôi, một lát thấy đứa em trai lùa hai con bò về, PaRa thấy nó về tay không thì cảm thấy lo lắng chạy tới hỏi ngay, đứa em chạy vào nhà thì không thấy Muk Mâtah đâu nữa, nó khóc kể lại chuyện hồi nãy, đến bây giờ Bố Ca mới tá hỏa nhớ lại lời hứa của mình với Muk Mâtah, PaRa ướt nước mắt giận giữ nhìn Bố Ca vì Bố Ca đã dẫn người đàn bà lạ về nhà để bây giờ phải mất con, nàng chạy ra ngoài hỏi thăm hàng xóm láng giềng có trông thấy con mình và Muk Mâtah, Bố Ca cũng nhanh đi hỏi người đi đường, người ta chỉ cho PaRa và Bố Ca hướng mà một người đàn bà lưng khom đi rất nhanh bế một đứa bé đang khóc, cả hai liền chạy theo.Trời đã bắt đầu tối, mưa cũng bắt đầu trút xuống nặng hạt, Muk Mâtah chạy sâu vào rừng núi, ở phía sau bà ta thấy JaNin ngơ ngác đang đi theo, phía trước có một cái hang động, lối vào rất nhỏ chỉ vừa cho hai người chui, Muk Mâtah liền đi vào trong đó để trốn JaNin, JaNin đi đến chỗ cái hang thì thấy tiếng khóc của đứa bé biến mất, JaNin điên dại loay hoay gãi đầu, chàng dòm vào cái hang động đen tối với sự run rẩy vì bị ướt, trong suy nghĩ chàng chợt hiện lên những hình ảnh về Tháp Cánh Tiên, một chút tiềm thức trong quá khứ bỗng nhiên làm chàng nhớ lại lời của một ai đó nói, đó chính là lời mẹ chàng, JaNin từng nghe mẹ kể rằng ngày xưa cha của chàng là một nghệ nhân điêu khắc chạm trổ hình thù của các vị thần dưới dạng một khối đá trụ tròn, cha chàng khéo tay và được trọng dụng nên mỗi khi có lệnh trùng tu hay xây Tháp mới thì cha chàng cũng được gọi đến để điều chỉnh và tính toán các công thức cho hợp lý để tạo nên một ngôi Tháp cho thật hoàn mỹ, lối vào Tháp phải nhỏ hẹp, bên trong tối và không có lỗ thông khí nhưng phải đảm bảo là không được nóng và đủ mát , Tháp được xây sao cho bên trong giống như một hang động vì các vị thần thường thích trú ngụ trong các hang động mát mẻ và yên tĩnh, đang nghĩ ngợi thì tiếng đứa bé cất lên từ trong hang, tiếng đứa bé cười rất tươi.JaNin liền chui vào, vào đến bên trong một lát thì chàng không giám bước nữa, không nói được một lời nào và chàng cũng không giám thở nữa, phía trước mặt chàng là khung cảnh mà lần đầu tiên chàng được thấy trong đời; Có một người đàn ông phía trước, người đàn ông phía trước chàng có lẽ là một vị Yang, một vị Po Yang của dòng dõi thần linh mà chàng thường hay nghe mẹ và nhiều người khác kể đến trong những câu truyện huyền thoại, sự tích và những chiến tích về các Ngài trong niềm kính ngưỡng. Dù chỉ được một ít ánh sáng từ ngoài lẻn vào được nhưng bên trong hang lại sáng trưng của làn hương thanh như thứ ánh sang từ những chòm sao. Trong hang, Yang ngồi trên một tảng đá được lót tấm da của một con hổ, Ngài - một người đàn ông to lớn với cơ thể săn chắc như một chiến binh, khắp người ánh lên một thứ sắc ánh siêu phàm, khuôn mặt điềm tĩnh khoan thai với cốt cách điềm nhiên hiếm thấy không phải là của người thường, đôi mắt Po Yang vẫn nhắm với những đường nét tinh tế siêu quầng, ở giữa trán có vẽ một kí hiệu cổ mà chàng JaNin không nhìn được ra thứ hình thù lôi cuốn ấy, miệng Ngài mỉm cười thản nhiên, tóc được búi lên gọn và xõa xuống phía sau, đôi tai được đeo một loại đá trong vắt góc cạnh để tô điểm cho vẻ sang trọng, tay trái của Ngài cầm một Gahlau là một loại thứ gỗ thơm cực kì quý giá chỉ có vua chúa mới được dùng, tay còn lại đặt lên đầu gối chân phải mà bàn chân Ngài không một chút tì vết đạp lên một tảng đá phía trước, trên ngực và vai của Ngài có những con rắn quấn quanh phụ thuộc, trên cổ và hai tay đeo những thứ trân châu là tinh hoa của trời đất tích tụ, bên dưới tảng đá Po ngồi có một con bò to lớn màu trắng đang nằm phục được quấn những thứ trang sức kì lạ và những cái chuông vàng cho loài linh vật, nằm cạnh con bò to lớn là đứa con của PaRa đang ngồi đùa nghịch với con bò đó, đứa bé cười khúc khích rất vui. Đứng bên cạnh tay phải chàng JaNin là Muk Mâtah, Muk Mâtah cũng bị chôn chân như chàng, nhưng Muk Mâtah không sao nhấc được chân lên nỗi, dường như chân bà ta đã mọc rễ bám sâu vào lòng đá, dưới chân bà ta là cả hàng chục những loài rắn cực độc hung dữ bao quanh. Dĩ nhiên là Po đang điều khiển mọi thứ trong hang, Po Yang có tất cả quyền lực tối thượng trên mặt đất này; ở thế giới này hay thế giới kế tiếp, Ngài luôn được dân Chăm tôn sùng và tán thán những vinh quang bằng những nghi lễ và lời tụng ca về danh tiếng của Ngài. Po từ từ mở đôi mắt thần ra nhìn đứa bé đang cười , rồi Ngài nhìn Muk Mâtah , Muk Mâtah rống lên thảm thiết rồi ở hai con mắt của bà ta bắt đầu rỉ máu, Ngài đưa mắt nhìn đến JaNin, JaNin nhìn Po rồi chắp tay ở ngực cúi mặt lạy Ngài với tất cả sự tôn kính và ngợi ca, bằng đôi mắt thần thanh khiết và ánh nhìn trìu mến, Po chữa lành cho chàng khỏi những bùa chúa bấy lâu.Bỗng bên ngoài mưa có tiếng gọi con của PaRa và Bố Ca, PaRa gọi JaNin một tiếng, JaNin quay lưng lại gọi PaRa, chàng quay mặt lại về phía Po thì thấy cảnh tưởng lúc nãy đã biến mất, JaNin không nhìn thấy Ngài đâu, những thứ ánh sáng và con bò to lớn cũng đã biến mất, hang động bây giờ thành tối om chỉ nghe thấy tiếng của hạt nước nhỏ giọt trong động, chàng quỳ xuống lạy ba lạy về phía tảng đá lúc nãy mà Po ngồi rồi đến bế con của PaRa lên, đứa bé với tay ôm lấy JaNin, miệng thì vẫn cười khúc khích đáng yêu, JaNin thật sự đã hết bị điên, chàng cất tiếng lớn gọi PaRa ở bên ngoài. Bố Ca mang một ngọn đuốc dắt PaRa vào hang, một cảnh tưởng hãi hùng trước mắt, Muk Mâtah nằm chết ở một xó, trên người bà ta là rất nhiều con rắn mà miệng rắn vẫn ngoắp những mớ thịt của Muk Mâtah chưa chịu buông. PaRa nhìn thấy đứa con bình yên vô sự, nàng vui mừng chạy đến gần JaNin với những cảm giác khó tả, nàng ứa lệ nhìn con và nhìn JaNin, JaNin nhìn PaRa rồi mỉm cười, một nụ cười tha thứ. JaNin đưa con cho PaRa, chàng bước đến gần Bố Ca rồi vỗ vai Bố Ca một cái, Bố Ca như người tỉnh ngủ, xúc động chảy nưN
0 Rating 195 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On August 14, 2015
Mộng Tình Xứ ChămPa( tác giả : Ngọc Tảo ) Phần1. - Bông Hoa Không NởNgày xưa, khi vương quốc Chăm Pa còn là một đất nước hưng thịnh và phồn hoa, tiểu vương quốc Vijaya là một lãnh địa rộng lớn giàu có, các thương nhân ở nhiều nơi khác đổ về làm ăn, cảnh tượng xem thấy thật đông đúc và rất thịnh vượng, nhưng nhân dân nơi đây vẫn phải chịu cạnh cơ cực do chiến tranh và nạn cướp phá. Năm 1373 niên lịch Saka (tức năm 1451 sau CN) . Bắc ChămPa có đô thành tên Đồ Bàn thuộc tiểu vương Vijaya, Đồ Bàn là một kinh đô to lớn và nhộn nhịp, đó là nơi ở mà vua của các vua ngự đã hàng trăm năm nay, Đồ Bàn cũng là nơi tập trung và chỉ huy hạm đội thủy quân và lục quân lớn nhất mà ChămPa thời đó có, Đồ Bàn được bao bọc bởi tường thành lũy hào vững chắc, kiên cố và hiểm trợ nhằm ngăn chặn các cuộc đánh úp vào kinh đô hòng dành vương quyền tối cao của các lãnh chúa liên bang ở phía nam và cả những ý đồ diệt phá từ các nước phương bắc và tây nam. Bên ngoài thành là vùng đất trồng trọt và những khu rừng quý. Cách ngôi thành Đồ Bàn không xa ở phía trong rừng có một ngôi nhà tranh mái lá, trong nhà chỉ có một bà mẹ và một đứa bé trai mới được ba tuổi, đứa bé này tên JaNin, họ vốn ở tận đất Indrapura, sau khi hoàng gia để mất đất vào tay của người phương Bắc, dân Chăm sống trong cảnh cơ cực và nghèo nàn, sau bao nhiêu trăm năm ở đây với hoang phế và tàn tích của một vương triều đã mất, họ quyết định bỏ xuống phía Nam, nhưng vẫn còn một số ở lại vì không nỡ rời bỏ đất đai, nhà cửa, gia đình JaNin thuộc trong số ở lại, họ và nhiều người khác cố gắng bám vào số ruộng đất đã khai hoang để sống, nhưng họ sống mà không được yên; hàng tháng bọn lính phương Bắc thường đến với số lượng đông, chúng kiểm dân,bắt bớ,lũ trai thanh niên cũng bị bắt làm lính cho chúng, mùa màng đến thì dân Chăm phải trả tiền thuế với giá ở trên trời, mọi của cải và những tặng phẩm mà dân Chăm tích góp đưa cho vị quan ở đây cũng không làm thỏa mãn lòng tham và tội ác của chúng. Những cuộc nổi dậy bùng lên, lửa chưa bén thì đã bị dập tắt hoàn tàn và tàn khóc, nhiều người bị giết và bỏ đói vì không đủ tiền đóng thuế, những ai nổi dậy chống đối thì gia đình bị giết sạch vì tội che giấu và đồng lõa, Cha JaNin dẫn đầu đám đông đánh trả bọn lính, thế là gia đình JaNin bị tàn sát hết, người mẹ phải bồng đứa bé là JaNin trốn trong một đống rơm lớn mới thoát được nạn, sau đó người mẹ bế JaNin chạy dài về hướng nam đến xứ Vijaya và dựng một ngôi nhà tranh nhỏ ở ngoài thành Đồ Bàn, hằng ngày bà mẹ dắt đứa con vào thành tìm cách làm thuê, làm mướn, ở