Select
Tag Cloud

Anything in here will be replaced on browsers that support the canvas element

  • Facebook
  • Yahoo
  • Google
  • Live
  • Twitter
  • Live
By: On December 24, 2014
NHỮNG CÂY XƯƠNG RỒNG NỞ HOA Tùy bút           Vùng đất Panduranga, nằm về phía cực Nam miền Trung đất nước, vùng đất đầy nắng, gió, ít mưa và khô hạn.Dải đất ấy tựa mình vào núi, bị biển bao phủ ở phía Đông, chỉ còn sót lại những cánh đồng nhỏ hẹp trên tuyến đường Bắc - Nam ở trung tâm xứ sở. Nơi ấy, hằng năm biển khơi cuồn cuộn mang trong mình tiếng “gào thét” cuồng nộ của những trận bão trùng dương đe dọa vào lòng đất mẹ.Mưa, những trận mưa hiếm hoi nhưng daidẳngđi theo gió bãolàm nát bờ kênh, con mương, làm cho đồng ruộng ngập tràn nước lũ, mùa màng thất bát, tan hoang…  Nhưng bão tố, phong ba và tiếng thét gào của trùng dương, không khắc nghiệt bằng cái nắng như thiêu như đốt, làm cháy da cháy thịt, bằng cái gió như rang, như tát và bằng cái khô hạn của xứ sở ít mưa nhất nước. Vào những mùa hạn ấy, sông cạn đấy, mặt đất nứt nẻ, hằng rõ những vết “chân chim”,  bóc lên một mùi “khen khét” như một chảo dầu đang nóng,  ruồng đồng thì khô héo, cây lúa héo hon, trâu bò đợi nước mòn mỏi… Kỳ lạ thay! Trên mảnh đất khô cằn, nứt nẻ, đất nằng và gió ấy! Có một loài cây vẫn trường tồn, với sức sống phi thường và mãnh liệt, dường như bất chấp tất  cả những khắc nghiệt, những khổ sở mà thiên nhiên “gieo” vào lòng đất mẹ. Trên những cồn cát của quê hương, cây xương rồng vẫn mọc lên, vẫn sinh sôi từ ngàn đời nay như thách thức tất cả những đe dọa, thử thách của nằng, của gió, của trùng dương muôn đời dậy sóng… Ở mảnh đất ấy, bên cạnh những đồi cây xương rồng là những Palei Chăm đã có từ lâu rồi, như là chứng nhân cho một thời quá vãng, khi tổ tiên họ còn là thần dân của vương quốc Champa xưa cũ. Trong đó có cái palei Krak, mà trên con đường vào Palei, bạt ngàn, bạt ngàn những cây xương rồng, tạo thành cả một rừng cây xương rồng.Rừng cây xương rồng ấy, dường như “ôm trọn” cả palei Krak trong mình nó. Cũng như các palei Chăm trên vùng đất Panduranga này, palei Krak mưa ít, nắng nhiều, năm nào cũng khô hạn. Con mương duy nhất chạy vào palei cách sông đến mười mấy cây số, ruộng đồng cũng vậy. Hằng năm cứ vào mùa hạn, cây lúa, cây khoai, cây bắp thiếu nước nằm chết yểu trên những đồng ruộng cằn khô, trơ sỏi đá, trâu, bò, dê, cừu… há hốc chờ nước, dáng đi xiêu quẹo, mắn nhấm mắt mở, rên lên những tiếng thoi thót…Nhìn cái cảnh tượng ấy, con người cũng ngao ngán, thở dài nhìn trời, nhìn đất mà trĩu nặng nỗi lo âu cho mùa màng năm tới. Thế nhưng! Cũng lạ kỳ thay! Cái palei Krak ấy, vẫn tồn tại từ bao đời nay, trên chính cái vùng đấtấy, con người vẫn sống, vẫn sinh sôi, vẫn con đàn, cháu đống. Đêm đêm cụ già vẫn vỗ trống Baranưng, ngâm cho lũ trẻ nghe những Ariya huyền thoại, những Damnưy cổ tích gợi nhắc về một quá khứ xa xăm huyền ảo. Dưới ánh trăng mờ, trai gái hẹn nhau bên bên nước, hát đối giao duyên ru lòng say đắm…Và đặc biệt, palei trong những mùa lễ hội - với điệu múa, lời ca, với tiếng xaranai, baranưng rộn rã, đàn em thơ khoe những tà áo mới, nam thanh, nữ tú dập dìu trẩy hội – lại chợt bừng tỉnh và đắm chìm trong niềm vui bất tận để quên đi những gánh nặng của đời thường.Lạ kỳ thay! Palei Krak, hay nói đúng hơn là những người con của palei này, có một sức sống mãnh liệt như chính những cây xương rồng nở quanh palei vậy! Trong cái palei nhỏ này, những người già như ông Than Takok, bà Nai Para như những cây xương rồng già, dù đã đuối sức sau một đời ròng rã, dù trên bóng thân ngà đã xuất hiện những nếp nhăn như những vết nứt trên thân những cây xương rồng già cổi. Nhưng các cụ, các bà lại có một sức sống bền bỉ, nghị lực phi thường dìu dắt và trở thành mẫu mực cho những thế hệ trẻ như những cây xương rồng tuy già, nhưng vẫn vươn mình che chở cho những cây xương rồng non mọc lên và trưởng thành, trong gió xương của những trận bảo cát, của cái hạn trên quê hương. Cụ Than Takok, một người đứng đầu làng, người điều hành hội đồng phong tục của cả palei. Cụ vẫn cần mẫn lưu giữ những kho sách cổ hiếm hoi, những điệu dân ca còn sót lại, rồi đêm đêm cụ đem ra đọc, hát và dạy cho những đứa trẻ. Cụ vẫn miệt mài gieo vào lòng con cháu vài ba ngôn ngữ cha ông, vài ba câu truyện cổ, dạy chúng biết thổi kèn Xaranai, đánh trống Ginang, kéo đàn Kanhi… Bà Nai Para, vợ ông, người chủ tộc họ Bàlamôn uy tín nhất thôn, bà vẫn đêm ngày truyền dạy cho những thiếu nữ những gia huấn ca Patauw Adat Kamei, dạy những cô gái biết dệt, biết múa, biết ca như ngày xưa bà và mẹ của bà dạy bà vậy…Những cụ già như ông Than Takok, bà Nai Para… như những người giữ “ngọn lửa” truyền thống của cái palei này vậy! Những thanh niên, thiếu nữ của palei Krak, thì như những cây xương rồng trưởng thành, đang vươn sức mình lên, cống hiến tuổi thành xuân cho cuộc đời để làm cho rừng cây ngày càng tươi trẻ, đậm sức sống trước những phong xương, bão táp. Những thiếu nữ như Mưsa vẫn hằng ngày múa những điệu khoang thai, với giọng hát trong ngần đêm đến niềm vui, tiếng cười cho cuộc đời. Mưsa là người thiếu nữ đẹp nhất palei, nàng làm duyên sau khung cửi, ngày ngày dệt những sợi chỉ ước mơ, tô vẽ thêm cho sắc thắm của cuộc đời, nàng duyên dáng trong áo Dhai dân tộc, với chiếc khăn Matra nhung huyền trong những đêm hẹn ước… Còn những nam thanhnhư Para, lại cống hiến sức khỏe, sự cường tráng của mình vào lao động, chàng ngày ngày gặt ruộng, trồng khoai,… xây bồi sự ấm no của xóm làng. Những người thanh niên như chàng đã đem lại cho palei những hạt thóc đầy bồ, tôm cá đầy khoang, cho câu hạt nhặt quang mãi âm vang trên đất quê mình. Những cây xương rồng non, bé hơn, mới đâm chồi lại như những đứa trẻ thơ của cái palei Krak vậy. Chúng là những rặng xương rồng yếu, gai rất mềm dễ tổn thương, nhưng chính chúng lại được che chở, hấp thụ dinh dưỡng được san sẻ từ những cây lớn hơn. Những đứa trẻ của palei hồn nhiên, trong trẻo, chúng rong chơi trên trong xóm thôn quen thuộc, chúng thả hồn mình vào tiếng sáo, bóng diều, ngày ngày reo ca tiếng ca mục đồng. Và những buổi chiều giăng câu bắt cá, đêm đến chúng hát ca, reo hò, vui đùa ngộ ngĩnh, palei trong những đêm như vậy lại chợt rộn ràng, chợt tươi trẻ. Những đứa trẻ, như những xương rông non vẫn nở, để cho cuộc đời tươi trẻ, vui ca, để cho những gánh nặng, những suy tư về cuộc sống vơi đi ít nhiều. Trên dậm dài mảnh đất quê hương khô cằn, nắng, gió, nghèo nàn này, con người, nhất là người Chăm, như cái palei Krak vậy, họ vẫn sống, vẫn trường tồn, vẫn sinh con, đẻ cái. Và hơn hết, trong điều kiện kham khổ ấy, họ vẫn vui ca, vẫn hát hò, người già vẫn lưu giữ và truyền dạy cho con cháu mình những truyền thống của dân tộc. Nhưng nam thanh, nữ tú vẫn yêu nhau, vẫn mộng mơ vẫn đem cho đời câu ca, điệu múa vẫn lao động để tô điểm cho đời dù đời còn nhiều khó khăn thử thách. Những đứa trẻ, đem tuổi thời làm vui tượi và rộn ràng thôn ấp, chính chúng đã làm cho người lớn vơi đi phần nào những nỗi âu lo từ nụ cười hồn nhiên, ánh mắt trong trẻo, ngây thơ của mình. Lạ thay! Giữa cái xứ sở, cái mảnh đất thiếu vắng phì nhiêu, trải đầy nắng hạn.Con người vẫn vươn lên, không chỉ tồn tại mà còn phát triển, còn hát ca, còn bồi đắp cho cõi đời thêm tươi đẹp và dạy cho con cháu phải lưu giữ truyền thông, tiếp tục bồi đắp cho cuộc đời thêm tươi đẹp. Họ, như những cây xương rồng mọc lên ở mảnh đất này từ ngàn đời nay vậy! Và, ở đấy, họ đã nở hoa, như chính những bụi cây xương rồng nở hoa trên vùng trời đất mẹ.                                                                         JASHAKLIKEI                                                                         Panrang, tháng 11, 2014
0 Rating 165 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On December 7, 2014
VĂN HÓA CHĂM: BẢN SẮC VÀHỘI NHẬP (Tiếp cận từ góc nhìn đương đại) Đặt bút, viết lên những dòng này, tức là trong tâm tưởng[của tôi] đang chứa đầy những ưu tư, trăn trở về một dân tộc [Chăm] trong thế đứng của nó ở một thời đại [hội nhập hay toàn cầu hóa]. Bản sắc của một dân tộc, là cái hồn túy tạo nên đặc trưng riêng có của dân tộc đó, cốt lõi của nó chính là văn hóa dân tộc, văn hóa ở đây bao gồm ngôn ngữ, chữ viết, văn chương, trang phục, nghi lễ, hội hè, phong tục, tạp quán...Văn hóa có tính “động”: thời đại nào, thì văn hóa đó, nói thế tức làvăn hóa sẽ biến đổi theo từng thời kỳ,  nhưng cái cốt tủy, cái căn cơ cấu thành văn hóa thì không bao giờ được biến đổi, một khi biến đổi thì tức là mất văn hóa, mất bản sắc. Thời đại – từ phía nó - luôn đặt ra cho văn hóa những lo lắng, yêu cầu phải làm thế nào để vừa hội nhập, biến đổi văn hóa theo thời đại, mà lại vừa giữ gìn những cốt tủy của văn hóa? Không biến đổi, một số hiện tượng văn hóa sẽ trở nên lạc hậu, lỗi thời,làm trì trệ dân tộc; nhưng nếu biến đổi quá nhanh, không kiểm soát, thiếu chọn lọc thì những giá trị văn hóa quý báu, lành mạnh sẽ có nguy cơ bị mai một và đánh mất, khi đó dân tộc không còn văn hóa nữa, bởi vì bản sắc - cốt tủy của văn hóa - không còn nữa. Câu hỏi đặt ra lớn là làm thể nào để vừa hội nhập mà vẫn giữ vững bản sắc? Để vừa “hòa nhập mà không hòa tan”? Mahatma Gandhi, nói: “Tôi không muốn ngôi nhà của mình bị vây kín giữa những bức tường và những khung cửa sổ luôn luôn bịt chặt, tôi muốn văn hóa của mọi miền đất tự do thổi vào ngôi nhà đó. Nhưng tôi sẽ không bị cuốn đi bởi bất cứ ngọn gió nào”.Đểthực hiện nhiệm vụ này mỗi dân tộc cần phải có: bản lĩnh văn hóa. Trãi qua biết bao biến thiên, thâm trầm của lịch sử, bản sắc Chăm cũng biết bao lần biến đổi. Từ thuở ban sơ, khi người Chăm chỉ biết đến thần trời, thần đất, thần mưa, thần biển,... chưa biết gì đến Shiva, Po Awlaoh,... chỉ biết các thầy mo, thầy cúng chứ chưa biết gì đến Basaih, Po Acar... chỉ biết Chăm Jat chứ chưa biết đến Chăm Hier, Awal hay Chăm Islam. Cho đến khi, Ấn Độgiáo, Hồi giáo theo đường biển truyền vào Champa làm biến đổi tín ngưỡng, tôn giáo của người Chăm, cứ mỗi lần như vậy, văn hóa Chăm lại bao lần biến đổi. Và cứ mỗi lần như vậy, bản lĩnh văn hóa Chăm lại luôn được thể hiện.Trong quá trình ấy, người Chăm không hấp thụ toàn bộ Ấn Độ giáo, Hồi giáo mà đã biến đổi làm cho các tôn giáo này khi du nhập vào không còn như nguyên bản mà bị bản địa hóa, tạo nên những đặc thù của văn hóa Chăm trong đó các tôn giáo (với hệ thống đền tháp, thánh dường, tăng lữ) kết hợp với chế độ mẫu hệ, tục thờ cúng đa thần và ông bà, tổ tiên… Nhưng cũng trong quá trình biến thiên ấy, đã biết bao lần người Chăm lãng quên hoặc dần đánh mất các giá trị truyền thống trong nền văn hóa của mình. Những cuộc biến loạntrong các năm 1471, 1832 làm cho người Chăm không còn đồng nhất phân biệt làm Chăm giữa, Chăm Đông, Chăm Tây, Chăm Việt Nam, Chăm Campuchia…Kéo theo đó ngôn ngữ và phong tục của mỗi cộng đồng cũng có nhiều dị biệt. Mặt khác, từ những cuộc chạy loạn ấy, bao sách vở, văn bản Chăm cũng bị thất tán, mất đi rất nhiều giá trị văn hóa. Người Chăm ngày nay không còn hoạt động kinh tế biển, do đó dấu ấn văn hóa biển rất mờ nhạt, nhiều phong tục tập quán được ghi trong thư tịch cổ cũng không được duy trì… Dù vậy, cho đến hôm nay, người Chăm vẫn còn giữ được rất nhiều truyền thống văn hóa quý báu như duy trì các lễ hội, lễ tục như Rija nưgar, Kate, Ramưwan… Nhiều người già vẫn còn giữ nhiều ciet sách, vẫn biết ngâm nhiều ariya, damnưi…vẫn còn các nghệ nhân thổi kèn Saranai, đánh trống Baranưng, Ginang, đàn Kanhi…Đặc biệt, ngôn ngữ Chăm dù có bị lai căng, pha tạp rất nhiều, nhưng vẫn được các nhà nghiên cứu, chuyên gia và một số người Chăm quan tâm và duy trì (dù con số này cũng ít ỏi)… Nhưng,thế giới ngày nay đã “phẳng”, người ta có thể gọi thế giới và cách mà các thực thể trong thế giới này liên kết với nhau bằng các mỹ từ như hội nhập, toàn cầu hóa hay bất cứ thuật ngữ nào khác, nhưng tựu chung lại nó ám chỉ một thế giới mà ở đó, ranh giới giữa các dân tộc, các nền văn hóa là rất nhạt nhòa. Thế giới đương đại là một thế giới hội nhập, hội nhập không ngừng với tốc độ vũ bão. Nhân loại đã trải qua nhiều cuộc hội nhập, tiếp xúc giữa các dân tộc, các nền văn hóa nhưng hôm nay hội nhập diễn ra ở quy mô toàn thế giới, với mức độ hội nhập mạnh mẽ gắp nhiều lần. Truyền thông hiện đại, làm cho con người ở khắp nơi liên kết với nhau dễ dàng, từ đó văn hóa, ngôn ngữ, lối sống của dân tộc này sẽ tiếp xúc, ảnh hưởng văn hóa, ngôn ngữ, lối sống dân tộc khác. Những nền văn hóa này sẽ hòa nhập vào nền văn hóa kia, nhiều hiện tượng văn hóa của dân tộc khác sẽ ảnh hưởng và phổ biến vào dân tộc này. Chẳng hạn, Hàn Quốc thông qua truyền thông đa phương tiện (phim ảnh, âm nhạc) đã du nhập thời trang, âm nhạc, cách sống vào các quốc gia khác. Các sản phẩm văn hóa ngoại lại (từ tinh thần đến vật chất) không có chút gì mang dấu ấn dân tộc tồn tại đầy rẫy,… Trong trào lưu đó, những yếu tố truyền thống được ông, cha lưu giữ tự bao đời rất có nguy cơ bỉ những thứ văn hóa lai tạp, hiện đại, nhất thời ấy làm biến đổi, mai một vàlúc nào cũng cóthể nuốt chửng các giá trị văn hóa truyền thống ấy, con người hiện đại mà đa phần là giới trẻ đang cuốn theo những trào lưu văn hóa hiện đại, ngoại lai mà lãng quên dần văn hóa dân tộc – Chăm cũng vậy! Thế giới cần phát triển, cần hiện đại, nhưng thử thách đặt ra là phải làm thế nào vừa phát triển nhưng vừa không đánh mắt bản sắc dân tộc?Thomas L.Friedman trongchiếc lexus và cây Ôliu viết: “…Bất cứ xã hội nào muốn thịnh vượng về kinh tế đều phải cố gắng chế tạo cho được xe Lexus và lái chúng ra thế giới. Nhưng người ta cũng đừng bao giờ ảo tưởng rằng chỉ tham gia tích cực vào kinh tế thế giới không thôi mà có thể tạo được xã hội lành mạnh…Một đất nước không có những rặng cây Ô liu khỏe khoắn sẽ không bao giờ có được cảm giác nguồn gốc được duy trì hay an tâm để có thể đón nhận và hội nhập với thế giới. Nhưng một đất nước mà chỉ có những rặng Ô liu không thôi, chỉ lo giữ cội rễ, mà không có xe Lexus, thì sẽ không bao giờ tiến xa được. Giữ cân bằng giữa hai yếu tố nói trên là một cuộc vật lộn triền miên…”. Dân tộc Chăm, tồn tại trong kỷ nguyên toàn cầu hóa, không thể không hội nhập, không thể đứng ngoài tiến trình phát triển. Nhưng cũng như các nền văn hóa khác, Chăm cần phải giữ cho được bản sắc, đối với Chăm đây thật sự là một thách thức, “một cuộc vật lộn triền miên”. Qủa thật không ngoa khi nói như vậy! Hiện thực sinh hoạt văn hóa Chăm đương đại, cho phép chúng ta nghi ngờ đến một viễn cảnh đánh mất bản sắc dân tộc và những nguy cơ đó sẽ là sự thực nếu chúng ta không có những hành đồng kịp thời và hữu hiệu.           Cứ xem, palei Chăm nơi tự bao đời lưu giữ các giá trị truyền thống, tính cố kết cộng đồng, nơi mà ở đó mỗi người con ý thức được vai trò, nghĩa vụ của mình với gia đình, dòng họ, xóm làng, nơi ở đó luật tục (adat) được bảo tồn, tình làng nghĩa xóm và các giá trị văn hóa được lưu giữ…Ngày nay,dưới ảnh hưởng của đô thị hóa, các palei  đã thay đổi sâu sắc, đó không còn là một không gian khép kín, nơi mà các giá trị truyền thống được lưu giữ biết bao đời.Mà mang nhiều hướng mở, nhiều giá trị bên ngoài xâm nhập vào palei, kéo theo đó nhiều giá trị văn hóa truyền thống cũng không ngừng nhiều biến đổi.           Đã không còn nữa, hình ảnh những cụ già, dưới ánh trăng, đêm đêm ngâm những dòng ariya, damnưi cho con cháu, người Chăm của mấy chục năm gần đây, đã không còn được trưởng thành từ những câu ca dao, tục ngữ, truyện cổ Chăm, giới trẻ chỉ biết có truyện Con rồng cháu tiên, Thánh Gióng, Tám Cám, Cây tre trăm đốt…chứ không biết đến truyền thuyết Po Inư Nagar, Po Kloang Garai, Po Rame hay Ja Li-u… Những đứa trẻ lớn lên lại được cha mẹ nó đưa vào giất ngủ những câu truyện cổ tích của dân tộc khác, chứ không hề biết gì đến các truyện cổ của dân tộc mình.           Từ xưa, dân tộc Chăm có một kho tàng văn chương rất phong phú, nhưng thời gian và sự quên lãng của con người khiến nó tản mát đi rất nhiều. Ngày nay, nhiều nhà nghiên cứu, học giả đã bỏ nhiều công sức ra - để gọi là - sưu tầm lại những tác phẩm văn chương Chăm. Nhưng đó chỉ là công việc mang tính hàn lâm, đa số người Chăm vẫn không quân tâm đến nó, đối với họ những mẫu chuyện của người Kinh đã ăn sâu vào tâm trí ngay từ lúc còn ngồi trên ghế nhà trường và đến lược họ, lại kể những câu truyện đó cho con cháu mình nghe.           Không chỉ trong văn học, ngày nay, nhiều giá trị dân gian khác như âm nhạc, diễn xướng cũng đang bị thế hệ hội nhập dần dần lạnh nhạt. Trong cộng đồng không còn bao nhiêu nghệ nhân biết hát xướng dân ca, đánh đàn Kanhi, trống Baranưng, Ginăng, kèn Saranai…Dù ở quê nhà, cũng như tại Sài Gòn đã tổ chức nhiều lớp học nhạc cụ truyền thống nhưng số người theo học vẫn rất ít so với số đông những người Chăm quay lưng lại với truyền thống, mà phần nhiều trong đó là các bạn trẻ.           Ngày nay, nhiều thanh niên Chăm không còn thích nghe các bài dân ca, các ca khúc viết về quê hương xứ sở, về palei Chăm với những hình ảnh những ngôi tháp Chàm cổ kính, con sông quê hương, xóm thôn Chăm mùa gặt, tình yêu thủy chung của trai gái làng Chăm… những ca khúc ấy tự bao đời đã trở thành bệ đỡ tinh thần cho bao đứa con Chăm, gợi nhắc trong họ tình yêu quê hương, sứ xở.  Ngày nay, đa phần người trẻ chỉ hướng về các dòng nhạc hiện đại, mang nhiều tính thị trường của Vpop, Kpop…mà lãng quên dần các bài dân ca, các bài hát về quê hương, dân tộc.           Bên cạnh đó, một hiện tượng văn hóa cũng đang ngày càng mai một, ngay trong tâm thực của người Chăm hiện đại đó là trang phục truyền thống Chăm. Người Chăm có nhiều loại trang phục cổ truyền phong phú, mang tính thẩm mỹ cao và chứa đầy giá trị tinh thần, tạo nên một nét đặc trưng của tộc người.Thế nhưng, hiện nay, trừ những người đã cao tuổi, hầu hết những người hai mươi, ba mươi tuổi không còn thích mặc váy, áo dài truyền thống mà chỉ mặc áo sơ mi, quần tây trong đời sống hằng ngày (kể cả nam lẫn nữ), trừ các dịp lễ hội người ta mới khoác lên mình những trang phục mang đậm hồn dân tộc ấy!               Đặc biệt nhất, đáng báo động nhấtlà thực trạng ngôn ngữ và chữ viết của dân tộc Chăm. Trong khi những chuyên gia về ngôn ngữ Chăm vẫn đang có những bất đồng về truyền thống và cải biên, vẫn chưa tìm được một tiếng nói chung thì ngôn ngữ Chăm đang hằng ngày, hằng ngày lụi tàn, giãy chết. Thực trạng người Chăm giao tiếp với nhau trong đời sống hằng ngày trộn đến 50% tiếng Việt là một điều đáng quan ngại, vì nhiều từ ngữ sẽ bị lãng quên, muốn biết, muốn hiểu nghĩa người ta lại phải tra từ điển và sách vỡ, đây là một thực trạng phổ biến trong đời sống Chăm đương đại và đã được nhiều nhà nghiên cứu, chuyên gia báo động. Đó là về ngôn ngữ nói, về chữ viết, người Chăm ngày nay cũng không nhiều người biết viết tiếng Chăm nữa. Cho dù, trong các trường tiểu học ở các làng người Chăm, có dạy tiếng Chăm, nhưng khi lên các lớp lớn do không có điều kiện học thêm và tiếp xúc, chủ yếu trong đời sống họ viết và sử dụng toàn tiếng Việt nên sẽ không thể nhớ được, dần dần lãng quên nó. Tiếng Chăm, đối với nhiều người,không còn quan trọng nữa, không ứng dụng gì nhiều trong cuộc sống nên họ không cần thiết phải viết nó. Một số sinh viên, có ý thức bảo tồn chữ viết dân tộc đã tham gia vào các lớp học tiếng Chăm, nhưng số lượng này không được bao nhiêu, và khi hoàn thành khóa học do không có điều kiện, thời gian tiếp xúc viết, nói hằng ngày nên lâu dần lại quên. Thành ra, tiếng nói đã lai căng, chữ viết Chăm lại càng bị mai một, không còn bao nhiêu người biết viết chữ mẹ đẻ nữa, ngôn ngữ Chăm thành ra một thứ ngôn ngữ hàn lâm (tức là chỉ sử dụng cho giới tu sĩ, giới nghiên cứu, học giả…) ngày càng xa rời đại chúng, trong khi một thứ ngôn ngữ ngoại lai lại pha tạp vào tiếng nói hằng ngày và lấn áp chữ viết dân tộc– đó là tiếng Việt, cái mà chúng tagọi là tiếng phổ thông. Ngôn ngữ Chăm, không chỉ là đặc trưng cho bản sắc văn hóa, nó còn là phương tiện để con người hiện đại liên kết với quá khứ. Một khi ngôn ngữ này càng ngày càng bị mai một thì nó cũng sẽ kéo theo các giá trị văn chương, các văn bản cổ Chăm sẽ không còn ai lưu giữ, bảo tồn và truyền lại cho thế hệ sau, dòng chảy văn hóa của dân tộc sẽ bị gián đoạn. Không còn ngôn ngữ, người Chăm cũng sẽ mất đi nhiều giá trị văn hóa, mất đi bản sắc, câu truyện của 2500 ngôn ngữ đã mất (theo Unesco) là một cảnh báo cho chúng ta. Trong suốt tiến trình tồn tại, văn hóa Chăm đã bao lần biến đổi có lúc nó hấp thu rồi tiếp biến các giá trị bên ngoài, tạo thành cái riêng, cái đặc sắc của mình, thế là tốt! Nhưng cũng có những lúc thăm trầm và đen tối, nó bị văn hóa ngoại lai thống trị và xâm nhập, khiến cho một số truyền thống bị lụi tàn…Nhưng, may mắn thay! Hôm nay,  Chăm vẫn còn giữ được một số bản sắc văn hóa như ngôn ngữ, sách cổ, các lễ hội, lễ tục và tính cố kết cộng đồng…Điều đó cho thấy, dù trải qua bao biến thiên người Chăm vẫn luôn thể hiện được bản lĩnh văn hóa của mình. Trước thềm toàn cầu hóa, hội nhậplà yêu cầu khách quan không thể chối bỏ, nhưng làm thế nào để vừa hội nhập mà lại vừa không đánh mất bản sắc? Ở đây,tôi bày tỏ đồng cảm với Pauh Catwai, lời người xưanhư vẫn còn nguyên giá trị, thuở ấy, năm 1832, quốc gia mất đi, dân tộc phải đối mặt với nguy cơ mất luôn cả văn hóa, những người trí thức đương thời như Pauh Catwaiưu tư, trăn trở cho việc lưu giữ bản sắc văn hóa dân tộc: “…Sa bauh cơk tajuh giloang, sibơr ka throang bhap ilimo…” (một núi bảy đường, biết đường nào thông cho văn hóa dân tộc). Hôm nay, chúng ta phải ý thức rằng: dân tộc này, theo thời gian đã mất mát rất nhiều giá trị văn hóa, đừng để mất luôn những giá trị còn giữ lại được, để rồi đánh mất luôn chính bản sắc dân tộc. Nếu có hỏi tôi có quá bi quan không khi nói vậy? Xin trả lời: Không. Vì rằng, dù Chăm, hôm nay vẫn còn ngôn ngữ, người Chăm hôm nay vẫn biết xướng hát dân ca, thuộc lòng các kho tàng văn chương…Nhưng số này rất ít, hầu hết đều đã già, nay mai cũng trở thành người thiên cổ, trong khi giới trẻ rất ít ai mặn mà, thậm chí còn quay lưng lại với chúng. Vậy, thử hỏi: Văn hóa Chăm, còn giữ lại bao nhiêu để mà cợt đùa, để mà không quan ngại? Đối với Chăm nhiệm vụ bảo tồn bản sắc trong thời đại này lại càng khó khăn, nhất là khi chúng ta chỉ là một cộng đồng thiểu số, bị phân hóa thành các palei tách biệt và hằng ngày có những sự tiếp xúcnhiều với một cộng đồng đa số, có một nền văn hóa dị biệt, lúc nào cũng có thể hút chúng ta vào tầm ảnh hưởng của nó. Tôi chợt nghĩ đến một viễn tượng đáng buồn của tương lai: “…nơi người Chăm nói với nhau bằng một thứ tiếng lai căng, mất gốc; nơi những bài dân ca, ariya, những nhạc cụ được đưa vào bảo tàng vì không có ai ngâm nga, diễn xướng; nơi chữ viết Chăm trở thành cổ vật phi vật thể vì không ai biết viết; nơi các lễ hội Chăm chỉ là những huyền thoại xa vời;…; nơi những đứa trẻ Chăm được truyền thụ và tự ý thức rằng tổ tiên chúng ta là con của rồng, cháu của tiên…” Hãy nhìn vào quá khứ mà suy ngẫm, tạo nên một giá trị đã khó, giữ cái giá trị đó đến muôn đời lại càng khó hơn. Đừng để những giá trị mà bao đời tổ tiên gây dựng mất đi, nếu vậy, không phải chúng ta - những kẻ hậu thế - hổ thẹn với tiền nhân lắm sao? Một lần nữa và hơn lúc nào hết, người Chăm (tất cả người Chăm) cần thể hiện bản lĩnh văn hóa của mình trong bối cảnh mới – bối cảnh toàn cầu hóa.  Ja shaklikei (Nguồn: Tagalau 16)                                                                
0 Rating 429 views 1 like 0 Comments
Read more
By: On December 7, 2014
 THÁP THIÊN THU Trên những dải cồn cát xa xăm Giữa những cánh đồng miên man gió thổi Và trùng dương muôn đời dậy sóng Dáng những tháp Chàm vận in dậm nơi đây. Từ thuở gò cao, gạch Chàm chất đống Cho đến lúc thành hình, nghệ sĩ tác dung nhan Tháp động mình trần, khói hương trầm nghi ngút Tăng lữ xướng kinh, quân vương dâng lễ  Tiếng kinh cầu vang vọng trốn linh thiêng Trải gió xương, lịch sử bao lần Tháp vẫn đứng hiên ngang từ độ ấy! Dù tuổi già đã ngấp nghé trên thân. Nhớ, thuở Khu Liên lập quốc Đến dặm đường Ô, Lý xót xa Chế Bồng Nga hành quân về ải Bắc Thành Đồ Bàn thất thủ máu xương tan. Phía biển khơi Cei Sit trở về Để đất nước lại ngập tràn hy vọng Dù chỉ là hy vọng thoáng qua mau Cho đến buổi chiều tàn trên xứ sở  Khi dân Chàm, máu cuộn, xương tuôn Nơi rừng sâu ai vong thân vị quốc? Phía đường mòn, lớp lớp kẻ lưu vong. Tháp vẫn đứng u buồn trên đất mẹ Thách thức phong trần, đánh đố thời gian Tháp vẫn đứng dù người đời quên lãng Nhìn thế nhân mà khóc biết bao lần. Ai, có thử một lần nhìn lại? Thấy mảnh gạch Chàm mà nhớ đến cố nhân Thấy những bức phù điêu vàng úa,  mà nghĩa về quá khứ lệ rưng rung. Thấy rêu xanh, in hằng lên dáng tháp  Mà nhớ về cố quốc Hay chăng? Thấy những vết chân chim trong lòng tháp, mà để lòng đau đấu nổi thương tan? Có thấy Siva trầm ngâm trên cửa Tháp,  chốn thiêng đường uất hận thâu canh? Có thấy vũ nữ apsara đang múa,  những điệu tang ca cho chốn điêu tàn?  Và có thấy chăng, trong lòng tháp cổ, tiếng oán than của kiếp đá mòn? Suốt mấy trăm năm, trên khắp miền đất mẹ Tháp lặng im đứng giữa cõi xa vời. Rồi một lần có ai chợt nhìn lại, Thấy Tháp kia, chết đứng, chạnh lòng? Ai, có biết chăng nỗi lòng của Tháp,  Vẫn ngậm ngùi, nức nở suốt thiên thu?    Ja shaklikei  
0 Rating 278 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On November 9, 2014
1CÂU CHUYỆN CỦA KHATHAYTác giả: Lựu Hoàng Điệp (Người dân tộc Chăm).Email: luuhoangdiep92@gmail.com2Chămpa hay Chiêm Thành là một vương quốc cổ ở miền trung Việt Nam. Chămpagồm 4 tiểu vương quốc, theo thứ tự từ bắc xuống nam là: Amaravati, Vijaya, Kautharavà Panduranga. Indrapura (đô thị sấm sét) là một đô thị thuộc xứ Amaravati, đây cũnglà kinh đô Chămpa từ năm 875 đến năm 982. Ở nơi đây từng tồn tại phật viện ĐồngDương lớn nhất Đông Nam Á lúc bấy giờ.Năm 982, Indrapura bị tàn phá, người Chăm phải dời đô về phía nam. Kinh đô mới cótên là Vijaya, thuộc địa khu cùng tên Vijaya. Khathay là nhân vật sống trong thời kỳloạn lạc này.Về cuộc chiến tranh giữa Chămpa và Đại Cồ Việt năm 982. Đại Việt Sử Ký Toàn Thưcó chép lại như sau:“Vua thân đi đánh Chiêm Thành, thắng được. Trước đó vua sai Từ Mục, Ngô TửCanh sang sứ Chiêm Thành, bị người Chiêm bắt giữ. Vua giận, sai đóng chiến thuyềnsửa binh khí, tự làm tướng đi đánh, chém Bê Mi Thuế tại trận. Chiêm Thành thua to.Bắt sống được quân sĩ của chúng nhiều vô kể, cùng là kỹ nữ trong cung trăm người vàmột nhà sư người Thiên Trúc, lấy các đồ quý đem về, thu được vàng bạc của báu kểhàng vạn, san phẳng thành trì, phá hủy tông miếu, vừa một năm thì trở về kinh sư”.3CÂU CHUYỆN CỦA KHATHAY (P1)Xưa kia, ở kinh đô Indrapura của vương quốc Chămpa cổ, có một đôi vợ chồng sinhsống bằng nghề buôn bán nhỏ. Cuộc sống của họ không thể nói là khá giả nhưng cũngkhông thiếu thốn. Hai vợ chồng chỉ sinh được một đứa con trai duy nhất, họ đặt tênđứa con ấy là Khathay, theo tiếng Chăm cổ lúc đó có nghĩa là "ánh sáng".18 năm sau, năm 979 sau công nguyên.Khathay bây giờ đã 18 tuổi. Cậu cùng với cha mẹ sống trong một gia đình yên ấm.Khathay nổi tiếng là người rất thông minh, cậu học rất nhanh và rất ham tìm hiểunhững thứ mới lạ. Cuộc sống yên ấm kéo dài không lâu thì biến cố xảy đến.Năm đó, vua Chămpa là Parameshvaravarman cử binh sang đánh nước Đại Cồ Việt.Khathay đã trưởng thành nên được triều đình huy động làm binh sĩ. Cậu phải vàodoanh trại để rèn luyện. Không lâu sau, Khathay giả từ cha mẹ, họ hàng, quê hương,cậu ra đi cùng với hơn 8 vạn chiến binh khác. Cậu vẫn luôn nhớ tới lời cha dặn trướckhi đi: "hãy trở về với cha mẹ".Năm 979, hạm đội Chămpa hơn tám vạn quân và 1200 chiến thuyền đã theo đườngbiển sang tấn công kinh đô Hoa Lư của Đại Cồ Việt.Ba ngày trôi qua trên biển. Hàng vạn thủy binh Chămpa vẫn tiếp tục khẩn trương tiếnlên trên những chiến thuyền. Tiếng hò vang như sấm của hàng vạn binh sĩ. Trời ngàycàng nhiều mây, gió ngày càng mạnh, sóng ngày càng lớn, những đàn chim khổng lồche kín cả bầu trời, chúng gào thét bay qua trên đầu đoàn quân viễn chinh báo hiểuđiềm chẳng lành.Một cơn bão mạnh đang tràn tới. Tiếng những binh sĩ la hét trong vô vọng. Nhữngchiến thuyền sừng sửng giờ như những khúc gỗ nhỏ bé trên dòng lũ dữ. Những chiếnthuyền lần lược bị cơn bão đánh chìm tan tác. Khathay và đồng đội vẫn còn bám trụtrên những chiếc thuyền, họ đang dùng tất cả những khả năng mình có để chống lại tửthần. Khathay phải bám thật chặt vào một cái cột và phải chứng kiến cảnh nhữngngười lính khác bị sóng cao, gió bão và mưa nặng hạt quật ngã xuống biển mà khôngthể làm gì cho họ. Khathay la lên “Pô Yang lơi, tại sao người lại trừng phạt chúngcon?”. Tiếng cha già vẫn văng vẳng bên tai cậu "hãy trở về với cha mẹ".Sau cơn bão, toàn bộ quân viễn chinh đã bị tan rã.Gần một ngày sau, những chiến thuyền sống sót cũng trôi dạt vào bờ. Cảnh tượng trênbờ thật khủng khiếp, hàng vạn binh sĩ bị chết đuối, bụng sình lên, bị những con kênhkênh bới móc. Bên cạnh những xác chết là hàng ngàn chiến thuyền đã bị tan nát, hưhỏng trôi dạt vào bờ. Cảnh tưởng hôi thối, chết chóc và hoang tàn ấy trãi dài trên mộtvùng bờ biển.Vừa lên bờ, kiệt sức vì mệt, Khathay cùng hàng vạn đồng đội sống sót khác bị nhữngbinh lính người Việt đón bắt và giải về trại tù binh. Trại có hơn hai vạn tù binh Chămcòn sống sót sau cơn bão, hầu hết họ đều mệt mỏi, đói và khát. Số phận của họ sẽđược định đoạt bởi vua nước Việt. Trong trại tù binh, ngồi nhìn hàng ngàn binh sĩ mệtmỏi, đói khát như những phế nhân. Khathay đang nghĩ ngợi, cậu không ngờ mình vẫncòn sống trên trần thế này."LƯƠNG THỰC", "LƯƠNG THỰC", "LƯƠNG THỰC".Tiếng hô vang của hàng ngàn binh sĩ Chăm. Đã hai ngày trôi qua, trại tù binh hơn 24vạn người được cung cấp lương thực một cách vô cùng thiếu thốn. Đã có gần trăm tùbinh chết đói. Cứ tình hình này thì tất cả các tù binh sẽ bị chết đói hết.Ngày thứ ba trong trại tù binh, thêm nhiều người chết đói, xô xác đã xảy ra giữa tùbinh và binh sĩ Việt.Ngày thứ tư, trại tù đã sắp hỗn loạn, lại xảy ra xung đột giữa binh lính và tù binh. Máuđã đổ, hàng chục binh lính và tù binh đã bị giết chết.Ngày thứ năm, lính Việt bắt hàng trăm tù binh chém đầu. Nhưng tình hình vẫn khôngđược cải thiện. Trại tù đã quá hỗn loạn, sắp xảy ra cuộc huyết chiến. Thấy sắp khôngthể kiểm soát được tình hình, viên quan canh giữ trại tù đã cử người lên Hoa Lư thôngbáo tình hình cho triều đình định đoạt.[Hoa Lư-kinh đô Đại Cồ Việt-cuối năm 979].Vua của nước Việt bấy giờ là Đinh Toàn mới 6 tuổi, quyền lực thực tế nằm trong taythập đạo tướng quân Lê Hoàn là nhiếp chính. Nước Việt mới trải qua cơn bão, lươngthực đang thiếu thốn. Lê Hoàn nổi tiếng là một người máu lạnh và dứt khoát. Sau khinhận được tin báo từ trại tù binh, ông ra lệnh:-chúng ta không có đủ lương thực cho bọn xâm lược, nhưng nếu thả chúng về nước sẽlà một mối hoạ cho nước ta sau này, hãy giết sạch bọn chúng, thực hiện việc này trướcsáng ngày mai.Triều đình Hoa Lư điều quân đến trại tù để thực hiện cuộc tắm máu. Nhưng ngay đêmhôm đó, tù binh đã nổi loạn. Gần 2 vạn tù binh liều chết phá trại, họ chiến đấu liềulĩnh, máu đã đổ rất nhiều. Cuối cùng, do vượt trội về số lượng, họ đã làm chủ đượctrại, cướp được nhiều vũ khí và lương thực. Nhận được tin quân Việt sắp tới, họnhanh chóng chạy xuống phía nam, họ chạy không ngoảnh mặt lại, sau được gần mộtngày đêm thì quân Việt đuổi kịp.Khathay cùng khoảng 3000 binh sĩ Chăm còn khoẻ mạnh đã tình nguyện cầm vũ khícướp được, họ đi sau cùng đoàn người, và sẽ quyết tử chiến nếu quân Việt đuổi tới.Đoàn người đang chạy qua một cây cầu bắt qua một con sông lớn nước chạy siết, đãrất gần biên giới Chămpa. Đoàn người qua được sắp hết thì hình như mặt đất đang hơirung rung nhè nhẹ. Khathay áp tai xuống sát đất nge. Đó là tiếng vó ngựa, tiếng bướcchân của hàng vạn binh sĩ. Khathay hô lên "QUÂN VIỆT ĐẾN RỒI". Cũng vừa kịpđoàn người đã qua cầu hết.Từ xa xa đã nghe thấy tiếng ngựa hí, đã thấy cờ hiệu màu vàng, là cờ hiệu quân Việt.Mọi người dùng hết sức, mọi cách để có thể phá sập cầu, nhưng cầu quá vững chắc,không thể phá sập ngay được. Khathay cùng khoảng 3000 quân Chăm quyết định ở lạibên này cầu chiến đấu nhằm ngăn chặn bước tiến của quân Việt và tạo thời gian chonhững người bên kia phá cầu.Quân Việt tiến đến cách quân Chăm một đoạn thì dừng lại, chuẩn bị cho cuộc giáp lácà. Hai vạn quân Việt binh phục đỏ-vàng, cờ hiệu vàng; và 3000 quân Chăm binhphục trắng-đen, cờ hiệu trắng. Trên một cây cầu hẹp thì số lượng trở nên vô nghĩa. Đólà một buổi chiều năm 979, mây đen phủ bầu trời như sắp mưa, tiếng những con kênhkênh đang bay lượn qua lại chuẩn bị cho bửa tiệc sắp sửa. Gió thổi ớn lạnh như cómùi tanh trong đó, Mây đen kéo đến nhiều hơn, và mưa đã bắt đầu trút.5Những hạt mưa đầu tiên vừa chạm đất. Tướng quân Việt hạ lệnh tấn công. QuânChăm quyết tử chiến, mũi giáo 2 bên đã bắt đầu chạm nhau, sắc đỏ đã chạm sắc trắng.Tiếng chém xoàn xoạt, tiếng đao kiếm chạm nhau ben ben, tiếng những con ngựachiến bị chém ngã quị xuống, tiếng la hét từ giả cõi đời của những binh sĩ, nhữngdòng máu bay tung toé hoà với những giọt mưa đang rơi, những cái đầu lăn lóc,những thân xác bị chém đứt không được vẹn toàn. Khathay cùng các binh sĩ Chămchiến đấu liều mình, do cây cầu hẹp nên quân Việt dù đông hơn vẫn không thể vượtqua. Sau một hồi giao chiến, tướng Việt bèn hạ lệnh lui quân.Một lúc sau, cung thủ Đại Cồ Việt tới, hàng ngàn cung thủ bắn những đợt cung tênhướng vào quân Chămpa. Hàng vạn mũi tên bay như những đàn châu chấu khổng lồgăm vào binh sĩ Chăm, quân Chăm bị trúng tên, chết gối lên nhau. Khathay bị trúngtên ở cánh tay, trong lúc hoang mang cậu bị đẩy rớt xuống cầu.Khathay đang rơi, chàng vẫn kịp nhìn thấy các đồng đội còn lại bị mũi tên xuyên thân,đâu đó vẫn văng vẳng tiếng la ó, nhìn những hạt mưa rơi theo như xen lẫn những giọtmáu đỏ.6CÂU CHUYỆN CỦA KHATHAY (P2)Ngay sau khi đã tiêu diệt quân Chăm, quân Việt liền tràn qua cầu. Qua được một nữathì cầu bị sập, người ngựa đều rơi xuống sông. Không thể qua sông nên quân Việtphải lui về. Mười mấy ngàn người Chăm nhờ thế mà có thể bình an trở về quê hương.Lại nói đến Khathay, sau khi rơi xuống nước thì bị cuốn theo dòng nước. Nhìn thấycầu bị sập, có nhiều khúc gỗ lớn nổi trên mặt nước. Chàng dùng tất cả sức lực còn lạicủa mình bơi ngược dòng bám chặt lấy một khúc gỗ lớn. Nhờ vậy mà chàng sống sót.Một lát sau, khúc gỗ trôi qua bên kia sông. Khathay lên bờ sông, người mệt lã lại bịthương, chàng ngủ thiếp luôn trên bãi cát trắng. Màng đêm buông xuống, có một ônglão tốt bụng đi ngang qua, thấy có người bị thương đang nằm trên bãi cát thì tiến đếngần kêu dậy:-Cậu ơi! Dậy đi, cậu ơi!Khathay vì mất nhiều máu nên đã bất tỉnh, thấy vậy ông lão bèn cõng chàng về cănnhà của ông lão gần đó để chữa trị.Chàng tỉnh dậy, thấy vết thương trên cánh tay đã được băng bó cận thận. Đang đói,thấy bát cháo trước mặt nên chàng liền húp sạch cháo. Ăn xong bát cháo, chàng cảmthấy mình đã khỏe lại nhiều. Một lát sau thì một bà lão bước vô nhà. Bà nhìn chàngmột lúc rồi hỏi:-Cậu tỉnh rồi à, cậu thấy trong người khỏe hơn chưa?Không hiểu tiếng Việt nên Khathay không biết phải nói gì. Bà lão nói tiếp bằng tiếngChăm.Bà lão: Cậu làm sao mà bị thương vậy?Khathay: Tôi, tôi bị tên bắn. Sao bà lại nói được tiếng Chăm?Bà lão: Tôi vốn là người Chăm, qua đây sinh sống đã lâu.Gặp được đồng hương thì Khathay vô cùng mừng rỡ. Chàng quì xuống nắm lấy tay bàlão:-Cảm ơn lão nhiều lắm! không có lão thì chắc tôi chết nơi đây rồi!Hai ông bà lão ấy sống với nhau trong một căn nhà tranh ven sông. Lúc trước vì bàlão bị vu oan là phù thủy nên phải lánh nạn qua đây sống, tuy sống ở đất người, nhưnghai lão vẫn ngày đêm nhớ về quê hương, nhớ về đứa cháu gái vẫn còn đang ở cốhương. Gặp được người đồng hương bị nạn, hai ông bà ra sức giúp đỡ.Khathay ở căn nhà đó dưỡng thương được ba ngày thì đã khỏe hẵn lại. Hai ông bà lãocung cấp cho chàng lương khô và ngân lượng để chàng có thể trở về quê hương.Khathay: Nay con phải trở về, ân tình này của hai lão, con nguyện ghi nhớ suốt đời!Ông lão: Ừ, thì đã đến lúc con phải về. Khi đã qua nơi ấy, ta có một việc muốn congiúp đỡ.Khathay: Hai lão cứ nói, bằng bất cứ giá nào con cũng sẽ giúp.Bà lão lấy ra một cái khăn trắng, hoa văn màu đỏ đưa cho Khathay rồi nói:-Con hãy tìm đến Plây Căm (Làng Căm), xứ Amaravati. Ở nơi đó có cháu gái ta tên làSasa. Hãy đưa cái khăn này cho nó, nói rằng ông bà ở quê người vẫn bình yên!Khathay: Vâng, con nhất định sẽ trao chiếc khăn này cho Sasa. Nhất định!Nói rồi, Khathay vĩnh biệt hai ông bà lão rồi ra đi.7Ba ngày sau, Khathay đã qua địa phận Chămpa, khi đang đi ngang qua một khúc sôngthì thấy có một cô gái nhảy xuống sông tự vẫn. Không kịp nghĩ nhiều, Khathay liềnnhảy xuống sông vớt cô ấy lên. Cô ta vẫn còn sống. Được vớt lên, cô gái trừng trừngnhìn Khathay. Tưởng cô gái giận mình, Khathay phân minh:-Tôi, tôi biết là cô muốn chết, nhưng tôi không thể thấy chết mà không cứu.Cô gái ấy lại trừng trừng nhìn Khathay hơn nữa nhưng lại không nói gì.Khathay nói tiếp: Cô tên gì? Cô còn trẻ, sao lại muốn chết chứ?Cô gái: Tôi tên Garê. Hồi nãy tôi còn muốn chết, nhưng giờ thì tôi lại rất muốn sống.Cũng nhờ anh, nếu không thì tôi chết vì quyết định dại dột của mình rồi, cảm ơn anh!Khathay cười rồi nói: Không có gì, thấy sự như vậy, giúp được thì giúp thôi.Garê: Nay, anh theo tôi về làng tôi nhé, nhờ anh mà tôi vẫn còn sống. Tôi phải báođáp anh.Khathay: Ôi không, tôi còn phải về, nhà tôi xa lắm. Ơn này, cô không cần phải báođáp đâu.Garê: Không! Anh nhất định phải về với tôi, nếu anh không về với tôi, tôi sẽ lại nhảyxuống con sông này. Coi như anh tốn công cứu người vô ích.Thế là Khathay phải cùng Garê về làng của cô ấy. Làng của Garê tên là Plây Cang,một ngôi làng ven biển chuyên đánh bắt cá và buôn bán. Ngôi làng ấy ở phía bắc xứAmaravati, nơi giáp ranh giữa Đại Cồ Việc và Chămpa . Garê năm nay 16 tuổi, Garêcó một người cha giàu có. Ông ấy tên là Khang, vợ ông Khang mất sớm chỉ để lại mộtđứa con gái nên ông rất quí đứa con gái ấy. Garê vốn bướng bỉnh, cô ta đi chơi thâuđêm mới về nhà, bị cha đánh rất đau. Nhất thời nóng giận nên muốn tự vẫn. Ở PlâyCang, Khathay được cha của Garê đối xử rất hậu. Chàng thật thà, lại khôi ngô, khỏemạnh nên rất được Garê yêu quí. Tối hôm đó, trời trăng thanh gió mát, chỉ hai người ởbên ngọn lửa dưới gốc cây. Garê tựa đầu vào vai Khathay.Garê: Ai nhu lơi! (Chàng ơi!)Khathay: Chàng đây!Garê: Em yêu chàng nhiều lắm!Khathay: Chàng cũng yêu em nhiều lắm!Garê: Trời hôm nay mát lắm, trăng đêm nay đẹp lắm. Dưới gốc cây này, bên ngọn lửanày. Ta nguyện sẽ yêu nhau mãi nhé chàng!Khathay: Ừm, Ta sẽ mãi mãi yêu nhau, bên nhau suốt đời!…Lúc đó, ở Plây Cang có một con hổ thường đi quanh làng bắt người ăn thịt. Ngày thìcon hổ ở yên trong rừng gần đó để tránh thanh niên làng đi lùng bắt. Đêm về thì hổ điquanh làng, thấy ai thì hổ vồ ăn thịt. Dân làng rất khiếp sợ, dân làng quen đi biển,không biết đi rừng nên khó mà bắt được hổ. Nhiều người trong làng bị ăn thịt,Khathay thấy vậy thương lắm, cảnh tượng đau xót lắm. Chàng quyết định vào rừngmột mình trong đêm tối để giết cho được hổ, mặc cho ông Khang và Garê ngăn cản.8CÂU CHUYỆN CỦA KHATHAY (P3)Khathay tạm biệt ông Khang, Garê và dân làng Plây Cang. Chàng mang theo gươm,cung tên rồi vào rừng một mình. Nhiều trai làng khác muốn cùng đi với chàng, nhưngKhathay từ chối, sợ đi nhiều người sẽ làm kinh động hổ, khó mà giết được nó.Khathay bước đi, chàng bước từng bước nhẹ nhàng nhưng vững chắc, phong thái củamột binh sĩ già dặn. Chàng băng qua đồng cỏ tiến tới khu rừng. Vầng trăng sáng chiếulối chàng đi. Tới gần khu rừng, Khathay trèo lên một cái cây cao cho dễ quan sát. Đợicon hổ đi ra khỏi khu rừng sẽ dùng cung tên mà bắn nó. Gần nữa đêm thì hổ xuấthiện. Trái với tưởng tượng của Khathay, đây không phải là một con hổ to lớn đầy sứcmạnh mà chỉ là một con hổ gầy gò, đói khát và còn bị thương tật ở sau chân trái. Conhổ đang bước đi những bước mệt mỏi. Không còn nhiều thời gian để suy nghĩ,Khathay dùng cung tên bắn liền liên tiếp ba mũi tên. Một mũi tên trúng ngay môngphải con vật. Con vật gầm lên đau đớn rồi quay đầu chạy vào rừng. Khathay nhanhchóng lao xuống cây đuổi theo con vật. Tuy con vật đã chạy mất hút vào sâu trongrừng nhưng vẫn còn vết máu nó để lại trên đường chạy. Ánh trăng rất sáng giúpKhathay có thể lần theo vết máu mà tìm ra nơi ẩn náo của hổ. Chàng cứ theo vết máu,băng qua cánh rừng đầy thú dữ và trùng độc. Một hồi sau, chàng cũng tìm được nơi ấnnáo của nó. Đó là một cái hang đá nhỏ. Ánh trăng rọi vào trong hang giúp chàng cóthể quan sát bên trong. Ẩn nấp bên ngoài hang, chàng thấy trong đó không chỉ có mộtcon hổ mà còn có 5 con hổ con. Mỗi con hổ con chỉ nhỏ bằng con mèo. Con hổ mẹ bịthương nằm đó, nhìn kỹ vết thương ở chân trái, Khathay nhận ra đó là vết thương dotên bắn. Chàng ngẫm nghĩ rồi hiểu ra sự tình. Thì ra, con hổ đang nuôi con của nó,chân nó bị con người bắn bị thương nên nó không thể săn được các con thú trong rừngđể nuôi con. Nó đã phải đi xa tới tận biển để săn người. Vì người yếu ớt, dễ săn hơn.Thì ra, chính con người đã ám hại nó trước. Có thể nó muốn trả thù con người, hoặccó lẽ nó không còn con đường nào khác là phải săn người.Khathay từ từ bước vào trong hang, con vật gầm gừ cố mọi sức đứng dậy. Khathaycầm thanh gươm lên chuẩn bị kết liễu con vật. Nhưng nhìn năm con hổ bé nhỏ kiachàng lại động lòng, nếu mẹ nó chết thì ai sẽ nuôi chúng? Chưa kịp nghĩ nhiều thì hổmẹ đã dùng tất cả sức lực còn lại của nó bay lên định vồ lấy Khathay. Nhanh như cắt,Khathay dùng thanh gươm đâm xuyên ngay cổ của hổ mẹ. Sau khi giết được hổ.Khathay mang đầu hổ về Plây Cang. Người chàng đầy máu. Dân làng thấy đầu hổ thìvô cùng mừng rỡ. Ai ai cũng kính phục Khathay, chàng được dân làng tặng nhiềuvàng bạc châu báu.Sau khi ở Plây Cang được một thời gian, Khathay xin phép ông Khang trở vềIndrapura để thăm Cha mẹ mình. Chàng hứa sẽ quay về kết hôn với Garê. Đêm trướcngày ra đi, Khathay và Garê đã gặp nhau để tâm sự lần cuối.Garê: Chàng sẽ quay về sớm chứ?Khathay: Vâng, anh hứa anh sẽ quay về thật sớm với em!Garê: Em lo lắm. Em lo chàng sẽ gặp ai đó xinh đẹp hơn em, hiền dịu hơn em, rồichàng sẽ quên mất em.Khathay: Em yêu ơi!Garê: Ơi!Khathay: Ai ních thầy lô lô! (Anh yêu em nhiều lắm!). Anh đã yêu thì anh sẽ chỉ yêumình em thôi, dù được nàng tiên yêu thì anh cũng sẽ từ chối. Anh yêu mình em thôi,em hiểu không?!Garê: Hihi! Em không hiểu! Chàng mà không giữ lời, thì coi chừng em. Em sẽ lùngsục mọi nơi để tìm cho được chàng. Chàng nhớ lấy!9Sáng hôm sau, Khathay rời khỏi Plây Cang. Lần này, chàng đi với một con ngựa. Gầntới phía bắc Indrapura, chàng ghé qua Plây Căm để thực hiện lời hứa với hai ông bàlão đã cứu mình ở nước Việt. Đi tới gần đầu làng thì chàng thấy một bà lão đang gánhmột bó củi, chàng bèn hỏi:Khathay: Bác ơi! Ở đây có ai tên Sasa không?Bà lão suy nghĩ một hồi rồi nói: Có, ở đây chỉ có một người tên là Sasa.Khathay: Vậy bác có biết nhà của Sasa ở đâu không? Bác chỉ cháu với.Bà lão: Ừ. Cháu cứ theo bác.Khathay: Bó củi này để cháu gánh dùm bà!Bà lão: Cảm ơn cháu!Khathay đi theo bà lão vào trong làng. Đi được một đoạn thì đến nhà của Sasa. Đó làmột căn nhà làm bằng bùn đất, tre và rơm. Trước nhà có hai cây dừa tỏa bóng rất mát.Xung quanh nhà là hàng rào chỉ cao ngang ngực người. Bà lão gọi to: Sasa ơi, cóngười tìm con kìa. Sasa bước ra, đó là một thiếu nữ tuổi 17, 18. Sasa mặt bộ áo dàimàu trắng hồng. Trông nàng thật xinh đẹp. Sasa nhìn bà lão rồi nói: Con không quenngười này. Bà lão nghe vậy thì nhìn vào Khathay, chờ lời giải thích.Khathay: Ừ đúng rồi, cô không biết tôi. Chúng ta chưa bao giờ gặp nhau cả.Sasa: Vậy anh tìm tôi làm gì?Khathay: Tôi là binh sĩ, hồi đánh nước Việt vừa rồi, tôi được Ông Bà cô ở bên nướcViệt cứu sống.Sasa: Vậy à, tôi nhớ ông bà lắm! Anh mau mau vào nhà, chúng ta sẽ còn nhiềuchuyện để nói!Tối hôm đó, Khathay, Sasa và bà lão đã nói chuyện với nhau rất nhiều. Khathay đượccho ăn ngon, được cho uống rượu no say. Chàng chìm sâu vào giấc ngủ lúc nào cũngkhông hay, chàng vẫn chưa kịp trao chiếc Khăn cho Sasa. Nửa đêm hôm đó, bỗng cónhiều người cầm đuốc, cầm vũ khí xông vào nhà. Lấy bao bịt đầu chàng lại, lấy dâytrói tay chân chàng lại rồi đưa chàng đi. Sasa và bà lão không hề ngăn cản mà còngiúp cho đám người đó. Thì ra, cô gái mặt áo dài trắng hồng không phải là Sasa.Mười năm trước, ở Plây Căm xảy ra một đại dịch. Rất nhiều dân làng chết thảm.Người ta cho rằng thần linh trừng phạt họ. Họ tế gà, tế dê, tế trâu nhưng bệnh dịchvẫn không dứt. Gia đình của Sasa mới chuyển đến sống ở Plây Căm chưa lâu, gia đìnhchỉ gồm hai ông bà và cháu gái, trước đó họ ở xứ Panduranga. Có người vì mâu thuẫnvới ông bà của Sasa nên đã gài bẫy họ, tố cáo họ là phù thủy, là nguồn bệnh. Đang lúclý trí lu mờ, dân làng kéo nhau đến vây bắt hai ông bà, nhưng vì đã biết trước sự tìnhnên hai ông bà đã trốn sang nước Việt. Lúc đó, Sasa không có ở nhà, vậy là ba ông bàcháu lạc mất nhau. Hai ông bà nghĩ cháu gái còn nhỏ, chắc sẽ không bị hại nên đanglúc khẩn cấp đã cắn răng mà bỏ lại cháu gái ở Plây Căm, đợi sau này sẽ tìm cách cứucháu gái. Nhưng sau khi không tìm thấy hai ông bà lão, dân làng càng nghi ngờ họ làphù thủy. Họ đổ mọi tội lỗi cho Sasa, họ bắt Sasa lại, định thiêu sống để tế thần.Nhưng một số người chính nghĩa trong làng đã ngăn chặn việc làm man rợ này, họ đãgiải thoát cho Sasa. Kể từ đó không ai biết tung tích của Sasa nữa. Và cũng thật trùnghợp, từ đó, dịch bệnh ở Plây Căm cũng chấm dứt.10CÂU CHUYỆN CỦA KHATHAY (P4)Tuy dịch bệnh đã qua đi, nhưng dân làng vẫn tin rằng ông bà của Sasa là phù thủy, vàmột ngày không xa họ sẽ trở lại trả thù dân làng. Dân làng rất sợ hãi bệnh dịch, họ lưutruyền những câu chuyện thêu dệt về hai người, nói rằng hai người có nhiều phép biếnhóa. 10 năm trôi qua, những câu chuyện cứ được kể đi kể lại rồi được thêm bớt chothêm phần ly kỳ. Dần dần người ta tin chắc rằng ông bà của Sasa là phù thủy.Hôm đó, Khathay hỏi một bà lão về Sasa. Điều đó gợi cho bà lão nỗi sợ hãi về dịchbệnh 10 năm trước, về sự trả thù của phù thủy. Để bảo vệ con cháu mình, để bảo vệdân làng mình. Bà lão đã dựng mưu bắt lại Khathay để tra xét cho rõ. Cô gái mặt áotrắng hồng chính là cháu gái của bà lão đó.Sau khi bị bắt, Khathay bị dẫn đến một căn nhà cách xa ngôi làng. Chàng vẫn còn bịcột tay chân lại. Họ nói với Khathay là đã gửi người tới Indrapura để xác minh, nếuKhathay thật sự là binh sĩ thì họ sẽ thả đi.Nửa đêm hôm đó, tiếng ếch kêu, gió lạnh. Bọn người canh gác thấy Khathay đã bị tróichặt chân tay thì chủ quan. Họ uống rượu say, ngủ hết, chẳng còn biết trời đất là gì.Có một cô gái áo đen, tay cầm con dao sắt. Cô ta bình tĩnh bước qua lũ người đangngủ la liệt bên đống lửa. Khathay không biết, chàng vẫn đang ngủ. Cô ta tiến đến gầnKhathay, ánh dao sắt loáng chói vào mặt anh. Cô ấy vỗ vào Khathay rồi gọi nhẹ:-Anh dậy đi, tôi đến để cứu anh. Khathay mở mắt ra, gật đầu tỏ vẻ hiểu. Cô gái lấydao cắt dây trói rồi hai người cùng chạy trốn.Cô gái: Tôi chính là Sasa.Khathay: Cô đây à, trông cô đen đen, không giống như tôi tưởng!Sasa cười rồi nói: Tôi phải phơi nắng, nên đen.Thật ra Sasa vẫn ở quanh Plây Căm. Cô vẫn chờ đợi một ngày nào đó ông bà sẽ đếnvới mình. Cô đổi tên, sống lang thang đây đó. Cô làm đủ mọi việc vất vả, da cô rámnắng, trông cô không được đẹp, nhưng lòng cô trong sạch. Càng ngày cô càng lớn.Trừ chính cô, không còn ai biết cô là Sasa. Nghe tin có người đến tìm mình, cô mừngrỡ vô cùng. Cô tìm đến căn nhà nhốt Khathay, ẩn nấp quanh đó, chờ thời cơ để cứuanh. Đến gần sáng thì hai người cũng đã cách Plây Căm khá xa.Khathay: Đây là chiếc khăn mà ông bà cô đã nhờ tôi gửi cho cô.Sasa: Đúng rồi, hoa văn đỏ này chính là biểu tượng của dòng tộc tôi.Khathay: Chắc cô muốn đư&#
0 Rating 308 views 4 likes 0 Comments
Read more
By: On November 5, 2014
Mộng Tình Xứ ChămPa( tác giả : Ngọc Tảo )Phần1. - Bông Hoa Không NởNgày xưa, khi vương quốc Chăm Pa còn là một đất nước hưng thịnh và phồn hoa, tiểu vương quốc Vijaya là một lãnh địa rộng lớn giàu có, các thương nhân ở nhiều nơi khác đổ về làm ăn, cảnh tượng xem thấy thật đông đúc và rất thịnh vượng, nhưng nhân dân nơi đây vẫn phải chịu cạnh cơ cực do chiến tranh và nạn cướp phá.Năm 1373 niên lịch Saka (tức năm 1451 sau CN) . Bắc ChămPa có đô thành tên Đồ Bàn thuộc tiểu vương Vijaya, Đồ Bàn là một kinh đô to lớn và nhộn nhịp, đó là nơi ở mà vua của các vua ngự đã hàng trăm năm nay, Đồ Bàn cũng là nơi tập trung và chỉ huy hạm đội thủy quân và lục quân lớn nhất mà ChămPa thời đó có, Đồ Bàn được bao bọc bởi tường thành lũy hào vững chắc, kiên cố và hiểm trợ nhằm ngăn chặn các cuộc đánh úp vào kinh đô hòng dành vương quyền tối cao của các lãnh chúa liên bang ở phía nam và cả những ý đồ diệt phá từ các nước phương bắc và tây nam. Bên ngoài thành là vùng đất trồng trọt và những khu rừng quý.Cách ngôi thành Đồ Bàn không xa ở phía trong rừng có một ngôi nhà tranh mái lá, trong nhà chỉ có một bà mẹ và một đứa bé trai mới được ba tuổi, đứa bé này tên JaNin, họ vốn ở tận đất Indrapura, sau khi hoàng gia để mất đất vào tay của người phương Bắc, dân Chăm sống trong cảnh cơ cực và nghèo nàn, sau bao nhiêu trăm năm ở đây với hoang phế và tàn tích của một vương triều đã mất, họ quyết định bỏ xuống phía Nam, nhưng vẫn còn một số ở lại vì không nỡ rời bỏ đất đai, nhà cửa, gia đình JaNin thuộc trong số ở lại, họ và nhiều người khác cố gắng bám vào số ruộng đất đã khai hoang để sống, nhưng họ sống mà không được yên; hàng tháng bọn lính phương Bắc thường đến với số lượng đông, chúng kiểm dân,bắt bớ,lũ trai thanh niên cũng bị bắt làm lính cho chúng, mùa màng đến thì dân Chăm phải trả tiền thuế với giá ở trên trời, mọi của cải và những tặng phẩm mà dân Chăm tích góp đưa cho vị quan ở đây cũng không làm thỏa mãn lòng tham và tội ác của chúng. Những cuộc nổi dậy bùng lên, lửa chưa bén thì đã bị dập tắt hoàn tàn và tàn khóc, nhiều người bị giết và bỏ đói vì không đủ tiền đóng thuế, những ai nổi dậy chống đối thì gia đình bị giết sạch vì tội che giấu và đồng lõa, Cha JaNin dẫn đầu đám đông đánh trả bọn lính, thế là gia đình JaNin bị tàn sát hết, người mẹ phải bồng đứa bé là JaNin trốn trong một đống rơm lớn mới thoát được nạn, sau đó người mẹ bế JaNin chạy dài về hướng nam đến xứ Vijaya và dựng một ngôi nhà tranh nhỏ ở ngoài thành Đồ Bàn, hằng ngày bà mẹ dắt đứa con vào thành tìm cách làm thuê, làm mướn, ở đở cho người ta chỉ để nuôi con và sinh sống qua ngày, cuộc sống hết sức khốn khổ.Thời gian đằng đẵng trôi qua, người mẹ ấy bây giờ mái tóc đã nhanh chóng nhuốm màu mây, từng nếp nhăn đua nhau in vết trên khuôn mặt hốc hác, người mẹ ấy giờ đã già đi nhiều. Còn đứa bé thì đã khôn lớn, trở thành một chàng trai lực lượng và khôi ngô, chàng JaNin năm nay được mười chín tuổi, JaNin da ngâm, tóc xoăn, mặt vuông mũi cao, lưng to vai rộng, dáng đi như loài mãnh sói. Nin rất khỏe, có hôm chàng tìm được một cái thân cây to vốn là loài gỗ quý ở trong rừng, ước chừng nặng hơn cả một xe bò chở thóc, chàng ta liền chặt xuống vác vào thành đem bán để đổi gạo, ai ai trông thấy cũng tấm tắc khen là một người có sức khỏe. Nin rất thích nhìn và ngắm nghía những loại vũ khí mà chàng thấy, vào thành Đồ Bàn, hễ thấy thanh gươm nào hình thù kì lạ là chàng chăm chú nhìn thật lâu, sau đó chạy liền ngay về nhà chặt cây chế tạo lại thanh gươm đó bằng gỗ y chang, chàng giấu những thứ vũ khí bằng gỗ đó trên cây vì sợ mẹ nhìn thấy, hẳn nhiên mẹ chàng không chịu dựng nhà trong thành mà dựng nhà tranh ngoài rừng là có nguyên do, mẹ JaNin đã từng chứng kiến và chịu đựng quá nhiều sự mất mát, mất cha mẹ, mất chồng, anh chị em và họ hàng, mẹ JaNin không muốn mất thêm JaNin, từ nhỏ JaNin được mẹ dạy và dặn rất nhiều lần, mẹ chàng ngăn cấm chàng gây thương tích cho người khác, không dùng vũ khí, chỉ được dùng nỏ và một số thứ để đi săn, JaNin hiểu và không muốn mẹ trông thấy những cái vũ khí tuy rằng bằng gỗ đó, hằng ngày JaNin tập luyện với những thứ vũ khí mà chàng chế tác, chàng có thể sử dụng thành thạo và điêu luyện mọi thứ vũ khí mà chàng tạo ra. Tính chàng như thế nhưng chàng rất thương người, Nin rất thật thà và chàng thương mẹ lắm, hằng ngày chàng được mẹ dạy cho cái chữ, chàng thấy cái chữ của Chăm mình ngoằn nghèo cong nghoeo cũng hay hay nên rất ham thích.Một ngày trời mưa lưa thưa mát mẻ, JaNin bẫy được một lúc cả hai con nai và một con lợn rừng, chàng nhìn vào mắt con nai, không hiểu sao cảm thấy chảnh lòng nên chàng thả cho hai con nai này chảy đi, còn lợn rừng thì chàng liền vác mang vào trong thành ở chỗ ngoài chợ bán cho người bán thịt. Bên trong thành Đồ Bàn, ở trong chợ kẻ bán người rao, người mua dạo chợ đông như hội, con nít nối đuôi nhau đùa nghịch, những nàng thiếu nữ Chăm xinh tươi tuổi đôi mươi cũng ra đây, họ đi chợ và dạo mua những thứ trang sức, những chiếc khăn và những thứ vải quý giá, các thương nhân và ngoại nhân mang mọi thứ quý hiếm ở khắp nơi mang về đây, thật là tấp nập và nhộn nhịp, bọn thanh niên nhìn thấy những thiếu nữ ấy lấy làm vui và thích mắt vô cùng.Trong thành có rất nhiều người đẹp và duyên, trong đó có một người con gái tuổi vừa mười tám, nàng tên là PaRa, PaRa vừa đẹp người lại vừa đẹp nét, đôi mắt thơ ngây to tròn trong vắt của nàng nhìn vào như người mới tỉnh ngủ, quyến rũ ánh nhìn của người khác một cách vô tình và lạ thường; nàng có khuôn mặt tròn, mi nàng cong, môi nàng phai nồng, dáng người gọn gẽ, tiếng nói thỏ thẻ nhưng rất chính chắn và chuẩn mực, nàng có nụ cười duyên làm đắm đuối biết bao nhiêu con trai mang trong mình cái dại dột của tình ái, nàng nhăn mặt củng đủ làm cho người con trai đứng bên cạnh phải thẫn thờ. PaRa mồ côi cả cha lẫn mẹ, nàng sống nhờ trong nhà một