đở cho người ta chỉ để nuôi con và sinh sống qua ngày, cuộc sống hết sức khốn khổ. Thời gian đằng đẵng trôi qua, người mẹ ấy bây giờ mái tóc đã nhanh chóng nhuốm màu mây, từng nếp nhăn đua nhau in vết trên khuôn mặt hốc hác, người mẹ ấy giờ đã già đi nhiều. Còn đứa bé thì đã khôn lớn, trở thành một chàng trai lực lượng và khôi ngô, chàng JaNin năm nay được mười chín tuổi, JaNin da ngâm, tóc xoăn, mặt vuông mũi cao, lưng to vai rộng, dáng đi như loài mãnh sói. Nin rất khỏe, có hôm chàng tìm được một cái thân cây to vốn là loài gỗ quý ở trong rừng, ước chừng nặng hơn cả một xe bò chở thóc, chàng ta liền chặt xuống vác vào thành đem bán để đổi gạo, ai ai trông thấy cũng tấm tắc khen là một người có sức khỏe. Nin rất thích nhìn và ngắm nghía những loại vũ khí mà chàng thấy, vào thành Đồ Bàn, hễ thấy thanh gươm nào hình thù kì lạ là chàng chăm chú nhìn thật lâu, sau đó chạy liền ngay về nhà chặt cây chế tạo lại thanh gươm đó bằng gỗ y chang, chàng giấu những thứ vũ khí bằng gỗ đó trên cây vì sợ mẹ nhìn thấy, hẳn nhiên mẹ chàng không chịu dựng nhà trong thành mà dựng nhà tranh ngoài rừng là có nguyên do, mẹ JaNin đã từng chứng kiến và chịu đựng quá nhiều sự mất mát, mất cha mẹ, mất chồng, anh chị em và họ hàng, mẹ JaNin không muốn mất thêm JaNin, từ nhỏ JaNin được mẹ dạy và dặn rất nhiều lần, mẹ chàng ngăn cấm chàng gây thương tích cho người khác, không dùng vũ khí, chỉ được dùng nỏ và một số thứ để đi săn, JaNin hiểu và không muốn mẹ trông thấy những cái vũ khí tuy rằng bằng gỗ đó, hằng ngày JaNin tập luyện với những thứ vũ khí mà chàng chế tác, chàng có thể sử dụng thành thạo và điêu luyện mọi thứ vũ khí mà chàng tạo ra. Tính chàng như thế nhưng chàng rất thương người, Nin rất thật thà và chàng thương mẹ lắm, hằng ngày chàng được mẹ dạy cho cái chữ, chàng thấy cái chữ của Chăm mình ngoằn nghèo cong nghoeo cũng hay hay nên rất ham thích. Một ngày trời mưa lưa thưa mát mẻ, JaNin bẫy được một lúc cả hai con nai và một con lợn rừng, chàng nhìn vào mắt con nai, không hiểu sao cảm thấy chảnh lòng nên chàng thả cho hai con nai này chảy đi, còn lợn rừng thì chàng liền vác mang vào trong thành ở chỗ ngoài chợ bán cho người bán thịt. Bên trong thành Đồ Bàn, ở trong chợ kẻ bán người rao, người mua dạo chợ đông như hội, con nít nối đuôi nhau đùa nghịch, những nàng thiếu nữ Chăm xinh tươi tuổi đôi mươi cũng ra đây, họ đi chợ và dạo mua những thứ trang sức, những chiếc khăn và những thứ vải quý giá, các thương nhân và ngoại nhân mang mọi thứ quý hiếm ở khắp nơi mang về đây, thật là tấp nập và nhộn nhịp, bọn thanh niên nhìn thấy những thiếu nữ ấy lấy làm vui và thích mắt vô cùng. Trong thành có rất nhiều người đẹp và duyên, trong đó có một người con gái tuổi vừa mười tám, nàng tên là PaRa, PaRa vừa đẹp người lại vừa đẹp nét, đôi mắt thơ ngây to tròn trong vắt của nàng nhìn vào như người mới tỉnh ngủ, quyến rũ ánh nhìn của người khác một cách vô tình và lạ thường; nàng có khuôn mặt tròn, mi nàng cong, môi nàng phai nồng, dáng người gọn gẽ, tiếng nói thỏ thẻ nhưng rất chính chắn và chuẩn mực, nàng có nụ cười duyên làm đắm đuối biết bao nhiêu con trai mang trong mình cái dại dột của tình ái, nàng nhăn mặt củng đủ làm cho người con trai đứng bên cạnh phải thẫn thờ. PaRa mồ côi cả cha lẫn mẹ, nàng sống nhờ trong nhà một người chú từ nhỏ, vì cảm lòng chú nuôi nấng nên nàng làm việc rất chăm chỉ, nàng nấu ăn rất ngon, múa lại càng rất hay, bọn con trai làng thường đua nhau mang quà đến tận nhà tặng nàng nhưng nàng chỉ mỉm cười mà không lấy. Hôm nay nàng PaRa cũng đi chợ, nàng đi với một người em trai tám tuổi lúc nào cũng tươi cười và đòi theo chị gái, đó là em họ của PaRa, họ ra chỗ người bán thịt, chàng JaNin cũng đang ở đấy. Vừa trông thấy PaRa, JaNin đã đứng chôn chân tại chỗ, chàng chưa bao giờ được đứng gần nhìn một người con gái như thế này, Nin mê mẩn tâm thần chăm chú ngắm đôi mắt, đôi môi và đôi khuyên tai nhỏ đáng yêu của nàng, Nin dường như đã bị PaRa hớp hồn ngay từ lần gặp đầu tiên, đúng là cảm giác của đứa con trai lần đầu trông thấy một người con gái xinh đẹp. Còn nàng PaRa thấy có người con trai bên cạnh nhìn mình như vậy, nàng mỉm cười và nhìn JaNin, hai đôi mắt nhìn nhau, nàng thấy khuôn mặt của JaNin thật là ngây ngô và nó làm nàng như muốn bật cười, nàng e dè lấy chiếc khăn choàng đầu che mặt lại, ngoài trời mưa vẫn rơi lưa thưa làm trời thật thoáng mát. Cạnh chỗ người bán thịt đó có những người thợ săn kia, họ mang về một con hổ to lớn, cực kì hung dữ, con hổ bị nhốt trong lồng, mấy đứa con nít súm lại quanh cái lồng reo hò ầm ĩ, chẳng may cửa lồng bị con hổ xé toạc sợi dây, con hổ phóng mình lao ra làm cửa lồng bị gãy gập làm hai, con hổ to lớn thoát ra khỏi lồng, những ai ở quanh đó đều lo mà chạy, trẻ con đàn bà thì ôm nhau đứng núp, những người thợ săn thì thủ thế giăng dây cầm giáo nhưng không ai giám tiến lại gần cả, con hổ to lớn bị bỏ đói nhiều ngày, thấy con lợn rừng chỗ hàng thịt, lại thấy nàng PaRa ở trước mặt liền nhe những chiếc răng nanh gầm lên, nhún đôi chân sau nhảy vồ tới định ngoặm cái đầu nhỏ của nàng PaRa, Nin đứng gần đó, chàng nhanh chân lao tới đẩy PaRa ngã xuống thoát khỏi cái chết trong gang tất, PaRa sợ quá ngất đi mất, con hổ nhanh chóng quay lại về phía JaNin, nhảy tới dùng móng vuốt vồ JaNin, JaNin không kịp trở tay, chàng bị con hổ cào chảy máu nhiều ở ngực, chàng ngã quỵ xuống, con hổ xoay mình và định nhảy tới lần nữa, con hổ gầm lên, Nin nhanh chóng đứng dậy, máu chảy ướt đẫm áo và người của chàng, Nin xé toạc áo mình để lộ thân hình cơ bắp, chàng rút con dao trong người ra,dựng cả tóc gáy, trợn mắt cau mày, điên tiết hét lên một tiếng lớn vang như sấm sét đang muốn xẻ đôi cây to, Nin bước tới,con hổ nghe tiếng thét sợ hãi bước lui mấy bước rồi nằm phục xuống, Nin bước tới thì con hổ càng nằm xuống thấp hơn và tỏ ra vẻ co ro, ai trông thấy cũng kinh sợ , những người thợ săn liền mang cái lồng úp lên con hổ rồi cột lại cửa lồng thật chặt, ai cũng khen Nin tài giỏi và ca ngợi không ngớt lời, chuyện chàng JaNin thuần phục con hổ được mọi người trông thấy truyền tai nhau. Còn nàng PaRa được người nhà đưa về, tới đêm mới tỉnh, nghe kể lại mọi chuyện mới nhớ ra là mình đã được JaNin cứu, từ đó nàng đem lòng ngưỡng mộ và thầm mong nhớ JaNin, chỉ cầu được gặp lại chàng để cảm ơn và thể hiện lòng thật của mình. Chàng JaNin từ nhỏ đã theo mẹ đi làm thuê mướn cho người trong thành, mẹ chàng có làm công cho một nhà giàu nọ, sau này chàng lớn lên cũng làm thuê trong nhà này, trong nhà đó chàng có quen thân với một người thanh niên hơn chàng một tuổi, người thanh niên ấy tên Bố Ca, là một cậu chủ trong gia đình, JaNin xem Bố Ca như là bạn thân và người anh của mình. Bố Ca dáng người vừa, mặt sáng mày ngược, đôi mắt nhìn không thẳng, tính tình đa nghi và tính toán, Bố Ca biết JaNin là một người sức khỏe có thể làm việc gấp hai những kẻ khác nên mới lân la làm thân, thường xuyên cho người mang thức ăn ngon về cho mẹ JaNin để JaNin cảm cái ơn ấy mà làm việc hết sức vì nhà mình hơn, mẹ JaNin tưởng Bố Ca là người tốt nên nói con trai mình phải cố gắng làm việc vì chủ, cũng kể từ ấy mà JaNin chỉ đi săn và làm việc cho nhà Bố Ca mà thôi. Chiều ngày hôm sau Nin vào thành xin Bố Ca cho chàng nghỉ mấy ngày vì chàng bị thương do hổ vồ, nàng PaRa tìm đến gặp, JaNin và PaRa gặp nhau, PaRa và JaNin đưa nhau ra bờ sông tâm sự, bỗng nhiên trời mưa, cả hai nắm tay chạy vào núp trong Tháp Cánh Tiên, đôi trai gái lần đầu tiên được ngồi gần nhau nên cả hai ai cũng ngượng ngùng, trong câu chuyện nàng PaRa tỏ ý cảm kích cái ơn cứu mạng, lời nói hết sức e thẹn và ý nhị làm cho chàng JaNin siêu lòng lúc nào không hay, chàng ấp úng mãi mà chẳng nói thành lời được, hai cặp mắt nhìn nhau đắm đuối, tưởng chừng như là đã thuộc về nhau tự bao giờ, một nụ hôn đầu được trao đi nhẹ nhàng, mưa vẫn rơi trên khung nền lãng mạn của tình yêu. Và kể từ đó trở đi, JaNin và PaRa đem lòng yêu mến nhau, thường xuyên gặp gỡ trao đổi tâm tình. Bố Ca vốn cũng biết đến PaRa, PaRa là một người con gái xinh đẹp mà Bố Ca đã mang lòng mê mẩn nhưng nhiều lần mang quà đến tìm gặp mà không bao giờ gặp được, nay bỗng nhiên nghe PaRa và JaNin là một đôi thì hết sức ghanh tị, lại được JaNin đem chuyện chàng yêu thương PaRa kể thật cho nghe thì Bố Ca lại càng căm tức, hắn ta nghĩ JaNin là một đứa nghèo hèn trong tay chẳng có cái gì mà PaRa lại đi thân với người như vậy, còn nhà mình thì bạc vàng tuy ít nhưng cũng không hề thiếu thốn, gia đình lại giàu có thì kém thua thằng JaNin chỗ nào, từ đó Bố Ca tỏ ý ghen ghét JaNin, những công việc nặng nhọc đều khéo léo sắp xếp để cho mình JaNin làm, buổi sáng ông mặt trời còn chưa ló mặt thì JaNin đã phải lùa đàn trâu ra chăn,chàng hết đi lấy những bó củi to đùng thì lại ra rẫy khai hoang, hết ghánh nước cả ngày thì lại thức trắng đêm đi gặt lúa, có ngày Bố Ca giả cách bị đau kêu JaNin trèo lên tận núi cao hái lá cây thuốc về cho hắn ăn, hắn chỉ mong cho JaNin lên núi bị rắn rít cắn chết, ma quỷ bắt đi cho hắn được một mình yêu lấy PaRa, một bên Bố Ca bốc lột sức JaNin, một bên lại sai người mang thêm nhìu thứ ngon quý đem tặng cho mẹ JaNin,lại chu cấp thêm tiền bạc, JaNin thì vẫn cố gắng làm việc cho tốt, chàng không biết là người bạn thân duy nhất và cũng là người anh mà chàng coi đang cố gắng tìm cách hại mình. Cuộc sống nơi xứ sở Chăm cứ như vậy trôi qua từng ngày, những tai ương cứ âm thầm tìm đến. Năm 1391 niên lịch Saka (tức năm 1469 sau CN) Một ngày mới lại đến trên kinh đô Đồ Bàn. Nhà vua tối thượng ban lệnh cho tất cả thần dân và quân đội chuẩn bị cho cuộc vượt biển tiến đánh một khu vực trọng yếu ở phương bắc, sau những cuộc họp hoàng gia và quan thần, vùng đất được chỉ định đánh phá lần này là Vuyar – thành Hóa châu (Châu Lý), một vùng đất xưa kia của ta đã đánh mất vào tay nước Đại Việt, cần phải đánh phá Hóa châu vì đây là nơi tích trữ gạo dồi dào nhằm cung cấp lương thực cho quân binh của Đại Việt trên đường di chuyển cả đường bộ và đường thủy để đánh chiếm kinh đô của ta.Cả thành dường như chấn động và tấp nập hẳn lên, ở ngoài khơi, những chiếc thuyền độc mộc được dẹp sang một ngả để hàng ngàn những chiến thuyền to lớn của ta vào luân chuyển lương thực và sửa chữa chuẩn bị cho ngày xuất quân, binh lính được chọn lựa và tuyển thêm, bọn thanh niên háo hức đua nhau xin nhập quân, hầu như ai cũng muốn đi đánh trận này, đây chắc chắn là một trận thắng vì nó là một sự bất ngờ được dành cho địch,tinh thần của binh lính thoải mái lúc nào cũng có sự sẵn sàng, đây chỉ là một cuộc đi cướp phá và ai cũng biết là ai đi cũng sẽ có chiến lợi phẩm để mang về, Bố Ca cùng đám bạn cũng đi, Bố Ca nghĩ quân ta đông và nhiều như thế, đi cho biết một lần thế nào là đánh trận và nếu gặp may thì hắn sẽ mang về những chiến lợi phẩm có giá trị. Tất cả được chuẩn bị kĩ lưỡng cho cuộc xuất phát sau nửa tháng nữa.Được tin, JaNin đang cày ruộng, lại thêm mấy đứa bạn rủ nhập quân, JaNin lập tức chạy quay về nhà tìm mẹ, thấy mẹ đang ngồi nhai trầu trước cửa chàng ngồi xuống cầu xin mẹ cho chàng được gia nhập thủy quân, chàng từng theo mấy đứa bạn ra biển đánh cá, chàng thích cái cảm giác được lướt đi trên đầu những con sóng, ở trên những con thuyền giữa đại dương bao la khiến chàng thấy mình thật nhỏ bé giữa thiên nhiên, giữa trời này, chàng thầm cảm ơn các Yang đã ban cho chàng, cho mẹ chàng, PaRa và tất cả mọi người có được một cuộc sống thú vị và vui vẻ. Giữa biển xanh này, chàng thấy thoải mái và tự do. Chàng thích thú khi kể cho mẹ nghe về cảm xúc của chàng trong những lần ra khơi, chàng nài nỉ mẹ cho chàng được đi đánh trận này, chàng sẽ lập công và nhận được những phù hiệu cao quý, những chiến lợi phẩm mang về chàng sẽ đem đổi thành tiền mua vải tặng mẹ, chàng sẽ mua gạo để dành trong nhà, chàng vui mừng khi nghĩ đến những điều đó, nhưng câu trả lời của mẹ làm chàng thất vọng vô cùng.Mẹ chàng ôn tồn đáp :- “ Không đi và đừng đi. Nin! ”Mẹ chàng lấy khăn choàng đầu lâu mồ hôi trên mặt chàng rồi nói tiếp :- “ Hãy hiểu cho nỗi lòng và sự cố gắng của mẹ bấy lâu nay. Mẹ đã thấy con đang sẵn sàng, người khác nhìn vào nghĩ mẹ thật ích kỉ khi giữ con ở nhà. Mẹ không cần những thứ lợi phẩm mà con nói đến từ việc theo theo đoàn quân đi đánh phá. Ngày xưa mẹ ẵm con bỏ làng chạy về nơi này là mong tìm được cuộc sống bình thường với những niềm vui. Nói cho mẹ nghe, con đã giết hay cắt đầu một ai chưa ? “JaNin buông giọng đáp :- “Dạ ! chưa một lần nào, đi đánh trận con sẽ thử” Mẹ chàng khuyên: - “ Con giết người khác hay người khác giết con, mẹ không muốn con đi chết ở đất người. Nhà mình nghèo, mẹ đi làm thuê lấy gạo nấu cháo nuôi con từ ngày con biết bò đến lúc con biết chạy, biết nói, lời mẹ nói con hãy nghe, trận này con không được đi.”JaNin nghe mẹ nói, thất vọng tràn trề, chàng như một đứa trẻ con, chàng buồn, chàng chạy ra ngoài nhảy xuống con suối ở trước nhà tắm để quên đi nỗi buồn này. Đúng lúc đó thì PaRa mang một mớ rau đến, nghe mẹ JaNin kể lại, trông ra ngoài thấy JaNin đang kì cọ tắm mình ở con suối trước nhà thì hai người phụ nữ nhìn nhau cười rất tươi.Đến thời gian hạm đội xuất phát, người ta kéo nhau ra tiễn người thân, PaRa cũng ra tiễn người thân, JaNin thì ra tiễn Bố Ca vì chàng coi Bố Ca như là người anh trai, Bố Ca đắc ý và coi thường JaNin khi thấy JaNin không có mặt trong đội hình xuất phát. Cãnh tiễn người ra trận diễn ra trong nước mắt và cả những niềm vui. Hàng ngàn chiến thuyền dần dần biến mất ở nơi xa tít.Hằng ngày JaNin vẫn đến nhà Bố Ca để nhận công việc làm thuê như bình thường, cứ đến buổi trưa thì PaRa mang cơm đến hai người cùng ăn, tình cảm càng trở nên mặn nồng. Ngày qua ngày, hết JaNin qua nhà PaRa chơi thì JaNin lại dẫn PaRa về nhà với mẹ mình, hai gia đình và chòm xóm láng giềng ai cũng khen là đôi bạn trẻ rất đẹp đôi. Chưa được một tháng thì tin tức truyền về, trận đánh phá thắng lợi, bên ta mất mát ít, thu được khá nhiều chiến lợi phẩm. Gần hai tháng thì hạm đội với những chiếc thuyền to lớn trở về biển của ta, mọi người cùng nhau ra đón trong niềm vui gặp mặt lại người thân. Người nhà Bố Ca ra đón nhưng nhận được tin giữ, Bố Ca và một toán binh của ta bị địch phục kích và bắt sống mang đi vì ham mải miết đuổi theo một gia đình phú hộ trên đường vận chuyển tài sản tháo chạy, thuyền của ta neo ngoài biển nên không thể mạo hiểm tiến sâu vào vùng nội địa để giải cứu toán quân này. Gia đình Bố Ca đau đớn khóc lóc rất thảm thiết, JaNin đang ở ngoài đồng, khi về mới được tin, JaNin tỏ ra rất buồn và oán giận quân địch, gia đình Bố Ca có ơn với chàng, chàng rất muốn đi tìm anh Bố Ca. Ngày tháng trôi qua, tình cảm của PaRa và JaNin dành cho nhau ngày càng sâu nặng. PaRa một đêm mang chuyện nàng yêu và muốn lấy chàng JaNin làm chồng cho người chú nghe, người chú này vốn cũng mến cái tài sức khỏe của chàng JaNin nên hứa sẽ đồng ý kết duyên chàng JaNin cho cháu mình. PaRa đem chuyện ấy nói JaNin nghe, JaNin bên vui bên buồn, chàng vui vì mình thân nghèo mà sắp lấy được vợ, chàng buồn vì người anh của mình là Bố Ca bị bắt ở xứ người ta, sống chết bây giờ chưa rõ, và quan trọng nhất là chàng thương người mẹ già, PaRa phải nói lời an ủi thì JaNin mới đỡ buồn được phần nào. Chàng về nhà mang chuyện PaRa và Bố Ca tỏ rõ tâm tư của mình cho mẹ nghe, chàng nói: - “ Thưa mẹ ! nay mai người ta sẽ đến nhà mình hỏi con về làm chồng, nhưng lòng con chỉ muốn đi tìm anh Bố Ca về rồi sẽ tính chuyện vợ chồng sau, không biết ý mẹ như thế nào..? “ Lần này mẹ JaNin đồng ý cho chàng đi tìm Bố Ca, đây cũng có thể là một trận đánh của riêng chàng mà chẳng cần một hạm đội thủy quân nào cảSau khi suy nghĩ, người mẹ từ tốn nói :- “ Người ta không chê nhà mình nghèo mà muốn lấy con về là người ta thật lòng với con, nhưng nhà Bố Ca đã giúp đỡ hai mẹ con ta rất nhiều, tình là một chuyện nhưng nghĩa con không bao giờ được quên,con hãy nhớ lấy.” JaNin xúc động thưa rằng:- “Lòng con cũng nghĩ như vậy, nhưng hành trình con đi sẽ không biết bao giờ trở về, để mẹ một thân già yếu ở nhà lòng con không an tâm.” Nói xong chàng ta nằm xuống tựa đầu vào đôi chân mẹ già, người mẹ xoa đầu JaNin, rớt nước mắt nhìn ra ngoài hát lên một khúc dân ca. JaNin nghe câu hát ru rồi thiu thiu ngủ đi lúc nào không hay. Đêm đó, JaNin đi đến nhà PaRa nói thật nỗi lòng của mình, bên nhà PaRa cũng không vội nên đồng ý ý muốn của chàng, sau đó JaNin và PaRa cùng nhau ra chỗ Tháp Cánh Tiên ở giữa thành, trời lại bỗng mưa, ông trời thật biết khéo đùa, mỗi lần hai người ở bên nhau thì mưa lại rơi xuống, nhưng chỉ một lúc sau thì mưa đã tạnh, hai người trao cho nhau những tình cảm yêu thương chân thành, những giãi bày, tâm sự của đôi trai gái thì thầm dưới ánh sáng lung linh của ánh sao xuyên qua tàn cây in lên bóng Tháp một thứ màu sắc mê hoặc,những lời hứa được trao đi, những lời thề được trao lại, một tình yêu giản dị và thơ mộng của đôi trai gái Chăm, dưới bóng Tháp hùng vĩ, PaRa tặng cho JaNin một bài múa, nàng đứng lên múa,nàng bắt đầu bước đi, nhịp điệu có khi nhanh có khi chậm, cung