người chú từ nhỏ, vì cảm lòng chú nuôi nấng nên nàng làm việc rất chăm chỉ, nàng nấu ăn rất ngon, múa lại càng rất hay, bọn con trai làng thường đua nhau mang quà đến tận nhà tặng nàng nhưng nàng chỉ mỉm cười mà không lấy. Hôm nay nàng PaRa cũng đi chợ, nàng đi với một người em trai tám tuổi lúc nào cũng tươi cười và đòi theo chị gái, đó là em họ của PaRa, họ ra chỗ người bán thịt, chàng JaNin cũng đang ở đấy. Vừa trông thấy PaRa, JaNin đã đứng chôn chân tại chỗ, chàng chưa bao giờ được đứng gần nhìn một người con gái như thế này, Nin mê mẩn tâm thần chăm chú ngắm đôi mắt, đôi môi và đôi khuyên tai nhỏ đáng yêu của nàng, Nin dường như đã bị PaRa hớp hồn ngay từ lần gặp đầu tiên, đúng là cảm giác của đứa con trai lần đầu trông thấy một người con gái xinh đẹp. Còn nàng PaRa thấy có người con trai bên cạnh nhìn mình như vậy, nàng mỉm cười và nhìn JaNin, hai đôi mắt nhìn nhau, nàng thấy khuôn mặt của JaNin thật là ngây ngô và nó làm nàng như muốn bật cười, nàng e dè lấy chiếc khăn choàng đầu che mặt lại, ngoài trời mưa vẫn rơi lưa thưa làm trời thật thoáng mát.Cạnh chỗ người bán thịt đó có những người thợ săn kia, họ mang về một con hổ to lớn, cực kì hung dữ, con hổ bị nhốt trong lồng, mấy đứa con nít súm lại quanh cái lồng reo hò ầm ĩ, chẳng may cửa lồng bị con hổ xé toạc sợi dây, con hổ phóng mình lao ra làm cửa lồng bị gãy gập làm hai, con hổ to lớn thoát ra khỏi lồng, những ai ở quanh đó đều lo mà chạy, trẻ con đàn bà thì ôm nhau đứng núp, những người thợ săn thì thủ thế giăng dây cầm giáo nhưng không ai giám tiến lại gần cả, con hổ to lớn bị bỏ đói nhiều ngày, thấy con lợn rừng chỗ hàng thịt, lại thấy nàng PaRa ở trước mặt liền nhe những chiếc răng nanh gầm lên, nhún đôi chân sau nhảy vồ tới định ngoặm cái đầu nhỏ của nàng PaRa, Nin đứng gần đó, chàng nhanh chân lao tới đẩy PaRa ngã xuống thoát khỏi cái chết trong gang tất, PaRa sợ quá ngất đi mất, con hổ nhanh chóng quay lại về phía JaNin, nhảy tới dùng móng vuốt vồ JaNin, JaNin không kịp trở tay, chàng bị con hổ cào chảy máu nhiều ở ngực, chàng ngã quỵ xuống, con hổ xoay mình và định nhảy tới lần nữa, con hổ gầm lên, Nin nhanh chóng đứng dậy, máu chảy ướt đẫm áo và người của chàng, Nin xé toạc áo mình để lộ thân hình cơ bắp, chàng rút con dao trong người ra,dựng cả tóc gáy, trợn mắt cau mày, điên tiết hét lên một tiếng lớn vang như sấm sét đang muốn xẻ đôi cây to, Nin bước tới,con hổ nghe tiếng thét sợ hãi bước lui mấy bước rồi nằm phục xuống, Nin bước tới thì con hổ càng nằm xuống thấp hơn và tỏ ra vẻ co ro, ai trông thấy cũng kinh sợ , những người thợ săn liền mang cái lồng úp lên con hổ rồi cột lại cửa lồng thật chặt, ai cũng khen Nin tài giỏi và ca ngợi không ngớt lời, chuyện chàng JaNin thuần phục con hổ được mọi người trông thấy truyền tai nhau. Còn nàng PaRa được người nhà đưa về, tới đêm mới tỉnh, nghe kể lại mọi chuyện mới nhớ ra là mình đã được JaNin cứu, từ đó nàng đem lòng ngưỡng mộ và thầm mong nhớ JaNin, chỉ cầu được gặp lại chàng để cảm ơn và thể hiện lòng thật của mình.Chàng JaNin từ nhỏ đã theo mẹ đi làm thuê mướn cho người trong thành, mẹ chàng có làm công cho một nhà giàu nọ, sau này chàng lớn lên cũng làm thuê trong nhà này, trong nhà đó chàng có quen thân với một người thanh niên hơn chàng một tuổi, người thanh niên ấy tên Bố Ca, là một cậu chủ trong gia đình, JaNin xem Bố Ca như là bạn thân và người anh của mình. Bố Ca dáng người vừa, mặt sáng mày ngược, đôi mắt nhìn không thẳng, tính tình đa nghi và tính toán, Bố Ca biết JaNin là một người sức khỏe có thể làm việc gấp hai những kẻ khác nên mới lân la làm thân, thường xuyên cho người mang thức ăn ngon về cho mẹ JaNin để JaNin cảm cái ơn ấy mà làm việc hết sức vì nhà mình hơn, mẹ JaNin tưởng Bố Ca là người tốt nên nói con trai mình phải cố gắng làm việc vì chủ, cũng kể từ ấy mà JaNin chỉ đi săn và làm việc cho nhà Bố Ca mà thôi.Chiều ngày hôm sau Nin vào thành xin Bố Ca cho chàng nghỉ mấy ngày vì chàng bị thương do hổ vồ, nàng PaRa tìm đến gặp, JaNin và PaRa gặp nhau, PaRa và JaNin đưa nhau ra bờ sông tâm sự, bỗng nhiên trời mưa, cả hai nắm tay chạy vào núp trong Tháp Cánh Tiên, đôi trai gái lần đầu tiên được ngồi gần nhau nên cả hai ai cũng ngượng ngùng, trong câu chuyện nàng PaRa tỏ ý cảm kích cái ơn cứu mạng, lời nói hết sức e thẹn và ý nhị làm cho chàng JaNin siêu lòng lúc nào không hay, chàng ấp úng mãi mà chẳng nói thành lời được, hai cặp mắt nhìn nhau đắm đuối, tưởng chừng như là đã thuộc về nhau tự bao giờ, một nụ hôn đầu được trao đi nhẹ nhàng, mưa vẫn rơi trên khung nền lãng mạn của tình yêu. Và kể từ đó trở đi, JaNin và PaRa đem lòng yêu mến nhau, thường xuyên gặp gỡ trao đổi tâm tình.Bố Ca vốn cũng biết đến PaRa, PaRa là một người con gái xinh đẹp mà Bố Ca đã mang lòng mê mẩn nhưng nhiều lần mang quà đến tìm gặp mà không bao giờ gặp được, nay bỗng nhiên nghe PaRa và JaNin là một đôi thì hết sức ghanh tị, lại được JaNin đem chuyện chàng yêu thương PaRa kể thật cho nghe thì Bố Ca lại càng căm tức, hắn ta nghĩ JaNin là một đứa nghèo hèn trong tay chẳng có cái gì mà PaRa lại đi thân với người như vậy, còn nhà mình thì bạc vàng tuy ít nhưng cũng không hề thiếu thốn, gia đình lại giàu có thì kém thua thằng JaNin chỗ nào, từ đó Bố Ca tỏ ý ghen ghét JaNin, những công việc nặng nhọc đều khéo léo sắp xếp để cho mình JaNin làm, buổi sáng ông mặt trời còn chưa ló mặt thì JaNin đã phải lùa đàn trâu ra chăn,chàng hết đi lấy những bó củi to đùng thì lại ra rẫy khai hoang, hết ghánh nước cả ngày thì lại thức trắng đêm đi gặt lúa, có ngày Bố Ca giả cách bị đau kêu JaNin trèo lên tận núi cao hái lá cây thuốc về cho hắn ăn, hắn chỉ mong cho JaNin lên núi bị rắn rít cắn chết, ma quỷ bắt đi cho hắn được một mình yêu lấy PaRa, một bên Bố Ca bốc lột sức JaNin, một bên lại sai người mang thêm nhìu thứ ngon quý đem tặng cho mẹ JaNin,lại chu cấp thêm tiền bạc, JaNin thì vẫn cố gắng làm việc cho tốt, chàng không biết là người bạn thân duy nhất và cũng là người anh mà chàng coi đang cố gắng tìm cách hại mình.Cuộc sống nơi xứ sở Chăm cứ như vậy trôi qua từng ngày, những tai ương cứ âm thầm tìm đến.Năm 1391 niên lịch Saka (tức năm 1469 sau CN)Một ngày mới lại đến trên kinh đô Đồ Bàn. Nhà vua tối thượng ban lệnh cho tất cả thần dân và quân đội chuẩn bị cho cuộc vượt biển tiến đánh một khu vực trọng yếu ở phương bắc, sau những cuộc họp hoàng gia và quan thần, vùng đất được chỉ định đánh phá lần này là Vuyar – thành Hóa châu (Châu Lý), một vùng đất xưa kia của ta đã đánh mất vào tay nước Đại Việt, cần phải đánh phá Hóa châu vì đây là nơi tích trữ gạo dồi dào nhằm cung cấp lương thực cho quân binh của Đại Việt trên đường di chuyển cả đường bộ và đường thủy để đánh chiếm kinh đô của ta.Cả thành dường như chấn động và tấp nập hẳn lên, ở ngoài khơi, những chiếc thuyền độc mộc được dẹp sang một ngả để hàng ngàn những chiến thuyền to lớn của ta vào luân chuyển lương thực và sửa chữa chuẩn bị cho ngày xuất quân, binh lính được chọn lựa và tuyển thêm, bọn thanh niên háo hức đua nhau xin nhập quân, hầu như ai cũng muốn đi đánh trận này, đây chắc chắn là một trận thắng vì nó là một sự bất ngờ được dành cho địch,tinh thần của binh lính thoải mái lúc nào cũng có sự sẵn sàng, đây chỉ là một cuộc đi cướp phá và ai cũng biết là ai đi cũng sẽ có chiến lợi phẩm để mang về, Bố Ca cùng đám bạn cũng đi, Bố Ca nghĩ quân ta đông và nhiều như thế, đi cho biết một lần thế nào là đánh trận và nếu gặp may thì hắn sẽ mang về những chiến lợi phẩm có giá trị. Tất cả được chuẩn bị kĩ lưỡng cho cuộc xuất phát sau nửa tháng nữa.Được tin, JaNin đang cày ruộng, lại thêm mấy đứa bạn rủ nhập quân, JaNin lập tức chạy quay về nhà tìm mẹ, thấy mẹ đang ngồi nhai trầu trước cửa chàng ngồi xuống cầu xin mẹ cho chàng được gia nhập thủy quân, chàng từng theo mấy đứa bạn ra biển đánh cá, chàng thích cái cảm giác được lướt đi trên đầu những con sóng, ở trên những con thuyền giữa đại dương bao la khiến chàng thấy mình thật nhỏ bé giữa thiên nhiên, giữa trời này, chàng thầm cảm ơn các Yang đã ban cho chàng, cho mẹ chàng, PaRa và tất cả mọi người có được một cuộc sống thú vị và vui vẻ. Giữa biển xanh này, chàng thấy thoải mái và tự do. Chàng thích thú khi kể cho mẹ nghe về cảm xúc của chàng trong những lần ra khơi, chàng nài nỉ mẹ cho chàng được đi đánh trận này, chàng sẽ lập công và nhận được những phù hiệu cao quý, những chiến lợi phẩm mang về chàng sẽ đem đổi thành tiền mua vải tặng mẹ, chàng sẽ mua gạo để dành trong nhà, chàng vui mừng khi nghĩ đến những điều đó, nhưng câu trả lời của mẹ làm chàng thất vọng vô cùng.Mẹ chàng ôn tồn đáp :- “ Không đi và đừng đi. Nin! ”Mẹ chàng lấy khăn choàng đầu lâu mồ hôi trên mặt chàng rồi nói tiếp :- “ Hãy hiểu cho nỗi lòng và sự cố gắng của mẹ bấy lâu nay. Mẹ đã thấy con đang sẵn sàng, người khác nhìn vào nghĩ mẹ thật ích kỉ khi giữ con ở nhà. Mẹ không cần những thứ lợi phẩm mà con nói đến từ việc theo theo đoàn quân đi đánh phá. Ngày xưa mẹ ẵm con bỏ làng chạy về nơi này là mong tìm được cuộc sống bình thường với những niềm vui. Nói cho mẹ nghe, con đã giết hay cắt đầu một ai chưa ? “JaNin buông giọng đáp :- “Dạ ! chưa một lần nào, đi đánh trận con sẽ thử”Mẹ chàng khuyên:- “ Con giết người khác hay người khác giết con, mẹ không muốn con đi chết ở đất người. Nhà mình nghèo, mẹ đi làm thuê lấy gạo nấu cháo nuôi con từ ngày con biết bò đến lúc con biết chạy, biết nói, lời mẹ nói con hãy nghe, trận này con không được đi.”JaNin nghe mẹ nói, thất vọng tràn trề, chàng như một đứa trẻ con, chàng buồn, chàng chạy ra ngoài nhảy xuống con suối ở trước nhà tắm để quên đi nỗi buồn này. Đúng lúc đó thì PaRa mang một mớ rau đến, nghe mẹ JaNin kể lại, trông ra ngoài thấy JaNin đang kì cọ tắm mình ở con suối trước nhà thì hai người phụ nữ nhìn nhau cười rất tươi.Đến thời gian hạm đội xuất phát, người ta kéo nhau ra tiễn người thân, PaRa cũng ra tiễn người thân, JaNin thì ra tiễn Bố Ca vì chàng coi Bố Ca như là người anh trai, Bố Ca đắc ý và coi thường JaNin khi thấy JaNin không có mặt trong đội hình xuất phát. Cãnh tiễn người ra trận diễn ra trong nước mắt và cả những niềm vui. Hàng ngàn chiến thuyền dần dần biến mất ở nơi xa tít.Hằng ngày JaNin vẫn đến nhà Bố Ca để nhận công việc làm thuê như bình thường, cứ đến buổi trưa thì PaRa mang cơm đến hai người cùng ăn, tình cảm càng trở nên mặn nồng. Ngày qua ngày, hết JaNin qua nhà PaRa chơi thì JaNin lại dẫn PaRa về nhà với mẹ mình, hai gia đình và chòm xóm láng giềng ai cũng khen là đôi bạn trẻ rất đẹp đôi.Chưa được một tháng thì tin tức truyền về, trận đánh phá thắng lợi, bên ta mất mát ít, thu được khá nhiều chiến lợi phẩm. Gần hai tháng thì hạm đội với những chiếc thuyền to lớn trở về biển của ta, mọi người cùng nhau ra đón trong niềm vui gặp mặt lại người thân. Người nhà Bố Ca ra đón nhưng nhận được tin giữ, Bố Ca và một toán binh của ta bị địch phục kích và bắt sống mang đi vì ham mải miết đuổi theo một gia đình phú hộ trên đường vận chuyển tài sản tháo chạy, thuyền của ta neo ngoài biển nên không thể mạo hiểm tiến sâu vào vùng nội địa để giải cứu toán quân này. Gia đình Bố Ca đau đớn khóc lóc rất thảm thiết, JaNin đang ở ngoài đồng, khi về mới được tin, JaNin tỏ ra rất buồn và oán giận quân địch, gia đình Bố Ca có ơn với chàng, chàng rất muốn đi tìm anh Bố Ca.Ngày tháng trôi qua, tình cảm của PaRa và JaNin dành cho nhau ngày càng sâu nặng. PaRa một đêm mang chuyện nàng yêu và muốn lấy chàng JaNin làm chồng cho người chú nghe, người chú này vốn cũng mến cái tài sức khỏe của chàng JaNin nên hứa sẽ đồng ý kết duyên chàng JaNin cho cháu mình. PaRa đem chuyện ấy nói JaNin nghe, JaNin bên vui bên buồn, chàng vui vì mình thân nghèo mà sắp lấy được vợ, chàng buồn vì người anh của mình là Bố Ca bị bắt ở xứ người ta, sống chết bây giờ chưa rõ, và quan trọng nhất là chàng thương người mẹ già, PaRa phải nói lời an ủi thì JaNin mới đỡ buồn được phần nào. Chàng về nhà mang chuyện PaRa và Bố Ca tỏ rõ tâm tư của mình cho mẹ nghe, chàng nói:- “ Thưa mẹ ! nay mai người ta sẽ đến nhà mình hỏi con về làm chồng, nhưng lòng con chỉ muốn đi tìm anh Bố Ca về rồi sẽ tính chuyện vợ chồng sau, không biết ý mẹ như thế nào..? “Lần này mẹ JaNin đồng ý cho chàng đi tìm Bố Ca, đây cũng có thể là một trận đánh của riêng chàng mà chẳng cần một hạm đội thủy quân nào cảSau khi suy nghĩ, người mẹ từ tốn nói :- “ Người ta không chê nhà mình nghèo mà muốn lấy con về là người ta thật lòng với con, nhưng nhà Bố Ca đã giúp đỡ hai mẹ con ta rất nhiều, tình là một chuyện nhưng nghĩa con không bao giờ được quên,con hãy nhớ lấy.”JaNin xúc động thưa rằng:- “Lòng con cũng nghĩ như vậy, nhưng hành trình con đi sẽ không biết bao giờ trở về, để mẹ một thân già yếu ở nhà lòng con không an tâm.”Nói xong chàng ta nằm xuống tựa đầu vào đôi chân mẹ già, người mẹ xoa đầu JaNin, rớt nước mắt nhìn ra ngoài hát lên một khúc dân ca.JaNin nghe câu hát ru rồi thiu thiu ngủ đi lúc nào không hay. Đêm đó, JaNin đi đến nhà PaRa nói thật nỗi lòng của mình, bên nhà PaRa cũng không vội nên đồng ý ý muốn của chàng, sau đó JaNin và PaRa cùng nhau ra chỗ Tháp Cánh Tiên ở giữa thành, trời lại bỗng mưa, ông trời thật biết khéo đùa, mỗi lần hai người ở bên nhau thì mưa lại rơi xuống, nhưng chỉ một lúc sau thì mưa đã tạnh, hai người trao cho nhau những tình cảm yêu thương chân thành, những giãi bày, tâm sự của đôi trai gái thì thầm dưới ánh sáng lung linh của ánh sao xuyên qua tàn cây in lên bóng Tháp một thứ màu sắc mê hoặc,những lời hứa được trao đi, những lời thề được trao lại, một tình yêu giản dị và thơ mộng của đôi trai gái Chăm, dưới bóng Tháp hùng vĩ, PaRa tặng cho JaNin một bài múa, nàng đứng lên múa,nàng bắt đầu bước đi, nhịp điệu có khi nhanh có khi chậm, cung cách đi đứng hết sức ý tứ, những bàn tay của nàng lúc xòe ra lúc uốn cong như loài bông hoa nở rộ, nụ cười thơ ngây càng tô thêm màu sắc cho điệu múa đẹp đẽ, JaNin dường như bị hoa mắt trước nàng tiên trước mặt, chàng cũng yêu thích múa hát, chàng đứng dậy bước đến gần PaRa cất tiếng hát, những bàn tay của chàng cũng xòe ra khép vào đung đưa theo cánh tay PaRa, đôi chân chàng nhanh hơn, chàng bước tới nhanh rồi chậm rãi lui xuống, vừa múa vừa hát vòng quanh nàng, PaRa và JaNin như hai con chim non bay quấn quýt đùa dỡn nhau, điệu múa như là tìm thấy được niềm vui trong cuộc sống vậy.Sáng sớm hôm sau, PaRa và mẹ JaNin cùng ra tiễn chàng, nàng PaRa tháo ba chiếc vòng vàng ở tay ra cho JaNin mang theo phòng lúc cấp bách, để có tiền đi đường cho con, mẹ JaNin đem hết những thứ trong nhà có giá trị đổi thành ít tiền vàng cho JaNin, JaNin một mình một ngựa thẳng theo con đường đến hướng bắc mà chạy, phía sau chàng là những giọt nước mắt chia ly của người mẹ và người yêu, , , , hai người phụ nữ với những đôi mắt xa xăm nhìn theo bóng JaNin khuất dần sau những bụi cây rồi mất dạng về đường chân trời, mẹ JaNin vẫn đứng đó nhìn dù JaNin đã đi rất xa. Làm sao có thể hiểu được hết ý nghĩa những giọt nước mắt mà một người mẹ dành cho đứa con mình.“ Mẹ mang con trong bụng,trời sinh raĐôi chân con chưa vững, cất tiếng khóc ê aMẹ dạy con ba tiếng : ChămPa, Mẹ và ChaDòng máu chảy trong con là đất và quê nhàBầu sữa mẹ căng tròn, con nằm ngoan chờ đợiMẹ ru con giấc ngủ, cha nâng bước con điCha mẹ đi trồng lúa,thành hạt cơm thơm phứcNhững lời con đã cãi, cha mẹ chẳng trách chiTrời làm cảnh mưa gió, Mẹ nuôi con khó nhọcCha ghánh đời nghèo khó,ghánh cả con trên lưngNhững chiếc áo mỏng vai, Cha Mẹ mặc từ đóSông núi lớn trước mắt rồi con sẽ thấy rõ.Nè ne neChim non cất cánh từ trong ổCá con vẫy vùng ra biển khơiChim khôn cá lớn ngày tháng dàiCon đã nên người con trả cho ai “JaNin ngày đi đêm nghỉ, chàng đi hơn tháng trời mới đến được nước Việt, tin tức về Bố Ca và toán binh lính của ta hầu như không ai biết cả, nhưng JaNin vẫn không nản lòng, tiền bạc trong người hết, chàng phải bán luôn con ngựa của mình, nhưng chiếc vòng vàng PaRa trao cho chàng vẫn giữ bên mình, ngày tháng tìm kiếm tha phương, hai tháng trời trôi qua nhanh chóng trong niềm vô vọng, một ngày kia chàng đi đến một vùng núi mỏ vàng, ở đây con người thay nhau làm việc cả ngày lẫn đêm, mặt mũi ai nấy lem luốc và bơ phờ vì công việc khổ cực, tiền bạc trong tay đã hết sạch, JaNin xin vào làm ở mỏ vàng này và người ta nhận ngay bởi nhìn vào là biết JaNin là người có sức khỏe, ở trong mỏ, nhìn từ xa JaNin trông thấy một hình dáng thân quen, tuy không nhìn rõ mặt nhưng chàng nhận ra ngay đó là anh Bố Ca, JaNin tìm đến gặp thì quả đúng là Bố Ca thì vui mừng khôn xiết, Bố Ca nhận ra JaNin, cảm động quá ứa nước mắt mà khóc rống lên như đứa trẻ con, nói cũng chẳng thành lời, JaNin liền xin người ta cho chàng làm thay anh mình để Bố Ca nghỉ ngơi, tới đêm JaNin mới xong việc, hai anh em ngồi nói chuyện với nhau, Bố Ca kể về những chuyện mà mình đã trải qua,từ khi qua đây , Bố Ca bị áp bức, bị đánh,bị chửi mắng, ăn uống lại hết sức khổ sở, nay gặp lại JaNin thì dường như được cảm thấy cơ hội thoát thân chắc hơn và hắn đỡ cô đơn rất nhiều,JaNin kể về những chuyện ở quê, kể về mẹ, về PaRa, bây giờ tìm đã tìm được Bố Ca, chàng hứa sẽ tìm mọi cách để đưa anh mình về đoàn tụ với gia đình.Sáng hôm sau, JaNin lại đi làm thay Bố Ca, trong lúc làm, chàng quan sát địa hình, hỏi thăm địa vật, xác định đường đi nước chạy ngay từ trong đầu, chàng nhận thấy cạnh quả núi này có một con sông chảy quanh khu mỏ vàng, sông rộng và sâu, nước chảy rất xiết, người ta lại không xây cầu, nhiều người bị chết đuối khi qua sông này vì bỏ chạy,tất cả nơi ở của người và vùng mỏ đều được lắp hào, lại để ý thấy bọn canh gác rất đông, chúng thay phiên nhau ba lần một ngày, việc thoát khỏi nơi này tưởng chừng như không dễ một chút nào.JaNin ngày đêm suy nghĩ, tìm cách cứu Bố Ca, còn Bố Ca thì giả cách bị bệnh, nằm liệt tại cái chòi của mình không đi làm, tên quản đốc thấy JaNin làm thay cho Bố Ca là tên có sức khỏe thì cũng thầm đồng ý, không hỏi đến Bố Ca nữa. JaNin đem suy nghĩ của mình nói cho Bố Ca nghe, chàng nói cần thời gian để tìm cách, chỉ cần có sơ hở thì hai anh em sẽ thoát được, bằng nếu hết cách thì sẽ lấy ba chiếc vòng vàng của PaRa cho để đổi lấy sự tự do của anh Bố Ca, còn thân mình sẽ tính sau, nói xong chàng mang ba cái vòng vàng ra cho Bố Ca xem, Bố Ca trông thấy vòng vàng, trong ánh mắt rạng rỡ vui mừng ánh lên những toan tính, lấy cớ JaNin đi làm mang theo vòng vàng dễ bị đánh rơi nên Bố Ca đòi giữ những chiếc vòng ấy cho an tâm, tất nhiên là JaNin không từ chối.Một tuần trôi qua, vẫn không thấy JaNin nhắc đến chuyện bỏ trốn, Bố Ca cảm thấy hết sức sốt ruột, cũng không thể giả bệnh hoài. Sáng hôm đó, chờ khi JaNin đi làm rồi, Bố Ca lén mang ba cái vòng vàng tìm đến tên quản đốc, ở đây một thời gian dài nên Bố Ca cũng hiểu và biết nói tiếng người nước Việt, Bố Ca dùng lời ngon ngọt và lí lẽ tỏ rõ cho tên quản đốc nghe, tên quản đốc này tính lại tham lam, thấy vàng thì nhận ngay, hắn nghĩ cho Bố Ca về, để JaNin lại thì cũng tốt, chỉ lợi chứ không hại, hắn liền cho người mở cổng thả cho Bố Ca đi, lại thấy Bố Ca yếu ớt nên cho thêm con ngựa già, Bố Ca được ra ngoài, cắm đầu phi ngựa mà chạy, không biết trời đất là gì, cũng không nhớ tới JaNin đang ở phía sau nữa, hắn chỉ biết là cuộc sống mới và nàng PaRa đang ở phía trước mà thôi.Đêm JaNin làm về, hỏi thăm thì biết Bố Ca dùng vàng đổi thân, đã được thả đi từ sáng, trong lòng JaNin buồn bã, cô đơn vô cùng, chàng nhớ mẹ và nhớ PaRa rất nhiều, chàng không trách Bố Ca, chàng còn mong cho Bố Ca được mau mau về đến nhà chu cấp một phần nào đó cho người mẹ già của chàng.Nhắc qua PaRa, từ khi tiễn biệt JaNin, ngày nào nàng cũng đến nhà JaNin săn sóc cho mẹ người yêu, mặc dầu chưa phải là dâu nhưng dẫu tất cả công việc nàng đều làm hết thảy, nàng không để người mẹ phải đụng đến chân tay dù là việc nhỏ nhất, thường ngày nàng lên núi hái rau rừng, xuống suối bắt con tôm con cá về nấu những bữa cơm đạm bạc cho hai mẹ con, người mẹ cảm thấy nếu có được người con dâu như PaRa là hết sức may mắn cho con mình, căn nhà tranh mái lá đơn sơ với hai người đàn bà ngày đêm trông ngóng JaNin trở về.Hơn một tháng sau, Bố Ca về đến nhà, cha con Bố Ca thấy mặt, ôm nhau khóc lóc kể lệ sự tình. Mẹ JaNin và PaRa được tin Bố Ca về, niềm vui như muốn vỡ òa, hơn nhiều tháng nay chờ đợi cuối cùng họ cũng quay về, hai người liền dắt nhau tìm đến nhà Bố Ca với niềm hân hoan trong lòng. Vừa trông thấy mẹ JaNin, Bố Ca đã quỳ xuống dưới chân người mẹ khóc lóc rất thảm thiết, như cảm thấy điều gì bất an đã xảy ra, người mẹ liền đỡ Bố Ca lên hỏi ngay sự tình, gặng hỏi mãi Bố Ca mới ấp úng dối rằng trên đường trốn chạy về đây, JaNin đă bị trăm mũi tên của quân Việt bắn chết rồi, chỉ một mình hắn là trở về được. PaRa nghe đến đấy, chân tay run rẩy, nước mắt vỡ tan, cả người như không đứng vững. Mẹ JaNin nghe xong, đứng sững một chỗ, định nói lời gì đó nhưng chưa kịp thốt lời nào đã ngã lăn ra đất, bất tỉnh từ đó.Những ngày hôm sau, người mẹ vì quá thương con nên việc ăn uống không điều độ, PaRa hết sức ngày đêm săn sóc nhưng mẹ JaNin không muốn dùng đến thuốc than, hằng ngày người mẹ cố lê từng bước mỏi mệt ra ngoài tựa đầu vào cửa khóc đứng đó nhìn xa xa chờ con, đôi mắt hốc hác người mẹ tưởng chừng như đã khóc đến cạn khô nước mắt rồi. PaRa cũng gầy đi thấy rõ, không đêm nào là nàng không đẫm lệ nhớ thương, nàng không giám khóc trước mặt mẹ già vì sợ làm bà buồn thêm,nàng cố nén lòng, ban đêm đi ngủ mới sụt sùi nước mắt nhớ thương người yêu, nàng chẳng ngủ được, trong giấc mơ nàng thấy hình bóng JaNin rất gần, ngôi nhà tranh chìm trong màn cảnh buồn đau.Nửa tháng sau, sức khỏe mẹ JaNin yếu hẳn đi, bà không thể ngồi dậy được nữa, đến lúc hơi thở cuối cùng, bà kêu PaRa lại bên giường, nắm tay nàng, nói rằng:- “ Khi mẹ chết đi rồi, xin con mang xác đem chôn ở trên đỉnh núi cao để hồn mẹ có thể trông thấy thân xác JaNin, được như vậy mẹ có thể yên lòng biết nhường nào. Còn con PaRa, con phải đi tìm một chỗ dựa khác cho riêng mình, JaNin đã chết rồi, chết thật rồi, con đừng buồn bã và suy nghĩ mãi mà sống cuộc đời một mình, con còn trẻ,đường hạnh phúc còn dài, PaRa con hãy nghe lời mẹ.”Nói xong những lời dặn dò thì đêm đó người mẹ JaNin buông tay nhắm mắt, thân ở lại đất, hồn bay về trời, một kiếp người trôi qua trong trần gian đau thương. PaRa khóc nức nở, ôm lấy mẹ JaNin, nàng kêu tên JaNin, nước mắt nàng làm ướt cả khuôn mặt hồng hạc cô đơn, bây gi
0 Rating 225 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On October 27, 2014
Wa Praong -fb PANUEC LANGKAR EW YANG ( Lời khấn vái trong các nghi lễ) Likau da-a Po Harei siam tuk tanyruahHarei ligaih tuk makrâPo deh di danaokPo daok di Cam. Aia patil aia pataPo kalung papah thah tageihala nduen hala khailisei sapluh limâ salaoahar thong ahar cambah. Manuk yauakaok takai hatai hajaiphik la aguen. Hadiip pasang muk Jukduah hu ngao jiengthau phuel thau yaomka Po muk Po keiPo Praok Po PatraPo Patri Po Nabi Daliwetdalam sang dalam danaokbilan Katé bilan Cambur bilan than uh bilan than auenPo dai thau dai hamiitjuai aen juai kaden. Likau da-a Poliéng phuel liéng yaomliéng likau liéng kunâliéng pajiak liéng pajiengsaong mbeng trah thombeng trah angantrah harak trah agalthraiy juai kandonganak dam klaong juai kawak. Dei tra likau mbai padaongtapeng paga ala sanghadiip hataom[pataom] pasanganak hataom amaiksuma hataom matuwcek hataom tacaowadei hataom sa-aimik hataom kamuen. Saong mbai padaongjalan nao jalan maijalan trun jalan tagokpandiak praong padaong di Po rimbuk praong padaong di Po nao tel cek wek tel sangnao tel glai mai tel sangakaok yau basei drei yau habanakaok yau basei drei yau talithei brei Po breithei pajieng Po pajienglaik likei daok likeilaik kamei daok kamei. Likei ngap kajang lang ciéw tiap asau raow manuk kumei daok di khan di aw taik khan tamâ khan taik aw tamâ aw ka Po Muk Po Kei Po praok Po Patra Po Patri Po Nâbi Daliwet ngap dhaong jieng dhaong ngap kanu jieng kanu ngap hamu hu padai nao raglai hu tangey ngap hamu sa phun sa taok sa laok sa ribuw sa phun sa taok sa laok sa tamân ndom saong yuen ranam ndom saong cam anit peh pabah klao urang kacaw mâh brei peh pabah puec urang kuec mâh brei. Anâk tacaow Po daok dom ro rah kakah kaghak likau di Po juai aen kaden hanaik kajaok thei jhak hatai iniai yak Po paoh mbaok mâng likuk mbuk mâng anak ngap mbeng hu ginup jieng mâda yak yum jum pataom yau rakaom mâng baoh di aia yau caraoh bak banâk mâk oh mada thraok jhaok oh mada karang kheng yau Po tanâh Po riya thei caong oh taklok thei rok oh magei ribuw thun tamân thun. Haiy laih....!! likau thuk kunâ siam likau kajep kunâ karo Po brei Po pajieng oh mâng da hu hagait tra,,,, Sohaniim _ Sưu tầm.
0 Rating 204 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On October 14, 2014
                                        KATÊ CHỢT NHỚ ! Một sớm mai, tôi bàng hoàng tĩnh giất Nhìn hàng cây trụi lá, dáng hao gầy. Nhìn lá đổ, phủ vàng ngoài hiên vắng Mưa sương buồn, se lạnh cả tâm cam. Tôi đâu ngỡ thu về nhanh đến thế? Gió thu sang, chợt thoáng chút ngỡ ngàng. Tôi đâu ngỡ, trên vùng thân thương ấy Thu đã về, gieo rắc cả nhân gian?   Tôi chợt nhớ quê hương tôi ngoài đó Cũng gió thu nồng, cũng nắng thu sang. Tôi chợt nhớ đến những mùa thu cũ Katê đã về trên khắp nẻo đường quê. Nắng sớm palei, nắng tràn thôn ấp Gió thơm nồng, hương lúa phía nông trang.   Tôi chợt nhớ: Lũ em thơ rộn ràng kheo áo mới Ánh mắt sáng ngời, trong tiếng cười vang. Bóng mẹ già bồi hồi bên hiên vắng Mắt xa xăm, mong ngóng lũ con về. Phía đầu thôn, những chuyến xe đến vội Lũ con về, thăm lại chốn quê cha.   Tôi chợt nhớ: Dáng em tôi thấp thoáng sau khung cửi Áo mới điểm tà, khoe nét kiêu sa. Buông suối tóc, khăn makra choàng vội Nở môi cười, khoe sắc với muôn hoa. Tôi liên tưởng đến những vùng ân ái Bóng hồng nhan chợt tỏa khắp thân ngà.     Tôi chợt nhớ: Trong những ánh nắng ban mai vàng nhẹ Trên những vùng tháp cổ ngống trông thu. Những đoàn người hành hương lên trẩy hội Katê muôn màu, muôn vẻ thiên thai. Tượng Siva nước sông thiên gột rửa Cột đá linga làm lễ tẩy trần. Thần mặc áo mới, đón mùa lễ hội Lũ con dân, đưa lễ cúng dâng người. Vị tăng lữ đốt hương trầm cầu nguyện Tiếng kanhi réo mãi khúc xưng thần.   Tôi chợt nhớ: Trong những ngày Kate xưa cũ ấy Palei tôi bừng tỉnh khúc giao mùa. Cả xóm thôn, ngập tràn trong vũ hội. Điệu múa, lời ca vang mãi chẳng ngừng. Và nhà nhà đắm chìm trong hoang hỉ Chén rượu mùa vui, ngâm suốt đêm trường.   Tôi lại nhớ, những mùa Kate ấy! Trong một ngày, gió nhẹ chốn tha hương. Tôi chợt nghĩ đến Katê quê mẹ Chắc giờ này, thôn xóm cũng vui ca. Katê ơi! katê sao đến vội? Để tôi ngồi tôi nhớ chốn quê hương. Gió thu ơi! Có về nơi đất mẹ. Nhớ gửi lời, dùm cho kẻ xa quê: Palei giờ này có gì thay đổi, Katê đã về, ai có thấy vui không?   JASHAKLIKEI  Bai Gaor, Katê, 2014.
0 Rating 146 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On September 21, 2014
Chiếc vòng tay nước mắt Đêm hôm ấy, một đêm thu, trăng sáng, không một tiếng động, hoa sứ nhà ai tỏa hương thơm ngào ngạt? Quấn lấy cái không gian yên tĩnh, chợt như đang lắng động lại trong lòng đôi bạn trẻ, Jadu và Mưsa ngồi đó, lặng thinh. Nước mắt trào ra, chạy dài trên đôi má Mưsa từ lúc nào? Nàng không biết và cũng chả muốn lau. Tay của Jadu đã bầm tím lên vì chàng ghì nó quá chặt vào mảnh đá chàng đang ngồi.   Đêm nay, hai người hẹn nhau để nói điều gì đó, nhưng – nhường chỗ lại cho cái khoảng không tỉnh mịch – họ không nói gì cả, vì họ đều biết cả hai đang muốn nói điều gì. Mưsa không thể chờ đợi lâu hơn, nàng gạt nước mắt, rồi quay sang phía Jadu, dúi vào tay chàng chiếc vòng tay mà chàng đã tặng nàng năm tốt nghiệp cấp ba, hai người xem đó như chiếc vòng đính ước, đêm nào Mưsa cũng lau chùi, ngấm nghía nó, rồi lại cười tủm tỉm, nó đã theo nàng hằng đêm vào giất ngủ. Mưsa bỏ chạy, nàng về nhà và khóc suốt đêm đó. Jadu ngồi đó, khóc nấc lên như một đứa trẻ, chưa bao giờ chàng khóc nhiều đến thế, chưa bao giờ chàng đau khổ đến thế… … Mưsa sinh ra trong một gia đình Bàlamôn đầy uy tín trong thôn, mẹ của nàng mất – vì bệnh hiểm nghèo – khi nàng mới ba tuổi, kể từ đó, nàng sống trong sự nuôi dưỡng của bà. Bà của Mưsa, người đứng đầu của tộc họ, người phụ nữ đầy quyền uy và trọng vọng đối với cộng đồng Bàlamôn. Người đàn bà đó, thừa hưởng một gia tài lớn của gia tộc là những sách cổ và các đồ dùng quý giá. Mẹ của Mưsa, con gái út của bà, người sau này bà hy vọng sẽ truyền lại để lưu giữ những tài sản tinh thần quý giá đó của gia tộc. Nhưng, mẹ Mưsa lại mất quá sớm, ngày mẹ nàng mất, bà của nàng đã buồn lắm, bà khóc rất nhiều, người đầu bạc tiễn kẻ đầu xanh, đứa con gái yêu quý của bà đã không còn trên đời này nữa, bà đã đau khổ lắm. Lúc ấy, Mưsa hãy còn nhỏ quá, nàng chỉ biết khóc theo bà và cha. Từ đó, bà dành mọi tình yêu của mình cho Mưsa, bà thương nàng vô cùng, thương nàng còn hơn thương con gái của mình, bà thương nàng mất mẹ từ tấm bé, sợ nàng thiếu thốn tình thương của mẹ. Những đứa cháu khác của bà dù nội hay ngoại, chưa bao giờ được bà cho ngủ chung, chưa bao giờ được bà chăm sóc từng miếng ăn, giất ngủ như nàng. Và từ đó, bà xem nàng như là người mà sau này sẽ truyền thừa lại kho tàng của tổ tiên, người mà bà sẽ giao lại vai trò của người đứng đầu dòng tộc, nàng còn quá trẻ để biết điều đó, nhưng bà sợ mình không sống lâu hơn được nữa, bà dạy cho nàng cách làm người con gái Chăm, đêm đêm bà ngâm những bài ariya Patauw Adat Kamei hay Muk Thruh Palei cho nàng, cho dù nàng không hiểu triết lý và bài học trong những gia huấn ca ấy cho lắm! Cha của Mưsa, một nhà giáo, nhà nghiên cứu văn hóa Chăm mẫu mực và nổi tiếng trong cộng đồng Bàlamôn, là cựu sinh viên Đà Lạt, ông trở về tham gia sáng lập và giảng dạy tại trường Pô Klong, sau đó về làng mở trường dạy chữ Chăm cho những đứa trẻ trong thôn. Ông gặp mẹ Mưsa, hai người yêu nhau và kết hôn như bao cặp tình nhân cùng đạo khác. Sau khi mẹ Mưsa qua đời, ông buồn bã và đau khổ, người vợ thân yêu của ông đã không còn nữa, ông lao đầu vào viết sách và nghiên cứu, ông rong ruổi khắp các làng Chăm sưu tầm các văn bản cổ, tham gia soạn giáo trình, từ điển tiếng Chăm, làm thơ, sáng tác nhạc về Chăm, con người đó thật sự đã tạo nên uy tín rất lớn được nhiều người ngưỡng vọng. Đối với giới chức sắc Bàlamôn ông còn là người có công lớn, ông đã đóng góp rất nhiều kinh phí tổ chức lễ tết cho làng xóm, cũng như cộng đồng, không bậc tu sĩ Bàlamôn nào không biết và không tri ân ông. Đối với làng, ông là người đã đứng ra tổ chức nhiều hoạt động văn hóa, tổ chức thôn xóm và xây dựng nếp sống trong thôn. Chính vì phải hằng ngày lao mình vào công việc ông không có thời gian chăm sóc cho Mưsa, nhưng ông thương nàng lắm, ngoài thời gian nghiên cứu, ông làm nông, như bao người Chăm bình thường khác. Ông viết sách và nghiên cứu ngoài tinh thần dân tộc, còn là để nuôi cho Mưsa ăn học thành người. Mưsa lên lớp sáu, năm ấy gặp mùa hạn, không có tiền, ông đã bán những tác phẩm sáng tác văn chương và âm nhạc của mình cho người khác với giá rẻ mạt để có tiền cho nàng kịp nhập học, điều mà một nhà viết lách chuyên nghiệp như ông, không bao giờ muốn làm. Người cha, không thể biểu hiện tình cảm yêu thương của mình ra bên ngoài như bà và mẹ, nhưng cha của Mưsa đã yêu thương nàng bằng cái cách thầm lặng nhưng dạt dào tình cảm như vậy đó! Ngày lại qua ngày, Mưsa lớn dần theo tình thương mà bà và cha đã dành cho nàng. Nàng không mãi là cô bé, cô bé của cái thời trẻ dại, khi mái tóc còn chấm ngang vai, khi đôi chân vẫn còn để trần rong chơi khắp xóm làng. Nàng đã trở thành thiếu nữ, đôi mắt long lanh với những cái nhìn gợi cảm, mái tóc dài thước tha tung bay trong gió, nụ cười duyên làm lộ hai má lún đồng tiền, làm cho ai bắt gặp cũng phải xuyến xao. Mưsa đã là một thiếu nữ thật sự, nàng đã biết sửa soạn, biết trau chuốt, biết làm duyên trước lũ con trai cùng lứa. Có bao người đã thầm yêu trộm nhớ nàng, và nàng cũng đã có những người để mà thương, mà nhớ, nhưng tất cả chỉ là những mối tình vụn trộm, ngây dại của cái tuổi mới lớn, nàng chôn chặt những tình cảm đó vào trong, chưa bao giờ dám thổ lộ. Cho đến cái năm mười sáu tuổi, cái tuổi đẹp nhất của đời người con gái, nàng gặp Jadu. Jadu sinh ra trong một gia đình chức sắc Bàni ở thôn bên cạnh, cha chàng là một vị tăng lữ có địa vị và tiếng nói, tương lai sẽ là Cả sư (Po Gru) của thôn. Chàng là con thứ sáu, con trai út, trong gia đình trước đó đã có năm đứa con gái. Cha mẹ chàng mãi mới có một người con trai, chàng là hy vọng của cha mẹ, mẹ sinh ra chàng khi bà đã gần bốn mươi tuổi, đối với cha mẹ, ông bà chàng là con cầu con khẩn, con mà Po Aulwah đã ban cho gia đình. Vì vậy, ngay từ nhỏ chàng được cha mẹ rất mực cưng chiều, ngay từ nhỏ, cha đã cho chàng làm lễ trưởng thành (katat) và đưa chàng đi học chữ Bini để lớn lên chàng gọi ông bà tổ tiên về chứng dám trong các dịp tảo mộ (nau ghur) và cúng tổ tiên (ew muk kei). Có thể nói, gia đình chàng, hy vọng ở chàng nhiều lắm, họ muốn chàng là một người Bàni thật sự, xứng đáng là con của một Po Acar, mà sau này có thể lên chức sư cả (Po Gru), tuổi thơ chàng thanh bình lớn lên trong tình thương đầy ấp mà cha, mẹ giành cho chàng. Mưsa và Jadu gặp nhau khi cả hai đều bắt đầu bước vào trường Pô Klong, hai người học chung một khóa ở cái ngôi trường giàu truyền thống này. Ở ngôi trường này, biết bao nhiêu thế hệ những người con Chăm và Raglai ưu tú đã trưởng thành, cũng từ ngôi trường này biết bao thế hệ bạn bè đã trở nên thân thiết, từ ngôi trường này cũng có biết bao câu truyện tình yêu lứa đôi đã được nở hoa kết trái, những năm tháng được học dưới mái trường này, thật sự là một kỷ niệm không thể nào quên được trong ký ức tuổi học trò của những con em Chăm và Raglai nhiều thế hệ. Trong những năm tháng đó, đôi bạn trẻ của tuổi mười sáu ấy – cái tuổi mười sáu trinh bằng, ngây dại như những đóa hoa Tagalau mới nở mỗi độ hè về – gặp nhau và yêu nhau. Hai người học khác lớp nhưng cạnh nhau, buổi ban đầu biết nhau họ chưa phải lòng nhau. Cho đến cái ngày tổ chức hội trại của trường… Đêm hôm ấy, khi buổi sinh hoạt văn nghệ hội trại của trường đã xong, khi đám con gái đã vào trại ngủ rồi, ở bên ngoài trại lớp, lũ con trai rủ nhau ngồi lại hát hò, Jadu cầm ghi-ta, đàn cho lũ bạn hát, những nam sinh Chăm và Raglai ngồi bên nhau, quay quần bên ánh lửa trại, cất lên tiếng hát, hát những khúc nhạc về quê hương dân tộc. Giất mơ Chapi, Đêm hội Raglai, Điệu ru đất tháp, Mùa xuân trên tháp cổ… những bài ca ấy gợi nhớ về những hình ảnh xa xăm, bình dị của buôn làng Raglai: “với những ngôi nhà sàn đơn sơ, nơi những con người sống cuộc đời thanh bình, không lo toan, không tính toán, hay những hình ảnh của đêm hội say sưa bên ghè rượu cần, nam, nữ, già, trẻ nhảy múa bên ánh lửa, trong tiếng cồng , chiêng vang vọng núi rừng…”. Hay từ những khúc ca gợi những liên tưởng, những ký ức về những palei Chăm: “… hằng đêm vẫn vang lên tiếng đàn kanhi đắm say, ngất ngây tâm hồn, hình ảnh của đàn chim Chrao tung bay trên vòm trời xanh thẳm, những xóm làng lại rộn lên trong những mùa gặt hái, hay hình ảnh hoa tagalau nỡ đầu xuân,  bên tiếng trống ginang, tiếng kèn saranai, đàn em mùa hát bên tháp Chàm đón mừng ngày hội quê hương và cả xóm làng như hòa mình vào ngày hội của quê hương, dân tộc…”. Tiếng ca hòa lẫn tiếng đàn, vang lên trong đêm lửa trại, không biết tự khi nào đánh thức đám con gái hòa mình vào cuộc vui, từ các trại bên cạnh các học sinh kéo đến cũng ngồi vây quần tham gia vào cuộc vui khó cưỡng, tiếng đàn của Jadu, lời hát của những chàng trai Raglai, Chăm đã lôi cuốn được đông đảo mọi người. Theo lời giới thiệu của một người bạn trong lớp, Mưsa hát cho mọi người nghe bàiBhum Adei, cái bài ca thắm đượm tâm tư, tình cảm và tiếng lòng của người con gái Chăm. Tiếng hát trong ngần của Mưsa cất lên, tiếng đàn Jadu say theo từng câu hát, giọng hát của nàng thanh thót, âm vang, tiếng đàn của chàng du dương, da diết,  hòa vào tiếng hát, làm cho cả không gian dường như tỉnh lặng, mọi người ngồi nghe không một tiếng động. Mưsa nhìn Jadu, mĩm cười, nàng hát: “…jwai wơr palei adei ơy xa-ai, jwai bboh mưda wơr kathaut rah mai…”. Jadu như say sưa trong tiếng hát của Mưsa, chàng chưa bao giờ chơi bản nhạc nào có hay đến thế! Chàng thấy, lời nhắn gửi của bài hát dường như nhắn gửi riêng cho mình. Tiếng đàn của Jadu cũng làm trái tim Mưsa xao động, nó đã đánh lên tiếng lòng của người con gái, nàng cảm thấy xuyến xao lạ thường, nàng xuyến xao tiếng đàn, hay xuyến xao người nghệ sĩ chơi đàn, nàng cũng không biết nữa? Đêm hôm ấy, những nữ sinh, nam sinh Chăm – Raglai, ngồi với nhau bên ánh lửa bập bùng, không tiếng mã la, không tiếng chapi, không tiếng cồng chiêng, không có kanhi, ginang, saranai, không có ghè rượu cần, không phải ở giữa buôn làng, giữa palei. Nhưng ở nơi đây, qua lời hát, qua tiếng đàn họ như sống lại những lúc còn ở quê nhà, ở những buôn làng, những nhà sàn của người Raglai, ở những palei Chăm vào mùa lễ hội. Lời hát, tiếng đàn làm cho những người anh, em Chăm – Raglai học xa nhà, nhớ quê hương hơn, nhớ người thân hơn, nhưng ở nơi đây họ được sẽ chia bên tình bạn, ở nơi đây họ trở thành một khối, quyện chặt vào nhau, bên nhau cho vơi đi nổi nhớ. Tình bạn đó sẽ theo họ đến suốt cuộc đời này, rồi sau này khi trưởng thành, nó sẽ mãi là những kỷ niệm không bao giờ quên trong lòng tất cả. Cũng trong đêm cái đêm lửa trại ấy, Mưsa và Jadu đã tìm được một nửa của cuộc đời mình, ở đó, hai trái tim đồng điệu đã cũng thổn thức, đêm nay sẽ là cái đêm không bao giờ quên trong ký ức của mỗi người. Kể từ cái đêm hôm ấy, không khi nào Mưsa không nghĩ về Jadu, không khi nào không nhớ về chàng, hằng đêm nàng đưa chàng vào trong giất ngủ của mình, cái hình ảnh nàng hát, Jadu đàn, cứ ghi sâu trong tâm trí nàng, nàng đã biết yêu thật rồi! Jadu cũng vậy, chàng say mê tiếng hát của Mưsa, nàng kiều diễm với nụ cười làm duyên lúc nào cũng khắc sâu trong tâm trí chàng, chàng gặng hỏi lũ con trai cạnh lớp để biết về Mưsa. Kể từ đêm đó, hai người đã biết chỉnh chu hơn trong mắt nhau, và đôi lúc – ngoài giờ học – trộm liếc nhìn nhau, lúc gặp mặt nhau chỉ nở một nụ cười e thẹn, ánh mắt nhìn nhau trìu mến, nói với nhau những lời ngượng ngùng. Và đêm về lại nghĩ về nhau, đưa nhau vào suy nghĩ, vào giấc mơ, họ chợt nhận ra mình yêu người kia, tự lúc nào cũng không biết? Thông qua lũ bạn cùng lớp, Jadu biết số điện thoại của Mưsa, hai người nhắn tin qua lại cho nhau, gần hai tháng, cho đến cái ngày Jadu quyết định chàng sẽ hẹn nàng ra quan nước trước trường. Lần đầu – chỉ hai người – ngồi cùng trong quán nước, có một chút thẹn thùng, một chút ngượng ngạo, nhưng rồi Jadu cũng chủ động bắt chuyện với Mưsa, chàng hỏi đủ thứ chuyện về học hành, về bạn bè trong phòng của Mưsa, không chuyện nào ăn nhập với chuyện nào, chàng còn hơi bối rối, nàng cũng vậy. Thoáng chốc, hai người không còn ngượng ngùng, rụt rè như ban đầu nữa – từ lúc nào – đôi bạn hiểu nhau hơn, thân mật hơn và tự nhiên hơn. Đêm về, họ lại tin qua, tin lại cho nhau, Mưsa và Jadu yêu nhau như vậy đó, mối tình đầu của họ – mối tình thuở học trò – là những lần hẹn nhau ngoài quán nước, là những lần đi dạo dưới sân trường, là những chiều mưa đứng ngoài ban công tâm sự, là những dòng nhắn vội lúc đêm về, là những lời quan tâm, âu yếm… là những ngày lưu luyến mãi về nhau! Họ yêu nhau, biết đối phương nghĩ gì, nhưng chưa bao giờ nói tiếng yêu. Jadu đã hỏi Mưsa, nhưng Mưsa nghẹn ngùng không muốn đáp, nàng cứ lần hồi, lần hồi mãi… Cho đến cái ngày họ sắp ra trường, một chiều mùa mưa trên hành lang lớp học, Jadu tặng cho nàng chiếc vòng tay kỷ niệm, chàng ngập ngừng: – “Không biết ra trường rồi, làm sao mình gặp nhau liên tục được nữa, tôi sợ cái cảm giác không được thấy Mưsa hằng ngày lắm, Mưsa à”. Một hồi yên lặng, Mưsa đáp: - “Mưsa cũng vậy, không biết từ khi nào Mưsa cũng có cảm giác như Jadu vậy?”. - “Thế sao Mưsa không trả lời tôi đi, Mưsa còn suy nghĩ đến bao giờ nữa” – Jadu tiếp lời nàng – “chúng ta sắp tốt nghiệp rồi, không biết có còn được gặp nhau nữa không”. Mưsa nói: - “Jadu nói chuyện gì vậy, Mưsa không hiểu?”. Jadu: “thì chuyện tôi yêu Mưsa, muốn làm bạn trai Mưsa đó, Mưsa không nhớ sao?” Mưsa thoáng chút e thẹn trên nét mặt, nàng cười và nói: “Mưsa và Jadu chẳng phải đã là bạn của nhau đó sao, Mưsa không nói, nhưng tự khi nào, em đã xem Jadu như người yêu của mình rồi”. Nghe những lời đó, chàng như mở cờ trong bụng, chàng lấy chiếc vòng tay – chàng đã mua để tận Mưsa từ lâu, tính hôm nay nói chuyện và tặng nàng – tặng cho Mưsa, chàng nói: - “Quen nhau đó giờ, Jadu không có gì để tặng Mưsa cả, nay tặng cho Mưsa, Mưsa cứ xem đây như là tình cảm cua tôi”. Mưsa không dám nhận: - “Sao vậy được, Mưsa không dám lấy quà của Jadu đâu”. Chàng đáp: - “Đây không phải là món quà bình thường đâu, Mưsa à! Nó là tình cảm của Jadu tặng cho Mưsa, Mưsa không nhận tức là từ chối tình cảm của Jadu đó, hay Mưsa cứ xem nó như là kỷ niệm cũng được”. - “Jadu nói vậy thì Mưsa nhận” – nàng đáp. Ngoài trời, mưa vẫn rơi, những cơn mưa đầu mùa ở cái xứ sở nắng nóng Panduranga. Jadu và Mưsa ngồi đó – chỉ hai người – bên hành lang lớp học. Thế là, đã hai năm trôi qua kể từ đêm lửa trại, đêm hai người bắt đầu yêu nhau, hôm nay họ mới chính thức trao lời cho nhau, chiếc vòng tay mà Jadu tặng Mưsa như một minh chứng cho tình cảm của họ. Họ gặp nhau, yêu nhau, như bao đôi lứa Chăm bình thường khác, họ không nghĩ rào cản Chăm – Bàni có thể chia cắt được tình yêu của họ, họ nghĩ thời đại đã phát triển, người ta sẽ không còn ngăn cản con gái Bàlamôn yêu con trai Bàni như xưa nữa. Tình yêu sẽ giúp họ có đủ can đảm để vượt qua tất cả và đến với nhau, như nhiều trường hợp đã diễn ra như vậy. Thế là hai, ba mùa mưa nữa lại trôi qua, tình yêu của họ lớn dần theo năm tháng. Cả hai người đều là sinh viên đã ra trường, họ quen nhau trọn vẹn năm năm rồi, mối tình của họ đẹp như thơ, êm ả nhưng cũng mãnh liệt như dòng sông Lu vẫn chảy trên quê hương từ nghìn đời, nồng nhiệt như cái nắng, cái gió của xứ sở. Thời gian càng trôi mối tình đó lại càng thêm sâu đậm, họ cảm thấy mình yêu nhau lắm rồi! Không có gì có thể chia cắt nổi tình yêu đó. Yêu nhau, họ không bao giờ nghĩ đến những rào cản nào cả, có nghĩ đến nhưng cũng tin rằng, tình yêu sẽ giúp họ vượt qua tất cả và đi bên nhau đến bến bờ hạnh phúc. Tình yêu của hai người đến một ngày cùng đến tai của người lớn. Đêm hôm ấy, khi bữa cơm vừa xong, cha của Mưsa, ngồi bên ngoài hiên nhà, nhâm nhi tách trà nóng, Mưsa cảm thấy trên khuôn mặt cha hiện lên một nét lo âu gì đấy. Bà nội gọi Mưsa vào trong và nói chuyện với Mưsa, trên nét mặt bà cũng hiện lên những nỗi âu lo như vậy, nàng cảm nhận thấy một điều gì đó? Bà hỏi Mưsa về chuyện tình cảm của mình, sau một hồi nàng thú nhận đang yêu Jadu – người con trai Bàni. Nét lo âu trên khuôn mặt bà giờ được thay thế bằng giọt nước mắt ướt đẫm, người đàn bà cứng rắn nhất tộc họ, lần thư hai đã khóc – lần đầu là lúc mẹ Mưsa mất – bà thương Mưsa, nhưng bà không thể cho Mưsa lấy người con trai khác đạo được. Ở nhà nào bà không cần biết, ở trong nhà của bà, đăc biệt là người cháu thừa kế của bà không thể lấy người Bàni được, bà thương Mưsa, nhưng chính bà cũng không thể thoát khỏi cái rào cản này được. Bà là trụ cột của tộc họ, bà phải làm gương cho tộc họ. Mưsa đêm ấy, không ngủ được, nàng khóc sướt mướt. Nàng nghĩ, chẳng lẽ mình phải chia tay với Jadu sao? Nàng không thể, nàng yêu Jadu lắm rồi, nàng không thể sống mà không có Jadu được, như con thú không thể sống mà không có rừng, như con cá không thể sống mà rời xa nước. Hôm sau nàng nói chuyện này với Jadu, chàng cũng buồn lắm không biết phải tính sao nữa, gia đình chàng cũng đã biết chuyện này, cha nói tuyệt đối không được lấy con gái Bàlamôn, nếu muốn thì cha sẽ từ con, còn hơn là làm mất thể diện. Nghe đến đây mẹ Jadu cũng khóc, bà khóc cho đứa con của bà, đứa con mà bà hằng hy vọng làm rạng danh gia đình, nay lại đòi lấy người con gái Bàlamôn, bà chỉ khóc và không nói gì cả, thà bà cứ đánh, cứ chửi Jadu, thì chàng không cảm thấy áy náy và đau khổ, đằng này không nói gì cả, cứ ngồi khóc, cứ buồn rầu, bà đổ bệnh mấy ngày liền, cha không cho vào thăm, mà cứ gặp Jadu là bà lại khóc. Jadu tự nghĩ chàng không thể là người con bất hiếu, nhưng biết làm sao được? Chàng yêu Mưsa như sậu đậm mất rồi, một ngày xa nàng là một ngày khắc khoải, là một ngày ăn không yên, ngủ không ngon, chàng nhớ nàng, như con chim Chrao nhớ đàn, như chàng Đam San nhớ nữ thần mặt trời vậy! Họ tiếp tục yêu nhau – bắt chấp sự ngăn cản của gia đình – được hơn năm nữa, hai người cố gằng thuyết phục hai bên nhưng hoài vô vọng, cho dù ở trong họ niềm tin về sự chiến thắng của tình yêu lúc nào cũng chảy. Chàng đã nhiều lần đến xin gia đình nàng nhưng không được tiếp, lũ con trai trong họ nghe tin nhiều lần dọa đánh chàng, nếu chàng không từ bỏ Mưsa, trong gia đình chàng ai cũng xa lánh chàng, vì sợ gần chàng sẽ làm cho cha chàng phật ý, mẹ chàng từ đó, cũng đổ bệnh, không ngớt thuốc thang, chàng cũng thường xuyên vắng nhà vì sợ về lại làm mẹ đau lòng. Mưsa, cũng vậy, bà nói với nàng: “khi nào tao chết thì mày hãy lấy nó, lấy nó để mà làm người ngoài tộc, lấy nó để mà chết làm con ma hoang ở ngoài làng”. Bà thương nàng lắm, bà kể với nàng, ngày xưa bà cũng yêu một người con trai Bàni, nhưng bà lại là người thừa kể của dòng họ, bà từ bỏ tình yêu để làm tròn hiếu hạnh, bà là con của tộc họ, do tộc họ sinh ra, bà phải có trách nhiệm với cội nguồn, bà nói với Mưsa: “đừng vì một thằng con trai, mà từ bỏ dòng họ, từ bỏ tổ tiên, như người mất gốc, rồi chết đi không được nằm trong kut của tộc họ, không được siêu thoát linh hồn con ạ”. Cha Mưsa, cũng buồn lắm, ông vốn ít nói, nhưng biểu hiện ra mặt, ông không còn quan tâm đến Mưsa nhiều hơn trước nữa, nàng dọn cơm, nấu nước ông không ăn, ông gọi cô cháu gái đến để nấu cơm, nấu nước trong nhà đã hơn nửa năm nay. Uy tín của một nhà Chăm học, một người hoạt động cho dân tộc, khiến ông không thể chấp nhận điều này. Thế là cứ hằng đêm, hằng đêm cuộc hẹn hò của hai người chìm cho nỗi buồn và nước mắt, Mưsa đã chảy bao nhiêu giọt nước mắt rồi, hằng đêm nàng không ngủ được, chỉ biết khóc, xanh xao và gầy hẳn đi. Jadu, thì ít cười hơn trước, chàng bỏ bê mọi thứ, suốt ngày cứ suy nghĩ mông lung như kẻ mất hồn. Thế rồi, chuyện gì đến sẽ phải đến, Mưsa không thể làm người con bất hiếu, và càng không thể để Jadu, vì mình mà cũng là người con bất hiếu, mẹ chàng đã bệnh lâu lắm rồi, nàng không muốn người bên nàng cứ sang mắng chửi cha chàng không biết dạy con, để cho chàng đi dụ dỗ con gái. Nàng cứ suy nghĩ mãi, cái lần mẹ chàng dù bệnh tật, không đi nỗi, phải có người dắt díu, cũng đến gặp nàng và nói: “Ta yêu Jadu lắm! Nó yêu con, ta biết con cũng yêu nó lắm! Ta cũng yêu con lắm! Nhưng gia đình ta là một chức sắc Bàni, ta không cho con làm con dâu ta được, nếu cha nó chỉ là một lão nông phu nghèo hèn, và gia đình ta chỉ là một gia đình bình dân, ta sẽ cho con lấy nó… ta tin rằng gia đình con cũng sẽ không bao giờ chấp nhận chuyện này, ta không muốn con trai ta bị mắng chửi là đi dụ dỗ con gái nhà lành, bị đánh đập mỗi lần sang nhà con nữa! Ta không muốn nó phải từ bỏ chữ hiếu, vì con, ta không muốn nó khi chết đi, không được làm lễ nhập Ghur, mà phải làm con ma vất vưởng, mãi không thể siêu thoát.  Ta yêu nó lắm, ta đau khổ khi nhìn nó ra nông nỗi này lắm, khi nào có con, con mới biết ta yêu nó như thế nào con ạ!… Con đừng trách cha nó, đừng trách ta, cũng đừng trách gia đình con, nếu trách hãy trách số mệnh, trách tiếng khen che, giễu cợt của người đời, con ạ!…” Đến đây, Mưsa lại nhớ đến câu nói của bà: “… Ta và con đều từng yêu một người Bàni, nhưng số mệnh đã sinh ta ra là người Bàlamôn, số mệnh sinh ta ra là người thừa kế của dòng tộc này. Ta không thể vì tình yêu mà trở thành một người con bất hiếu, ta thương con, nhưng ta không thể vì con làm mất thanh danh dòng họ, con có thể lấy bất kỳ ai con muốn, nhưng con không thể vì hạnh phúc của mình mà phải để gia đình, dòng tộc phải chịu lời vô tiếng ra của người đời, con không thể vì người khác mà làm ô nhục gia tộc được. Ta thà từ bỏ con chứ không bao giờ chấp nhận truyện này, hãy trách số mệnh, trách người đời, chứ đừng trách ta, trách cha con, trách gia đình mình…”. Thế là xong, nàng yêu Jadu, nhưng nàng không muốn vì tình yêu của mình mà cha, mẹ chàng phải buồn, nàng yêu chàng, không muốn chàng phải chịu khổ, chịu nhục vì yêu mình nữa, chàng không muốn Jadu phải vì mình mà làm một người bất hiếu. Nàng lại càng không muốn bà và cha mình phải buồn, càng không muốn vì mình mà dòng họ lại phải chịu tai tiếng, bị người đời chê bai. Bà nàng và mẹ Jadu nói đúng: “… Nếu trách hãy trách số mệnh, trách tiếng khen che, giễu cợt của người đời…”. Nàng tự hỏi, không biết mình sẽ sống thế nào khi không được ở bên Jadu? Năm năm yêu nhau, thật khó để mà có thể kết thúc, biết bao nhiêu kỷ niệm, biết bao nhiêu tình cảm, giờ phải chấm dứt như vậy sao? Nàng tự hỏi. Những rồi, nàng phải lựa chọn, chia tay tốt hơn cho cả hai, cứ mỗi lần nghĩ vậy, nàng lại khóc, đôi mắt nàng thâm quần lên vì hằng đêm không ngủ. Cứ hằng đêm, nàng nằm dài trong tuyệt vọng, những giọt lệ vẫn hằng ngày ước đẫm đôi môi, ướt đẫm cả mối tình nàng, ướt đẫm tâm tư người con gái, trái tim nàng đớn đau như rỉ máu: “Chàng hỡi! Chàng ơi! Em yêu chàng nhiều lắm, những ngại mẹ cha, nhưng ngại gia đình, em phải làm sao? Không phải lỗi của đôi mình mà là lỗi của số mệnh, nếu em không sinh ra trong một dòng tộc danh vọng trong làng, nếu chàng không phải là con của một Po Acar đầy uy tín… có lẽ ta đã đến được bên nhau, có lẽ và có lẽ!…” Mưsa có kìm cái mối riêng tư ấy lại, cho dù nàng biết nó sẽ để lại một nỗi đau không thể nào nguôi trong lòng mình. Nàng hẹn chàng để trả lại chiếc vòng tay mà chàng tặng lúc tốt nghiệp cấp ba – chiếc vòng tay minh chứng cho tình yêu của họ, chiếc vòng tay đã theo họ trải qua những nỗi nhớ, những niềm vui, những hy vọng thuở đang yêu, đã theo họ nếm trải những nỗi buồn, nước mắt lúc khổ đau – đó là một đêm mùa thu – hai người nói tiếng chia tay – một đêm mùa thu, Mưsa và Jadu không còn là của nhau nữa, không còn bên nhau nữa, cho dù vẫn rất yêu nhau.“Nếu trách hãy trách số mệnh, trách tiếng khen che, giễu cợt của người đời…”. Đâu đó, ở trong xã hội Chăm đương đại, vẫn còn có những chuyện tình buồn như chuyện tình Mưsa và Jadu. Đâu đó – dù đã có nhiều tiến bộ – nhưng người Bàni vẫn không thể lấy người Bàlamôn. Và ở đâu đó Ariya Cam – Bini thuở xưa vẫn được tái hiện bằng cách này hay cách khác, không khắc nghiệt, thê thảm như chuyện xưa nhưng cũng thấm đẫm đầy niềm đau và nước mắt. Đêm nay, bỗng từ đâu vang lên khúc dân ca Chăm – Bini: “Cam saung Bini hu min Vơy adei nhu lơy, min hu min. Thei, thei lac ong khin? Dwix nan, đwa nhu đwa, dwix nan, đwa nhu đwa » (Chăm và Bàni được thôi, hỡi em vẫn được thôi.
0 Rating 174 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On June 1, 2014
  Tắc đường. Mới bảnh mắt đã ùn đống tại các ngã ba mà trước đây chưa bao giờ tắc. Lê Đại Hắc đi ngược chiều giữa một đám đông ngơ ngác. Từ Mỹ Sơn tỏa sang vùng lân cận có tới bảy chốt đã được cấp tốc lập ra để chặn bắt thủ phạm. Chẳng mấy ai tin vào cách này nhưng Lê Đại Hắc thừa nhân lực để không bỏ sót phương án nào dù là thô sơ nhất. Tuy chưa biết hung thủ thuộc thành phần nào nhưng ông ta chắc chắn đó là một kẻ tà đạo khát máu có bộ mặt gớm giếc. Sáng nay ông đã thẩm vấn ngót chục đối tượng khả nghi có tiền án tiền sự nhưng không hé ra được manh mối gì. Kẻ sát nhân chọn hiện trường là khu di tích tôn giáo, cách giết người lạ lùng với những nghi lễ chưa từng có đã buộc ông chú ý đến các đối tượng khác người. Cuộc trao đổi với viên kiến trúc sư trên hiện trường đã trang bị cho ông một cặp kính mà ông tin có thể nhìn sâu hơn vào các tổ chức ma giáo. Các thầy lang, thầy cúng, thầy phù thủy và các gia đình có thân nhân bị bệnh được cho là ‘’ma ám’’ được ông cho người theo dõi. Tuy nhiên ông để mắt nhiều hơn đến các các đạo sĩ, trí thức, những người mà ông tin rất thông tường pháp thuật và nghi lễ của phái Balamon. Họ có thể là các giáo sư, tiến sĩ, nhà nghiên cứu hoặc đơn giản những kẻ cuồng tín hay mang bệnh hoang tưởng. Trong khi ông đang cho lính ráo riết săn lùng khắp hang cùng ngõ hẻm thì hung thủ có lẽ đang giảng đạo trên thánh đường, trên bục giảng, hoặc ngồi trong công sở hay đang vùi đầu trong thư viện với các cuốn sách cổ kinh dị. Lê Đại Hắc nảy ra ý định gặp ngay hội đồng khảo cổ, nơi tập trung rất nhiều đoàn chuyên gia đang thất sủng sau khi buổi khai quật bị hủy đột ngột. Tên hung thủ biết đâu là một trong số họ, hoặc nếu không thì nhóm trí thức kia sẽ giúp ông gỡ rối phần nào mối tơ vò này. Máy cầm tay reo vang, ông nghe xong rồi nói. - Đoàn nào đến?... Khẩn trương lắm hả?... Bảo họ đợi chốc lát, tôi sẽ về ngay. Hóa ra không chỉ ông muốn gặp các nhà khảo cổ, mà chính họ cũng đang cần chất vấn ông. Lê Đại Hắc dập máy rồi lên xe trở lại đại bản doanh của mình. Về đến nơi, ông đã thấy một nhóm người ăn mặc lịch sự, kẻ đứng người ngồi đầy vẻ nôn nóng trong phòng khách và nổi bật nhất là giáo sư Huỳnh Lẫm. - Xin chào các vị, các vị đợi tôi đã lâu? - Chào ông cảnh sát, tìm ra hung thủ chưa? – Giáo sư Huỳnh Lẫm hỏi. - Tôi đang muốn tìm các vị giúp sức đây. - Lê Đại Hắc lắc đầu đáp. Giáo sư Huỳnh Lẫm nói: - Lẽ ra không đến phiền ông nhưng chúng tôi vừa nhận được một công văn khẩn từ Bộ ngoại giao giới thiệu một chuyên viên người Campuchia sang làm việc. Lê Đại Hắc nhìn thấy một người đàn ông da ngăm đen ngồi bên cạnh vị giáo sư. - Xin tự giới thiệu, tôi là Sray Ka Mou, phó chánh văn phòng Bộ Du lịch campuchia. Paul Morierre đang mang một số tài liệu tối mật liên quan đến Campuchia. – Người khách nói. - Nếu tài liệu này lọt ra ngoài thì hậu quả khó lường nổi. Chính vì lẽ đó mà tôi được cấp tốc phái sang đây gặp các ông. - Tìm tài liệu nào? tôi chưa hiểu? - Tôi sẽ giải thích. – Giáo sư Huỳnh Lẫm rút ra một cuộn hồ sơ rồi nói. - Thưa ngài cảnh sát, Paul đang nắm tài liệu về một kho báu bí mật trong lòng đất thuộc lãnh thổ Campuchia. Nếu kẻ xấu lấy được tài liệu này thì chúng sẽ tìm thấy kho báu đó. Vì vậy người ta cần ông tìm kiếm và thu lại ngay các giấy tờ này. - Gay thế cơ hả, chúng tôi đang vã mồ hôi hột tìm hung thủ đây. Mà có gì thì cũng chờ chúng tôi bắt được chúng đã chứ. Tuy nói vậy nhưng Lê Đại Hắc vẫn đón lấy tập hồ sơ ra xem. Ông biết đây là một công trình cổ kính chứa nhiều hiện vật quý. Kẻ ngoại đạo như ông không đánh giá hết ý nghĩa. Giáo sư Huỳnh Lẫm nói tiếp: - Phần lớn tài liệu này đang trong tay Paul. Hay nói đúng hơn là số tài liệu về kho báu này Paul đã chuyển cho chính phủ Campuchia một phần rồi. Ông ta chỉ giữ trong người phần cốt yếu nhất để đích thân đi khai quật kho báu này nhưng chưa thành thì đã gặp nạn như ông biết. Lê Đại Hắc nghe qua đã thấy độ khẩn cấp và sức nóng của công việc. Hóa ra đây là một chuỗi hậu quả dây chuyền sau cái chết của Paul, vụ việc đã vượt ra khỏi phạm vi biên giới. Điều này gợi ra một hướng điều tra mới mà ông chưa bao giờ nghĩ tới, đó là: động cơ giết người là vì tài liệu. Do đó thủ phạm có thể sẽ chạy sang Campuchia – hướng về kho báu. Lê Đại Hắc nói. - Chúng tôi đã khám hiện trường nhưng không thấy gì. Nạn nhân đã bị lột trần truồng không còn thứ gì trên người. Nếu ông ta mang gì đó theo người thì chắc chắn đã bị hung thủ mang đi rồi. Chúng tôi đang căng ra tìm hung thủ và có gắng thu về mọi tang vật. - Có lẽ tài liệu này chưa hẳn đã nằm trong tay hung thủ. - Giáo sư Huỳnh Lẫm nói. – Paul thừa khôn ngoan để cất giấu nó hoặc gửi cho một người thân cận nào đócủa ông ta. - Theo giáo sư thì ai là người thân cận? Tất cả nhìn nhau nhưng không cất tiếng. Lê Đại Hắc nói. - Các ông cứ suy nghĩ cho kĩ những ai đang nhòm ngó kho báu này. Chỉ có những kẻ có học mới đủ tầm làm những việc như vậy. Các ông là người trong nghề nên dễ nhận dạng bọn họ. Các vị ngại nói ra ở đây thì có thể nhắn tin vào máy cho tôi. Còn bây giờ tôi có việc rất gấp phải đi ngay. Lê Đại Hắc đứng dậy đi ra cửa. Từ khi xảy ra án mạng ông tập trung chỉ đạo truy tìm hung thủ nên ông đã coi nhẹ căn phòng của nạn nhân ở Rex. Tuy đã báo cho cảnh sát khu vực đến niêm phong nhưng ông không mấy tin vào sự khẩn trương của họ. Lê Đại Hắc bỗng dưng thấy nôn nóng khác lạ, nếu Paul có một tài liệu tuyệt mật tầm cỡ như vậy thì chắc chắn đang nằm trong két sắt ở khách sạn. Ông lao ra ngoài gara, một phút sau chiếc Land Cruiserchở nhóm cảnh sát lao hết tốc lực về phía Đà Nẵng.                            ***   Kì Phương mở ba-lô lấy tờ giấy anh chép dòng chữ sáng nay ra so với dòng chữ trong bức ảnh.Thật kinh ngạc. Hai chữ này là một. Vậy làchữ đó đã từng xuất hiện tại một thánh địa khác ở một thời điểm khác. Kì Phương gợn lên một nỗi hoang mang rằng liệu những gì xảy ra với Paul sáng nay có giống như vợ ông ta ở Naga 12 năm về trước không? Nếu đúng thì cái chết của Paul đã được lập trình từ trước và hôm nay, tên sát thủ đã trở lại. - Ai giết mẹ cô? – Kì Phương đột nhiên hỏi. - Tôi không biết. - Ba cô phải biết chứ? - Tiếc rằng ba tôi cũng không nhìn thấy kẻ giết người. Đó là cái chết khủng khiếp đã ám ảnh ba suốt bao năm nay. Đã có lần trên giường bệnh ba tôi đã mê sảng và hét lên rằng ‘’Đừng giết ta, đừng giết con ta’’. Rõ ràng có ai đó muốn giết ba con tôi. Kì Phương suy ra một điều rằng Paul đã bị một lực lượng nào đó đeo bám để trả thù từ khi rời kho báu Naga. Sáng nay giáo sư Huỳnh Lẫm đã vô tình gieo một câu mà anh cứ nhớ mãi ‘’chưa có kẻ nào đụng vào thần hộ mệnh Chăm mà toàn mạng trở về’’. Kì Phương cố gạt nỗi ám ảnh trong đầu rồi lật các trang sách hòng tìm chứng tích nào đó về hung thủ nhưng các bức ảnh còn lại chỉ là hang động âm u không có sự sống. - Ba cô có bao giờ tiết lộ thánh địa này ở nơi nào không? - Không, không bao giờ. - Thi Nga lắc đầu dứt khoát. – Ba nói vị trí này phải được giữ tuyệt mật vì tính mạng của tôi. Ba sợ tôi sẽ tìm cách vào đó và sẽ lại mất mạng... Ba nói nó là thánh địa có chủ hàng mấy thế kỉ nay. Những chủ nhân bí ẩn này sẵn sàng có mặt bất cứ đâu để ban cái chết cho bất cứ ai nhăm nhe xâm phạmnó. Ba mẹ tôi may mắn đã đặt chân đến đó nhưng mẹ tôi đã không thể trở về. Ba tôi căm thù chúng đến tận xương tủy và thề rằng ngày lôi chúng ra ánh sáng không còn lâu nữa! - Nhưng ba cô đã...- Kì Phương định nói chết rồi nhưng may kìm được. Tuy rất dằn vặt nhưng anh vẫn trấn an lòng mình rằng tìm xong Naga anh vẫn kịp đưa cô về viếng ba mình. Hơn nữa, linh hồn và thể xác mẹ cô thảm thương hơn vì đã mười hai năm không người nhang khói. Nhìn Kì Phương đứng ngây người, Thi Nga giằng lấy cuốn sách trong tay anh rồi nói: - Nếu anh sợ, tôi sẽ đi tìm Naga một mình. - Ơ kìa. - Kì Phương giằng lại cuốn sách. – Ai bảo tôi sợ? mà cô biết Naga đâu mà đi một mình? - Tôi sẽ tự đi tìm. Kì Phương không hiểu cô gái này sẽ tìm cách nào giữa núi rừng bao la xứ người. Mà tình cảnh cô lúc này cũng rất éo le, ở lại cũng không ổn, đi cũng không xong và anh không nỡ bỏ cô lúc này. - Tôi sẽ đi cùng cô.Chúng ta sẽ cùng đi Naga. - Anh không sợ tai vạ à? Nếu có mệnh hệ gì thì sao? Thật tình Kì Phương cũng rất ớn khi nghe cô kể và nhất là tận mắt thấy xác Paul nhưng đến nước này mà rút lui thì ê mặt nam nhi. Anh cất cuốn tài liệu vào balô rồi nói. - Tôi chỉ lo cho thân gái của cô thôi. Nhìn thấy sự quyết tâm của Kì Phương, mặt cô rạng rỡ trở lại. - Chúng ta phải tìm ra Naga trước chiều mai. - Cô nói. – Nếu muộn hơn e phải đợi thêm... mười hai năm nữa đấy. Kì Phương gật đầu rồi nói nửa thật nửa đùa. - Không bản đồ, không manh mối, không người dẫn đường, hi vọng mười hai năm sau tìm thấy là vừa. - Tại sao lại không có manh mối chứ? Kì Phương chợt nhớ ra mẩu giấy của Paul và cả dòng chữ trên yoni. Rất có thể con đường đến Naga đang ẩn trong đó. - Chắc cô biết tiếng Chăm chứ? - Tôi chỉ học một ít qua ba thôi. – Cô đáp thoáng chút ngượng ngùng. - Thế là tốt, hơn một trăm ba mươi ngàn người Chăm trong nước cũng chỉ vài chục người đọc thông viết thạo tiếng mẹ đẻ là cùng. Còn để đọc được tiếng Chăm cổ thì chỉ đếm đầu ngón tay. - Mà anh hỏi để làm gì? Kì Phương đưa cho cô tờ giấy có dòng chữ Chăm lạ. - Anh lấy đâu ra? - Sáng nay tôi thấy trên yoni nên đã chép lại đấy. - Yoni nào? tại sao tôi không thấy gì nhỉ? - Yoni có máu đấy. Sáng nay nó mới hiện rõ hơn, mà quan trọng là cô có hiểu chữ này là gì không? Thi Nga ngơ ngác nhìn dòng chữ hồi lâu rồi hỏi. - Đây đâu phải tiếng Chăm? - Đây không phải là chữ thảo Akhar Thrah, nhưng có thể là một chữ Chăm cổ. Cô nên nhớ là từ thời lập Quốc đã có đến hàng trăm phiên bản đấy. Thú thực Kì Phương cũng không thể biết hết người Chăm đã sáng tạo ra bao nhiêu và khai tử bao nhiêu loại chữ. Là một người Kinh, anh không khỏi mến mộ và khâm phục tổ tiên người Chăm đã tô những nét son đặc sắc có một không hai cho nền văn hóa lâu đời trên dải đất chữ S này. Anh đã dành trọn ba năm để học chữ Chăm cổ nhưng giờ cũng chỉ đạt đến mức trên đánh vần mà thôi. Ngoài chữ thảo Akhar Thrah có từ thời vua Pô Rôme đã tròm trèm năm thế kỉ thì còn vô số phiên bản cổ xưa hơn nhiều. Chữ Chăm cổ đó lại được phân ra nhiều loại khác nhau như chữ thánh Akhar Rik, chữ con nhện Garlimang, chữ bí ẩn Akhar Yok và nhiều chư lai Arập và Mã Lai nữa... Sự phân loại còn dựa trên vật liệu để viết: chữ Hayep viết trên bia kí, kim loại, chữ Baar viết trên giấy, chữ Agal viết trên lá buông, chữ Tapuk viết trên giấy gió... Chính vì quá nhiều và phức tạp nên hầu như không ai có thể liệt kê hết bao nhiêu chữ Chăm cổ. Nhìn tờ giấy xong Thi Nga lắc đầu. - Tôi chịu, có vẻ như là chữ trên bùa chú? - Không phải, chữ trên bùa chú của người Chăm thường là hình vẽ hoặcviết phăng trên nền chữ Akhar Thrah nên xem qua là dễ đoán được ngay. Vả lại ai đó vẽ bùa lên đây để làm gì chứ? - Hay đây là một loại bùa chú của dân tộc khác muốn trấn yểm người Chăm? - Ý cô muốn nói tộc Kinh của tôi chắc? - Tôi thấy hao hao giống bùa chú của phái... Mật tông Tây tạng! Kì Phương nhìn cô đầy tâm đắc nhưng không ngại lắc đầu phủ nhận. Quả thật, cô ta có trí nhớ hình ảnh khá tốt. Lúc sáng, khi thấ