cách đi đứng hết sức ý tứ, những bàn tay của nàng lúc xòe ra lúc uốn cong như loài bông hoa nở rộ, nụ cười thơ ngây càng tô thêm màu sắc cho điệu múa đẹp đẽ, JaNin dường như bị hoa mắt trước nàng tiên trước mặt, chàng cũng yêu thích múa hát, chàng đứng dậy bước đến gần PaRa cất tiếng hát, những bàn tay của chàng cũng xòe ra khép vào đung đưa theo cánh tay PaRa, đôi chân chàng nhanh hơn, chàng bước tới nhanh rồi chậm rãi lui xuống, vừa múa vừa hát vòng quanh nàng, PaRa và JaNin như hai con chim non bay quấn quýt đùa dỡn nhau, điệu múa như là tìm thấy được niềm vui trong cuộc sống vậy. Sáng sớm hôm sau, PaRa và mẹ JaNin cùng ra tiễn chàng, nàng PaRa tháo ba chiếc vòng vàng ở tay ra cho JaNin mang theo phòng lúc cấp bách, để có tiền đi đường cho con, mẹ JaNin đem hết những thứ trong nhà có giá trị đổi thành ít tiền vàng cho JaNin, JaNin một mình một ngựa thẳng theo con đường đến hướng bắc mà chạy, phía sau chàng là những giọt nước mắt chia ly của người mẹ và người yêu, , , , hai người phụ nữ với những đôi mắt xa xăm nhìn theo bóng JaNin khuất dần sau những bụi cây rồi mất dạng về đường chân trời, mẹ JaNin vẫn đứng đó nhìn dù JaNin đã đi rất xa. Làm sao có thể hiểu được hết ý nghĩa những giọt nước mắt mà một người mẹ dành cho đứa con mình. “ Mẹ mang con trong bụng,trời sinh raĐôi chân con chưa vững, cất tiếng khóc ê aMẹ dạy con ba tiếng : ChămPa, Mẹ và ChaDòng máu chảy trong con là đất và quê nhà Bầu sữa mẹ căng tròn, con nằm ngoan chờ đợiMẹ ru con giấc ngủ, cha nâng bước con điCha mẹ đi trồng lúa,thành hạt cơm thơm phứcNhững lời con đã cãi, cha mẹ chẳng trách chi Trời làm cảnh mưa gió, Mẹ nuôi con khó nhọcCha ghánh đời nghèo khó,ghánh cả con trên lưngNhững chiếc áo mỏng vai, Cha Mẹ mặc từ đóSông núi lớn trước mắt rồi con sẽ thấy rõ. Nè ne neChim non cất cánh từ trong ổ Cá con vẫy vùng ra biển khơiChim khôn cá lớn ngày tháng dàiCon đã nên người con trả cho ai “ JaNin ngày đi đêm nghỉ, chàng đi hơn tháng trời mới đến được nước Việt, tin tức về Bố Ca và toán binh lính của ta hầu như không ai biết cả, nhưng JaNin vẫn không nản lòng, tiền bạc trong người hết, chàng phải bán luôn con ngựa của mình, nhưng chiếc vòng vàng PaRa trao cho chàng vẫn giữ bên mình, ngày tháng tìm kiếm tha phương, hai tháng trời trôi qua nhanh chóng trong niềm vô vọng, một ngày kia chàng đi đến một vùng núi mỏ vàng, ở đây con người thay nhau làm việc cả ngày lẫn đêm, mặt mũi ai nấy lem luốc và bơ phờ vì công việc khổ cực, tiền bạc trong tay đã hết sạch, JaNin xin vào làm ở mỏ vàng này và người ta nhận ngay bởi nhìn vào là biết JaNin là người có sức khỏe, ở trong mỏ, nhìn từ xa JaNin trông thấy một hình dáng thân quen, tuy không nhìn rõ mặt nhưng chàng nhận ra ngay đó là anh Bố Ca, JaNin tìm đến gặp thì quả đúng là Bố Ca thì vui mừng khôn xiết, Bố Ca nhận ra JaNin, cảm động quá ứa nước mắt mà khóc rống lên như đứa trẻ con, nói cũng chẳng thành lời, JaNin liền xin người ta cho chàng làm thay anh mình để Bố Ca nghỉ ngơi, tới đêm JaNin mới xong việc, hai anh em ngồi nói chuyện với nhau, Bố Ca kể về những chuyện mà mình đã trải qua,từ khi qua đây , Bố Ca bị áp bức, bị đánh,bị chửi mắng, ăn uống lại hết sức khổ sở, nay gặp lại JaNin thì dường như được cảm thấy cơ hội thoát thân chắc hơn và hắn đỡ cô đơn rất nhiều,JaNin kể về những chuyện ở quê, kể về mẹ, về PaRa, bây giờ tìm đã tìm được Bố Ca, chàng hứa sẽ tìm mọi cách để đưa anh mình về đoàn tụ với gia đình.Sáng hôm sau, JaNin lại đi làm thay Bố Ca, trong lúc làm, chàng quan sát địa hình, hỏi thăm địa vật, xác định đường đi nước chạy ngay từ trong đầu, chàng nhận thấy cạnh quả núi này có một con sông chảy quanh khu mỏ vàng, sông rộng và sâu, nước chảy rất xiết, người ta lại không xây cầu, nhiều người bị chết đuối khi qua sông này vì bỏ chạy,tất cả nơi ở của người và vùng mỏ đều được lắp hào, lại để ý thấy bọn canh gác rất đông, chúng thay phiên nhau ba lần một ngày, việc thoát khỏi nơi này tưởng chừng như không dễ một chút nào.JaNin ngày đêm suy nghĩ, tìm cách cứu Bố Ca, còn Bố Ca thì giả cách bị bệnh, nằm liệt tại cái chòi của mình không đi làm, tên quản đốc thấy JaNin làm thay cho Bố Ca là tên có sức khỏe thì cũng thầm đồng ý, không hỏi đến Bố Ca nữa. JaNin đem suy nghĩ của mình nói cho Bố Ca nghe, chàng nói cần thời gian để tìm cách, chỉ cần có sơ hở thì hai anh em sẽ thoát được, bằng nếu hết cách thì sẽ lấy ba chiếc vòng vàng của PaRa cho để đổi lấy sự tự do của anh Bố Ca, còn thân mình sẽ tính sau, nói xong chàng mang ba cái vòng vàng ra cho Bố Ca xem, Bố Ca trông thấy vòng vàng, trong ánh mắt rạng rỡ vui mừng ánh lên những toan tính, lấy cớ JaNin đi làm mang theo vòng vàng dễ bị đánh rơi nên Bố Ca đòi giữ những chiếc vòng ấy cho an tâm, tất nhiên là JaNin không từ chối. Một tuần trôi qua, vẫn không thấy JaNin nhắc đến chuyện bỏ trốn, Bố Ca cảm thấy hết sức sốt ruột, cũng không thể giả bệnh hoài. Sáng hôm đó, chờ khi JaNin đi làm rồi, Bố Ca lén mang ba cái vòng vàng tìm đến tên quản đốc, ở đây một thời gian dài nên Bố Ca cũng hiểu và biết nói tiếng người nước Việt, Bố Ca dùng lời ngon ngọt và lí lẽ tỏ rõ cho tên quản đốc nghe, tên quản đốc này tính lại tham lam, thấy vàng thì nhận ngay, hắn nghĩ cho Bố Ca về, để JaNin lại thì cũng tốt, chỉ lợi chứ không hại, hắn liền cho người mở cổng thả cho Bố Ca đi, lại thấy Bố Ca yếu ớt nên cho thêm con ngựa già, Bố Ca được ra ngoài, cắm đầu phi ngựa mà chạy, không biết trời đất là gì, cũng không nhớ tới JaNin đang ở phía sau nữa, hắn chỉ biết là cuộc sống mới và nàng PaRa đang ở phía trước mà thôi. Đêm JaNin làm về, hỏi thăm thì biết Bố Ca dùng vàng đổi thân, đã được thả đi từ sáng, trong lòng JaNin buồn bã, cô đơn vô cùng, chàng nhớ mẹ và nhớ PaRa rất
0 Rating 146 views 1 like 0 Comments
Read more
By: On July 24, 2015
Written by Po Dharma & Abd. Karim Akayat Dewa Mano (s? thi Dewa Mano) l
0 Rating 419 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On July 23, 2015
Written by Po Dharma & Abd. Karim Akayat Inra Patra (sử thi Inra Patra) là tác phẩm văn học viết bằng Akhar Thrah Thrah mang ký hiệu số CHCPI 5. Tác phẩm này do Linh Mục G. Moussay (Trung Tâm Văn Hóa Chăm) sao lại vào năm 1970 dựa vào bản gốc của một cuốn sách được lưu tại Palei Tanran (Hữu Đức, Ninh Thuận). Tác phẩm này đăng tải  trên trang Champaka.info với nội dung như sau: Akayat Inra Patra (Po Dharma & Abd. Karim)   Akayat Inra Patra (sử thi Inra Patra) mà chúng tôi trình bày ở đây là tác phẩm văn học viết bằng Akhar Thrah mang ký hiệu số CHCPI 5 hiện lưu trử trong thư viện của Trung Tâm Lịch Sử và Nền Văn Minh Bán Đảo Đông Dương (đại học Sorbonne, Paris). Tác phẩm này do Trung Tâm Văn Hóa Chăm của Linh Mục G. Moussay sao lại vào năm 1970 dựa vào bản gốc của một cuốn sách nằm trong Palei Tanran (Hữu Đức, Ninh Thuận), gồm 59 trang và tổng cộng 581 câu thơ. Akayat Inra Patra có nhiều dị bản mang ký hiệu CAM 28 (1), CAM 99, CAM 157, MEP 1189/5, CM 8, CM 12 (3), CM 21 (4), CHCPI 5 hiện lưu trử trong thư viện của cộng hòa Pháp. Lần đầu tiên, Akayat Inra Patra được dùng làm đề tài nghiên cứu tốt nghiệp đại học Sorbonne (Paris) vào năm 1976 bởi Nara Vja (Ngụy Văn Nhuận). Tác phẩm này cũng là chủ đề nghiên cứu khoa học do Po Dharma, G. Moussay và Abd. Karim thực hiện và ấn hành mang tựa đề : Akayet Inra Patra = Hikayat Inra Patra = Epopée Inra Patra (Perpustakaan Negara Malaysia & EFEO. Song ngữ : Pháp-Mã, Kuala Lumpur, 1997) Phiên âm Phương pháp phiên âm của tác phẩm này dựa vào hệ thống phiên âm La Tinh quốc tế của Viện Viễn Đông Pháp. Độc giả nên lưu ý cách phát âm của một số phụ âm và nguyên như sau : Nd = nduec (chạy), ndom (nói) Mb = mbeng (ăn), mboh (thấy) Nj = njep (phải), njuh (củi) Â = tương đương với ư của tiếng Việt, như hâ (nó), jiâ (thuế) O = tương đương với ô của tiếng Việt, như oh (không có), hadom (bao nhiêu) Aow = tương đương với o của tiếng Việt, như pataow (chỉ dẩn), tanaow (đực) Chú thích Chữ nằm trong dấu ngoặc […] là từ mà người Chăm thường dùng hôm nay. Số nằm trong […] là số trang của tác phẩm Akhar Thranh   Trang đầu của Akayat Inra Patra     Bản phiên âm   1. Ni dahlau kal si panâh di ariya, palei Sumen Tapara, praong libaih saih di saih,,   2. patao Kurama Basapa sunit ginreh, pangap dher Débisreh, pahlap ka buol di grep nager,,   3. sa phun kuyau balinga di krâh tanran, siam phun siam dhan, bingu mebaoh oh meda,,   4. Bimeng Kubami si bican drâtsa, hec abih khaol ita, siber me [meng] siam tel hadei,,   5. ka po ita ni o hu anâk likei, pakreng nager saong palei, buol su