0 Rating 646 views 6 likes 0 Comments
Read more
By: On May 4, 2014
  Bilan than-uh than-on  Hamit grum mưnhi gah pur, pai  (Khi nghe tiếng sấm hướng Đông Nhân dân hớn hở mới hòng yên thân) Thành ngữ Chăm.  Hằng năm, cứ mỗi độ hoa Tagalau (bằng lăng) nở tím khắp cả những vùng đồi xứ sở, những đàn chim Chrao từ đâu bay về, lượn quanh bên những cánh đồng xa xăm bát ngát chạy vào những palei Chăm, trên những sa mạt các vàng cắt đôi vùng trời ra làm hai phần phía trước tầm mắt, trên những đỉnh tháp uy nghi, đứng đó tự bao đời. Khi cái nắng, nóng của đất trời lên đến đỉnh điểm, những tiếng sấm rầm vang khắp vùng trời, báo hiệu một năm mới lại về trên quê hương, xứ sở Panduranga. Đó cũng là lúc người Chăm bắt đầu chuẩn bị cho ngày lể cầu đảo đầu năm, đánh dấu thời khắc chuyển mùa, cầu cho mưa thuận gió hòa, quốc thái dân an, con cháu đầy đàn, tôm cá đầy khoang. Lễ Rija Nưgar thường tổ chức vào những ngày đầu của tháng giêng Chăm lịch. Trong thời gian ấy, các palei Chăm rộn ràng, nô nức trong không khí lễ hội đầu năm. Ngay từ sáng sớm, khi những giọt sương long lanh vẫn còn đọng trên những phiến lá, khi mặt trời chỉ mới vừa hé dạng ở đằng đông, những phụ nữ Chăm chuẩn bị sắm sửa lễ vật gồm trái cây, trầu, cơm, canh, rượu, trà… Rồi khi trời sáng hẳn họ đem lễ vệt đến nơi hành lễ để dâng lên thần linh để cầu mong hạnh phúc, sung túc. Dòng người đi dâng lễ và xem lễ gồm phụ nữ, nam giới, già, trẻ… mặc những trang phục đẹp nhất, mới nhất. Dòng người đi hội làm cho không khí của những làng Chăm trong buổi lễ đầu năm càng thêm nhộn nhịp, tưng bừng, tạo nên cái sắc thái vui tươi, náo nhiệt của một buổi lễ cầu đảo với ý nghĩa tống cựu nghinh tân – tiễn năm cũ, chào đón năm mới. Lễ Rija Nưgar được tổ chức theo quy mô từng làng, thường diễn ra trong một nhà lễ (kajang), được dựng tạm ở một mảnh đất trống đầu thôn. Nhà lễ được dựng lên có hai mái, có hai cây kèo làm trụ, xung quanh được che chắn bằng tre. Dù ảnh hưởng một số tôn giáo như Ấn Độ giáo, Hồi giáo nhưng nổi bật trong tư duy tín ngưỡng của người Chăm vẫn là tính bản địa với tục thờ đa thần. Lễ Rija Nưgar là một sự kết hợp giữa hai tín ngưỡng Awal – Ahier, theo tư duy lưỡng phân lưỡng hợp. Theo đó, người Chăm quan niệm rằng Tamư yang biruw, tabiak yang klak (Ngày vào thần mới, ngày ra thần cũ) hay Tamư mưnuk tabiak pabaiy (Vào cúng gà, ra cúng dê) tức là ngày đầu tiên của lễ sẽ là việc chúc tụng, dâng cúng các vị thần mới, tức là các vị thần Awal (Chăm ảnh hưởng Hồi giáo) lễ vật cúng chính là gà; ngày thứ hai kết thúc thì dạng cúng các vị thần cũ (yang bimong) những vị thần của Chăm Ahier (ảnh hưởng Ấn Độ giáo), lễ vật cúng chính là dê. Đặc trưng của Rija Nưgar chính là tính chất diễn xướng, kết hợp giữa vũ đạo của thầy Ka-ing (thường mặc áo đỏ) với phần tụng ca của thầy Mưdwơn, thường mặc áo trắng vỗ trống baranưng (gồm có 3 người một người hát chính, hai phụ lễ), bên cạnh đó, còn có hai nghệ nhân đánh trống ginơng, một nghệ nhân thổi kèn saranai. Ngoài ra, phần vũ đạo của ông Ka-ing còn có thêm các vật hổ trợ như 1 cây mía đỏ (tượng trưng cho cây chèo); 1 cây quạt, 1 chiếc khăn và 1 cây roi ngựa. Tất cả đạo cụ, ngoài khăn và quạt được thầy Ka-ing cầm tay, còn lại là để tại bàn tổ. Tại bàn tổ, là nơi để lễ vật và đạo cụ múa, còn có một cán rìu (tượng trưng cho công cụ lao động). Ngoài ra, ở ngoài nhà lễ còn có salih – các hình nhân, sẽ được thẻ trôi song vào cuối buổi lễ. Khi đã chuẩn bị đầy đủ tất cả mọi thư cho buổi lễ, khi đám đông đã tề tựu đầy đủ quanh nơi tổ chức lễ, trong không khí linh thiên của một tín ngưỡng truyền thống, thầy Mưdwơn rót rượu và tụng các bài thánh ca về các vị thần, kết hợp với vũ điệu linh thiêng của thầy Ka-ing, hòa theo tiếng trống baranưng, ginơng, tiếng kèn saranai đồng thanh vang lên, họ lần lượt mời các vị thần về để dâng lễ và cầu xin thân linh phù hộ độ trì. Mở đầu lễ Rija Nưgar, thầy Mưdwơn vỗ trống Baranưng, hát bài tụng ca mời gọi thần Po Tang: “…gahluwcuh pahwơl yak ia, klaung khwai da-a yang Po Tang… likau kanư kajap bhih drei yang Po Tang …” (Chúng con xông hương trầm, kính cẩn mời Po Tang về …phù hội độ trì cho chúng con). Sau đó là Po Riyak (Thần Sóng biển), Po Tang Ahauk (Thần chèo thuyền), thầy Mưdwơn vỗ trồng hát về sự tích chèo thuyền: thần đang đi thuyền nhuộm màu chàm, lênh đênh trên biển khơi xa… Thầy Ka-ing cầm cây mía đỏ, biểu tượng cho mái chèo, ông múa điệu chèo thuyền như sóng nhấp nhô trên biển cả. Sau đó lần lượt các vị thần như Cei Sit, Cei Tathun, Cei Dalim… được mời về, thầy Mưdwơn vỗ trống và đọc các bài tụng ca cac ngợi các thần. Đến đoạn ca ngợi và mời gọi thần Po Haniim Par, thầy Mưdwơn hát: “… Mưyaum Po Haniim Par biak ginrơh, Po crauk di Po siam đei, Po klak palei nau ngak nưgar…”. Cùng lúc ấy, ông Ka-ing cầm roi ngựa ngất ngây trong điệu múa, trong tiếng trống, tiếng kèn và tiếng vỗ tay reo hò của đám đông xem lễ, ông Ka-ing thăng hoa và nhảy vào đạp tắt đóng lửa (đã được đốt sẵn) tượng trưng cho nắng nóng khô hạn và hy vọng năm mới mưa thuận gió hòa, mùa màng tốt tươi. Phần quan trọng nhất, được chờ đợi nhất chính là phần mời gọi Po Nai, thầy Mưdwơn đọc bài tựng ca về tiểu sử thần, thầy Ka-ing hóa thân thành nữ với chiếc khăn trắng đội trên đầu, tay cầm khay trầu và trái cây để múa. Chính lúc này, Po Nai nhập vào thầy Ka-ing và đưa ra lời phán xét đối với, nhân dân vừa lắng nghe lời phán xét vừa khấn vái, cầu xin Po cho nước, phù hộ cho nhân dân làm ăn… Ngoài ra, rất nhiều vị thần được mời về và dâng lễ như Po Klaung Girai, Po Rome, Po Sah Inư, Bia Than Can, Bia Than Cih… Sáng ngày hôm sau phần lễ được tổ chức tương tư nhưng lễ vật cúng chính là dê, ngoài ra điểm khác với ngày lễ hôm trước là việc thả trôi song hình nhân thế mạng (Salih) vào cuối buổi lễ. Hình nhân thế mạng này được làm bằng bột gạo, gồm bốn hình người (hai đàn ông, hai đàn bà) và một số con vật như trâu, heo… đặt trên cái đan bằng tre. Người nặng các hình nhân này là thầy Mưdwơn và Ka-ing, khi đang nặng thầy Mưdwơn vừa vỗ trống, vừa hát bài tụng ca các vị thần. Những hình nhân này đại diện cho những sự khô hạn, nắng nóng, những điều xui xẻo, không may mắn của năm trước. Cuối buổi lễ, người ta thả các hình nhân này ở trên sông (hoặc ở ngã ba đương), những hình nhân này sẽ mang đi những điều xui xẻo và mất mùa của năm cũ, đem lại hạnh phúc, sung túc và sức khỏe cho dân làng trong năm mới.   Lễ hội Rija Nưgar, một lễ hội được diễn ra lúc đầu năm, cũng là thời điểm chuyển giao giữa mùa khô – với cái nắng hạn đạt đến đỉnh điểm và những đồng ruộng khô cháy, đất đai khô cằn ở xứ sở Panduranga – với mùa mưa, nên thực chất bản nguyên chỉ là một lễ thức cầu đảo (cầu mưa). Người Chăm, gắn liền đời sống của mình với nông nghiệp, với ruộng đồng, truyền thống đó có tự bao đời nay, đời sống nông nghiệp cũng hình thành tư duy nông nghiệp, lúc nào họ cũng khát vọng mưa thuận gió hòa, đất đai tươi tốt để có những mùa màng bội thu, hay ít nhất cũng đủ ăn. Khát vọng đó được họ phó thác vào niềm tin về sức mạnh của tự nhiên thông qua các đấng siêu nhiên, họ cầu xin và cúng tế các vị thần để được thỏa mãn ước nguyện. Lễ Rija Nưgar, thể hiện rõ nhất khát vọng đó của cư dân Chăm, hình ảnh vũ điệu đạp lửa thể hiện khát vọng xóa bỏ những khô hạn, nắng nóng, cầu cho mưa xuống, tươi tiêu ruộng đồng, cây trái tốt tươi và con người sinh sôi nảy nở. Và cứ mỗi độ Rija Nưgar được tổ chức thì các vùng người Chăm lại có mưa – những cơn mưa đầu mùa, điều này còn phản ánh tư duy khoa học của người Chăm trong việc tính toán lịch pháp trong việc tính toán thời điểm chuyển mưa để tổ chức Rija Nưgar. Rija Nưgar, còn là nơi phô bày nghệ thuật điễn xướng của dân tộc Chăm thông qua sự kết hợp của những điệu vũ của thầy Ka-ing, với những lời tụng ca, những kho tàng văn học dân gian đầy giá trị của người Chăm như các bài tụng ca về tiểu sử Po Inư Nưgar, Po Rome, Po Klaung Girai… Việc xướng lên những bài tụng ca này trong các dịp lễ hội, chẳng hạn như Rija Nưgar là cách tốt nhất để bảo tồn giá trị văn hóa dân gian truyền khẩu của dân tộc. Ngoài ra, trong Rija Nưgar, dàn đồng ca dân tộc gồm trống Baranưng, Ginơng, kèn saranai… cũng được diễn tấu, tạo nên một sự kết hợp hoàn hảo những giá trị văn hóa tinh thần của dân tộc. Rija Nưgar – ngoài dịp cầu đảo (cầu mưa) – còn là một dịp diễn xướng dân gian với sự kết hợp văn học dân gian với các nhạc cụ Chăm. Chính sự kết hợp tính chất tâm linh và nghệ thuật đó đã tạo cho Rija Nưgar thành một buổi lễ đặc sắc. Không khí linh thiêng kết hợp với các hoạt động diễn xướng làm cho quê hương, xứ sở rộn ràng, lòng người nức nở, người người – từ già đến trẻ, nam thanh, nữ tú - sắm sửa những bộ cánh mới nhất, đẹp nhất đi chảy hội, tạo nên một không khí nhộn nhịp, sôi động, làm bừng tĩnh các vùng đất có người Chăm sinh tụ. Một năm mới lại về, một Rija Nưgar nữa lại đến, quê hương, xứ sở lại đón mừng một mùa xuân mới với ước vọng mưa thuận gió hòa, mùa màng phát đạt, thóc lúa đầy bồ, tôm cá đầy khoang,… cầu ơn trên, cho những ước vọng của chúng con được như ý!  Jashaklikei  Saigon, tháng 4 năm 2014. 
0 Rating 273 views 1 like 0 Comments
Read more
By: On April 19, 2014
Chiêm ngưỡng PokLong Garai Rất nhiều người từng nghe qua giai điệu "Tiếng trống Paranung" trước khi tận mắt nhìn thấy nhạc cụ đó. Giai điệu và những gì được mang trong ca từ của ca khúc ấy là yếu tố chính thúc đẩy tôi đi hết những nơi mà văn hóa – con người Chăm hiện hữu.   Đây là một trong số ít tộc người ở Việt Nam sở hữu khối tài sản văn hóa vật thể và phi vật thể nguyên vẹn, chi tiết còn tồn tại đan xen nhau. Nhờ vậy, người ta có thể chiêm ngưỡng, khám phá trong tâm trạng vừa ngưỡng mộ, vừa vui sướng vì được xem - nghe - thấy cùng lúc. Trong nhiều năm, cuối cùng tôi đã hoàn thành được phần nào ước nguyện đi hết những chặng đường núi, gió, cát, sóng để đến với nền văn hóa này. Cánh cửa đầu tiên mở ra đón tôi đến với nền Văn hóa Chăm huyền thoại là Tháp Nhạn – ngọn tháp sừng sững, vời vợi trên đỉnh núi Nhạn. Với kiến trúc chóp vuông 4 tầng vững chắc, quay về hướng Đông – ngày đón gió biển, đêm nghe tiếng sông Ba rì rầm, Tháp Nhạn ghim một ấn tượng sâu sắc về sự bề thế, oai nghiêm vào lòng mỗi người đến với Phú Yên. Bắt đầu từ công trình kiến trúc từ Thế kỷ 12 của Đồng bào Chăm vùng Châu Thổ sông Ba đó, tôi đã đi theo những con đường riêng, với những thời gian khác nhau để thỏa mãn niềm đam mê của mình.Sau Tháp Nhạn, tôi đến Tháp Bà Ponagar – nơi thờ Thiên Y Thánh Mẫu Ana – nữ thần tối quan trọng trong tín ngưỡng Champa. Đây là hàng cột bình đài phía trước - kiến trúc đặc sắc của tháp bà Ponagar. Tôi may mắn có mặt đúng dịp Tháp Bà đón đội ca múa nhạc Chăm Huệ Dương – Ninh Thuận tới biểu diễn. Lần đầu tiên được tận tai nghe những thanh âm truyền thống Chăm qua tiếng kèn Saranai réo rắt hòa với tiếng trống Ghi năng rộn ràng ngay dưới chân tháp cổ oai nghiêm. Tôi được tận mắt chiêm ngưỡng những điệu múa Vò, múa Gáo, múa Quạt sôi nổi của các thiếu nữ Chăm, hay tận tay chạm vào những vò, bình gốm đặc trưng cho văn hóa, mỹ nghệ dân tộc này. Đi dọc một vòng văn hóa Chăm, nhất định phải chiêm ngưỡng khu di tích Mỹ Sơn nổi tiếng. Người ta không thể không choáng ngợp trước vẻ bề thế của hệ thống đền tháp giữa rừng núi này. Hệ thống đền tháp Mỹ Sơn vốn là nơi các vương triều Champa cổ tiến hành cúng tế. Ở đây, có những ngôi tháp quy mô còn nguyên vẹn, những di vật nhuốm màu thời gian sau hơn chục thế kỷ, vẫn hiên ngang đứng đó, là biểu tượng cho nghệ thuật kiến trúc – điêu khắc Champa kiệt xuất. Trên đường xuôi vào Ninh Thuận, chúng tôi ghé thăm cụm Hòa Lai – Ba Tháp - những kiến trúc tháp thành công nhất, đẹp nhất của Chăm Pa còn lại theo đánh giá của các nhà nghiên cứu. Nổi tiếng nhất trong các tháp Chăm còn lại chính là tháp PoKlong Garai – cụm tháp hùng vĩ nhất còn tồn tại đến ngày nay ở tỉnh Ninh Thuận với 3 phần: Tháp Chính, Tháp Lửa và Tháp Cổng. Đây là đường lên Tháp Chính : địa điểm tổ chức Lễ hội Kate – Lễ hội lớn, đặc sắc nhất của đồng bào Chăm mỗi ngày 1/7 lịch Chăm hàng năm. Chiêm ngưỡng PokLong Garai Không chỉ được chiêm ngưỡng những di sản vật thể, tôi còn được những người Chăm hiền hòa, tốt bụng giới thiệu và chia sẻ những nét văn hóa đặc trưng khác. Tôi đã quàng chiếc khăn Mat'ra trứ danh thực sự, ngồi vào khung dệt thổ cẩm làng Irahani (Mỹ Nghiệp), đã tận tay gõ vào mặt trống Paranưng, nâng niu những vò gốm vừa ra lò ở Paley Hamu Trok (Bàu Trúc) – làng nghề cổ nhất Đông Nam Á. Tôi đã đi xuyên những trảng cát trắng ven biển đến với ngôi làng Chăm còn nguyên những người phụ nữ mặc váy quàng khăn và những người đàn ông mặc xà rông cũng quấn khăn. Đã đến tận những ngôi làng Chăm đầu nguồn Sông Hậu ở Tân Châu – An Giang, nơi có những ngôi nhà gỗ sàn cao luôn sẵn sàng trước những trận lũ về.     Những thánh đường Đạo Hồi đẹp đẽ, uy nghiêm ở Châu Đốc – An Giang. Kiến trúc mái vòm đặc trưng của Đạo Hồi cùng với màu trắng – màu sắc tôn kính, thiêng liêng trong văn hóa Chăm. Nụ cười Chăm luôn dành cho tôi trên mỗi chặng đường của những con người da nâu hiền hòa sống cùng đền tháp, gió cát và sông nước... mà tôi hết sức yêu mến.   Theo Thùy Mai (Infonet)-24h.com.vn
0 Rating 178 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On March 19, 2014
Nó là Chăm! Vì cha, mẹ nó đều là Chăm. Dù nó sinh ra ở nơi đâu, dù màu da, ánh mắt, dáng vẻ nó không có gì là Chăm, cho dù bản thân nó suy nghĩ như thế nào, đi chăng nữa? Nó vẫn là Chăm, Chăm một trăm phần trăm. Người ta không có quyền chọn lựa dân tộc của mình khi sinh ra, nhưng phải sống có trách nhiệm với dân tộc đã sinh ra mình. Mẹ sinh nó ra, nuôi nó khôn lớn, từ lúc còn đỏ hỏn trên tay, cho đến lúc đến lớp, đến trường trong một môi trường xung quanh toàn là những người không cùng dân tộc với nó. Lúc còn bé, nó nghĩ, nó chẳng khác gì những người sống xung quanh cả, nó cũng có thể nói rặt tiếng Việt, nó có thể học A, B, C nhanh hơn lũ bạn cùng lứa với nó. Nhưng đến một ngày, mẹ nó với nói : « Con là người Chăm, phải nói tiếng Chăm, con ạ ! ». Lúc ấy, nó hãy còn ngây thơ và bé nhỏ quá, nó cảm thấy xấu hỗ khi mẹ nó nói tiếng Chăm với nó trước mặt lũ bạn, nó cảm thấy xấu hỗ khi tự xưng mình là Chăm trước mọi người. Từ trong suy nghĩ, nó ước mình không phải là Chăm, nó muốn như những đám bạn nó, không phải bị chúng nó nhìn bằng cái ánh mắt xa lạ của những kẻ không chung dân tộc. Mỗi lần cha, mẹ đem nó về quê, mọi thứ đều xa lạ và ngỡ ngàng đối với nó, mọi hình ảnh đều tạo một cái cảm tưởng khó chịu đối với nó. Hình ảnh những vị chức sắc làm cho nó sợ, hình ảnh những bà già ăn trầu làm cho cảm giác ghê ghê. Ở đó, người ta nói một thứ tiếng xa lạ đối với nó, rồi họ nhìn nó, xúm nhau lại nói bân quơ gì đó, rồi lại nhìn nó cười te tét, cứ như nó ở trên trời rơi xuống ấy ! Mọi thứ đều xa lạ với nó, nó chợt thấy mình hụt hẵn, dường như nơi đây không thuộc về nó. Nó chỉ ước ao, có cánh để ngay lập tức bay về nhà. Nó còn nhỏ và hãy con dại lắm ! Cái suy nghĩ vô thức của nó vô tình làm cho nó trở thành một kẻ không quê hương, không nguộn cội. Nó nghĩ, nó hạnh phúc hơn khi sống ở giữa lòng người Kinh, nhưng nó quên mất rằng, nó là Chăm, từ bỏ Chăm chính là từ bỏ gốc tích của chính nó. Rốt cuộc, nó không thuộc về « thế giới » nào cả, « thế giới » mà nó đang sống, đang hạnh phúc chỉ là « thế giới » tạm, ở đó nó chỉ là một kẻ ngoại lai; « thế giới » Chăm mà nó lãng quên lại chính là cội nguồn, gốc tích của nó, nó tưởng, nó thuộc về bên này, nhưng nó lại thuộc bên kia và rốt cuộc nó không thuộc về bên nào cả, tự nó đã lạc lõng giữa hai « thế giới ». Thomas. L. Priedman viết “…Một mình, bạn có thể là người giàu có. Một mình, bạn có thể là nhà thông thái. Nhưng bạn không bao giờ là người hoàn chỉnh nếu đứng một mình. Bạn phải là người có cội nguồn” với cái suy nghĩ đó nó là một con người không hoàn chỉnh, là một kẻ không có cội nguồn. Năm lên mười, cha, mẹ đưa nó về quê và ở đó suốt ba tháng hè. Nó không thể ngờ rằng, chuyến đi này, sẽ tao ra những đổi thay từ từ, trong tâm hồn của nó. Tại đây, lần đầu tiên, nó tiếp xúc với những đứa trẻ cùng trang lứa, và quan trọng hơn cùng giống nòi với nó. Nó vẫn còn nhớ như in những buổi sáng thức giấc, nó cùng lũ bạn rong ruỗi khắp xóm làng, đến chiều về lại chơi đùa với nhau ở sân nhà, hay trên những cánh đồng quê xa xăm, bát ngát, nó đã vui, đã cười, cho dù rất mệt. Nó còn nhớ cả những lần chúng nó rủ nhau đi hái trộm soài, ổi để ăn…những điều đó, chưa bao giờ nó được trải nghiệm. Đêm đến, dưới ánh trăng, trong tiếng gió âm vang của đất trờ xứ sở, nó ngồi bên cạnh lũ bạn, nghe người già kể chuyện đời xưa, bên tách trà nóng, bên ngọn lửa hồng, giọng cụ già mới vang vọng và truyền cảm làm sao? Ông ngâm cho chúng nó nghe những dòng ariya trữ tình, kể cho chúng nó những sakarai thần thoại, những dâmnay cổ tích, cụ già ngâm: “Glơng anak linyaiy likuk jang oh hu,  bhian drep ngap ralo, pieh hapak khin ka thraong…” (Ariya Glơng Anak). Vốn từ Chăm của nó, không cho phép nó hiểu hết toàn văn, nhưng nó vẫn nắm được những nội dung cốt lõi, và không biết, từ khi nào, những ariya, sakarai, dâmnay đưa nó chìm dần vào giất ngủ, với những giất mơ về mảnh đất và con người nơi đây… Nó, lại nhớ cái lần cùng lũ bạn lên tháp Po Kloang Girai cổ kính, trong dịp lê Kate. Tháp thiên đứng đó, uy nghi và bí ẩn, từ trên đỉnh Chà Bang nhìn xuống, cả một dải giang sang gấm vóc tươi đẹp trước cặp mắt long lanh của nó. Nó nhìn khắp bốn hướng, kia cả một vùng biển xanh ngắt, sóng vỗ quanh năm, đây đập Nha Trinh hiện lên như một hồ nước nhân tạo tuyệt đẹp giữa lòng đất mẹ, kia núi Cà Đú chợt hiện lên đen ngắt giữa một vùng trời xanh thẳm… nó cảm nhận được cái nắng, cái gió của quê hương. Nó cảm nhận được cái linh thiên của không khí lễ hội, mà lần đầu tiên nó được chứng kiến, vị tăng lữ đốt lên nén hương trầm, làn khói bay nghi ngút, người ta tắm cho thần bằng nước thiêng, xông cho thần bằng ngọn lửa thiên, mặc áo cho thần rồi đọc những lời kinh mời gọi các vị  thần về chứng dám, cầu cho quốc thái dân an, mưa thuận gió hòa, những nghệ nhân biểu diễn saranung, kanhi, ginang, baranưng, các cô gái Chăm, trong bộ áo dài truyền thống, dịu dàng và thước tha theo điệu múa quạt, dòng người tấp nập chen nhau đi xem lễ…Cái không khí đó, cái không khí mà nó được đấm mình vào, rộn ràng và nhộn nhịp làm sao? Từ những trải nghiệm ấy, nó thấy hết được cái tình cảm mà mọi người giành cho nó, dân quê Chăm nghèo khó thiệt đấy! Một nắng hai xương, bán mặt cho đất, bán lưng cho trời thật đấy! Nhưng cũng dạt dào tình nghĩa, thấm đượm tình quê thật đấy! Từng câu truyện, từng con người mà nó đã chứng kiến trong thời gian đó đều khắc ghi vào trong tâm hồn bé nhỏ của nó, bên trong những suy nghĩ, nhận thức của nó, dường như đang có những đổi thay lạ kỳ, mà chính bản thân nó cũng chả nhận ra được nữa! Nó cảm thấy nơi này thân thiết biết bao nhiêu? Không biết tự lúc nào, trái tim nó lại trở nên thổn thức với nơi này, nó ý thức rằng nơi đây là nguồn gốc của nó, từ mảnh đất này nó đã ra đời và nơi đây cũng sẽ là nơi cuối cùng nó phải trở về, trong cái kiếp người của nó, bởi vì đây là quê hương, là đất mẹ, là cái “nôi” đã sản sinh ra nó. Năm mười hai, mười ba tuổi, những bản dân ca, những bài hát về quê hương, xứ sở (mà cha vẫn thường hay nghe) lại làm cho tâm hồn nó xao động lạ kỳ. Nó, như thả hồn theo từng điệu nhạc và tưởng tượng về những hình ảnh nên thơ, đầy tình cảm, thấm đượm hồn dân tộc: “một giếng nước mát trong bên một cây bàng”,  “Nắng lên trên đỉnh tháp thiên, đàn chim Chrao tung cánh trời cao”, Hay “bên tháp Po Gloang Girai điệu chồng em múa say đắm tình cô gái Chăm” (A Mư Nhân), rồi cái hình ảnh của một cô gái Chăm e ấp nhắn gửi đến người yêu “mai rawang plei adei hơi xaai, choi boah mada ploah wan chôi xa ai” (Đàng Năng Qụa). Từ bài “Kaik tian ka anưk nao bac”, nó lại thương cho những bà mẹ Chăm tảo tần, cực khổ đi “mót” từng hạt thóc cho những đứa con của bà được đi học, nghĩ đến đây, nó lại không cầm được nước mắt… Nó đã nghe, nghe đi nghe lại, nghe như thuộc lòng từng câu hát, nhưng cứ mỗi lần nghe lại, những liên tưởng xa xăm về những hình ảnh thân thương của cái plei Chăm nghèo của nó, lại chợt hiện về trong tâm tưởng: đây những cánh đồng bát ngát xa xăm nhìn lên tháp cổ, những cô thôn nữ dịu dàng trong xóm ấp, những đôi trai gái mặn nồng tình tứ bên nhau hằng đêm, những bà mẹ Chăm lam lũ một đời…Những hình ảnh từ trong những lời hát, vần thơ, chợt hiện ra miên man trong tâm trí nó, những hình ảnh ấy, tự bao giờ, đã in hằng trong suy nghĩ nó, khiến cho nó lưu luyến mãi không thôi! Năm mươi lăm, mười sáu tuổi, tìm trong tủ sách của cha những cuốn sách về lịch sử Champa, nó bắt đầu đọc, đọc như mê, như dại, không rời một bước, nó đọc và như thả hồn vào từng trong viết, cái lịch sử của dân tộc này dường như có một ma lực, kéo nó vào sâu trong đó. Nó, chợt suy tưởng ra cả một vương quốc, cái vương quốc trong suy ngẫm của nó, một vương quốc với những đền tháp hùng vĩ và linh thiêng, nơi nhà vua, giới tăng lữ đến cầu nguyện thần Siva, dâng lễ cho thần…với những lầu cát, cung điện nguy nga, nơi đón chào đoàn tượng binh hay thủy binh của Chế Bồng Nga trở về mừng chiến thắng, nơi hằng đêm “những cung nữ dâng lên những khúc ca về Chàm”, nơi “vua quan Chiêm say đắm thịt da ngà”. Vương quốc Champa trong suy nghĩ nó, là những đoàn quân đã biết bao lần đánh đuổi kẻ thù, những đoàn thủy thủ xa xăm đắm mình trong biển khơi dữ dội, những nghệ nhân bật thầy của nghệ thuật điêu khắc ngày ngày làm việc cần mẫn, sáng tạo ra những tác phẩm tuyệt vời, hay những vũ nữ apsara múa những điệu mê đắm, đưa con người thoát khỏi trằm luân, nghĩ về cái cõi vô thường nào đó?…Vương quốc Champa, như ru hồn nó, từ đó, nó lại rất đỗi tự hào về cái tổ quốc xưa cũ ấy, cái dân tộc thân yêu ấy! Năm mười bảy tuổi, nó đọc Điêu Tàn, cũng cái năm mười bảy tuổi ấy, Chế Lan Viên của chúng ta đã viết tập thơ này. Nó, nhìn thấy những cảnh tượng tan hoang và đổ nát của những cung điện, đền đài, nó thấy “Thành Đồ Bàn cũng không thôi nức nở”, “những đền xưa đổ nát dười thời gian”, hay “những tượng Chàm le lói rỉ rên than”, “những ma Hời sờ soạng dắt nhau đi”…Những cảnh tượng huy hoàng trong cái vương quốc trong suy nghĩ của nó trước đây, nay chỉ còn thế này thôi sao? Nó cảm thấy tiếc thương cho vương quốc đó, tiếc rẻ cho những “cảnh tượng huy hoàng trong Chiêm quốc”. Nó buồn thương cho những đền tháp đổ nát, hoang vắng giữa vòm trời u ám, đang hằng ngày đối mặt với sự hủy hoại của con người và thiên nhiên. Nó buồn thương cho những lầu cát, những thành trì nằm sâu dưới lớp bụi đất của thời gian, nó buồn thương cho những bóng ma “Hời” vẫn hiện hữu đâu đó, kêu lên những tiếng ai oán bên những dòng sông, những ngọn núi, khóc thảm thiết, rên la một cách ma quái quanh những đền tháp, thành trì một thời huy hoàng tráng lệ. Với nó, cái  cảnh tượng tan hoang, u ám của những đền đài, những bóng ma ấy cứ “tháng ngày qua ám ảnh mãi không thôi”. Nó ước (ước chỉ để mà ước thôi!): “Ngày mai đây xuân về nơi Chiêm quốc, nước non Chàm vang dạy tiếng vui ca”… Nó nghẹn ngào trong những dòng suy nghĩ và cảm thấy lòng se thắt lại. Nó chợt nhận ra, nó và tất cả những đồng bào của nó, chỉ là những người mất nước. Hai mươi tuổi, cái tuổi đời của nó hãy còn quá trẻ, nhìn lại những năm tháng đã đi qua, hai mươi năm quá là dài đối với nó. Trong suy nghĩ, trong nhận thức của nó đã thay đổi đến biết bao nhiêu lần, nó chợt nhận ra đâu là cội nguồn, đâu là xứ sở. Nó là Chăm, nó yêu Chăm và yêu cả cái nước Champa cổ xưa của nó nữa, tình yêu của nó xuất phát từng tình yêu những thứ đơn giản nhất như yêu cái rêu phong, cổ kính và hoang tàn của những ngôi tháp, yêu hình ảnh của những chuỗi ngày rong chơi trong xóm thôn quen thuộc, yêu hình ảnh nhộn nhịp của xóm làng mùa gạt hái, yêu hình ảnh những người nông dân hăng say đang gặt dưới những cánh đồng chín mộng, những phụ nữ đội lu đi lấy nước, những đứa trẻ nô đùa trên đường làng, yêu hình ảnh những cụ ông hằng đêm ngâm ariya, những cụ bà têm trầu rồi bỏ vào miệng nhai móm mém, yêu hình ảnh những cô gái Chăm duyên dáng yêu kiều bên khung cửi, với nụ cười có thể làm xao xuyến bất kỳ kẻ lữ khách nào từng thấy qua, những cặp nam nữ ê ấp nghẹn ngùng bên nhau dưới ánh trăng mờ mờ ảo ảo. Nó yêu món canh môn với rau rừng bà thường hay nấu cho chúng nó ăn, cái mùi mấm nêm, mắm đồng vừa cay, vừa nồng đậm tình xứ sở… Nó yêu cái hình ảnh làng Chăm vào mùa lễ hội, cái không khí náo nức vào những dịp Ramưwan, cái tấp nập của dòng người đi tảo mộ (nao ghur), cái rộn ràng của không khí nấu bánh tét, bánh ít, làm mâm cươm chuẩn bị cúng gia tiên (ew mukei), rồi đêm đến, khi thánh đường mở cửa, những tu sĩ dâng tiếng kinh cầu, những người già đứng bên trong sân lễ, những cô gái trẻ mặc áo dài đội mâm cổ, những thanh niên đứng cạnh nhau bên góc thánh đường, tất cả dường như hòa mình vào cái không khí lễ hội của quê hương, dân tộc…Những hình ảnh ấy, mới đẹp làm sao? Những hình ảnh ấy, tưởng chừng như giản đơn, nhưng tự bản thân nó đã tạo nên cái hồn túy của dân tộc này, xứ sở này, để rồi mỗi người con Chăm khi xa quê lại luôn luôn lưu luyến, mong chờ. Chính những hình ảnh đó, làm cho nó thấy yêu Chăm hơn, thấy nó tự hào về Chăm hơn, nó cảm ơn dân tộc này đã sinh ra nó, cảm ơn cha mẹ đã sinh ra nó, dạy cho nó biết: nó là Chăm! Nó tự nhủ, không bao giờ được quên bên trong cơ thể nó chảy một dòng máu Chăm. Dù mai đây nó có ở những nơi như Sài Gòn, Hà Nội, Kuala Lumpua, Paris…hay bất kỳ nơi nào khác nữa? Dù những nơi ấy có xa hoa, tráng lệ, văn minh đến đâu đi chăng nữa? Cũng không bao giờ sánh bằng quê hương Panduranga của nó.  Không biết tự bao giờ? Nó lại yêu cái mảnh đất khô cằn, đầy nắng và gió ấy! Phải chăng? Tình yêu ấy xuất phát từ sự thân thương mà những con người ở nơi đây giành cho nó, hay những trải nghiệm mà nó đã đi qua, đã chứng kiến trong suốt thời ấu thơ của mình. Phải chăng? Ở nơi đây, mọi hình ảnh, mọi kỷ niệm, mọi con người đều khắc ghi vào tận trong tâm khảm nó, nơi đây là cội nguồn của nó, nơi “chôn rau cắt rốn”, nơi có mồ mả ông bà nó, nơi cha, mẹ nó đã sinh ra và lớn lên. Và rồi cũng ở nơi đây nó có một chốn để đi về, mai đây khi về với cát bụi nó sẽ nằm xuống mảnh đất này, mãi mãi. Nó tự nhủ với lòng rằng: nó là Chăm, nó không có gì phải xấu hỗ như trước nữa, nó nghĩ cái vương quốc Champa của nó, rất đáng tự hào chứ nhĩ! Vương quốc này dù chỉ còn quá khứ, nhưng đã để lại nhiều di sản văn minh vĩ đại, dân tộc Chăm của nó cũng vậy, dân tộc đó có một nền văn hóa rực rỡ. Nó sẽ tự hào nói với người Kinh, nó là Chăm, nó sẽ nói với họ về lịch sử dân tộc nó, văn hóa dân tộc nó. Nó tự hào với những người Chăm rằng, nó biết nói tiếng Chăm sau họ, nhưng nó yêu Chăm không kém gì họ, hôm nay nó đã học được Ka, kha, ga, gha, ngư, nga…ngày mai nó sẽ ngâm ariya cho họ nghe: “Ni ariya sa-ai ngap, panưh ba tabiak, pieh ka ra peng…” (Ariya Cam – Bini).  Nó tự nhủ, nó là Chăm, nó phải có trách nhiệm bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa – văn minh của dân tộc nó. Nó ý thức sâu sắc rằng: Nó và đồng bào nó là những kẻ vong quốc, nhưng không bao giờ chấp nhận vong thân. Còn các bạn thì sao?                                                                              JASHAKLIKEI                                                                   Sài Gòn, tháng 3, năm 2014.
0 Rating 352 views 4 likes 0 Comments
Read more
By: On February 14, 2014
Trong cuộc đời chúng ta, hình như ai cũng có một mối tình cho riêng mình. Dù đó là tình đơn phương hay song phương…nhanh hay chậm thì đó cũng là kỉ niệm không dễ gì quên! Có những cuộc tình trong khoảng không gian rộng, chuỗi thời gian dài với những tình tiết bi hài, trắc trở hợp tan tan hợp nỗi buồn vui thương giận. Cũng có những cuộc tình vu vơ thoáng chốc, ngây thơ trong sáng tuổi học trò mơ mộng hồn nhiên. Chắc hẳn ai cũng mong cho riêng mình, người thân bạn bè có mối tình đẹp dẫn tới hôn nhân vững bền, con đàn cháu đống… để khi ngẫm lại cuộc đời trong khoảng lặng tâm hồn, con người thanh thản nở nụ cười vui! Ai đã nói: “với tình yêu và khoa học con người làm nên lịch sử” thật thâm trầm sâu sắc! Với rung cảm tình yêu chân chính trên nền tảng khoa học chân chính, con người làm nên lịch sử chân chính. Trên thế giới có nhiều cuộc tình lớn trở thành bất tử như Cléopatre và Cesar, Đường Minh Hoàng và Dương Quí Phi…trong văn chương có Roméo và Julliet, Paul và Virginie… Trong huyền sử Việt Nam có Sơn Tinh – Mị Nương, Trọng Thủy – Mị Châu… Và trong huyền sử Chăm nổi bật nhất là mối tình giữa Po Inư Nưgar với thái tử Trung Hoa và mối tình giữa Po Nai và tộc trưởng Raglai. Hôm nay, thời đại đã đổi khác hơn nhiều nhưng sự rung động của con tim dường như vẫn thế, có lẽ muôn đời mãi thế?! Có khác đi là khoảng không gian chúng ta đang sống, thời trang chúng ta đang ăn mặc, cách ứng xử hòa nhập giữa con người với nhau đang dần đi vào hình thái mới mang tính thời đại!Là người dân bản xứ, tôi được nghe nhiều truyền thuyết về Pô Nai, đến thăm nơi ngài ẩn tu, được xem núi Chà Bang chẻ ngọn những giai thoại về cuộc tình ngài mỗi nơi mỗi khác. Chỉ biết ngài là công chúa của miền đất nắng Panduranga, có tục danh là Nai Tangya. Vì hồi trẻ nàng đi du hành khắp xứ để tìm hiểu dân tình, tìm cách giúp đỡ người nghèo khó nên được nhân dân thương yêu gọi bằng tên thân mật Nai Rah Nưgar. Trong một chuyến ngược vùng thượng du nơi quần cư người Raglai sinh sống, nàng gặp một tộc trưởng tên Kei Kamau. Đó là một chàng trai khôi ngô tuấn tú, văn võ song toàn lại có sức mạnh phi thường, có uy tín tuyệt đối với đồng bào dân tộc thiểu số vùng cao. Không biết nàng có tình cảm với chàng hay không chỉ biết chàng Kei Kamau đã si mê nàng say đắm. Tộc trưởng Raglai đã mang sính lễ đến gia đình xin cưới nàng làm vợ. Thời bấy giờ, các triều đại vua Chăm thường liên kết chặt chẽ với những tộc người miền núi với những giao hảo về kinh tế chính trị, quân sự … phương thức thường thấy là lấy vợ là con gái tộc trưởng, công chúa các nước láng giềng làm thứ phi. Có lẽ đây là lần đầu tiên vua cha phải đối phó với tình thế ngược lại!? Và cũng có thể người cha đã động viên con tình hơn lẽ thiệt khuyên nàng thuận tình vì đó là việc chung, việc trọng đại của đất nước. Nai Tangya đã sánh duyên với chàng Kei Kamau trong một hôn lễ linh đình theo nghi thức hoàng tộc và lễ hội tưng bừng náo nhiệt rồi cũng qua đi nhường lại không khí tĩnh lặng gia đình ấm áp yêu đương.Tại sao nàng lại đi tu? Đó là một câu hỏi lớn! Một quyết định quan trọng hơn nhiều sự nhận định của mọi người dù đó là cha mẹ, anh em, bạn bè… là vua hay dân và ngay chính bản thân nàng ?! Đây là một bản tình ca chưa ai viết hay đã viết nhưng chưa ai tìm thấy? Kẻ hậu sinh chỉ biết ứa nước mắt hình dung mơ hồ về những xung đột nội tâm, những áp đặt ngoại cảnh nên nỗi nàng phải dứt áo rời bỏ chốn phồn hoa, đô hội để lên thâm sơn cùng cốc ẩn tu. Con người ai lại không mong mỏi hạnh phúc, nhất là với một nàng công chúa thanh xuân đang tuổi yêu đời, đang quen với cuộc sống ngọc ngà nhung lụa, ngày đợi ngày trong cưng chìu xưng tụng của người thân người dân. Phải chăng nàng đã không chịu đựng được sự gò bó trong khuôn mẫu gia đình chật hẹp khi nàng đã quen bước chân phiêu lãng trời cao đất rộng? Phải chăng chàng Kei Kamau không đủ phong thái hào hoa, bản lĩnh văn hóa trong ứng xử vợ chồng, đỡ đần nàng trong bước đường ngày mai vô định? Phải chăng nhiều nhiều lý do khác mà chỉ có nàng mới hiểu và đã chôn chặt nơi ngọn Chà Bang mây mù thăm thẳm! Phải chi nàng có niềm vui làm vợ làm mẹ với những đứa con thông minh xuất chúng. Phải chi nàng vẫn đi trên bước đường hành hương vỗ về an ủi những khổ đau dân tình vẫn đang chờ đợi. Phải chi nàng để lại một Ariya kể lại cuộc tình buồn. Không, không còn hy vọng gì nữa! Khi nàng đến núi Chà Bang tu hành trong một hang núi, người chồng khốn khổ Kei Kamau có đến thăm vợ, mong ước được cất cho nàng một mái nhà để an dưỡng nơi lam sơn chướng khí. Nàng đã từ chối gay gắt như đã tuyệt tình. Có lẽ, lại có lẽ nàng muốn quên đi hình ảnh mình để bắt đầu một cuộc đời khác, một cuộc tình khác với những tốt lành hơn và cũng để tâm hồn nàng khỏi bị vương vấn xáo động bụi trần, yên tâm tu hành đời đời kiếp kiếp. Thuyết phục năn nỉ vợ mãi chẳng được, tâm trạng Kei Kamau từ vô vọng đến nộ cuồng, chàng rút mũi tên thần tra vào nỏ, bắn một phát vào tảng đá lớn nơi vợ đang ẩn trú với lời thề không bao giờ trở lại nơi này nữa. Tảng đá nứt làm đôi và lời thề Kei Kamau ứng nghiệm cho đến mãi bây giờ!Tôi đã đọc Ariya Bini – Cam để cảm nỗi đau của một chàng trai hoàng tộc Chăm đa tình và thất tình! Đọc Ariya Sah Pakei để nghe tiếng khóc nỉ non ai oán của nàng Mưh Rat trên con đường định mệnh tai ương! Còn bao nhiêu cuộc tình khác nữa không rơi nước mắt, đau xé tâm hồn? Có những cuộc tình kỳ lạ và vĩ đại như Chế Mân và Huyền Trân, Po Rome và Bia Ut (Ngọc Khoa công chúa). Nếu sính lễ của Sơn Tinh là voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao thì sính lễ của Chế Mân là hai Châu Ô Rí. Không biết của hồi môn nào lớn hơn, quý hơn?! Chế Mân đã xây dựng một khu du lịch sinh thái gồm nơi tắm biển Cà Ná, tắm nước suối Vĩnh Hảo, nơi săn bắn câu cá với đủ món sơn hào hải vị. Đặc biệt là khu vườn thượng uyển với đủ loại mai đủ màu nhiều cánh mà ngày nay vẫn còn rơi rớt vài mảnh vụn! Po Rome đã chặt cây Krek thần để chữa bệnh cho người vợ yêu theo toa thuốc bác sĩ riêng của nàng.Có thể đó là toa thuốc hoang đường như bài thuốc trường sinh của Tần Thủy Hoàng. Là mê tín dị đoan ngu muội, vô lý nhưng cũng rất chí lý. Cây Krek thần là biểu tượng của vương triều quyền lực và sức mạnh của nhân dân. Hoặc là Krek chết hoặc là nàng chết. Po Rome đã chọn cây chết thay người, không có sự hy sinh nào của người chồng cao cả hơn thế!Tôi với vợ tôi cũng có một cuộc tình nho nhỏ, nhỏ ti tí nên nói ra sợ người khác cười. Vợ chồng tôi thường cãi nhau về những chuyện không đâu nhưng sưu tra ra là không hợp nhau vì kỵ tuổi. Tôi tuổi con dê nàng tuổi con cọp nên nàng thường hăm he ăn thịt tôi nhưng tôi cóc sợ, đấng mày râu phải dũng khí chứ! Đó là chuyện tình yêu còn nói theo khoa học là bất đồng quan điểm. Tôi thích ăn rau nàng thích ăn thịt, tôi thích vị đắng nàng thích chua, tôi thích màu vàng nàng thích đỏ … nhiêu khê lắm điều. Thường ngày là cãi nhau về cơm áo gạo tiền, so đo tôi với những ông chồng tài ba khác làm tôi phát ốm, xuống tinh thần nghiêm trọng. Buồn quá cãi nhau đã đành mà vui quá cũng cãi nhau khi lỡ mồm long miệng tôi khen người đàn bà khác, vợ tôi lên án mất lập trường quan điểm. Dẫu sao tôi và nàng đã tuyên thệ dưới gốc cây me già là sẽ chung sống hòa bình mãi mãi, chiến tranh chỉ thêm tổn thất cho nhau khổ thôi. Nếu tôi bỏ nàng lấy vợ khác thì chưa chắc đã bằng gót chân nàng dù không cãi nhau. Ngược lại nàng cũng thế cho dù tôi là người chồng đứng chót trong danh sách người chồng mẫu mực trên thế giới loài người. Những cuộc tình lớn thường dẫn đến bi kịch, chỉ có những cuộc tình nhỏ như vợ chồng tôi mới có cơ may tồn tại. Tôi thường an ủi nàng như thế và lần đầu tiên nàng không cãi lại!Ngoài kia, những cô cậu học trò nhỏ đang hớn hở cắp sách đến trường. Tôi thầm mong các em, các cháu sẽ được trang bị những tình cảm đẹp. Tình yêu thầy cô bè bạn trường lớp, tình yêu cha mẹ, họ hàng quê hương. Có như thế lớn lên bằng tình yêu khoa học các em mới đủ sức đem tài năng trí tuệ xây dựng đất nước, vun đắp giống nòi, tự hào với bạn bè năm châu bốn biển. Mùa cưới cũng đến, những cô dâu chú rể xúng xính thời trang, cười tươi nguyện ước. Chúc đôi vợ chồng son trẻ trăm năm bạc đầu tôi lại nhớ đến Nai Tangya và Cei Kei Kamau với lời thề oan nghiệt. Mũi tên xả đôi ngọn Chà Bang như xé làm đôi buồng tim đầy máu nóng, nhắn nhủ tôi hãy nhẫn nhục hơn, chịu đựng hơn trong cuộc đời đầy gian nan thử thách. Uẩn khúc Pô Nai đến ngần nào mà nàng phải dằn lòng rời bỏ tất cả để đến núi rừng thâm u hoang vắng. Nơi chốn ngài ẩn tu phải vượt một khoảng đường dài trèo đèo lội suối gai rừng cây dại. Lại còn hổ báo rắn rít bệnh tật, ăn uống ra sao với một nàng công chúa nhỏ quen người hầu hạ phục vụ. Tôi linh cảm rằng nàng không thể sống lâu hơn khi linh hồn nàng đã chết! Nàng đã sống hết mình và nàng chết theo ý nguyện. Tôi cầu mong vong linh nàng siêu thoát chốn vĩnh hằng và cầu xin những cuộc tình đã đi xa không bao giờ trở lại.Hàng năm cứ vào mùa xuân, người Chăm lại nô nức lũ lượt lên núi Chà Bang cúng bái, cầu xin ngài ban phước lành, mưa thuận gió hòa cho cuộc sống ấm no. Có ai hay biết trái tim nàng một thời đã mang lại niềm vui cho bao người để một đời rỉ máu nơi ngọn núi Chà Bang heo hút. Và có ai an ủi nàng lấy một câu?! *Trong Tagalau4. Nguon: Inrasara.com
0 Rating 196 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On February 6, 2014
 Vào đi! Cô nhìn anh với ánh mắt mừng rỡ rồi ngồi vội xuống sàn trước chiếc vali lớn đầy sách đã mở tung. Cô đang lục lọi tất cả hành lí của ba mình để tìm manh mối về naga. Kì Phương đảo mắt, khắp nơi bừa bộn sách báo bày từ trên bàn đến sô pha. Anh lặng lẽ ngồi xuống chiếc nghế trống dựng góc phòng và không biết mình nên bắt đầu từ đâu. Dù muốn hay không anh cần phải nói ra sự thật. Dường như không hề để ý đến vẻ mặt căng thẳng của anh, Thi Nga rút một cuốn sách rồi xoay bìa về anh. - Anh hãy lật chồng sách đầu giường xem có cuốn nào có từ ‘’thánh địa’’ như cuốn này không? Kì Phương liếc qua cuốn ‘’ Thánh địa Mỹ Sơn’’ của Ngô Văn Doanh liền hiểu ngay cô đang tìm gì nhưng anh biết điều đó không cần thiết nữa. Thi Nga đặt cuốn sách xuống rồi lại nói tiếp. - Có hai thứ quan trọng nhất mà tôi muốn có ngay trước khi đi camboge, đó là tấm bản đồ hay cuốn sách nào đó dẫn đến thánh địa naga, thứ hai là cuốn nhật kí của ba tôi. Anh giúp tôi đi. Cũng không cần nốt, anh nói thầm trong cổ. Nhưng không hiểu sao trước lời yêu cầu tha thiết kia, anh lại buột ra một câu khác hẳn: - Mấy thứ đó chắc ba cô đã...mang đi rồi! - Dạo này bố em hay quên, lúc đi lại rất vội vã. Nhật kí là vật bất li thân của ba rồi, mong sao tấm bản đồ ba tôi bỏ quên đâu đây. Kì Phương dường như không nghe thấy gì, mấy lần suýt vọt miệng rằng ba cô chết rồi không cần đi đâu nữa nhưng anh đã kìm lại. Nhìn Thi Nga hăm hở như một thợ mỏ ngửi thấy mùi vàng mà anh không nỡ làm cô cụt hứng. Cô ngồi gần như xếp bằng trên sàn nhà trước ngổn ngang biển trời tri thức. Tấm lưng ong thon thả đang căng lên dưới mái tóc đen như lụa của cô gái mới đôi mươi. Khuôn mặt ửng hồng, đôi mắt đen không chớp lướt nhanh trên những trang sách như sợ các dòng chữ sẽ vụt biến mất. Một vẻ đẹp thánh thiện, một cô gái thơ ngây đáng thương thế này mà không hiểu sao viên thiếu tá và ngay cả thầy anh lại dồn bao ghi hoặc lên tâm hồn trong trắng như vậy? Không! Cô là một thiên thần. Anh không thể tiếp tục trù trừ và lừa dối cô được nữa. Phải nói. Lấy hết sự bình sinh anh cất giọng. - Thi Nga! em hãy nghe... tôi nói đây! Cô gái từ từ ngước lên, đôi môi mọng đầy hé mở thoáng chút ngạc nhiên, nàng lúng liếng cặp mắt nhìn anh như chuẩn bị đón nhận một lời nguyện ước thiêng liêng. Nhưng rốt cuộc chẳng có gì cả. Kì Phương thấy trong đôi mắt kia là cả một ngọn lửa hi vọng đang bùng cháy mãnh liệt. Ôi, đôi mắt! Có lẽ nào anh lại phũ phàng dập tắt nó. Lẽ nào đôi môi của anh lại phóng ra một lưỡi dao làm trái tim kia phải bật máu. Không! Lại một lần nữa, cổ họng anh như bị thít chặt. Về phần Thi Nga, cô sớm nhận ra bên cạnh mình cũng chỉ là một kẻ si tình, một biểu hiện y hệt những anh chàng kém tự tin đang đeo đuổi cô bên Paris. Cô vội dụi mắt xuống đống sách, giọng chán ngán: - Anh hết mệt chưa? có thể giúp tôi một tay được không? Trong chiếc túi vải trên giường kia của cha tôi cũng là sách, anh tìm nốt đi, chú ý các từ ‘’thánh địa’’ hoặc ‘’naga’’! - Nhưng...ba cô... ba cô đã...- Kì Phương cố gắng như một nỗ lực cuối cùng, nhưng chưa kịp nói tròn câu thì bị chặn lại bởi một câu ráo hoảnh. - Ba tôi đã nói với tôi rằng, ông ấy sẽ có mặt ở thánh địa Naga trong chiều mai. Nào, hãy giúp tôi mở cái túi kia nhanh lên đi chứ! Ở đời có một việc hiếm gặp và ai cũng sợ phải làm, đó là đi báo tin người chết cho người thân của họ. Bởi đơn giản là không ai muốn làm đồng loại lên cơn đau đớn tột cùng. Vậy mà hôm nay, cái chân ‘’sứ giả thần chết’’ mà anh kiêng kị nhất trong đời đã gọi đúng tên anh. Trong tích tắc nữa, cơ thể tràn trề sức sống kia sẽ phải gục ngã và giãy dụa trước một sự thật đang chực sẵn trên môi anh. Sự trì trầy nhu nhụt của anh dần dần đi đến một bước lùi tai hại. Giờ đây anh lại phân vân không biết nên kiên quyết chứng minh cha cô ta đã chết hay là cứ để cho cô ta tin cha mình đang sống thêm... một thời gian nữa? Mà một khi tin cha mình còn sống tức là anh cũng chuẩn bị khăn gói mà tháp tùng cô ta đi tìm cái thánh địa quái quỷ nào đó. Nghĩ mà nực cười, chỉ mới sang nay anh cố giãy dụa dưới hố sâu để chứng minh cha cô còn sống, thì giờ đây anh cũng đang ‘’giãy dụa’’ để chữa lại lỗi lầm. - Cô tin mọi việc đang diễn ra đúng như cha cô đã nói? – anh hỏi xong thì vội nhận ra câu hỏi quá thừa. - Ơ kìa anh này!- cô ngửng phắt nhìn anh như một thằng ngốc – Nói thêm để anh biết, kế hoạch khám phá thánh địa của ba tôi đã chuẩn bị từ cách đây mấy năm chứ không phải bột phát đêm nay. - Sao? kế hoạch khám phá thánh địa của ba cô đã chuẩn bị từ cách đây mấy năm? – Kì Phương kinh ngạc đến mức lắp bắp. - Đúng vậy - Cô nói dứt khoát.- ba tôi nhất định đến đó. - Thôi được - Kì Phương lắc đầu chịu thua - Chúng ta tìm bản đồ rồi đi naga tìm ba cô. - Anh đừng quên chúng ta đã thỏa thuận với nhau lúc ở dưới hố rồi nhé. Lúc đó túng quá mà Kì Phương hứa bừa là sẽ cùng cô đi Pnompenh, rồi sau đó anh lại hứa đại với giáo sư Huỳnh Lẫm là đưa cô đi trốn. Giờ đây, theo đà này thì cô ta sẽ lôi anh trốn ra nước ngoài mất. Thế mà hóa hay. Làm thế thì được lòng cả hai và điều quan trọng nhất là cô ta sẽ thoát khỏi nơi nguy hiểm này? - Tấm bản đồ và cuốn nhật kí – Anh nói- Trước đây cô đã nhìn thấy chúng bao giờ chưa? Thi Nga định không đáp, nhưng không phải câu hỏi nào của anh cũng thừa. - Bản đồ thì tôi chưa thấy bao giờ, còn cuốn sổ tay thì rất dày, bìa da màu đen. Cũng như một cuốn nhật kí riêng tư của bất cứ ai, ông không muốn ai xem nó cả.  - Nếu tồn tại thánh địa naga trong thực tế, ắt ta sẽ có cách tìm được thôi. – Kì Phương an ủi, mặc dù anh cũng chưa có cách gì. Ngay lập tức Thi Nga hất mái tóc và quay mặt sang. - Anh đừng nghĩ đơn giản, đây là bí mật lớn nhất của lịch sử khmer và champa, nếu dễ người ta đã tìm ra từ lâu rồi. - Chính ba cô đã biết đấy thôi - Kì Phương vặn lại. - Ba tôi là người duy nhất làm được điều đó nhưng cái giá quá đắt. Mẹ tôi phải bỏ mạng ngay tại đó. Sự trả thù vẫn còn đeo đẳng cha con tôi đến tận bây giờ. Chính vì thế nên bằng mọi giá tôi sẽ không để ba đến đó môt mình. Lúc này thì kp mới thấm câu nói của gshl, quả thật, ba con cô ta đang bị ai đó đe dọa. - Vậy ba cô đã nói kế hoạch gì với cô trước khi ông ấy sang đây? - Ba tôi cho tôi biết sáng nay làm lễ ở Mỹ Sơn, chiều nay sẽ đáp máy bay qua Pnompenh để chuẩn bị cho khai quật thánh địa naga vào chiều mai. Có lẽ sự cố ở Mỹ Sơn sáng nay đã buộc ông ta tiến hành khai quật naga sớm hơn dự định. Ba tôi nói khai quật naga là sứ mệnh lớn nhất của ông trước khi chết. Nghe đến đây, Kì Phương nhận ra rằng đây là lí do cô chưa ‘’cho phép’’ba mình được chết. Sau nghĩa vụ ở Mỹ Sơn sẽ là naga. Ý nghĩ khám phá thánh địa naga bí ẩn bắt đầu cuốn hút anh, và không biết tự khi nào anh đã bỏ hẳn ý định nói thật với Thi Nga. Tận dụng nguồn thời gian, Kì Phương định bảo Thi Nga mang vài cuốn vào ba lô rồi vừa đi vừa tìm thì tiếng reo của cô vang lên. - Đây rồi, thánh địa naga! Kì Phương trờ tới nhìn lên cuốn sách được đóng thủ công đã ố vàng trên tay cô. ‘’Thánh địa Naga’’. Không kìm được tò mò, Kì Phương nhìn qua vai cô khi cô giở nhanh từng trang. Anh nhìn thấy có rất nhiều ảnh chụp và vẽ tay khá công phu cố diễn tả từng phần một công trình bằng đá tối màu như trong một cung điện tối tăm. Sức hút của những công trình kiến trúc cổ đối với Kì Phương là rất mãnh liệt. Đáng chú ý, trong công trình này hiện diện nhiều mảng phù điêu bằng gạch rất đặc trưng của người Chăm. Theo kinh nghiệm của người trong nghề, Kì Phương liên tưởng ngay đến bộ hồ sơ hiện trạng một công trình cổ nào đó trước khi làm dự án trung tu phục chế. Paul vốn là kiến trúc sư cổ vì thế anh tin chắc đây là công trình ông đang làm dở. Tuy vậy tập tài liệu này chưa vẽ lên phối cảnh tổng thể lẫn vị trí địa lí nên không thể biết nó thuộc vùng nào. Thi Nga giở nhanh thoăn thoắt để tìm bản đồ. Cũng như khi soát xong đống sách trong va li, một lần nữa cô lại thất vọng. - Anh tìm lại đi, để tôi tìm cuốn nhật kí. Kì Phương vội cầm lấy xem ngấu nghiến. Mấy bức ảnh đầu tiên là các lối đi lắt léo nhỏ hẹp rất tối tăm giống như một mê lộ dưới lòng đất. Những vách đá dựng đứng được khác tạc các vị thần Ấn Độ giáo uy nghĩ lững lững và cả những hình vẽ lễ hội lạ mắt mà nhất thời anh không hiểu nổi. Tiếp đến là những không gian đóng mở, lồi lõm xen kẽ chứa đựng những pho tượng và kinh sách rất đồ sộ. Kp đồ rằng nếu đây không phải là những tác phẩm do ông tưởng tượng ra thì bấy lâu nay nhân loại đang bỏ quên một kho báu khổng lồ theo tất cả các ngữ nghĩa của nó. - Đây là một kho báu trong lòng đất! – Kì Phương thốt lên. Quả nhiên là trăm nghe không bằng một thấy, cho dù là thấy trong tranh ảnh. Kho báu Chămpa là có thật và được nhắc đến từ khá lâu bởi các nhà khoa học Pháp, những người không màng mê tín hay huyền thoại mà chỉ tin vào thực chứng. Kho báu cuối cùng, nơi lưu giữ những gì còn lại của vương triều Chămpa đã được khẳng định bởi Jeanne Leuba trong tác phẩm Unroyaume disparu-Les Chams et leur art -1923 (một quốc gia đã bị diệt vong và nghệ thuật Chăm) khi viết rằng “Do tình cờ ông H.Parmentier và hai người cộng sự trong một chuyến đi khảo sát tại Phan Rí đã được Nữ hoàng Chămpa cho phép tham quan kho báu ở một khu rừng phải mất nhiều ngày vượt núi mới đến được. Kho báu mà họ được xem tận mắt gồm hơn 300 hiện vật. Đó là những cái bình, những vật trang sức bằng vàng, 4 tá bình bằng bạc, một bộ sưu tập lộng lẫy các vũ khí cổ được khắc hoặc khảm bằng vàng hoặc bằng kim loại quý’’ Đây chỉ là một cuộc mục sở thị kho báu nho nhỏ của giới khoa học Pháp đã được công bố trên tạp chí chuyên ngành. Dân gian đồn đại rằng những thứ không được công bố mới là phần chìm của tảng băng trôi. Cầm trên tay cuốn sách lạ này Kp không khỏi hoài nghi đây liệu có phải là kho báu Champa mà sử sách tốn bao công bàn luận hay không. Kp lật nhanh để xem nó lớn đến mức nào nhưng anh bỗng dừng tay khi thấy một bức ảnh tối màu nhưng nổi lên một vệt sáng ngoằn nghèo như dải khói trắng. Nhìn kĩ anh nhận ra đây là một con rắn rất lớn đang ôm một cây cột. - Xem này! – Kì Phương hướng ảnh về phía Thi Nga. Thi Nga thấy rắn liền giật thót mình suýt chút nữa ngã nhào lên đống sách. Kì Phương bấm bụng cười rằng mới chỉ là bức ảnh mà đã thế, không biết khi gặp rắn thật cô sẽ ra sao. - Nếu nó canh giữ thánh địa này cô có dám vào không? – anh hỏi. - Nó nằm trong naga ư? Thánh địa này có tên là Naga, theo thần thoại Balamon thì đây là tên một con ‘’rắn thần’’. Loài vật thiêng này cũng được xem là thần giữ của của người Khmer. Cha cô còn tiết lộ điều gì về naga nữa không? - Mặc dù là một người kín tiếng nhưng trước khi đi ba tôi nói rằng thám hiểm thánh địa naga có thể mất nhiều ngày và vô cùng nguy hiểm. Ba khuyên tôi ở nhà đừng lo lắng gì, ba sẽ liên lạc với tôi khi có thể. - Vậy lí do gì mà cô phải cấp tốc đi tìm ông? - Tôi biết đây là công việc liên quan đến cái chết mười hai năm trước của mẹ tôi, và lần này cũng rất nguy hiểm với ba tôi nên không nỡ để ông ra đi một mình. - Ba mẹ cô từng vào thánh địa naga?- kp rất ngạc nhiên. - Ba em nói đó là câu chuyện dài, ông hứa sẽ nói sau. Dường như ông rất ân hận về việc mình đã làm với mẹ. Nhìn ông u uất nên tôi chạnh lòng và không nỡ hỏi thêm. - Vậy tại sao ông không trở lại naga sớm hơn, ví như năm ngoái, năm trước chẳng hạn? - Không được. Ba nói rằng không phải cứ thích đi là đi, vấn đề là cánh cửa đá bí mật trong hang núi này không ai mở được! Kp đã từng nghe rất nhiều vào giai thoại kể rằng người Chăm cất giấu kho sách lớn dưới hang núi vùng Cà Ná từ mấy thế kỷ nay. Nền hang được phủ dày bằng lớp cát phát sáng, cửa đóng kín mít bởi một tảng đá to mà chỉ có người Raglai - một dòng họ gia nhân của hoàng tộc Champa cuối cùng mới mở được bằng bài phù chú bí hiểm với lễ vật. Câu chuyện này hấp dẫn các nhà sử học và hàng lớp người đã lên đường tìm kiếm. Không lẽ Thi Nga đang nói về nó chăng. - Nếu không ai mở được sao ba cô trước đây lại vào được? - Nó tự mở theo chu kì, và chu kì này sẽ đến vào ngày mai. - Chu kì? - Đúng vậy, ngày cửa mở chính là ngày diễn ra nghi lễ theo chu kì 12 năm một lần. Kì Phương thấy bắt đầu thú vị. Sáng nay đã có một người buột miệng ra từ ‘’Chu kì’’. Thật ngốc nghếch nếu coi hiện tượng trên Yoni hôm nay là tín hiệu của một chu kì cánh cửa xa lắc nào đó nhưng cũng không được bỏ qua bất cứ điều lạ thường nào. Thờ cúng với tôn giáo như máu nuôi cơ thể, mà thờ cúng luôn luôn diễn ra theo đúng chu kì. Vì vậy nếu muốn một cơ hội nhìn sâu vào một tôn giáo nào đó phải mục kích cho được các chu kì thờ cúng và lễ hội của nó. Thông thường chu kì này diễn ra vào một ngày giờ cố định hằng năm như lễ kate chẳng hạn, nhưng chu kì dài đến một con giáp thì anh chưa nghe bao giờ cả. Phải chăng đây là một nghi lễ tà giáo bí mật và hiếm hoi còn tồn tại trên thế giới này. Kì Phương lật từng trang một cách vô thức và mắt anh nhanh chóng lạc vào thế giới âm u thần bí. Khi nhìn xuống, anh bỗng rùng mình đánh rơi cuốn sách. Bàng hoàng mất vài giây anh mới dám nhìn xuống một bức ảnh văng ra nằm trên mặt đất. Không thể tin nổi. Chính giữa yoni là một dòng chữ kì quái đập vào mắt: -
0 Rating 254 views 4 likes 0 Comments
Read more
By: On January 31, 2014
 Trên đời không thiếu câu chuyện chỉ nghe thoáng qua một lần và không bao giờ còn được nhắc đến.  Dẫu vậy, có những câu chuyện mà cứ phải nghe lại mãi dù đã thật xa xưa.  Một trong những câu chuyện ấy phải nói là của Huyền Trân công chúa, dù đã xảy ra hơn 700 năm về trước. Chuyện tình Huyền Trân công chúa đã được nhắc tới nhiều trong dân gian Việt Nam dưới nhiều góc độ nhìn khác nhau.  Người thì ca ngợi công chúa đã thay mặt triều đình nhà Trần thực hiện công tác ngoại giao, tạo hòa bình giữa hai nước đã thường xuyên tranh chấp với nhau lâu đời. Cũng có người tiếc cho công chúa xinh đẹp, lá ngọc cành vàng phải xa quê hương trao thân gởi phận cho người chồng xa lạ.  Về mặt tình cảm thì nhiều người thương tiếc, nhưng chuyện tình Huyền Trân cũng thường được hâm nóng lại và gây nhiều tranh cãi qua những bài viết đó đây.   Cách đây không lâu nhân chuyến đi họp xa tôi có dịp ghé thăm cộng đồng Việt Nam và nhận được tờ Viet Lifestyles Magazine số 31 đem về khách sạn. Nhưng cho đến khi ngồi trên chuyến bay trở về tôi mới có thì giờ mở ra lật từng trang và bắt gặp bài “NHỚ VỀ HUYỀN TRÂN CÔNG CHÚA” của Mường Giang từ Hạ Uy Di.  Viết về công chúa Huyền Trân, cả chính sử và dã sử đã tốn khá nhiều giấy mực để luận “công” và “tội” của nàng.  Nhưng đây là một bài viết mà theo tôi là rất trung thực, tác giả ghi lại câu chuyện tình xa xưa và cố trình bày sự thật cách rõ ràng theo như mình tìm hiểu được.  Ông cũng đưa ra những lời nhận định chân tình của một người cầm bút, không thiên lệch nhưng rất công tâm khi xét về lý lẽ và sự kiện đã xảy ra trong lịch sử. Ca dao Việt Nam có câu: Có con mà gả chồng gần, Có bát canh cần nó cũng đem cho.                                  Về việc vua Trần Nhân Tông hứa gả công chúa yêu quý nhất của ngài cho vua Chế Mân xa xứ, theo tác giả Mường Giang thì “cũng không ngoài việc anh hùng trọng anh hùng, qua cái tư cách hào hoa mã thượng của nhà vua trẻ này đã thể hiện vào năm 1283, vua Chế Mân đã lãnh đạo quân dân Chiêm Quốc chống lại quân Mông Cổ khi chúng xâm lăng nước này.”   Đọc Việt sử tới những trang viết về cuộc tình của Huyền Trân công chúa và vua Chế Mân, không hiểu là tại sao bên lề câu chuyện chính sử lại có kèm theo những câu ca dao không rõ xuất xứ này:   Tiếc thay cây quế giữa rừng, Để cho thằng Mán, thằng Mường nó leo.   Khác với câu ca dao trên, có thể nói vua Trần Nhân Tông là người hiểu rõ về cốt cách và tài năng của Chế Mân.  Ông chẳng những là một vị anh hùng có tài thao lược, mà lại còn là một vị vua có lòng hiếu khách nữa.  Năm 1301 khi Trần Nhân Tông đặt chân đến kinh đô của vương quốc Champa để tận mắt chiêm ngưỡng những ngọn tháp nguy nga tráng lệ ở đây, thì chính Chế Mân long trọng đích thân đến mời ngài vào cung điện của mình đón tiếp và dẫn đi du ngoạn khắp các đền đài.  Nên trong gần chín tháng lưu lại nơi đây, đến ngày về, cảm động trước tấm thịnh tình của Chế Mân, nhà vua đã hứa gả cô công chúa xinh đẹp của mình là Huyền Trần cho vua xứ Vijaya.  Hôm ấy trên không trung trong lòng máy bay giữa bầu trời cao ngất, đọc xong bài viết của tác giả Mường Giang, tôi ngồi chiêm nghiệm lại những bài viết mà mình đã từng đọc trước đây cũng về cùng một câu chuyện mà không ít băn khoăn.  Trong ấy có những bài viết mà tác giả chỉ muốn nói lên sự thật như một bài học lịch sử, một số bài viết thì tác giả muốn đi tìm sự thật với những câu hỏi chân tình về những điều bí ẩn bên trong.  Dẫu vậy, cũng có những tác giả đã không nhẹ tay chút nào khi phóng ra nét bút của mình trên trang giấy, nặng lời kết án không chỉ những nhân vật trong câu chuyện mà còn lây lan đến làm đau lòng cho cả một dân tộc cách không thương xót.   Dĩ nhiên, trong chúng ta không ai có thể thay đổi được quá khứ.  Điều mà mỗi chúng ta có thể, ấy là cùng nhau làm cho ngày mai tốt đẹp hơn.  Chuyện Huyền Trân công chúa phải nói là đã xảy ra vào một giai đoạn lịch sử mà ngày hôm nay nhắc lại làm cho mỗi chúng ta ngậm ngùi và hối tiếc.  Đối với người Việt, thì không ít người xót xa cho một Huyền Trân vì chữ hiếu mà đành phải xa quê để đi lấy một người xa xứ.  Nên người sau cảm thông nỗi niềm ấy mà trút cạn lòng mình trong lời ca bi thiết:   Nước non ngàn dặm ra đi, Mối tình chi. Mượn màu son phấn, Đền nợ Ô Ly. Xót thay vì, Đương độ xuân thì…   Đối với người Chăm, thì lại tiếc thay vì một Huyền Trân mà mảnh đất thân thương là hai châu Ô và Lý đành phải vĩnh viễn lìa xa đất tổ.  Hoàng Thái Xuyên viết:   Hai châu Ô Lý vuông nghìn dặm, Một gái Huyền Trân đáng mấy mươi…   Việc gả công chúa Huyền Trân cho Chế Mân đã khiến quần thần trong triều Việt xôn xao bàn tán, và dĩ nhiên việc dâng hai châu Ô và Lý làm sính lễ cũng không tránh khỏi nhiều sự bất bình trong thần dân Champa.  Cuộc hôn nhân này quả là một thiên bi hài kịch, gây hệ lụy đau buồn cho nhiều người qua nhiều thế hệ.  Nên những người cầm bút dù là một sử gia, hay là một văn nghệ sĩ muốn mượn câu chuyện tình này làm nguồn cảm hứng để cảm tác một bài thơ, sáng tác một dòng nhạc hay dựng nên một tác phẩm thì cũng hãy nên lấy công tâm mà viết.  Đây là câu chuyện tình lịch sử có liên quan đến hai nước láng giềng khi xưa và hai dân tộc đang sống với nhau trong cùng một cộng đồng bây giờ.  Nên khi viết đừng theo trí nhớ mà diễn đạt, nhưng cần phải tra cứu lịch sử để khi dệt thành văn nó trở nên giá trị đem lại bài học lịch sử cho mọi người, chứ không thì theo trí nhớ mà sai lệch sẽ đem lại nhức nhối cho nhiều người.  Hơn nữa khi viết phải ý tứ trong cách dùng từ, vì đây là một vấn đề nhạy cảm.  Dù sao dân tộc Chăm một thời là thần dân của một vương quốc rất oai hùng đã bị mất, và nay đang sống chung trong cộng đồng của một đất nước Việt Nam.  Từ khi mất nước dân tộc Chăm đã từng sát cánh với dân tộc Việt chiến đấu trong nhiều cuộc chiến khác nhau, cùng gắng công xây dựng một nước Việt Nam vững mạnh thời trước 1975.  Bây giờ một số đã cùng bỏ nơi chôn nhau cắt rốn của mình để cùng đoàn người dân Việt ra đi lưu lạc khắp phương trời, và nơi ấy họ cũng cùng chung sinh hoạt sát cánh với người Việt để xây dựng một cộng đồng hải ngoại vững mạnh ở xứ người.  Còn những ai đang ở lại quê nhà, thì họ cũng đều chịu chung số phận với muôn triệu người Việt khác ở trong cùng hoàn cảnh.  Nên hãy quan tâm đến nhau, giúp đỡ lẫn nhau, dùng ngòi bút đem lại sự cảm thông để hóa giải những bất đồng.  Hầu có thể cùng kéo nhau lại gần hơn nữa trong cuộc sống bươn bả ở quê người, hay là cuộc sống lo âu ở quê nhà.  Chúng ta cần có nhau, người Chăm hay là người Việt, dù ở bất cứ đâu trên quả địa cầu.  Thật chúng ta từ ngàn xưa có những bắt đầu khác nhau, tổ tiên chúng ta sinh ra không cùng chung một vùng địa lý.  Nhưng rồi thì theo cái vận chung của thời cuộc, Trời đã xui cho hai dân tộc cùng sống chung với nhau như láng giềng trên chung một mảnh đất, nên không chi tốt bằng là hãy sống vui khỏe bên nhau để cùng chung hưởng những tốt đẹp mà Trời đã ban cho mỗi chúng ta./.