bhap thuk hatai,,   6. patao bi-ndang panraong jabuol sinbiai, ew huer Rajreng merai, tangi ka o hu anâk,,   7. huer pa-nder patao nao di krâh tathik, Dopabrei sunit ginreh, sunuw binik abih merai,,   8. buh di tan mâh bingu inâgiray, Norapet [Norapat] sanâng di hatai, kieng wek tama raja-iei,,   9. likhah jaga bibak pak pluh harei, aien [auen] ka Dosreh brei, irés bijak chaina,,   10. dom nan nyu brei angan Inra Patra, irés sani bengsa, di grep nager jang nyu thau,,   11. sa nager nyu ba mâh pataih li-uw, sa nager tra thau, patia amrak mâh bingu,,   12. patao bi-ndang baruw mang nyu ba tama, limah Norapet [Norapat] aien [auen] ka hu, anâk likei séh di séh,,   13. patia ikan daok dalam kawan [cawan] mâh, thau yaom sunit ginreh, ikan bican puec klao,,   14. sa nager nyu patia khan su aw, ba tama limah patao, aien [auen] ka hu Inra Patra,,   15. dalam nager palei Sumen Tapara, mâh pariak di riim meta, abih mang ba rai alin,,   16. dom nan ikan mâh si bican, yau ra ndung amrek di khan, tathuak tangin haok abih,,   17. Inra Patra akhan su aw mang mâh, nyu jak di ngaok yorah, irés bijak chaina,,   18. amrak mâh tatah iten su permeta [permata], patao Kurama Basapa, tabiak bi-ndang kieng pame-in,,   19. dom nan amrak mâh ba per, nao laik dalam nager, patao Rija Sah Suan,,   20. dalam thuen muk Ranaik Bariyén, nyu duon raong aien [auen] tabuon, lac anâk Dobita,,   21. dom nan nyu tangi Inra Patra, cei anâk Dobita, hapak libik palei nager,,   22. biruw mang Inra Patra si bican, di kal amrak ba per, mang Sumen Tapara,,   23. kau ni anâk patao Kurama Basapa, daok saong muk raong ba, calah di inâ ngan ama,,   24. blaoh tuei muk nao pablei bingu, Palidaw Mentri, likuw kieng raong jiéng anâk,,   25. meyah kuthaot kau brei kaya kal [kar] ka muk, aek lipa juai ka-uk, kau anit Inra Patra,,   26. kuhlaom anâk patao Kurama Basapa, daok saong muk raong ba, nda [ka] muk her wer,,   27. dom nan meda patao nao amal, dep mboh di jalan, anâk inâ njruah mâh,,   28. blaoh patao pa-ndik kathur kieng panâh, njap anâk njruah mâh, libuh tanan blaoh metai,,   29. dom nan patao gilac wek merai, mang sanâng dalam hatai, damân anâk njruah mâh,,   30. patao bi-ndang panraong jabuol taom abih, ikhan ndom ka panâh, tak di bés (?) nao amal,,   31. kau ni jiéng Norapet pakreng nager, tel usak rapajen, anâk tacaow oh meda,,   32. Sri Palieng Sujang Narah kuhrii kuhria, chinbiai ka ita, kami ka-uk dalam hatai,,   33. duah jru bi hu anâk ba merai, Palidaw Mentri nyu biai, tangi grep gram pari,,   34. pamiit panuec di Bimeng Kubimi, haké meda jru tani, pak Bimong Settik,,   35. meyah kieng nao sanâng ku-nda oh thau libik, gen cek tapa tathik, thei urang nao sa tel,,   36. Balidaw Mentri merai bican, pathau abih panuec yau nan, patao ginaong kieng pametai,,   37. Balidaw Mentri tabiak merai, Inra Patra nan kieng biai, bican lac nyu kieng nao,,   38. patao paruah khan su aw siam metuaw, kuhlaom anâk lac kieng nao, amâ alin ba anguei,,   39. dom nan Inra Patra tabiak merai, dom sanâng dalam hatai, me-irat nyu kieng nao,,   40. muk Ranaik Bariyén paralao, anit tacaow lac kieng nao, ri-mbi ri-mbâp lo sa drei,,   41. Inra Patra si také truh palei, rimaong caguw pép merai, limân saong kruk litha,,   42. kakuh da-a hec Po Inra Patra, irés sani bengsa, anâk patao praong nager,,   43. miit sep Taguret ew bican, di kal amrak ba per, inâ ama po su-aien [su-auen],,   44. tama dalam sang megik ngap dher, kuhri kuhra palei nager, pep Bimeng Kubimi,,   45. mang kal dahlak tuei po mai sani, tel urak merathi, metai abih yau binés,,   46. names sukal pak sunit Débisreh, sa meta brei mboh, su-aien [su-auen] ka Po Inra Patra,,   47. khaol dahlak metai di rak khik gaha, di ngaok cek Andel Yasa, kakei di cei plaih bi truh,,   48. Inra Patra si také jreng mboh, rak trun merai metâh, cek nyu ew Inra Patra,,   49. hec aong anâk ranaih ra meda, kau brei sa dak lakkuraba, ka hâ tani baik ka sah,,   50. names sukal pak sunit Débisreh, nyu pametai rak blaoh, biak yaom sa kasen,   51. laik trun sumu jaleh cek su cer, rimaong caguw aien [auen] tabuon, limân saong kruk lisa,,   52. Inra Patra tama jreng dalam giha, mâh pariak lo meda, di riim pakal [pakar] buissaki,,   53. di ngaok cek nan sa phun kurama, siam dhan mebaoh bingu, glaong metâh aderha,,   54. nyu nao tel Kubimi ew da-a, hec Po Inra Patra, pagar [pagan] dahlak siam kieng mbeng,,   55. mbeng thar klak tamuh blaoh jiéng, anâk tacaow mbuak di krung, tadhuw sunit Débisreh,,   56. Inra Patra si také nao truh, pep mboh amrak mâh, tiaong biyén kameng mrai,,   57. caguor bingu ciim Pabah Rem Tangai, caraw hadang abih merai, thét biyak Inra Patra,,   58. nao mboh sa phun bingu yorika, nattiak puissada, tabeng mâh ew da-a,,   59. hec po sunit ginreh Inra Patra, paik dahlak blaoh ba, plah di kéng sa asat [asit],,   60. sa phun jrai deng di krâh parabet [parabat], di cek Nder Jai Yét, Inra Patra padei tanan,,   61. nyu jreng tapak harei tagok mboh buol, ribuw tamân ralo rajen, Ribep Arosah merai,,   62. ba buol ribuw tamân kot chai, chait mâh bingu palai, pahaluei gah kawah,,   63. ribep meri kaong kamre dua gah, pak pluh dok meriah, nyu jak di ngaok thing mâh,,   64. jreng tapak harei tagok nattathih, buol su bhap Sumen Giléh, ribuw tamân laksa,,   65. anâk patao In Sumen Loga, dalam nager nyu hatua, merai kieng duah nager paken,,   66. nyu ndik di ngaok raong athaih kaok per, Rabep Arosak bican, tangi hapak gah kieng nao,,   67. dom nan Sumen Jalé nyu jak methao, ka dua mang anâk patao, daok methuh gep tanan,,   68. nyu pabinés buol su bhap lo rajen, Inra Patra nao tel, tangi hagait sreh gi-ndi,,   69. hec aong sa baoh akaok merai ta ni, hâ juai pagen gi-ndi, kau mesuh merak nager,,   70. Inra Patra nyu ginaong blaoh bican, Sumen Jalé puec yau nan, likau di ai juai methuh,,   71. Sumen Jalé pa-ndik kathur blaoh panâh, Inra Patra sunit ginreh, oh mada huec ku-nda,,   72. ndaih apuei glaong metâh aderha, nyu mak padak lakkuraba, pametai Sumen Jalé,,   73. buol bhap ribuw tamân nduoc abih, si meyaom sunit ginreh, ires bijak chaina,,   74. Ribep Rosah kakuh blaoh da-a, nyu bican lac ba, bi tel ama mang bak hatai,,   75. patao Rija Sah Suan tiap merai, Inra Patra saktajai, da-a bi tel medhir riya,,   76. dalam tian patao ranam Inra Patra, irés bijak chaina, ama patok anâk ka sah,,   77. kuhri kuhra Sri Palieng Sujang Narah, angan Rabep Rosah, biai panâh raja-iei,,   78. patao paruah hadom urang saktrei, pak pluh mesiam likei, thét biyak Inra Patra,,   79. saong paruah hadom urang kaya kaya, pak pluh mang dara, thét biyak tuan patri,,   80. Binara auak rabep yuk meri, adaoh kamrie tuon [tuan] patri, di ngaok kacak maligai,,   81. likhah caga kaong Inra Patra merai, mbeng menyum saktajai, sa rituh harei melam,,   82. Inra Patra saong patri Jamjam, Ratna Dawi Ilam, biruw mejieng subarriya [subharriya],,   83. patao bi-ndang panraong jabuol kuhri kuhra, mâh pariak di riim meta, alin anâk saong metuw,,   84. liwik harei thruai melam dahlak kieng nao, kunâ drei di patao, blaoh bican panuec kudha,,   85. tuen [tuan] patri su-aien [su-auen] Po Inra Patra, Rabep Arosah kieng ba, paralao metâh jalan,,   86. Inra Patra si také di rah nager, jreng bi-ndang mboh dil, Tagirak ew bican,,   87. khaol dahlak duah po di luic nager, tel usak me rapajen, metai di muk Kaphuari,,   88. sa phun kuyau deng di krâh jallidi, Inra Patra si také, deh padei tak ula,,   89. Kaphuari tagok di dil Sumenna, merai kieng mbeng Inra Patra, biruw mang nyu kieng pametai,,   90. biruw mang muk Kaphuari mbai, sa baoh ra-ndaik saktajai, limah ka Po Inra Patra,,   91. ra-ndaik ula sanji kawanna, sunit ginreh lo meda, riim pakal [pakar] buissanâ,,   92. Inra Patra tama dalam jallidi, tel sang Kaphuari, payak di den [del] menâng ahar,,   93. blaoh mang muk Kaphuari akhan, meyah si nao di jalan, likau digen [digar] ba saong drei,,   94. tel harei suk patri trun menei, di aia tabeng siam ndei, su nam diyeng taom hader,,   95. Inra Patra yuo mak kaya kal [kar], yuo drei jiéng ikan, tama dalam aia tabeng,,   96. rup patri saih di saih mboh sa [si] gleng, hec su nam urang diyeng, menei bi drah ita kieng nao,,   97. gleng mboh lihik aban khan su aw, tiap su radiyeng nao, duah bi mboh ba ka kau,,   98. hec po daok ala haluei kuyau, po mak rei o thau, lihik kaya kal [kar] patri,,   99. biak jeh halun merai daok tani, halei kaya kal [kar] patri, halun ké mboh sa [si] gleng,,   100. Inra Patra akhan wek saong radiyeng, nyu lac patri séh melang ,biruw mang nyu lue angal,,   101. biruw mang ra biyeng nao akhan, tuen [tuan] patri paraot di tian, nyu sap hatem Inra Patra,,   102. patri pa-nder nao wek sa mbeng tra, pathau rei panuec kudha, biruw mang tuen [tuan] patri merai,,   103. hec po siam likei saktajai, duon kaya kal [kar] kanai, brei ka halun likau di cei,,   104. meda halun mboh biyén per merai, cagaong kaya kal [kar] kanai, palaik di ngaok thing kata,,   105. halun duon biak halun si taka, pak diger nan tra, ka halun likau di nai,,   106. hec po siam likei saktajai, peng panuec halun hai, brei ka halun baik susah,,   107. nao ruah kaya kal [kar] baik bi drah, Inra Patra pa-nder tapah, sari tanan mang nyu peng,,
0 Rating 425 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On July 23, 2015
Written by Po Dharma & Abd. Karim Ariya Cam-Bani là tác ph?m v?n v?n vi?t b?ng Akhar Thrah g?m 13 trang t?ng c?ng 126 câu th? phát xu?t t? thôn V?n Lâm, Ninh Thu?n, do Ts. Thành Ph?n s?u t?m mang ký hi?u s? TP 41. L?n ??u tiên, tác ph?m này ???c gi?i thi?u trong Truy?n C? Dân T?c Ch?m (1982, trang 134-138), trong Truy?n Th? Ch?m (Hà N?i, 1983, trang 99-123) và trong V?n H?c Ch?m c?a Inrasara (1994, trang 175-182 và 322-338). N?m 1999, Hoa Fatimah trình bày l?i tác ph?m này trong T?p San Campaka N° 1 (1999, trang 235-254).   Phiên âm   Ph??ng pháp phiên âm c?a tác ph?m này d?a vào h? th?ng phiên âm La Tinh qu?c t? c?a Vi?n Vi?n ?ông Pháp. ??c gi? nên l?u ý cách phát âm c?a m?t s? ph? âm và nguyên nh? sau : Nd = nduec (ch?y), ndom (nói) Mb = mbeng (?n), mboh (th?y) Nj = njep (ph?i), njuh (c?i) Â = t??ng ???ng v?i ? c?a ti?ng Vi?t, nh? hâ (nó), jiâ (thu?) O = t??ng ???ng v?i ô c?a ti?ng Vi?t, nh? oh (không có), hadom (bao nhiêu) Aow = t??ng ???ng v?i o c?a ti?ng Vi?t, nh? pataow (ch? d?n), tanaow (??c)   Chú thích   Ch? n?m trong d?u ngo?c […] là t? mà ng??i Ch?m th??ng dùng hôm nay. S? n?m trong […] là s? trang c?a tác ph?m Akhar Thranh.   N?i dung tóm l??c   Cô gái Cam và chàng trai Bani yêu nhau.  Do hai ng??i khác ??o nên d? lu?n xôn xao bàn tán. Hai ng??i b?t c?n s? d? ngh? hay phân bua c?a m?i ng??i. H? v?n tìm ??n v?i nhau. M?t hôm, nghe tin chàng trai Bani b? b?nh. Cô gái Cam lén sang nhà chàng ?? th?m ng??i yêu. Khi tr? v? cô b? cha m? b?t g?p. Th? là, cô b? cha m? tr?ng ph?t và b? ?ánh ??p. Cha m? ng?n c?m không cho cô qua l?i v?i ng??i con trai Bani. Nh?ng, cô quy?t không t? b? m?i tình c?a mình. T? ?ó, m?c ?? hành h? c?a gia ?ình dành cho cô càng lúc càng t?ng. Cô b? cha m? b? ?ói, b? c?o tr?c ??u, b? l?t h?t qu?n áo, và b? ?u?i ra kh?i nhà. Chàng trai Bani th??ng ng??i yêu, tìm cho nàng m?nh v?i che thân, r?i ??a nàng ra cánh ??ng v?ng t?m d?ng cái l?u, ?? hai ng??i cùng s?ng. Cha m? nghe tin l?i lôi cô gái v?, ti?p t?c ?ánh ??p. Chàng trai th?y v?y nh?y vào can ng?n. Nh?ng cô gái ?ã không ch?u ??ng n?i n?i nh?c hình và s? ?ánh ??p c?a gia ?ình. Cô trút b? h?i th? cu?i cùng. Cha m?, ng??i thân không màng ??n thân xác cô gái. Chàng trai Bani nh?t thân xác cô v? ?? làm l? táng. Vì yêu nàng, chàng trai ?ã làm l? táng m?t cách hoành tráng, mà ch? v?i dòng dõi quí t?c Cam m?i có ???c. M?i ng??i trong làng kéo nhau ??n xem. Khi ng?n l?a thiêu xác c?a cô gái ngùn ng?t cháy cao, chàng trai Bani ném t?p th? Ariya vi?t v? chuy?n trình c?a hai ng??i vào ?ám ?ông ?ang ??ng bên c?nh, r?i lao vào ng?n l?a ?? cùng ch?t v?i ng??i yêu.     Trang ??u c?a Ariya Cam-Bani   B?n phiêm âm   1. Ni ariya sa-ai ngap, panâh ba tabiak, piéh ka ra peng,,   2. mayut dreh yau ni aey haleng, kau ngap blaoh padeng, dom ayaman,,   3. anit saong ranam klaoh prân, haké hu daman, mbeng saong anguei,,   4. kau huec ka-nda pacei puec suei, klak kau matuei, luai pacalah,,   5. kau o klak nai ah, kau huec calah, yua amaik ama,,   6. haley tian kau praong lo ka hâ, amaik saong ama, kau ndua sa gah,,   7. cei ley kau biai yau ni baik ah, then drei ra-mbah, o bik payau,,   8. adei ley amaik ama ké thau, kau ciip ndua maluw, gep gan ra klao,,   9. gep gan ra klao tok hatai, kau juak sa takai, tama Bini,, [56]   10. sang suer inagiray kaong dal [dar], kajang bi tel, kau caik sa gah,,   11. sang suer mariah siam ndei, kau nduec tuei likei, klak amaik ama,,   12. pacei ley mayah matai kau ni, hâ ngap padhi, baik hai ka kau,,   13. mayah padhi bak klau bak pluh, drep ar hu buh, pakhat ka po,,   14. anit saong ranam praong lo, likau dher di po, taom sa anih,,   15. kahlaom tian dahlak klaoh hacih, taom sa anih, klaong thau ka po,,   16. anit saong ranam praong lo, likau dhar di po, drep o salih,,   17. panuec ndom takik jieng ralo, ina kau palue, ké ndom tapak,,   18. urang ndom ina peng biak, ina hamit pak, ew mai tanyi,, [57]   19. hamit di urang ndom yau ni, hâ khap di likei, anik [anâk] Bani,,   20. habién mang ina mboh rei, kau ndom saong likei, paoh auan dahlak,,   21. dahlak ndom ina peng biak, ina o tapak, blaoh ew tanyi,,   22. dep di ina nao rei, mboh yau adei, cei mai akhan,,   23. nan jeh kau ruw di tian, gruk krung kau bhian, wer nao abih,,   24. tama sang kau bah ciéw ndih, hadar ka lipih, haok aia mata,,   25. pacei kau ciip di sanah o tra, mayah thuak yawa, o abih rakak,,   26. patho ba-ar blaoh pataok, mbut wak panah, tuei ariya,,   27. krak tuk ina ndih jua, wey juk gila, blaoh nao riweng,, [58]   28. kau nao mboh pacei ndih jua, haok aia mata, duis di hagait,,   29. tama tal duk cei ndih, kau pok cei alih, blaoh crong ngaok pha,,   30. guk di akaok mai hia, haok aia mata, kau njep pacei,,   31. pacei ley kau aek di lisei saong aia, kau aek di hala, tel bak bilan,,   32. ikak tian dahlak daok cang, ruw lo di tian, cei kau hakik,,   33. sa khi pacei kau ruak, raiy rup dahlak, yaom nde ca-ndiéng,,   34. guen ba lisei mai huak, hader mai tathuak, thraiy aia mata,,   35. wang gruk dahlak daok hia, aey juk gila, o dreh yau urang,,   36. pok mbuon ka po baik rei, pa-mbuon ka pacei, sa jam kamang,, [59]   37. kau pok mbuon di grep yang, tamia di mblang, sa drei pabaiy,,   38. o kan klaong ngap ka thraiy, sa drei pabaiy, pakhat ka po,,   39. likau baik kajap karo, likau suan di po, drep o damân,,   40. hamit lac cei hu prân, mang tian linâng, khin nao riweng,,   41. pabah mbeng ina cuk taik, duis di hagait, blaoh mai sa drei,,   42. hader krung panuec hakei, hajieng mai sa drei, tuk krâh malam,,   43. likau drei di cei nao sang, rimaong daok pagrang, di krâh jalan,,   44. dahlak dréw rimaong chét nao, ha-ndaoh di aw, auak aia mata,,   45. palaik klaon dahlak daok hia, rimaong mai taphia, ké mboh sa gleng,, [60]   46. nan mang ina peh pa-mbeng, dahlak daok ga-ndeng, blaoh lua tama,,   47. nao min o ka tel duk, amaik ama batuk, ew mai tanyi,,   48. hâ nao tao bién ni, dahlak anaih sari, lac nao ma-ik,,   49. nan mang sanâng wey phik, kau auah [mbuah] lo lingik, oh duei pataom,,   50. kau auah [mbuah] lo ka saom, nyu daok paraong, kau di ina,,   51. tian kau trak lo ka hâ, huak o tamâ, ndih jang o wer,,   52. malam ndih sa tuk min wer, dom daok hader, tel juk gila,,   53. krak tuk ina ndih jua, kau lua ndik paga, mai blaoh tamâ,,   54. pabah mbeng ra khik dua gah, aey juk ra-mbah, ciip di matai,, [61]   55. guon tian sa-ai kieng mai, mayah lac matai, ndih sa lubang,,   56. halei luai kau ciip matai, halei ka kanai, tian kau o klak.,,   57. matai nai kau gem tanjak, mayah kau klak, cang po lingik,,   58. adei ley ciip di ina baik rei, ciip di hahuei [hawei], ina ataong,,   59. lama mbaik hahuei [hawei] jaoh raong, ina kau ataong, giriak di geng,,   60. giriak blaoh saom nduec mai, saom nan dai, blaoh nyu likau,,   61. ngap kieng ka kau maluw, sa khi dahlau, kau oh tapak,,   62. canak mbuk ina kau yuak, ina kau gariak, di geng katul,,   63. ha-ndaoh di hahuei [hawei] mai tadaik (?), ha-ndaoh di haraik, ikak di takuai,, [62]   64. ikak blaoh ina oh luai, ama amaik patey (?), kau di pa-ndiak,,   65. asah ndaw ama nao huak, ama lac khing tak, blaoh pamatai,,   66. nan mang urang nduec mai, ha-ndaoh di gai, blaoh klak sa gah,,   67. pacei ley kham kho dahlak lo ah, inâ pacalah, kau di pacei,,   68. nan jeh nyu ew grep drei, amâ paoh rei, leh khan abih,,   69. adei ley matai di anih krâh ndih, halei ka lipih, tian kau o klak,,   70. matai nai kau gem ka-njak, tian kau o klak, aey po lingik,,   71. tal thun hatai luak phik, ataong war pa-ndik, puec war maluw,,   72. ama paoh kanai wek rei, kau nao pok adei, blaoh pan [apan] ala,, [63]   73. ina paoh sa mbeng ân