0 Rating 1.1k+ views 4 likes 0 Comments
Read more
By: On January 29, 2014
  Glang Anak (Danlambao) - Cả tháng nay bận rộn theo dõi với mấy đại án về tham ô, tham nhũng của anh em Dương Chí Dũng, Dương Tự Trọng; một thời danh gia vọng tộc đất cảng nay phải đối mặt với cảnh tội tù; Chắc mọi người không khỏi bàng hoàng với chi tiết về ông anh Thứ trưởng PQN với khối tiền hối lộ triệu đô dù chưa biết thực hư thế nào; rồi đến cái vụ siêu lừa đảo Huyền Như... hơn 4000 tỷ đồng! Ui cha cha cha sao mà quan chức tiền đâu lắm thế, còn dân chúng nói chung và người dân tộc thiểu số chúng tui nói riêng thì túng nghèo quanh năm. Xã hội này thì Kẻ ăn không hết, người lần không ra là thế... Nay tôi lại được tin thêm một vụ việc về xung đột văn hóa, tín ngưỡng giữa chủ tịch xã ở làng người Chăm Ninh Thuận và một người dân Chăm. Nhiều người cho đây là việc nhỏ, không bằng những đại án tham nhũng kia; nhưng theo tôi, xung đột sắc tộc nếu không giải quyết thấu đáo sẽ nguy hại cho sự bình yên không chỉ ở thôn làng mà cả tầm quốc gia; Sau đây tôi xin tường thuật lại nội dung một cuộc xung đột đã xảy ra tại Palei TL cho bà con cùng rõ, và có thêm tiếng nói để bảo vệ quyền tự do tôn giáo tín ngưỡng cho người dân. Chủ tịch xã: Này ông Lakei... vì sao cuối năm rồi mà còn lên đây định kiện cãi vụ việc gì? Ông Lakei: Thưa ông chủ tịch, chúng tui là người Chăm ở Palei TL, Trưởng thôn chúng tui là người Việt ở trong làng, cậy thế, cậy quyền; không hiểu về văn hóa và tín ngưỡng Chăm, đã xúc phạm đến tín ngưỡng, danh dự và uy tín của dân tộc chúng tui nên đã xảy ra xung đột. Tui đến đây báo cáo, mong chủ tịch xem xét để giải quyết vụ việc cho công minh. Chủ tịch xã: Mời ông vào đây trình bày cụ thể hơn. Ông Lakei: Thưa ông, Lễ hội Kate, Ramadan của người Chăm rất quan trọng, mọi gia đình đều cúng kính ông bà tổ tiên; Vậy mà Trưởng thôn bảo rằng chúng tui mê tín dị đoan, suốt năm cúng kính nên nghèo đói. Chủ tịch xã: Đúng rồi, các ông phải tin vào đường lối của Đảng và Nhà nước; không có được tin vào thần thánh nào hết. Trưởng thôn nói đúng rồi, cúng kính nhiều là mê tín dị đoan, là nguyên nhân gây nên nghèo đói. Mà tui nói thiệt, suốt năm người Chăm đủ loại cúng kính nào là cúng “mặt trời lên”, “mặt trời xuống”; nào là cúng “cầu mưa”, “cầu gió”, “cúng đền”, “cúng tháp”... lung tung xèng. Các ông phải học cách sống văn minh, bỏ hết, bỏ hết các loại thờ cúng đi, thì mới khá lên được. Ông Lakei: Thưa ông chủ tịch, Chúng tui cứ tưởng lên đây báo cáo để được bảo vệ quyền tự do tín ngưỡng, không ngờ các ông cũng “một duộc” như nhau. Chúng tui cho rằng, người Chăm ngày nay nghèo đói không phải do cúng kính, mà do Nhà nước đã lấy hết đất đai, nương rẫy canh tác lâu nay là nguyên nhân chính. Còn cúng kính là phong tục tín ngưỡng từ ngàn đời của cha ông chúng tui để lại, mang ý nghĩa thiêng liêng trong niềm tin và tín ngưỡng. Trước đây ông, cha chúng tui cũng cúng kính nhưng có nghèo đâu và hiện nay nhiều dân tộc trên thế giới cũng nghèo nhưng đâu phải do họ cúng kính nhiều. Chủ tịch xã: Sao ông lý sự quá, tôi ví dụ nè... một đám tang người Chăm phải tổ chức mất nhiều ngày, giết trâu cho cả làng ăn, vay mượn tiền để làm đủ các loại lễ tục... vậy không nghèo sao được. Ông Lakei: Thưa chủ tịch, người Chăm chúng tui sống theo cộng đồng, đó là tình làng nghĩa xóm, một nét đẹp văn hóa rất đáng trân trọng; khi một người mất đi mọi người hàng xóm đến chia buồn, phúng điếu, góp công, góp sức để chia buồn tang gia. Việc giết trâu cúng kính là theo phong tục chứ không phải đơn giản chỉ để ăn. Không có chuyện phung phí và gây nợ nần như ông nói. Thế còn đám tang người Việt thì rãi tiền “đôla”, “vàng mã” đầy đường đầy xá... ông có xem tivi gọi đó là lãng phí, mất vệ sinh và đề nghị cấm in tiền đôla giả không? Chủ tịch xã: Có, có... cái này tôi biết tivi thông báo rộng rãi. Thôi thì tôi đồng ý với các ông về phong tục cúng kính, nhưng vì ông nói tới cái việc mất vệ sinh thì tôi cũng xin nói thêm là: cái việc cúng kính, lễ tục của các ông, tổ chức ăn uống thì kéo nhau cả làng; các thầy cúng thì ăn bốc, rất mất vệ sinh... Ông Lakei: Đây cũng là một nét văn hóa riêng của người Chăm chúng tui, thưa chủ tịch. Người Thầy cúng dùng tay phải đưa thức ăn trực tiếp vào miệng là thể hiện sự trân quý hạt gạo. Bàn tay phải dùng để nắm thức ăn nên luôn luôn được giữ gìn sạch sẽ không bao giờ làm chuyện dơ bẩn. Còn nói mất vệ sinh thì thế nào gọi là mất vệ sinh? Một số quốc gia khác như Indonesia, Malaysia, Brunei... từ Vua chúa, thủ tướng đến giáo sư, bác sĩ... đều giữ văn hóa ăn bốc hàng ngày cho đến hôm nay. Chẳng lẽ họ cũng “mất vệ sinh”?! Chủ tịch xã: ở nước khác tôi sao biết được. Ông Lakei: Bây giờ tui hỏi chủ tịch: Người Việt cúng kính nhang khói nghi ngút, thức ăn bày trên bàn thờ cả ngày; Chưa kể cúng kính “các bác” ngoài đường bụi bặm, như vậy có mất vệ sinh không? Rồi còn chuyện lên đồng, lên bóng, xông đất, cúng sao giải hạn liên miên trong năm; Nhà nhà người Việt đốt vàng mã vào rằm tháng 7 hằng năm tiêu tốn không biết bao nhiều là tiền có gọi là lãng phí không? Các Quan chức hàng năm đến chùa xin lộc, cầu vinh, xảy ra không biết bao nhiêu tiêu cực khi mỗi độ tết đến xuân về ở các Chùa lớn như báo chí đưa tin có gọi là mê tín dị đoan không? Chủ tịch xã: Đó... đó... đó là tín ngưỡng mà. Nét đẹp văn hóa chứ... Ông Lakei: Thế thì có khác gì người Chăm cúng kính đền tháp... Tui lấy thêm một ví dụ nữa cho chủ tịch rõ nè: Tui biết ở Hà Nội hàng ngày người ta xếp những hàng dài đợi vài giờ đồng hồ ngoài nắng để vào lăng viếng Bác.  Người Việt đi thăm lăng Bác, còn người Chăm đi thăm cúng Tháp, có khác nhau gì đâu? Nếu chủ tịch dám cho rằng việc thăm lăng Bác là mê tín dị đoan thì mới cho rằng việc thăm cúng tháp của người Chăm chúng tui là mê tín dị đoan. Chủ tịch có dám nói như vậy không? Chủ tịch xã: Không được, không được! viếng lăng Bác là thể hiện sự kính trọng, là niềm tin của người Việt, còn... còn... Ông Lakei: Còn... còn người Chăm chúng tôi thì mặc kệ chứ gì? Là dân tộc thiểu số, là công dân hạng hai phải không? Vậy... nên lăng Bác thì có người canh giữ; thờ phượng; mọi người vào viếng không phải mất tiền mua vé. Còn các Tháp Champa của tụi tui bây giờ đã bị trưng dụng làm du lịch, ngay cả người Chăm đi viếng tháp cũng phải mua vé, mất tiền; Họ cũng không cho chức sắc Chăm duy trì thờ cúng, gìn giữ Tháp... Thật là trớ trêu. Ngược đời hơn người Chăm cũng không còn quyền tự do cúng kính đền tháp nữa mà mỗi khi cúng kính phải qua bao thủ tục rườm rà, xin phép. Thờ cúng tổ tiên, cha ông mình mà cũng gây bao phiền hà. Từ đó người Chăm ngày nay ít đi cúng tháp hơn... đó là một sự thật đau lòng. Chủ tịch xã: Tui đã nói rồi, cúng kính của các ông chỉ tốn kém, không có lợi gì cả. Chính quyền đưa cho các công ty làm du lịch thì thu được tiền, phát triển kinh tế xã hội. Nói chuyện với các ông thấy “lạc hậu quá”, lại còn thắc mắc nọ kia. Nay là cuối năm, tui không muốn rắc rối, chứ không tui gọi công an đến là các ông bị quy vào tội “gây rối trật tự” Rõ chưa - Về đi. Ông Lakei: Trước khi về, tui cũng nói cho ông biết: - Chăm-Việt là hai dân tộc có bản sắc văn hóa và tín ngưỡng riêng; Cần phải tôn trọng lẫn nhau, để hòa hợp trong quá trình sống cộng cư và hội nhập. - Mỗi tín ngưỡng văn hóa của mỗi dân tộc đều mang giá trị và nét đẹp riêng; Văn hóa là cội nguồn, là gốc rễ; Nay các ông đại diện cho chính quyền mà chỉ biết “đồng tiền” và giẫm đạp lên văn hóa dân tộc khác; thế thì từ nay chúng tôi sẽ không còn niềm tin với các ông nữa, chúng tui sẽ tìm đến những tổ chức khác như những diễn đàn dân sự, bảo vệ nhân quyền... để có tiếng nói của dân tộc mình. Tìm sự bảo vệ quyền tự do tín ngưỡng, tự do giữ gìn lễ tục văn hóa cho dân tộc Chăm. Chào ông, tui về đây! Chủ tịch xã: Ông không được nói vậy, mời ông, mời... qua phòng công an lập biên bản. Ông Lakei: Tôi không ký bất kỳ biên bản nào hết. Tôi không có tội gì phải qua phòng Công an; Tui chỉ thể hiện quyền được bày tỏ ý kiến của mình. Ông đang vi phạm nhân quyền, không xứng đáng là công chức được hưởng bổng lộc từ người dân. Tôi về đây, chào ông. Chủ tịch xã: Đứng lại, đứng lại... Tao sẽ bắt mày, không cần biên bản! ... 26/01/2014 Glang Anak danlambaovn.blogspot.com
0 Rating 169 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On December 25, 2013
(lược trích)   Mọi người giải tán sau một buổi sáng tồi tệ. Riêng đối với tiến sĩ Tài, đây là một thất bại của ngành khảo cổ, nhưng đối với cá nhân anh ta thì có nhiều thứ phải cảm ơn cái chết của paul. Một ý tưởng mới đã ngoi từ huyệt mộ của nhà khảo cổ Pháp. Khi mọi người đã khuất bóng, giáo sư Huỳnh Lẫm hỏi Kì Phương. - Đêm qua, paulcó liên lạc với anh không? - Có ạ, em đang ở công trường thì nhận được điện của ông ấy ra Đà Nẵng. - Để làm gì? - Lên sân bay đón con gái ông ta! - Chạy 70 km để làm một việc mà bất cứ chiếu taxi nào cũng có thể làm? - Ông ta không biết em ở xa vậy, khi em nói đang ở Mỹ Sơn ông ấy vội thoái lui nhưng em nói cũng đang định về Đà Nẵng nên tiện thể đón luôn. - Nếu ông ta nhờ anh đi đón một mẹ xề nào đó, chắc anh đã không có ý định ‘’tiện thể’’ đúng không? Kì Phương cười gượng, mà đúng thế thật. Lúc ấy anh không cảm thấy bị sai vặt mà rất hãnh diện như được trao một món quà đắt giá. Do mải nghĩ đến món quà ‘’bằng xương bằng thịt’’ này nên khi phóng xe qua ngã ba Nam Phước anh suýt lao chiếc xe cà tàng của mình vào chiếc contairner chạy ngược chiều. Thật hú vía. - Thế rồi sau đó thì sao? - Sau đó em đưa cô ta về khách sạn chỗ cha cô ta, chờ mãi không thấy nên đoán ông ta đi Mỹ Sơn, vậy là chúng em vào đây luôn. Vị giáo sư thở dài, không giấu vẻ buồn bã. - Còn bây giờ, chắc cô ta đã khóc hết nước mắt rồi chứ? Kì Phương biết mình sắp phải giải thích một việc khó tin hệt như sáng nay với viên cảnh sát. - Em nhìn thấy xác paul trước và không muốn cái chết thảm thương đó đập vào mắt cô ta, vì lí do ấy mà em đã che thi thể cha cô ta lại. Cho đến giây phút này, cô ta cũng chưa biết ba mình đã chết. - Chưa biết? – ông ngạc nhiên - Nhưng thầy thấy có dấu chân giày nữ bên xác chết! Kì Phương không ngờ thầy mình có năng khiếu làm thám tử đến vậy nhưng vội nhớ ra các nhà khảo cổ có thoi quen luôn nhìn xuống đất, nghe đồn rằng họ có biệt tài nhìn các nếp nhăn trên cơ thể phụ nữ mà đoán trúng ‘’niên đại’’ nữa. -Vâng, đúng là cô ta đứng bên xác chết mà không thấy. - Anh đè lên xác chết để ...che mắt cô ta? -Vâng! giáo sư Huỳnh Lẫm nhìn anh như một sinh vật mọi rợ. - Bây giờ thì cô ta đi đâu rồi?  - Bởi chưa biết cha mình chết, nên cô ta đã đi tìm. - Nếu cô ta không thấy xác, thì số máu lênh láng kia không làm cô ta thắc mắc hay sao? -Vâng, con gái hay tin một cách ẫu trí mà. Cô ta kiên quyết đi tìm. Gshl biết kẻ ấu trí ở đây là ai, còn cô gái quái đản kia đi đâu và làm gì sau khi bỏ chạy khỏi hiện trường mới làm ông quan tâm. - Sao không ngăn cô ta lại, anh thật tàn nhẫn! nếu anh không dám nói thì tôi sẽ nói. Số máy cô ta bao nhiêu? Kì Phương không ngờ ông lại phản ứng gay gắt đến vậy. - Thưa thầy, cô ta từ nước ngoài về nên chưa có số. Em sẽ đi tìm cô ấy ngay bây giờ! - Anh biết gì về cô ta? Hai người thân nhau đến mức nào? Kì Phương nhận ra sự quan tâm của ông đã đi hơi xa, nhưng trước một người thầy luôn tận tụy với học trò, anh coi đây là điều đáng trân trọng. - Thưa thầy, con biết cô ta hồi bé, hơn 12 năm nay chưa hề gặp lại... - Một con người mà đứng bên xác cha mình mà không biết chỉ có mất hết giác quan hoặc là giả vờ. Anh tin cô ta là người tốt sao! Lúc nằm trên xác chết và dưới cái nhìn da diết đến tội nghiệp của cô ta đã làm anh không thể nghĩ được gì nữa. Sau lời nói khó nghe của thầy anh mới bắt đầu hoài nghi về cô. Dù sao, trước cái nhìn đầy soi mói của thầy, anh bắt đầu tự ái. - vâng, em tin cô ấy, cha cô ấy là người tốt. -À, cha tốt thì con tốt! Kì Phương định đáp lại nhưng nhận ra ông ta đã tự trả lời, một sự khẳng định đầy mỉa mai. - Ta hiểu con, bây giờ anh mau mau đi tìm cô ta đi, tìm thấy hãy gọi ngay cho tôi. Kì Phương định quay mặt đi thì ông bất ngờ kéo tay lại hỏi. - Anh có biết vì sao Paul chết không? Kì Phương sầm mặt, giờ là lúc còn quá sớm và quá khó để nói về nguyên nhân hay hung thủ. Giao sư lại hỏi. - Anh có thấy điều gì đó bất ổn ở cô gái vừa bỏ trốn kia không? - Thầy nói sao? Con gái ông ta không thể liên quan đến cái chết...của ba cô. - Tôi không biết cô ta là loại người gì, nhưng chưa chắc Paul là người duy nhất sẽ phải chết. - Thầy nói gì? - Kì Phương giật mình. - Hãy nói cho cô ta biết sự thật và điều quan trọng nhất là đưa cô ta trốn đi đâu đó thật nhanh. Kì Phương chột dạ, giáo sư Huỳnh Lẫm đã cảnh báo một điều mà lẽ ra anh phải biết trước. Trong khi nguyên nhân cái chết của Paul đang trong bí ẩn thì giáo sư Huỳnh Lẫm có lí do để lo lắng cho đứa con nạn nhân. Thi Nga là người ruột thịt duy nhất nên ba cô chắc chắn đã chia sẻ nhiều thông tin bí mật. Nếu chúng giết Paul vì những bí mật đó thì không lí do gì chúng không làm điều tương tự với con gái ông ta. Kì Phương vội vã đi nhanh ra xe. Hình như vừa sực nghĩ ra điều gì, giáo sư Huỳnh Lẫm đuổi theo rồi chặn ngang trước mặt anh: - Tôi sẽ đi cùng anh! - Việc này một mình em là đủ - Nhìn khuôn mặt khốn khổ của thầy, Kì Phương không nghĩ ông lại đánh giá sự việc trầm trọng đến vậy. Anh nói vội.– Thầy cứ yên tâm, cảnh sát đang giăng lưới khắp nơi, nếu có kẻ nào đó muốn hại cô ta cũng không dại gì manh động lúc này.- Kì Phương né sang đi tiếp nhưng giáo sư Huỳnh Lẫm không để anh vượt lên. - Anh định tìm cô ta ở đâu? Kì Phương biết rằng ông muốn đi tìm Thi Nga, nghĩ đến viễn cảnh ông ta gặp Thi Nga để nói cái chết của Paul sẽ làm anh khó xử, việc này để anh chủ động nói lại với cô thì hơn. Hơn nữa, có thêm một ông lão già nua bên cạnh cũng không làm cô an toàn hơn. Anh đành nói qua quýt. - Em cũng không dám chắc cô ta ở đâu, có lẽ ở chỗ người quen thôi. - Nghe tôi nói đây, - ông đẩy anh lùi nửa bước rồi nói.- nếu tìm thấy cô ta, hai người nên tạm náu mình đâu đó một hai hôm cho tình hình lắng xuống cái đã. - Thấy nghĩ có kẻ sẽ giết cô ta sao? – Kì Phương phát hoảng. - Qua những gì ta đã chứng kiến sáng nay, chúng ta chưa rõ kẻ giết paul vì động cơ gì, hung thủ là ai và có bao nhiêu tên nhưng chắc chắn đây không phải là hành vi đơn lẻ bột phát. Từ sáng qua tới nay anh với paul như hình với bóng, sự gần gũi và ân cần thái quá của anh và con gái ông ta đang vô tình phát một thông điệp cho kẻ xấu rằng: anh với họ cùng bè cùng đảng. Họ phải chết thfi anh cũng khó sống sót. Kì Phương nghe xong suýt bật cười, anh cho rằng tên sát thủ đã cao chạy xa bay cùng với cổ vật. Khả năng chúng sẽ hãm hại nốt Thi Nga và anh gần như không có. Tuy nhiên chuyến thám hiểm thánh địa naga nào đó có khi lại là nguyên chúng săn lùng cha con cô. ‘’Cẩn tắc bất áy náy’’ rõ ràng giáo sư Huỳnh Lẫm tĩnh tâm hơn anh tưởng và ông có cái nhìn sâu sắc hơn. - Nếu trốn đi lúc này – anh đắn đo - có làm cho cảnh sát nghĩ sai về mình không. - Đó là những con người không làm việc theo cảm tính, nếu anh và cô ta không phạm pháp thì không ai bắt được tội được cả. - Thầy nói đúng, con sẽ đưa cô ta vào náu ngay tại đồn cảnh sát luôn. giáo sư Huỳnh Lẫm vội vã xua tay. - Tìm đến họ lúc này không phải là cách làm thông minh nhất. - Tại sao thưa thầy? - Đương nhiên hai người không có tội, nhưng những gì anh và cô ta làm ở hiện trường đã lọt vào tầm ngăm,s của cảnh sát. Lẽ ra cô ta nên ở lại trình báo và hợp tác với cảnh sát để tìm hung thủ thì lại trốn biệt tăm biệt tích. Ai dám chắc cô ta không móc nối với với hung thủ hay đang tẩu tán cổ vật thì sao? Họ thừa lí do để tạm giam hai người để điều tra, anh hiểu chứ? Điều này thì không cần giáo sư Huỳnh Lẫm răn dạy anh cũng hiểu, sáng nay chính viên chỉ huy cảnh sát đã nói thẳng với anh rằng lẽ ra anh phải bị giữ lại như một nhân chứn gddawcj biệt nhưng ông ta đã linh động bỏ qua nhưng hieue ý là sẽ bị triệu tập bất cứ lúc nào. Kp nhìn rõ một nỗi ác cảm về Thi Nga đang gợn lên trong đôi mắt tinh tường của ông. - Vậy theo ý thầy, ta vẫn phải tìm một nơi nào đó...để tránh nạn? - Tôi nghĩ ra rồi, anh hãy đưa cô ta về Hội An ở tạm ngôi nhà bỏ không của nhóm chuyên gia khảo cổ Nhật. Chìa khóa tôi đang giữ đây. Dù sao thì bảo vệ và chăm sóc con gái paul là trách nhiệm của tôi và anh lúc này. Ai dám chắc kẻ giết pie sẽ không thanh toán nốt cô ta. Không được rời cô ta nửa bước. Phải bí mật và tạm thời cắt hết mọi liên lạc với bên ngoài. Tôi sẽ cử người đến bảo vệ hai người. Kì Phương biết ngôi biệt thự hai tầng đầy đủ tiện nghi trong một con hẻm vắng bên sông Thu Bồn đó, đúng là một nơi lí tưởng để ẩn nấp. Kì Phương nhận chùm chìa khóa rồi lên xe lao đi. Kì Phương lo lắng đêm hôm lạ nước lạ cái thế này không biết Thi Nga có về đến Đà Nẵng an toàn hay không. Nếu không bị sát hại dọc đường thì giờ này cô nàng đang thu xếp hành lí để rời Việt Nam theo dấu chân mịt mù vô vọng của cha cô sang Pnompenh. Thật điên rồ. Lúc này Kì Phương bỗng rùng mình về sự dại dột và vô trách nhiệm đến khó tha thứ của mình. Đã thế, mặc dù biết rõ hành tung của cô nhưng anh vẫn giấu tịt điều này với viên thiếu tá lẫn thầy mình chỉ vì anh không muốn họ tìm thấy cô để ném một cái tin đau xé lòng vào mặt cô ấy. Trong chuyện này anh phải đích thân gặp lại Thi Nga để nói hết sự thật kèm theo xin lỗi. Đêm qua anh đã chạy xe với một tốc độ kinh hoàng lên tận sân bay để mong nhận một nụ cười của cô, giờ đây anh cũng phi như điên dại tìm nàng mặc dù biết trước một cái tát nảy lửa đang chờ anh. Đúng như anh hi vọng, chiếc Ford sét rỉ mà Thi Nga đang đùng đang đỗ xệch xẹo ngoài cổng khách sạn. Chàng nhân viên đeo nơ thấy anh đi vào nên tỏ ra là người tinh tế. - Cô ta đang chờ anh ở trên phòng 302 đấy!  - Cảm ơn!- Kì Phương thấy rõ ánh mắt ganh tị của gã. Đến trước cửa phòng 302 anh nén lặng mình một lúc rồi ấn chuông. Cánh cửa vội mở ra.  
0 Rating 454 views 8 likes 0 Comments
Read more
By: On December 17, 2013
Những tượng cổ, kho tàng, báu vật của vương quốc Chămpa xa xưa luôn là mơ ước của dân buôn bán. Sưu tầm đồ cổ. Cơn sốt truy tìm kho báu Chămpa đã bắt đầu từ hàng trăm năm về trước và âm ỉ mãi cho đến ngày nay. Trên vùng kinh đô Vijaya (huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định ngày nay), những huyền thoại hư ảo đầy hấp dẫn về kho báu Chămpa khiến người ta mỗi khi nhìn những kiến trúc đền tháp Chămpa cổ rãi rác trên những “ngọn đồi của các vị thần” lại bật lên câu hỏi “kho báu Chămpa - sự thật hay chỉ là huyền thoại?” Tháng 12 – 1997, khi phóng sự Lời nguyền trên các kho báu Chăm được đăng trên Thế Giới Mới số 264 ít lâu thì tại nhà riêng, qua điện thoại, tôi nhận được một lời đề nghị hấp dẫn từ một người đàn ông (tạm gọi là ông X). Ông X đề nghị tôi xác minh một số thông tin về vương quốc Chăm ở một số tư liệu mà ông không có điều kiện tiếp xúc, đổi lại ông sẽ giúp tôi một số thông tin mới về con tàu Mekong. Trong lời nguyền trên các kho báu Chăm có đoạn: “Sau này người ta không sao tìm lại được những thùng cổ vật ấy và một bí mật đã bao trùm lên con tàu Mekong bởi danh sách hàng hoá trên tàu cũng bị thất lạc”. Vì vậy, tôi đã chấp nhận lời đề nghị này và hẹn ngày trao đổi thông tin. Rất may mắn cho tôi là khi ấy anh Mậu, ngưòi phụ trách phòng tư liệu phổ biến hạn chế (Thư viện Bình Định) cũng đang quan tâm đến vấn đề này và sẵn lòng giúp tôi tiếp xúc với số tư liệu về vương quốc Chăm mà tôi cần. Sau đó, cuộc trao đổi thông tin giữa tôi và ông X đã diễn ra như hẹn ước. Có lẽ, chúng tôi chưa trở lại với câu chuyện kho báu Chăm nếu chừng một tháng sau đó huyện Vĩnh Thạnh (một huyện miền núi của tỉnh Bình Định) không xẩy ra cơn sốt săn vàng, đồng thời ở vùng kinh thành Vijaya cũ, những người thợ rà phế liệu kim loại không phát hiện được một bộ áo giáp – mũ chiến bằng vàng…Trong tác phẩm Le Royaume de Champa (vương quốc Chămpa), học giả người Pháp Georges Maspero đã mô tả: “Các cánh rừng miền thượng du của vương quốc (Chămpa) chứa đựng những kho tàng vô giá, đó là gỗ mun và nhiều loại cây quý khác như đinh hương, giáng hương, long não, đặc biệt là trầm hương… Nhưng sự giàu có thực sự của đất nước là là sản phẩm lấy từ lòng đất – vàng. Vàng ở đây không hề hiếm và người Trung Hoa kể lại một cách kỳ lạ rằng người ta đã tìm thấy ở đây một núi vàng, tất cả các hòn đá theo họ nói đều có màu đỏ và ở giữa là vàng ròng. Vàng còn trôi trong các con sông, muốn thu được chỉ cần tát nước và gạn lấy…” Sự giàu có của vương quốc Chăm cổ là điều hầu như không cần phải minh chứng. Giống như một sự minh hoạ cho các luận chứng khoa học về sự giàu có của vương quốc Chăm, theo một số cư dân ở Vĩnh Thạnh, khoảng năm 1980 – 1983, nhiều người đã nhặt được những cục vàng tự nhiên nặng tới 2 - 3 kg (!?); sự vụ này đã gây xôn xao dư luận suốt một thời gian dài. Cho đến ngày nay, ở suối Vàng (Hoài Nhơn), trên dòng sông Kim Sơn và một số điểm khác ở Vĩnh Thạnh những người đãi vàng sa khoáng vẫn tiếp tục chắt lọc được khá nhiều thứ kim loại qúy giá này.Để đi tìm hy vọng từ các kho báu Chăm, giới săn tìm đồ cổ thường phối hợp với những người chuyên đi rà phế liệu kim loại (thợ rà) hoặc đặt hàng cho họ. Chính vì mối quan hệ này mà mỗi khi phát hiện thấy cổ vật thì nhà chức trách, giới chuyên môn thường chỉ là người đến sau những tay buôn bán cổ vật trái phép. Khu vực được thợ rà quan tâm nhiều trong các cuộc truy lùng của mình là những nơi có tháp cổ Chămpa toạ lạc, có tàn tích đền tháp hoặc là vùng xuất phát những truyền thuyết dân gian về kho báu Chăm. Tháp Phốc Lốc (Nhơn Thành, An Nhơn, Bình Định) – hay như cách gọi đầy hấp dẫn của người Pháp, tháp Vàng – là ngôi tháp được giới thợ rà cày xới nhiều nhất. Dù đi bằng ô tô hay tàu hỏa trên đường Bắc-Nam, khi đến vùng giáp ranh giữa hai huyện Phù Cát, An Nhơn, bất cứ ai cũng có thể chiêm ngưỡng ngôi tháp kỳ vỹ này. Khi chúng tôi hỏi thăm đường lên tháp, chủ một quán nước dưới chân đồi đã mách: “Các anh đi tìm đồ cổ à? Không còn gì nữa đâu. Thợ rà đã cào nát trên đó hết rồi. Ba bốn năm nay, hết dân ở đây rồi đến dân Phù Cát, Phù Mỹ vào đào xới lung tung, đến sắt vụng cũng không còn nữa là…”. Sau một hồi chúng tôi đi ngược dốc, sừng sững trước mặt chúng tôi là ngôi tháp cổ uy nghi. Phốc Lốc là ngôi tháp duy nhất của một quần thể gồm nhiều tháp. Một nửa của đỉnh đồi có lẽ đã bị các công trình sư Chămpa xưa cho san phẳng tạo thành hai nấc nên phía dưới của ngôi tháp là một không gian rộng lớn bằng phẳng. Những dấu tích còn lại cho phép người ta liên tưởng đến một quảng trường dành cho các dịp cử hành trọng thể những nghi thức nào đó (tháp Phốc Lốc rất gần kinh đô Vijaya). Tuy nhiên, điều đáng buồn là giờ đây, trên “quảng trường” nhan nhản những hố sâu do thợ rà để lại, những đống lớn gạch Chăm đổ nát. Gần chân tháp, một nhóm người đang húy hoáy đào xới.Phát hiện thấy tôi giương máy ảnh lên, lập tức những người này chui ngay vào bụi rậm gần đó giấu mặt. Dù vậy, khi lại gần, họ vẫn vui vẻ trò chuyện. Tư, một thanh niên vạm vỡ, phân trần: “Tuị em tưởng là công an, mà các anh chụp ảnh bọn em làm gì, xúi quẩy lắm… Không có việc gì làm, tụi em mượn máy lên đây rà cầu may ấy mà. Khoảng năm 1998, khi đào tìm gạch Chăm về xây nhà, một số nông dân đã phát hiện ở chân tháp một bức phù điêu tượng thần rất lớn. Cán bộ văn hoá huyện nói đó là tượng Nữ thần vàng (? ). Không biết cổ vật ấy có phải là vàng thật không, hay chỉ là tên gọi, nhưng ngay sau đó nhiều người đã rùng rùng kéo lên đây tìm vàng Hời. Không nghe thấy ai nói đã tìm được vàng, mà có lẽ tìm được họ cũng không dại gì mà nói ra, nhưng phù điêu, tượng cổ thì có. Khi ấy mọi người đã đổi đời chỉ nhờ một cái tượng. Tụi em rà hoài chỉ thấy gạch và đá”. Nằm cách tháp Phốc Lốc không xa về hướng Nam là Gò Tháp, một phế tích của nền văn hoá Chămpa lừng danh. Những người dân ở thôn Châu Thành cho chúng tôi biết, xưa kia nơi này có rất nhiều gạch Chăm vỡ vụn xếp thành đống lớn nằm rải rác trên gò. Theo ông bà kể lại thì từ nhiều đời trước nơi ấy có những ngôi tháp cổ của dân Hời, đã sụp đổ từ rất lâu. Cứ một vài năm, thường là đến mùa mưa, lại nghe có người nhặt được vàng Hời, nhưng hỏi ra thì không ai nhận cả.Ch. Lemire đã mô tả các tháp cổ Chămpa phân bố ở tỉnh Bình Định trong tác phẩm Les tours Kiames delaprov-ince de Binh Dinh (Sài Gòn 1890) như sau: “Trong các tháp có các tượng. Rất có thể chúng bằng vàng hoặc bằng bạc, có mắt bằng ngọc và răng bằng kim cương. Chúng đã bị lấy mất ngay từ đầu. Những tượng bằng đá có thể bị lấy đi sau đó. Người ta đã đào các bức tường để dỡ các tranh thánh đã được gắn vào đó… Các tháp Bạc (người Việt quen gọi là Tháp Bánh Ít) phô bày hàng loạt công trình đáng lưu ý, phần lớn các tượng đều bằng vàng hoặc bằng đá thếp vàng. Tượng cuối cùng che vòm đã được mang sang Pháp năm 1886. Gần 80 tấn đá chạm được dành cho Bảo Tàng Lyon đã được tàu Mekong chuyển về Pháp dưới sự coi sóc của tiến sĩ Maurice. Tàu Mekong bị đắm ở Hồng Hải và những người Somali tưởng rằng đã tìm thấy một mối lợi lớn nên đã đem vào bờ một số lớn những hòm nặng này, nhưng họ chỉ tìm thấy đá và đá…”. Bức màn bí mật bao quanh số phận của con tàu Mekong đã thách đố các nhà khoa học, giới săn lùng cổ vật và cả những kẻ hiếu kỳ hơn 100 năm. Trong số những người tìm cách sở hữu kho báu trên tàu Mekong có GS. Robert Stenout. Sau hơn 30 năm cày xới ở hàng trăm thư viện, sở lưu trữ văn khố, các hải cảng, nhiều hãng tàu biển…, đến tháng 10 – 1995, R.Stenout đã khoanh vùng một cách chính xác vị trí tàu Mekong bị đắm tại mũi Guardaqui ở Hồng Hải. Theo R.Stenout, Mekong là một con tàu lớn được thiết kế với hai chức năng chở khách và chở hàng nhưng điều này không làm ảnh hưởng đến sự thanh nhã của nó. Những năm đầu thế kỷ, do còn hạn chế về kỹ thuật, hành trình Đông Dương – Pháp là một hành trình dài mất nhiều ngày, nên Mekong được xây dựng bài trí hoàn hảo, sang trọng và nguy nga như một cung điện di động trên mặt biển. Chuyến hải hành định mệnh của Mekong năm 1886 có 180 sĩ quan, thủy thủ, 66 hành khách, chở theo nhiều tấn cổ vật và một khoang hàng bí mật chứa đầy vàng mà theo khảo sát ban đầu của đội thợ lặn thuộc tàu Scorpio do thuyền trưởng Campell chỉ huy (tàu Scorpio là con tàu mà Stenout sử dụng trong cuộc khai quật của mình) thì hàng trăm nghìn thoi vàng có trong khoang hàng bí mật này như huyền thoại về Mekong đã lan truyền là hoàn toàn có thể tin tưởng được. Tuy nhiên, chỉ vài ngày sau khi định vị được tàu Mekong và kho báu bí mật thì quốc gia có chủ quyền trên vùng lãnh hải mà tàu Mekong đắm đã nổ ra một cuộc nội chiến khốc liệt, việc khai quật kho báu trên tàu Mekong đành dừng lại… kho báu mà tàu Mekong có nhiệm vụ đưa về Pháp chủ yếu được thu gom trên khu vực Vijaya và chắc chắn đây chưa phải là toàn bộ kho báu huyền thoại của vương quốc Chăm.Như chúng ta đã biết lịch sử hơn 14 thế kỷ của vương quốc Chăm gần như được kết nối bằng vô số cuộc chiến tranh, chiến tranh với những người Đại Việt láng giềng, với cả những cư dân Khmer xa xôi hoặc là nội chiến tranh giành vương quyền giữa các thế lực trấn giữ các vùng trong vương quốc. Chính vì chiến tranh nên các kho báu của vương quốc được di dời liên tục, chôn xuống đào lên nhiều lần, nhất là lần dời đô năm 1282 ra khỏi Vijaya về phía vùng rừng núi phía Bắc vương quốc để tổ chức kháng chiến chống quân Nguyên Mông. Lịch sử đã ghi nhận rằng Tọa Độ, viên tướng chỉ huy cuộc xâm lược vương quốc Chăm, đã chiếm được một kinh đô trống rỗng và hoang vắng bởi người Chăm đã thực hiện cuộc tiêu thổ kháng chiến trước đó khá lâu. Sau cuộc chiến này, người Chăm vẫn để lại trên kinh đô kháng chiến và rải rác khắp vương quốc phần lớn kho báu của mình vì e ngại những cuộc tập kích bất ngờ của đế quốc Nguyên Mông hùng mạnh. Các kho tàng ở Vijaya cũng được chôn giấu trong lòng đất, lưu giữ trong các hầm bí mật trong hoặc dưới các ngôi tháp cổ. Những tư liệu lịch sử, những kết quả nghiên cưú của các nhà khảo cổ học, bảo tàng học, sử học và những phỏng đoán khoa học nói chung dường như đã được thực tế minh họa. Và một lần nữa, những cuộc săn lùng kho báu trên đất Vijaya lại bùng nổ trong âm thầm.Tháng 2- 1998, khi nghe tin có người rà được một bộ áo giáp - mũ chiến bằng vàng trên khu vực tháp cánh Tiên, chúng tôi liền đi xác minh, nhưng đáng tiếc là người phát hiện ra cổ vật đã bán sang tay cho thợ vàng phân kim. Một cán bộ của ngành văn hóa – thông tin tỉnh Bình Định cho biết: “Một vài năm trở lại đây, dân Bình Định đã phát hiện ra nhiều cổ vật quý. Ban đầu chỉ là do sự tình cờ khi đào đất đắp đường, sản xuất… và người dân thường giữ nguyên hiện trường, nhanh chóng thông báo cho chính quyền biết sự việc. Đây là nghĩa vụ công dân, nhưng ở nhiều địa phương, các cấp chính quyền đã xem nhẹ việc thực hiện trách nhiệm của mình - tưởng thưởng xứng đáng cho người đã thực hiện tốt nghiã vụ công dân. Vì vậy, sau này người ta không còn nhiệt tình như trước nữa. Câu chuyện “phân kim cổ vật” là một ví dụ. Khi nghề rà tìm phế liệu liên tục phát triển, hiện tượng thất thoát cổ vật còn nhiều hơn trước hàng chục lần, trước sự bất lực của chúng tôi. Cho đến nay cơ quan chức năng vẫn chưa làm sao thu hồi được số cổ vật phát hiện được ở Phù Cát gồm hai hủ lớn - một bằng đồng, một bằng sành – bên trong