ka, sa-ai sait paga, blaoh nao talaih,,   74. talaih blaoh kau brei khan mbaik, adei nduec baik, kau ciip ala,,   75. ni jeh matai wey cei, matai di hahuei [hawei], ina kau ataong,,   76. lima mbaik hahuei [hawei] jaoh raong, ha-ndaoh gar jaong, paoh gan akaok,,   77. amaik mboh yau nan hia caok, rapek di akaok, mboh dom darah,,   78. mik wa ra mai daong ah, ra mai daong paklah, mey nduec tabiak,,   79. nduec nao tanyi mik wa, mboh bharriya, kau nao pak halei,,   80. urang tanyi ka-uk wek rei, mboh dom canu hahuei [hawei], ina nyu ataong,,   81. darah thraiy di rup lo ndei, klah nâh o brei, kau taom pacei,, [64]   82. ni jeh canu hahuei [hawei], anit rup pacei, raiy rup dahlak,,   83. urang mak lisei mai huak, mayah si akak, yaom sa cawan,,   84. wer glai dahlak wey wa, mboh bharriya, kau wek pak halei,,   85. mboh sa urang kamei, oh hu khan aw di drei, hia nao pak ngaok,,   86. nao mboh panai daok hia, ala phun hara, tattey ra-mbah,,   87. mang kal ban [aban] sa ka-ing nam blah, urak ni ra-mbah, khan taik di drei,,   88. urak ni kau daok matuei rei, kau ciip mbeng habei, saong mbrai matah,,   89. halei than dahlak ri-mbah, dom canu saong darah, ina kau ataong,,   90. jamaok kaik kau pah di raong, hader hai hadom, kham kho ra-mbah,, [65]   91. dahlak biai yau ni baik ah, than drei ri-mbah, dom thun mang ni,,   92. haké hu kau bhian yau ni, mayut saong ra-mbi, tattey sa drei,,   93. dahlak biai yau ni baik cei, duah kalei habei, mbeng tuei lipa,,   94. kal déh lisei mbong ikan darei, urak ni habei, mbeng saong sara,,   95. sanâng mai di grep adhua, ta-njaoh aia mata, di phun habei,,   96. hu haké bhian yau ni wey cei, kalei habei, mbeng tuei ra-mbah,,   97. kau auah [mbuah] kal [kar] ka wak tho ah, ka than kau ri-mbah, mai daok di glai,,   98. haké glai dahlak hu bhian, gep gan urang, thur caik di kau,,   99. dom daok sanâng blaoh ruw, hadep sa ribuw, thun tra o wer,, [66]   100. kau mbuah kar lo ka saom (?), ina kau ganaong, blaoh tuek harak,,   101. lang saom urang peng biak, ra wang mak dahlak, di sang pacei,,   102. ra wang mak dahlak ba mai, ina paoh matai, pa-ndam a-mraik,,   103. pa-ndik saong tahu gala crih, raw jang o cih [hacih], prew ew lingik,,   104. tagaok deng dahlak yam nao, tangin pan [apan] di aw, auak aia mata,,   105. ina ngap di dahlak biak ndang, gep gan urang, jang o anit,,   106. ina anit di ber [bél] mboh mbaok, ataong truh talaok, rup kau kayua,,   107. Cam saong Bani sa aia, sa-ai saong gila, praong anit ra-nam,,   108. Cam saong Bani ké kan, mu sa karan, aia sa balaok,, [67]   109. balaok lan kau blei di Laow, blei mai ricaow, Cam saong Bani,,   110. kau nao brei [blei] bi-ar phok ngaok, mak mbut pataok, wak ariya,,   111. matai nai kau cuh ka, kau wak ariya, piéh ka ra gleng,,   112. pajaih nai pajaih ciim heng, cakak ciim pa-ndam, rep céng hagar,,   113. pajaih nai pajaih bi tel, rep ceng hagar, sang suer pataih,,  
0 Rating 339 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On July 23, 2015
Written by Abd Karim Hi?n nay, trong làng ng??i Ch?m còn l?u gi? nhi?u b?n "Ariya Glang Anak". Tuy nhiên, các b?n v?n này ph?n nhi?u là s? sao chép qua l?i, không có s? sai bi?t l?n, nên không th? g?i là d? b?n. Thí d? nh?, trong s?u t?p c?a Thành Ph?n có ít nh?t 3 b?n Ariya Glang Anak, mang mã s? : TP. N° 223 trang 1-35; TP. N° 349 trang 1-73; TP N° 340 trang 3-137. ? Vi?n Vi?n ?ông Bác C? Pháp (EFEO) c?ng có ít nh?t c?ng 4 b?n Ariya Glang Anak d??i các mã s? : CAM 137 (4), CAM 149 (5), CAM MICRO 18 (1), CHCPI 1 và nh?ng b?n này ?ã ???c ??a vào th? m?c «Catologue des manuscrits cam des bibliothèques francaises» EFEO xu?t b?n, n?m 1977.   B?n Ariya Glang Anak ???c chúng tôi mang ra gi?i thi?u d??i ?ây là b?n c?a CHCPI 1. B?n này ???c các ông Ja Mata Harei, Ja Yaparang, Luw Kuang Thrang, Lam Ya Tin, Thuan Weng Nien sao l?i vào n?m 1968 khi h? ?ang làm vi?c hay có m?t ? Trung Tâm V?n Hóa Chàm Phan Rang.   Ariya Glang Anak, m?t tuy?t tác v?n h?c và là m?t v?n ki?n l?ch s? quan tr?ng c?a dân t?c Ch?m vi?t vào ngày th? Sáu, mùng m??i, tháng hai, n?m Mùi, t?c là n?m Ât V? 1835 theo nh? câu 82 c?a Ariya Glang Anak «Kami sarak di dalam ariya, nasak pabaiy bulan dua sa pluh bingun Suk tanyruah», t?c là n?m cu?i cùng c?a chi?n tranh ??ng kh?i d??i s? ch? ??o c?a Ja Thak Wa ch?ng l?i quân xâm l?ng c?a tri?u ?ình Hu?.   Tác ph?m v?n h?c b?ng th? này, tuy ch? kho?ng 120 câu, nh?ng ??y ?p các tri?t lu?n v? cu?c s?ng, nhi?u áng v?n mang tính kinh ?i?n c?ng nh? s? thâm sâu c?a các ngôn t? ???c s? d?ng. Ariya Glang Anak còn là m?t thi ph?m ?? ra cho ng??i Ch?m m?t "sinh l?" trong ?i?u ki?n h? không còn l?i thoát tr??c s? tiêu di?t tàn b?o c?a ?oàn quân Minh M?ng sau ngày Champa m?t n??c vào 1832 và sau cu?c cách m?ng ??ng kh?i c?a Ja Thak Wa vào n?m 1834-1835, th?t b?i.   M?t ?i?u ??c bi?t khác, là so v?i các tác ph?m có m?t trong kho tàng v?n h?c Ch?m, Ariya Glang Anak là tác ph?m gây ra nhi?u s? ng? nh?n. S? ng? nh?n này không gi?i h?n trong qu?n chúng bình dân Ch?m, mà ngay c? v?i các v? ???c cho là uyên thâm ngôn ng? Ch?m, nh? : L?u Quí Tân, «C? th? Ch?m», trong Ph? Thông. Thiên Sanh C?nh «Tiên ?oán» trong N?i San Panrang, s? 1, 1972, trang 13-14, và v.v… khi các v? này hi?u ??n thu?n t? "glang anak" trong tiêu ?? thi ph?m có ngh?a là "tiên ?oán", ??ng th?i xem nó là m?t t?p s?m kí, trong khi ?ó t? "glang anak" ? ?ây, có ngh?a là "nhìn v? phía tr??c" hay v?i ngh?a r?ng và hàm ý h?n là "tìm m?t sinh l?".   N?i dung s? l??c   Ariya Glang Anak ?úc k?t l?i các di?n bi?n th?i cu?c c?a m?t v? lão thành ng??i Ch?m, tr??c hoàn c?nh ??t n??c Champa b? ??i Vi?t (Vi?t Nam) thôn tính và b? tàn phá d??i th?i Minh M?ng vào nh?ng n?m 1832-1835. V? lão thành này ( tác gi? Ariya Glang Anak ) ?ã cho th?y nh?ng s? ho?ng lo?n, n?i khi?p s? c?ng nh? s? xáo tr?n c?a xã h?i ng??i Ch?m khi quân gi?c kéo vào gi?t chóc, ??t phá h?u h?t các làng m?c c?a dân t?c này. Quân xâm l??c ngay t?c kh?c xô ?? n?n t?ng xã h?i Champa. Làm cho giá tr? luân lý ??o ??c nhanh chóng xu?ng c?p, lòng ng??i tr? nên nham hi?m khó dò, lòng ganh ghét l?n át tính khoan dung, s? h?n thù d?y lên tràn ng?p, cái ác l?n chi?m cái thi?n, và c?ng ??ng ng??i Ch?m chìm h?n vào trong ?êm t?i. Quân xâm l??c c?ng ?ã bày ra m?t xã h?i m?i trên ??ng hoang tàn này. Nh?ng ng??i có n?ng l?c, có hi?u bi?t và ??c ?? ???c coi là r??ng c?t c?a ??t n??c thì b? quân gi?c v?t ra rìa, b? k?t án, tù ?ày hay b? kh?ng ch?, ch? nh?ng k? phàm phu t?c t?, ??ng hèn, không bi?t gì h?n ngoài s? xu n?nh, ch?y theo chân gi?c, thì ???c quân gi?c dùng ?? c?t nh?c lên tr? thành quan quy?n, có d?p ng?i trên, ??ng lên ?è ??u c?i c? nhân dân. T?t nhiên, nh?ng ph?n t? này ch? là công c? ?? cho quân xâm l??c sai khi?n. Do v?y, mà xã h?i Ch?m tr? nên t?i t? h?n. Trong c?n bão lo?n và trong ?êm t?i c?a dân t?c Ch?m, Ariya Glang Anak c? g?ng phát th?o m?t sinh l?, và ??a nó ra nh? m?t cái phao hay ?óm l?a soi ???ng cho ng??i Ch?m còn s?ng sót bám l?y, ?? cho h? kh?i chìm h?n hay m?t d?ng trong ?êm t?i.     ?o?n ??u Ariya Glang Anak     Phiên âm   Trong ph?n phiên âm c?a tác ph?m này, chúng tôi s? d?ng h? th?ng phiên âm La Tinh qu?c t? c?a Vi?n Vi?n ?ông Pháp. ??c gi? nên l?u ý cách phát âm c?a m?t s? ph? âm và nguyên nh? sau : Nd = nduec (ch?y), ndom (nói) Mb = mbeng (?n), mboh (th?y) Nj = njep (ph?i), njuh (c?i) Â = t??ng ???ng v?i ? c?a ti?ng Vi?t, nh? hâ (nó), jiâ (thu?) O = t??ng ???ng v?i ô c?a ti?ng Vi?t, nh? oh (không có), hadom (bao nhiêu) Aow = t??ng ???ng v?i o c?a ti?ng Vi?t, nh? pataow (ch? d?n), tanaow (??c)   Chú thích   Ch? n?m trong d?u ngo?c […] là t? mà ng??i Ch?m th??ng dùng hôm nay. S? n?m trong […] là s? trang c?a tác ph?m Akhar Thranh.   B?n phiên âm Ariya Gleng Anak   1. Gleng anak linyaiy likuk jang oh hu, Bhian drep ngap ralo, pieh hapak khin ka thraong,,   2. Panrang Kraong Parik Pajai halei gilaong, Kiem basei khin ka raong, kacuec tabiak jieng darah,,   3. Gram saravan duis di hagait blaoh o thah, Mbai tabuh di grep narah, tagrang ka-ndaong pak halei,,   4. Tel thun nathak athaih nan ra brei, Apuei kadhir mbeng palei, nager chai drut merai,,   5. Deng di pur khin mbeng parabat o ka ra mai, Nâh gep blaoh pabrai, menyum tathik khin ka thu,,   6. Balan tajuh Lengka merai sumu, Klaw pakal merai saong nyu, Kawei angan bhum Kawei,,   7. Grum menyi klaw yawa tathrot di drei, Praittik jang megei, tajot sala jang tatuen,,   8. Ra caik tapeng cataik taduk luai phun, Kaing agha pieh tanan, palai pajaih aia urang,,   9. Ra caik ulik daok pakhik phun darang, Di grep tapien ra pawang, pa-mbuk pajaih nan ka drei,,   10. Grum menyi riyak tathrot kayuw megei,             Sa-ai o krân ka adei, mik o krân lac kamuen,, [2]   11. Mboh mabai saong janâk dom di on,             Dhar phuen calah caluen, ra mâk di drei nao dahluw,,   12. Pak aia nan ra brei marai pathuw,             Pa-ndep tanâh dak batuw, jhak hapak duen pataom,,   13. Jhak dahlaw siam hadei nan methraong,             Menyum tathik tabeng saong kraong, o thei ra mai ngap di drei,,   14. Dat [< adat] kayuw phun hapak jruh tanan,    O ken jruh pak biken, drei tacei wek ka drei,,   15.            duissak ké pep di thei,             ndem saong gep blaoh kakei, methuw khin nduec duah pajeng,,   16. ra brei ralo lac takik mbeng oh tel, kheng hadom lac liman, trei hadom lac lipa,,   17.  dalam o dreh norapat sa kaya, Urang bihuh bihah biha, bihi takeng hu abih,,   18.            mbeng athar aik talang pa-abih,             duen pa-mbuk nda ka jrih, palai lihik di urang,,   19.            hajieng ngap di lin ginreh pabi-ndang,             di grep tapien ra pawang, halei nager drei khin nao,,   20.            kheng di lot dahlaw liman hadei kubaw,             praong pran kheng di nao, blaoh liphuai sakasan,,   21.            daok di lot yuw ra nao di danal,             binyuel hawing mai wer, ka-njung dalam lo ra-ong,, [3]   22.            gram narah laik karam yuw khin ndong,             apuei ngah yuw khin bhong, tani ra lac yuw tani,,   23.            an di mbeng mbrai akam memâh tali,             kahlaom meyaom lac bingi, bibak janâk ka mang njep,,   24.            krung di grep rai dahlaw urang padep,             drei ginaong mbuah gep, ra pa-on haniim ka drei,,   25.            ew padaong di krâh melam ngan harei,             mbuah kar lo ka thei, tathrât mehu lo mang kal,,   26.            klak taba on ka mbak siam ahar,             mboh riyak coh mang kal, dom bi biak lac mekrâ,,   27.            bilan sa pluh nathak athaih nan mang hu,             apuei tiah krung mang Cru, cuh janâk mbeng batuw,,   28.            yah biak athar thibar o thei ra thuw,             di grep narah mai payuw, di sakaray jang oh hu,,   29.            ra mâk hadam pa-ndik limân duah magru,             ra mâk athuw khin ka hu, pa-ndik rimaong duah amal,,   30.            ra mâk takuh pa-ndik caguer duah bariyar,             ra mâk bata ngap saban, ka araok daok ba-ndang,,   31.            dalam nager Sri Banây ita karang,             ralo sup jaik li-mbang, ralo melam jaik hadah,, [4]   32.            juk hajan sup lingik yuw khin drah,             khin lam apuei sak narah, di Prangdarang drei ta ni,,   33.            danuh abih sa manga di lok kani,             patao kuyuw ngan nabi, krâm hawei hala kuyuw,,   34.            abih pakar jang hadai deng pathuw,             di lok ni drei oh thuw, thei mai lac saong drei,,   35.            mbuah kar haduis rup min likei,             daok gi-ndeng juai brei, hanuk yawa urang gi-naong,,   36.            di lok ni hu hajan hu khaong,             hu kanu hu dhaong, hu pa-ndiak hu li-an,,   37.            siam dahlaw jhak hadei dom di ken,             ralo pa-ndiak pakik li-an, ralo janâk pakik haniim,,   38.            hamit grum klaw yawa dih pur,             di lok kani thuw khin on, drei urang set hatai,,   39.            mboh ra ndik janâk patih tabiak marai,             ra deng di lamnga Pajai, di bhum Patih drei tak ni,,   40.            kunal di tian ndom bi biak urang tanyi,             ka dahlaw mai yuw ni, di grep narah mai kanal,,   41.            sa mbeng siam saong jhak jang yuw nan,             juai pachom lac tel, abih jeh ra brei pathuw,,   42.            abih phun dom rai janâk oh thaw,             yah ka-mlah puec bi yuw, panuec nan biruw ma siam,, [5]   43.            asit praong likei kumei drei urang,             puec siber khin ka siam, juai bilei yuw mang kal,,   44.            dom jhak ra kaoh pa-mbuk rabuw awan,             ra pawait di riim pakal, jet gila ra brei pathaw,,   45.            kahlaom di lot dunya ew likuw,             likei kumei lijang buw, tuk halei jang oh wer,,   46.            mabai janâk ké mboh dreh tak nan,             sa paceng nan mang tel, hajieng oh puec praong hatai,,   47.            daok di lot krân ka lot ni hai,             juai puec tuei hatai, pagep pakrâ teng tabeng,,   48.            juai mboh siam ahar ranak khin mbeng,             jama-o tian tateng, dalok tabiak ken khin duen,,   49.            juai megru tasep hatai ndom kaphuer,             caik di tian dom bi aen, oh njep urang tel kaya,,   50.            magru panuec thattiak baik ita,             siam ramiik jhak caga, paceng janâk mang anak,,   51.            yang bita supit sumat threh tabiak,             oh kakei lac ngap, janâk haniim wek ka drei,,   52.            praong di lot pak pakal [< pakar] wey likei,             ngap oh thah gem di drei, o thuw ka hagait pak pakal [< pakar],, [6]   53.            po pajieng sa rathuk tajuh awan,             mbak taba mathem yaman, Débita séh maleng,,   54.            hamiit danây apuei kadhir srok khin mbeng,             di parabat khin karem, di jallidi khin hakaoh,,   55.            di grep tapien ra pawang daok blaoh,             khin thac tathik pahakaoh, da-ndep kawek sa paceng,,   56.            narah ita dakik siam ralo habeng,             praong akaok kieng di mbeng, kasal kalik mang set hatai,,   57.            dalam ralo janak saong mabai,             haniim ayuh jang oh hai, nâm angan lijang oh hu,,   58.            rai drei sapajieng rei saong nyu,             ralo ginaong puec oh hu, ra brei janak mai ka drei,,   59.            hajieng mabaoh blaoh libuah jruh ndei,             kayua duis mang halei, pieh wek ka ita,,   60.            krung ra lac tathik darak cuah liga,             padeh tak nan ân ka, juai bilei ka urang,,   61.            mah likam laik tama oh sak karang,             ndong tagok matâh karam, blaoh oh hu thei ra thuw,,   62.            uken basei haban tamrak ngan batuw,             thattiak athar gihlaw, mang tathit kal merai,,   63.            daok sa drei sa nager di krâh hanrai,             di krâh tasik cuah hajai, halei nager drei sa thuw,, [7]   64.            daok tabur khan aw pataih li-uw,             ba alin thei oh thuw, ra pambuk pieh tak nan,,   65.            ra brei janâk parabha gep bitel,             ka-nda drei mbuah kar, lac oh mboh hagait di kuw,,   66.            sa manga di lot ni ew likuw,             ra pa-on drei dahlaw, sumu saong tian drei takrâ,,   67.            habien drei lac mbeng thruk mahu,             bibak janâk khin ka hu, mang mboh urang khin pajieng,,   68.            daok di lot bi ligaih juai peng,             panuec kadha waiy weng, tian hacih nan mang siam,,   69.            kumi panah di manes blaoh akhan,             ka sa rabang pak pakal [< pakar], di dalam rup ita,,   70.            supit sumat subik saong Yang Bita,             âng ka thah sa-ai kacua, âng jet nan adei,,   71.            sa nager nan tabiak mang halei,             ra nâh tabiak ew karei, pak pakal [< pakar] bhum hapak,,   72            thei urang khik tanan ndom bi biak,             apan panuec thattiak, hu haniim min likei,,   73.            yah meset pasumu tian drei,             graing také hu rei, kasal kalik hu bila,, [8]   74.            nan jeh ra lac drei tel kaya,             oh thei puec hu tra, urang plaih jeh di drei,,   75.            mabai janâk nao hapak gam di drei,             ukan merai mang halei, daok dalam rup ita,,   76.            sa pakal [< pakar] ghak abih grep aia,             jhak hadom pataba, ginaong sibar ra pasiam,,   77.            juai puec yuw urang nao di ngaok rabang,             mebuk mata hawing hawang, yer tangin o krân hapak,,   78.            praong di lot ni ra lac yang pa-ndiak,             angin gilaoh mai macuak, taginâm sup lingik,,   79.            di lot ni praong yaom aia tathik,             ra ngap kapar [< kapal] blaoh ndik, také di ngaok dalah riyak,,   80.            dunya maong tak nan siam saong jhak,             meset mejii mak klak, likuw haniim baik likei,,
0 Rating 235 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On July 23, 2015
Written by Po Dharma & Abd. Karim Ariya Sep Sah Sakei (tr??ng ca Sep Sah Sakei) m
0 Rating 147 views 0 likes 0 Comments
Read more