chứa nhiều cổ vật bằng gốm, đá và kim loại có màu vàng nặng hơn 3kg, do một nhóm nông dân khai quật được và bán cho những người lạ mặt trước khi cơ quan chức năng kịp can thiệp. Theo tin tức lan truyền trong giới mua bán đồ cổ ở TP Hồ Chí Minh thì ngay trong lần mua bán sang tay đầu tiên, lô hàng này đã được ngã giá với con số kỷ lục gần 1 tỷ đồng”… Trong khung viên vòng thành bảo vệ Vijaya ngày xưa nay chỉ còn lại duy nhất một ngôi tháp, đó là tháp Cánh Tiên tọa lạc ở một vị trí rất đặc biệt – ngay ở điểm trung tâm kinh đô, vì vậy, vùng quanh chân tháp thường bị giới thợ rà, những người đi tìm cổ vật đào tới đào lui trong nhiều năm liền mà dấu vết còn lại là hàng chục hố sâu rải rác xung quanh tháp. Trong lần khai quật chính thức dưới sự kiểm soát của Bảo tàng Bình Định, người ta đã phát hiện nhiều hiện vật gốm sứ tuyệt đẹp kèm một số hiện vật khác mà biên bản khai quật sơ bộ ghi nhận đó là những mẫu kim loại khá nặng có màu vàng. Thông tin này lập tức lọt đến tai giới săn lùng cổ vật Chăm và vùng xung quanh tháp một lần nữa lại sôi động hẳn lên. Cứ như một trò đùa dai đầy ác ý của tạo hoá, chẳng ai tìm thấy được thứ gì đáng giá ngoài những mẫu vụn gạch Chăm, những mẫu đá nhỏ có nguồn gốc từ các kiến trúc điêu khắc đá Chămpa. Thế rồi, người ta gần như ngã lòng thì trong một lần đào huyệt ở nghĩa trang cách chân tháp Cánh Tiên chừng 100m, một nhóm phu đào huyệt đã tìm thấy khá nhiều cổ vật bằng đá. Khi chúng tôi hỏi thăm tin tức ở ông V.H.T, một thợ điêu khắc đá ở An Nhơn nổi tiếng về tài chế tác các pho tượng Chăm giả cổ và khả năng thẩm định xuất xứ của tượng cổ Chămpa thì được biết cách đây chừng 60 năm người Pháp đã đến và đào được vùng đất tọa lạc Thập Tháp Di Đà tự (Đập Đá) rất nhiều tượng cổ. Tương truyền chúng nhiều đến mức họ chỉ đóng thùng những pho tượng thật đẹp, thật quý còn lại những cái hơi sứt mẻ, xấu xí… họ dồn vào các hố thám sát rồi chôn lại, xóa dấu tích. Nơi được người Pháp khai quật nằm ở ven kinh đô Vijaya, cách tháp Cánh Tiên chưa đến 5km theo đường chim bay, nguyên thủy có ít nhất là 10 ngôi tháp, chúng đã sụp đổ trước khi người ta đến dựng chùa Thập Tháp. Trên những gò đống gạch đá đổ nát tưởng như vĩnh viễn vô dụng ấy, nhiều người đã đào được khá nhiều cổ vật Chăm. Tương truyền thôn Vân Sơn, Nhạn Tháp (Nhơn Hậu, An Nhơn) là nơi tồn tại nhiều tòa tháp cổ không lớn nhưng tuyệt đẹp. Ở đây, dân địa phương rất e ngại khi nhắc đến cổ vật Chăm, vàng Chăm. Một cụ già ở Nhạn Tháp cho chúng tôi biết: “xưa nay ai cũng nghe đến chuyện vàng từ kho báu, từ đền tháp của người Chăm bay ra đồng. Ông bà tổ tiên khi khai phá vùng này chắc cũng gặp những chuyện ấy. Nhưng hàng trăm năm nay đã có ai giàu lên vì vàng Hời đâu. Thôn này có nghề truyền thống lâu đời là nghề làm đồ gốm đất. Để có đất sản xuất, chúng tôi đã đào đến cạn sạch đất sét tốt ở Nhạn Tháp, tất nhiên là đã có một vài lần gặp cổ vật của người Chăm. Nhưng sau khi có vài người gặp xui rủi do giữ những thứ ấy trong nhà đem bán những thứ ấy nên dần dần không ai hám. Vả lại, nghe bảo những thứ ấy là đồ thờ của người ta, mình giữ, mua bán như vậy là phải tội…”. Tuy không sôi động như vùng kinh đô Vijaya, nhưng với những di tích, phế tích đền tháp Chămpa như Dương Long, Thủ Thiện…, huyện Tây Sơn cũng là nơi thu hút khá nhiều sự quan tâm của giới buôn bán cổ vật, đội ngũ thợ rà ở đây hầu như không kém gì so với An Nhơn. Hiện nay ở khu tháp Dương Long chỉ còn lại 3 ngôi tháp chính nhưng với những dấu vết của các phế tích còn sót lại, ta có thể dễ dàng biết rằng nơi này vốn có nhiều công trình kiến trúc hỗ trợ cho nhóm đền tháp chính. Vào quãng năm 1901-1906, nhà nghiên cứu người Pháp-Henry Parmentier-đã khảo sát rất kỹ ngôi tháp xinh đẹp này. Theo H.Parmentier, tháp Ngà (theo cách phân loại định danh của người Pháp) là ngôi tháp hầu như không hề giống với bất kỳ ngôi tháp cổ Chămpa nào đang tồn tại. Được đánh giá là hiện tượng đặc biệt duy nhất trong lịch sử kiến trúc đền tháp Chămpa, Dương Long nổi bật lên với sự phong phú của hàng ngàn tấm phù điêu điêu khắc đá mà vào thời điểm H.Parmentier có mặt để khảo sát nghiên cứu, học giả người Pháp này đã cho thu gom, sắp xếp thành những đóng lớn bên cạnh tòa tháp cổ. Điều đáng tiếc là H.Parmentier đã mô tả nội dung chi tiết các tấm phù điêu ấy trong các tài liệu khoa học của mình. Cùng với sự hủy hoại của mưa nắng, thời gian, việc những người dân địa phương sử dụng gạch đá Chăm vào mục đích xây dựng, dùng các mảnh đá, khối đá vỡ ra từ các cột đá, diềm đá… để làm cối đá dân dụng, những người thợ đục đá hầu như đã dọn sạch tất cả những gì mà ngày xưa các nhà khoa học đã nhắc đến. Tệ hơn, trước năm 1975, một viên tướng Ngụy đã đặt thuốc nổ phá tung một nhóm tượng trên than tháp. Khối tượng lớn được mang đi, nhiều tượng phù điêu nhỏ thì được vứt lại quanh chân tháp. Năm 1985, khi chuẩn bị tùng tu tháp Dương Long, cán bộ của Bảo tàng Bình Định và đoàn chuyên gia Ba Lan đã phát hiện ra một số bức phù điêu khá lớn. Nhà nghiên cứu Ngô Văn Doanh đã nói về giá trị của các phù điêu Dương Long như sau: “trong nghệ thuật điêu khắc Chămpa, có không ít tác phẩm đẹp, nhưng chúng tôi chưa thấy một bức phù điêu nào thể hiện tâm trạng các nhân vật thành công như hình phù điêu trên đây của tháp Dương Long… Chắc hẳn xưa kia trên mặt tháp Dương Long phải có nhiều hình phù điêu như bức phù điêu may mắn còn lại. Chúng tôi tin rằng, nếu có những cuộc khai quật thật sự khoa học ở Dương Long, chúng ta sẽ tìm thấy những kiệt tác nghệ thuật điêu khắc đá như những tác phẩm đã tình cờ phát hiện ra năm 1985…”. Nhiều kiến nghị tương tự của các nhà khoa học được đưa ra liên tục, nhưng vì nhiều lý do khác nhau, công tác quản lý khu vực di tích cũng như việc tiến hành khai quật các di chỉ được triển khai một cách nhỏ giọt và gặp nhiều vướng mắt, nhất là về kinh phí, nên những kết quả cũng rất hạn chếTrong khi cơ quan chuyên môn còn đang đánh vật với những khó khăn của mình thì tháng 10 – 1997, ông L.V.A (Tây Sơn) và một người đàn ông quê ở Thanh Hoá đã âm thầm khai quật một kho báu trên núi Hòn Gà (Bình Thành, Tây Sơn). Số lượng cổ vật, theo lời khai ông L.V.A với cơ quan chức năng, gồm 9 pho tượng cổ cao từ 30 – 35 cm, đường kính thân tượng từ 4 – 5cm, 4 lục bình lớn hơn số tượng kia một chút và ngay sau khi tìm thấy, họ đã khẳng định được ngay rằng số cổ vật mà họ tìm thấy đều làm bằng vàng vòng. Cũng như nhiều vụ việc tương tự trước đó. Số cổ vật này đã được bán sang tay cho một kẻ lạ mặt với giá nhiều triệu đồng. Thông qua một người bạn ở Tây Sơn, chúng tôi làm quen với N.X.H, một thợ rà phế liệu kim loại, quê ở An Nhơn, đang đi tìm vận may trên núi Cấm thuộc xã Bình Nghi (Tây Sơn) H đã bật cười ha hả khi nghe ý định giả trang làm thợ rà để săn tư liệu của tôi: “ Làm sao mà các anh có đôi bàn tay đầy chai sần do đào đất, đục đá, nước da đen cháy do suốt cả ngày phơi mình dưới nắng như bọn tui. Thợ rà như bọn tui ngay cả lỗ tai cũng chai nữa kia (do cứ phải đeo tai nghe máy rà liên tục). Vả lại lúc nào cũng rà được, chỗ nào cũng được phép rà. Những vụ nổ lưụ đạn, mìn pháo còn sót lại sau chiến tranh do thợ rà bất cần hoặc quá tham lam gây ra đã để lại cho chính quyền, công an các xã vô khối chuyện phiền phức. Vì vậy hễ cứ thấy bóng dáng bọn tui, vui vẻ thì họ xua đi, còn ngược lại thì họ gọi vào xét giấy tờ, hỏi tới, hỏi lui, có khi họ còn đòi giữ lại máy móc, phải xin gãy cả lưỡi. Các anh cũng chẳng thể nào đóng vai trò người đi mua đồ cổ được đâu… Mua bán hàng cấm mà mấy anh, đâu có đơn giản vậy. Làm gì có chuyện vừa tìm thấy đã bán được ngay như… báo chí các anh viết. Đồ cổ chứ có phải sắt vụn phế liệu đâu mà bán cho ai cũng được? Ngay cả những người được ứng tiền của chủ các đại lý phế liệu kim loại để đi rà như tui cũng chỉ biết lờ mờ là phải qua nhiều trung gian. Thế thôi các anh ạ! Và họ mua bán cũng lẹ lắm, ngã giá xong là họ chồng tiền. Bây giờ còn có thêm kiểu này nữa, những người cần mua, biết đánh giá chất lượng cổ vật, thường cũng biết những nơi tập trung cổ vật. Tất nhiên cũng không phải rõ ràng như có bản đồ trong tay. Nhưng chắc chắn nhờ họ mà chúng tôi đỡ tốn công hơn. Những người này thường ứng tiền cho thợ rà đi làm và bao tiêu tất cả những gì chúng tôi rà được, gồm cổ vật và những thứ phế liệu kim loại. Cũng là chuyện “buôn có bạn, bán có phường” thôi! Năm ngoái, trong giới chúng tôi xẩy ra một chuyện rất buồn cười nhưng nghỉ lại mà thấy lạnh tóc gáy. Theo yêu cầu của một số chủ hàng, một nhóm thợ rà đã thay nhau đào xới trên một cánh đồng rộng ở Đập Đá. Đến giữa trưa một hôm nọ thì phát hiện có tín hiệu rất mạnh, đào một hồi thì gặp cổ vật, vừa gạt sơ lớp đất thì một màu vàng hấp dẫn hiện lên. Nhóm thợ rà sáng mắt lên vì cổ vật quá lớn nhưng chưa kịp reo mừng thì một dòng chữ bằng tiếng Anh hiện ra: Made n USA! Thế là không ai bảo ai, cả nhóm dọn đồ nghề và chạy đi báo Ủy ban xã, xã báo cho huyện, huyện báo ngay cho tỉnh và bộ đội công binh được cử về. Hóa ra cổ vật là một quả bom nặng tới 500kg. Hú vía…”Rời túp lều sơ sài của H, chúng tôi tìm đến tháp Thủ Thiện, một ngôi tháp cổ Chămpa cũng toạ lạc ở xã Bình Nghi. Những người dân địa phương khi nhận ra người bạn cùng đi với tôi là người quen của họ và nghe câu hỏi về hoạt động của những người đào tìm cổ vật đã ồ lên một cách vui vẻ. Tháp cổ nằm gần nhà dân, các thợ rà không dám vác máy, mang cuốc tới. Vả lại chắc cũng chẳng còn tìm được gì nữa. Một cụ già có nhà nằm sát tháp Thủ Thiện không xa kể lại: “Trước giải phóng, lính ngụy nhiều lần đục đẻo tượng cổ trên tháp đem bán cho người Tàu dưới Quy Nhơn. Chỗ nào đục được thì họ đục, còn không đục được thì họ đặt mìn để phá, có lần uống rượu say, đám lính còn ném lựu đạn lên đỉnh tháp để làm trò vui. Đến cơn bảo khủng khiếp năm Sửu (1985), cây đa cổ thụ trên nóc tháp bị gió giật ngã và ném ra xa. Dạo ấy cũng có vài người nhặt được đồ cổ từ trên tháp văng ra nhưng do những lời đồn đại về tai họa mà đồ Hời mang đến và có lẽ do chưa hết kinh hoàng vì cơn bão nên không ai lưu giữ làm gì. Có người kể lại là họ đã ném xuống sông Côn sau khi lỡ đem về nhà …”.Người Chăm cổ không quá đề cao giá trị của vàng và sử dụng chúng với khối lượng lớn một cách khá phổ biến trong các công trình kiến trúc đền tháp của mình. Có thể lý giải rằng đó là do dân tộc này được tạo hóa ưu đãi quyền sở hữu nhiều mỏ vàng có trữ lượng phong phú. Vàng được đem đi đúc tượng thần để thờ, đúc phù điêu và dát lên các tượng trang trí… Theo một số truyền thuyết mà Ch.Lemire sưu tầm được thì chóp đỉnh của tháp Đôi, cụm tháp gồm hai chiếc nằm ở thành phố Quy Nhơn, là một quả cầu lớn làm bằng vàng vòng. Cả hai khối vàng này đã bị các thủy thủ da trắng của một chiếc tàu châu Âu cướp đoạt và mang xuống tàu sau một cuộc tấn công chớp nhoáng. Truyền thuyết cũng cho biết rằng người Chămsau khi dựng tượng vàng ở các đền tháp thường quét lên thân tượng một lớp sơn đặc chế. Những điều mà truyền thuyết mô tả hầu như đã trùng khớp với sự trình bày của những người thợ rà may mắn phát hiện được những pho tượng vàng trên đất Bình Định. Những kho báu Chămpa được phát hiện đầu tiên không phải do tình cờ mà là kết quả của quá trình tìm tòi rất nghiêm túc của người Pháp. Tháng 2-1906, sau 23 ngày tổ chức khai quật quy mô ở tháp Pô Nagar (Khánh Hòa), H.Parmentier đã tìm thấy một căn hầm bí mật mà ông gọi là kho báu chứa đồ thánh, bên trong chứa nhiều hiện vật bằng vàng như nhẫn, vòng, độc bình,… Sau đó ít lâu, khi tiến hành phục chế tháp phía nam, cũng chính H.Parmentier đã tìm thấy một kho đồ thánh khác ở một vị trí mà không ai ngờ đến – trên đỉnh tháp. Kho báu thứ hai này có khối lượng lớn và phong phú hơn kho báu phát hiện trước đó, chứa nhiều đĩa vàng, bạc, đồng và một số vật dụng khác không xác định được nguyên liệu cấu thành, ngoài ra còn có một số tượng voi, các sấu cũng làm bằng vàng… Kho báu Chămpa được nhắc đến từ khá lâu bởi các nhà khoa học Pháp. Kho báu cuối cùng, nơi lưu giữ những gì còn lại của vương triều Chăm, đã được khẳng định sự tồn tại bởi Jeanne Leuba trong tác phẩm Unroyaume disparu-Les Chams et leur art -1923 (một quốc gia đã bị diệt vong người Chăm và nghệ thuật Chăm): “Do tình cờ ông H.Parmentier và hai người cộng sự trong một chuyến đi khảo sát tại Phan Rí đã được Nữ hoàng Chămpa cho phép tham quan kho báu ở một rừng phải mất nhiều ngày vượt núi mới đến được. Kho báu mà họ được xem tận mắt gồm 300 hiện vật. Đó là những cái bình, những vật trang sức bằng vàng, 4 tá bình bằng bạc, một bộ sưu tập lộng lẫy các vũ khí cổ được khắc hoặc khảm còn lưu lại những chổ bịt bằng vàng hoặc bằng kim loại quý… họ còn có những kho báu dự trữ khác mà người Châu Âu chúng ta không bao giờ được biết đến do tính hoài nghi và mê tín của những người bảo vệ rất nghiêm khắc của dân tộc Chăm”.Những thành tựu của các nhà nghiên cứu lịch sử, khảo cổ học, bảo tàng học trong hàng trăm năm qua dường như được các tay săn tìm cổ vật Chăm nghiền ngẫm rất kỹ. Giờ đây họ biết rất rõ rằng kho báu Chămpa không chỉ được chôn giấu trong lòng đất, bên trong hốc tường ở các đền tháp mà còn có ở đỉnh tháp, tường hậu sau khán thờ và ở phần diềm hoa văn chân tháp. Và có lẽ chính những người này là những kẻ đi trước những nhà khoa học khi phát hiện ở phần chân móng của các tháp cổ Chămpa còn có cả những hộc chìm chứa nhiều tượng cổ (?). Một người bạn của tôi trờ về sau một chuyến đi đào xới trên núi Bà (Phù Cát) đã thuật lại: “Ở những cánh rừng đại ngàn trên đỉnh núi hiện có đủ loại thợ thầy đang hành nghề - thợ săn thú quý hiếm, thợ cưa xẻ gỗ trái phép, các điệu săn trầm và đám thợ rà tụi mình. Khi được tin trên núi Bà có nhiều phế tích Chămpa hấp dẫn, tớ đã bán tín bán nghi. Những phế này nhiều người đã biết từ lâu, ngay cả khi cơn sốt săn lùng cổ vật Chăm nổ ra hồi mấy năm trước, tụi mình đã đào xới ở đó gần nửa tháng trời, mọi chuyện đã chấm dứt từ nhiều năm trước. Nghe tin có vàng Hời bay trên núi Bà do mấy tay phu trầm rỉ tai, rồi thấy người ta đi, mình cũng bấm bụng vác máy lên. Gần chục nhóm như vậy chia nhau rà tìm đào xới mà không nhóm nào thu được thứ gì đáng giá. Lần lượt các nhóm ở xa lưng vốn đã cạn rủ nhau xuống núi trước, nhóm của tụi mình là những người áp chót, mình vừa xuống xong thì được tin những kẻ ở lại phát hiện ra trong một hang đá có bộ xương của một chiến sĩ giải phóng nằm chết trên võng (có lẽ là đã hy sinh do sốt rét ác tính khi đi công tác một mình”, tay trưởng nhóm đã xuống báo cho UBND huyện Phù Cát. Nghe đồn nhờ đó mà trong cái ngày quyết định chấm dứt chuyến săn tìm cổ vật, họ đã tìm được một cái bình cổ. Chỉ một cái thôi nhưng đám thợ rà đã kháo nhau là đã bán được gần 100 triệu đồng…” Giữa những huyền thoại về kho báu Chămpa với sự thật lịch sử, nếu tách bỏ đi những yếu tố hoang đường, ly kỳ, rùng rợn như ma vàng Hời, ma vàng bay…, thì nhiều chi tiết của huyền thoại buột chúng ta phải xem xét vấn đề một cách nghiêm túc, đặt chúng ta trong mối quan hệ giữa các ngành khoa học có liên quan như văn học dân gian, khảo cổ học, dân tộc học, bảo tàng học…, để từ đó có thể đánh thức được những di sản văn hóa Chămpa còn thất lạc đâu đó trên các vùng di tích, phế tích. Nếu tổ chức tốt các khâu nghiên cứu, khảo sát, điều tra, khai quật, một điều chắc chắn là hiểu biết của chúng ta về nền văn minh Chămpa rực rỡ sẽ hoàn hảo lên. theo thuvienbinhdinh.com
0 Rating 1.1k+ views 4 likes 0 Comments
Read more
By: On December 16, 2013
Trên quốc lộ 1, chiếc Audi A6 màu đen lao với tốc độ chóng mặt tiến vào thành phố Đà Nẵng từ cửa ngõ phía nam. Trời đã mờ sáng nhưng các con phố và giao lộ hầu như vắng ngắt trong ánh đèn đường vàng vọt. Đến một ngã ba, chiếc xe rẽ vào phố Lê Đại Hành rồi lại tăng tốc nhằm hướng sân bay. Trên hàng ghế sau có hai người đàn ông, một to cao, một gầy nhỏ. Mặc dầu không nói gì suốt quãng đường dài nhưng có vẻ họ khá lưu luyến trước khi chia tay. Ngồi cạnh nhau, người thấp bé chốc chốc ngước lên nhìn trộm người kiađang ngả mình lim dim trên nệm ghế. Dung mạo người to cao mới trông đã biết ngày là ngoại quốc: mùi hắc, mũi cao, mắt sâu, tóc xoăn, nước da đen sạm chắc bền như được xông khói từ suốt mấy kiếp trước. Chỉ vài phút nữa là tiễn khách, không để không khí tẻ nhạt kéo dãi mãi, người thấp bé với tư cách là chủ nhà bèn lên tiếng trước. - Tôi hỏi khí không phải, ông anh là người ...Ấn Độ? Người to cao cựa mình cười mỉm, mắt phóng về phía trước rồi đáp lại bằng một giọng tiếng Việt lơ lớ. - Ông nói chỉ đúng một nửa. - Sao cơ? - Người nhỏ bé giương to mắt.- Đúng là đúng mà sai là sai chứ? - Xác mọc đất Miên, hồn ngự Mêru. – Anh ta đáp. Người thấp bé vẫn láng máng cho đến khi nhìn thấy hình ảnh siva bằng kim cương lủng lẳng trên sợi dây chuyền trước ngực. Người Miên theo theo đạo Bà la môn. Thú vị với phát hiện của mình, người nhỏ thó càng tò mò. Mới chỉ vài phút quen nhau nhưng đã để cho anh ta không ít ấn tượng về thanh niên ngoại quốc này. Người to cao vẫn nhìn phía trước, chỉ có cặp mắt đen là động đậy. Ánh đèn pha của những ô tô ngược chiều phả những luồng sáng thoắt đỏ thoắt vàng trên nước da đen cháy tựa như thân xác y được đúc tạc bằng đồng thau vậy. - Tiếng Việt của anh không tồi, chắc anh thường sang Việt Nam làm ăn? - Tôi vẫn thường đón bình minh trên các resort bãi biển Đà Nẵng, tiếc rằng lần này về cứ như chạy trốn. - Vâng... - người thấp bé cúi xuống tỏ chút ngượng ngập. – Chúng ta đều thừa lệnh Cả sư thôi mà. Nghe đến ‘’Cả sư’’ người to cao ngoái lại nhìn chiếc vali đang an toàn trong cốp sắt mới an tâm quay lên nhưng không giấu nổi nét căng thẳng bất chợt. Xe lao nhanh hơn. Anh ta ngước cặp mắt đầy chất latin đượm buồn ngoái ra ngoài cửa sổ nhìn xa xa về phái đằng đông đầy vẻ tiếc nuối. Thấy vẻ mặt đầy tâm trạng của một kẻ sắp rời xa chốn mình yêu thích, người nhỏ bé chẳng nỡ gây xáo trộn khoảng khắc yên lặng ngắn ngủi này của y. Hai người im lặng cho đến khi chiếc Audi dừng hẳn. Người nhỏ bé xuống chạy vòng ra sau mở cốp xách vali cho y vào sâu trong sảnh đón rồi chủ động đưa tay ra bắt. - Chúc đạo sĩ lộ bình an! Gã to cao suýt bật cười khi lần đầu tiên có người gọi mình là ‘’đạo sĩ’’. Thấy người bỏ bé lưỡng lự chưa muốn dứt ra, y hỏi. - Hình như ông có điều gì muốn dạy tôi? - Ấy, không dám...tôi thấy đạo sĩ có nét gì đó hơi...quen quen, có phải tên ngài là ...Shi... -Xuỵt!- Người cao lớn trỏ vội ngón tay lên môi. - Thốt tên người khác nơi công cộng là không nên. Y lần tay sau quần móc một tấm card rồi đưa cho người nhỏ bé. Người này đón lấy đọc ngấu nghiến, một thoáng sau ngửng lên vẻ mặt muôn phần kinh ngạc. Vua đồ cổ. Lúc này anh ta mới nhận ra trước mặt là một con người mà không phải ai cũng có cơ may được gặp một lần trong đời. Thảo nào từ đầu đã toát lên vẻ uy nghiêm khó gần, một chút lịch lãm và thừa...ngạo mạn. Miệng lưỡi người nhỏ bé vốn đã sượng cứng nay lại càng xơ cứng không thốt nên lời. Người to cao vỗ nhẹ vai anh ta. – Nếu có cơ hội, đừng ngại gọi cho tôi. Nhiều người đã đổi đời sau khi họ gọi cú đầu tiên cho tôi đấy! Người nhỏ thó xúc động đến nỗi mặt co lại, từng nhúm da bên khóe mắt giật lên từng hồi. Với công việc và chức năng của mình, anh ta hiểu từ ‘’cơ hội’’ ở đây là gì. Đó là đồ cổ. - Đứng lâu nơi công cộng cũng không tốt đâu. Tạm biệt! - Người cao lớn vỗ vai cho anh ta tỉnh lại rồi ném một nụ cười bí hiểm trước khi bỏ đi. Luôn luôn ‘’gieo hạt’’ là phương châm làm việc của y. Một thói quen tốt và rất đơn giản, với xấp card dày cộp đầy hai túi sau chiếc quần bò Levi’s, y không ngừng gieo xuống các mảnh đất tiềm năng. Với con mắt nhà nghề, y biết đâu là những đối tượng cần thiết lập quan hệ, đâu là đối tượng không nên la cà và tránh xa. Không hề vung vãi danh hão như một số doanh nhân học đòi, những tấm danh thiếp của y luôn đặt đúng nơi đúng chỗ. Đó là những nhà khảo cổ có tâm địa, những tên bảo vệ bảo tàng tham lam, và tất nhiên không thể thiếu những tên trộm đồ cổ người bản địa- kẻ mà hắn cho rằng sẽ mang niềm vui bất ngờ nhất. Trong quá khứ đã có không ít những nhà sư biến chất trước khi từ giã cõi tu hành đã không quên ẵm về cho hắn bức tượng phật vô giá. Bây giờ điểm lại, tài sản nhiều trăm triệu đô la của y đang ngày một phình to mà một phần không nhỏ đã đến từ những mảnh giấy nhỏ xíu đó. Thật khó tin. Sân bay khang trang và hiện đại này đã mở chuyến bay thẳng Đà Nẵng – Pnompenh càng làm cho ‘’con đường đồ cổ’’ của y ngày một hanh thông nhưng hôm nay còn sớm nên chỉ lác đác vài người. Bước về phía quầy check in, y cúi gầm mặt nhìn những áng đèn phản chiếu rực rỡ trước mỗi bước chân. Mọi giấy tờ và thủ tục suôn sẻ như bao phi vụ trước đây. Khi chiếc đồng hồ Hubost nạm kim cương trên tay y chỉ đúng 7 giờ 45 phút, chiếc Boing737 cất cánh khỏi đường băng rồi vếch chiếc chiếc đầu da cam như một mãnh thú hướng về phía tây nam. Trót lọt. Y ngả người trên hàng ghế VIP tận hưởng cảm giác khó tả đang dâng trào. Nhưng một sự thật phũ phàng mà y không thể ngờ tới đó là: cổ vật trong chiếc vali này là một dấu chấm hết sắp giáng xuống cuộc đời đầy dông bão của một vua đồ cổ tầm cỡ thế giới.    Mắt Kì Phương hoa lên khi dòng chữ kì lạ đang nhảy múa trước mặt. Anh cúi người xuống cho máu thông suốt lên não rồi thở sâu cho dưỡng khí tràn ngập buồng phổi. Khi đã đạt độ tỉnh táo cao nhất, anh lại tập trung vào yoni với hi vọng điều mình vừa thấy chỉ là ảo giác. Nhưng không, dòng chữ nổi rõ trên lớp máu đen sánh hiện rõ hơn bao giờ hết. Điều kì lạ là trước đó anh và viên cảnh sát đã nhìn hàng chục lần mà không ai phát hiện ra điều này. Ai đã viết ra nó? Khi anh và Lê Đại Hắc đàm đạo bên ngoài không hề có ai bước vào. Mấy viên cảnh sát giám định người Kinh không thể viết được chữ này mà giả sử viết được thì có cho vàng họ cũng không dám đụng tay. Một kẻ lạ khác thừa cơ lẻn vào đây là lại càng không thể. Quá trình ngưng kết của chất lỏng diễn ra rất chậm và tĩnh. Vả lại chất lỏng màu đen trên mặt đá sần sùi nằm trong màn đêm rất khó nhìn kĩ. Mặt chất lỏng có tính phản chiếu nên khi anh chiếu đèn lên thì hình ảnh nhìn thấy là của bứctường gồ ghề xung quanh. Giờ đây, dưới ánh sáng tự nhiên, nóhiện rõ hơn bao giờ hết. Kì Phương khẳng định luôn đây không phải là chữ Lào hay chữ Thái. Nó cũng không hề giống nhóm chữ Môn - Kh’mer mà người Campuchia và nhiều dân tộc Đông Nam Á đang dùng. Mới nhìn thì rất giống chữ Chăm truyền thống, nhưng nhìn kĩ thì hoàn toàn không phải. Nócó vẻ cũng có nguyên âm, phụ âm, dấu âm trên, dấu âm dưới và cả móc câuy như Chữ Chăm nhưng tuyệt không phải chữ Chăm mà hệt như một người em sinh đôi trên trời rơi xuống mà ta chưa thể biết tên.    Mà nếu không phải chữu Chăm truyền thống thì có thể là Chăm cổ hoặc một ngôn ngữ nào đó trong số hơn 150 ngôn ngữ thuộc hệ Mãlai - Đa Đảo chăng? Người viết chữ lên đây với kẻ giết Paul có phải là một? Nhìn dòng chữ còn tanh máu người đầy câu ngoắc tủa tủa như một bó giun lạ vừa đội đất ngoi lên đang ngoe nguẩy trước mặt làm Kì Phương cuộn từng cơn tởm lợm. Như sợ dòng chữ lại biến mất đột ngột như lúc xuất hiện, anh lấy giấy bút nắn nót sao chép y nguyên rồi cất kĩ vào ba lô như sưu tầm đuwocj một ngôn ngữ lạ. Kì Phương khóa chặt balo rồi lại ngắm nghía. Mỗi loại chữ cổ có một quy luật viết khác nhau, khi đọc không đúng chiều hoặc hướng sẽ không nhận ra mặt chữ. Đã đi ba vòng và thử các góc độ nhưng các kí tự đó vẫn là một câu đố hiểm hóc. Mà có thể đây không phải là chữ mà là bút tích có ý đồ của hung thủ. Trong thế giới của những hội kín, sau vụ án thủ phạm thường để lại thông điệp nào đó trên hiện trường. Đó là một thông tin, sự thách thức, hoặc một đe dọa. Một số hung thủ còn để lại những biểu tượng hay mật mã mà có khi nhân loại mất nhiều thế kỉ cũng không giả mã nổi. Vụ án Tamam Shud là một trong những bí ẩn lớn nhất của Australia khi cảnh sát tìm thấy một dòng chữ bí ẩn trên mẩu giấy giấu trong túi quần nạn nhân mà hơn nửa nay vẫn trong bóng tối bí ẩn. Hội Tam điểm, hội Illuminati, hội Tam Hoàng hay tổ chức khủng bố hồi giáo Al-Qaeda cũng có những mật mã để đời như vậy. Kì Phương nhận ra đã đến lúc phải chuồn khỏi đây để nhường lại cho Lê Đại Hắc cùng chuyên gia mật mã và cổ ngữ vào cuộc ngay lập tức. Ngay lúc anh định bỏ đi thì có tiếng xe đỗ nhẹ ngoài bờ suối cùng lúc có bốn người đang đi rất nhanh về phía anh. Kì Phương mừng rỡ khi nhìn thấy tốp sư phụ của mình và một cô phóng viên quen mặt. Anh vẫy tay kêu to. - Mời mọi người vào đây! Giáo sư Huỳnh Lẫm đáp lại từ xa với khuôn mặt nghiêm trọng, ông dẫn đầu đoàn tiến thẳng vào tháp như chính ông mới một chủ nhân đích thực ở đây. Kì Phương và Mộc Trân đứng ngoài để dành không gian cho ba người đàn ông đi vào. Tiến sát đài thờ, giáo sư Huỳnh Lẫm nghiêng mình đứng lại, hai người khác dàn ra hai bên và cúi xuống như đang làm một nghi thức nào đó. Thấy khuôn mặt giáo sư Huỳnh Lẫm đột nhiên căng thẳng và giữ nguyên tư thế cúi đọc rất lâu mà không ngửng lên. Nghĩ rằng thầy cũng đang bí, Kì Phương ném một câu vào trong. - Thưa các thầy, em đã cố tìm hiểu... nhưng chịu. Giáo sư Huỳnh Lẫm vẫn giữ nét mặt kính cẩn lẫn kinh ngạc, có lẽ trong cuộc đời khảo cổ và dịch cổ ngữ của mình chưa bao giờ ông nhìn thấy một chữ viết quái lạ đến vậy. Hơn nữa nó lại viết bằng máu tại trên một biểu tượng thiêng liêng tột bậc như vậy. Tiến sĩ Phú Thành Tài lùi lại một bước lấy tay che miệng nói khẽ. - Chữ của quỷ dữ! Tiếng thì thào của ông ta như làn gió buốt len vào tai mọi người. Giáo sư Huỳnh Lẫm quay mặt lại nhìn xiết vào mắt ông ta áp chế. Kì Phương cũng nghĩ như thế, nhưng anh rút kinh nghiệm để hỏi sang hướng khác. - Thưa thầy, có phải đây là hệ thống chữ Phạn hay Chăm cổ? - Hỏi thế sai bét! - Giáo sư Huỳnh Lẫm đáp khô khốc. - Vậy thì theo thầy là chữ gì ạ? - Chữ gì thì ta không biết nhưng nhìn kĩ tôi dám chắc chắn nó nằm trong hệ chữ Bhahmi. Tôi đã nhắc anh bao nhiêu lần rồi, chữ Phạn hay chữ Chăm trên các bia kí và các văn bản cổ của Champa chỉ dùng một hệ thống chữ viết duy nhất để biểu đạt, đó là hệ thống chữ Bhahmi vay mượn từ Ấn Độ. Mà có tới hàng trăm hàng ngàn ngôn ngữ sử dụng hệ thống chữ viết Bhahmi tôi làm sao biết hết. Giống như tiếng Anh, tiếng Pháp, Ý và cả tiếng Việt ... mượn hệ thống chữ Latin để viết và phiên âm cho ngôn ngữ của mình! - Vậy chữ Phạn và Chăm cổ khác nhau như thế nào? – Mộc Trân đánh bạo hỏi. Giáo sư Huỳnh Lẫm chậm rãi giải thích:  - Tiếng Sanskit hay còn gọi tiếng Phạn là ngôn ngữ cổ của người Ấn Độ có từ trước công nguyên. Nó bắt đầu du nhập theo các nhà truyền đạo và thương gia vào Champa từ thế kỉ thứ 2 và 3. Bia Võ Cạnh là văn bia tiếng Phạn đầu tiên của Đông Nam Á là minh chứng. Sau khi du nhập vào Champa người Chăm đã tiếp thu và không ngừng cải tiến để tạo ra một loại chữ riêng gọi là chữ Chăm cổ tương tự như chúng ta nội địa hóa chữ Hán thành chữ Nôm ở Đại Việt. Hiện nay ta tìm đỏ mắt may ra chỉ còn một vài nhà Nho thập cổ lai hi còn nhớ được vài chữ nôm. Còn người đọc được chữ Chăm cổ còn hiếm hơn vạn lần. - Giáo sư vừa nói, - Kì Phương hỏi - đây không phải chữ Phạn hay chữ Chăm, vậy có hay không một cộng đồng người bí ẩn nào đó đang sử dụng chữ này ngay trên nước ta? Giáo sư Huỳnh Lẫm chau mày lại: - Cái đó thì phải hỏi các nhà nhân chủng học, tôi đã thuộc làu nhiều bộ từ điển kim cổ kể cả của Aymonier và Moussay, nhưng thú thật dòng chữ này là lần đầu tiên tôi nhìn thấy. - Hay đây là chữ của... thánh thần? – Mộc Trân buột miệng. Cô muốn rút lại câu hỏi của mình khi nhận ra vị giáo sư già rất đang rất nghiêm túc khi đối diện với trường hợp hóc búa nhất trong suốt cuộc đời đánh vật với chữ nghĩa của mình. - Hết quỷ dữ rồi lại thánh thần – ông thở daif-  các người khéo nghĩ nhữn gthuws đâu đâu nhưng một điều gần gũi và khoa học hơn nhiều thì không ai nghĩ ra. - Đó là gì ạ? – Tất cả cùng hỏi.   - Đây đích xác là chữ của tiền nhân! Cả đoàn nghe xong đều vô cùng ngạc nhiên. Vốn rất ưa những gì gây sốc và li kì, cô phóng viên vội vã chộp lấy hỏi dồn. - Chữ tiền nhân. Chẳng lẽ tiền nhân vừa hiện về để viết lên đây sao? - Cô nói đúng! Người vừa viết chữ này sống cách đây hơn... một ngàn năm!
0 Rating 682 views 5 likes 0 Comments
Read more
By: On December 2, 2013
Nhìn xung quanh thấy hoang vu và miệng hố đào nham nhở, Kì Phương đoán đây là nơi đào vội để phi tang xác chết nhưng bất thành. Anh nhận ra các kí hiệu mà Paul để lại chẳng liên quan gì đến vị trí này cả còn chỗ Yoni đầy máu là khu B cũng chẳng có trong bảng kí hiệu. Paul có một ý nguyện duy nhất là khi chết, tro cốt của mình được rắc xuống Mỹ Sơn. Kì Phương trộm nghĩ hay tờ giấy này là di chúc yêu cầu vị trí rắc tro sau khi chết? Tuy nhiên nhận định của anh có thể làm linh hồn ông nổi giận. Có nhiều học giả nói các đền tháp là nơi mai táng của vua chúa và các tu sĩ nhưng đến nay chưa có bằng chứng khoa học nào khẳng định điều đó. Paul là người phản bác giả thiết này nên càng không thể có ý nghĩ mạo phạm như vậy. Có chăng,ông chỉ muốn tro cốt của mình hòa lẫn với cỏ cây đất rừng ngoài xung quanh mà thôi. Vậy thì bảng kí hiệu kia nói gì? Anh nhìn lại và tiếp tục vắt óc suy nghĩ. A5D6 C1D7 Bây giờ anh mới nhìn kĩ và phát hiện sự hời hợt của mình. Trong danh mục của H. Parmentier không hề có kí hiệu D7. Chỉ có từ D1- đến D6 mà thôi. Nếu D7 không phải là tháp thì là cái gì? Mà ngẫm lại, cả bốn ngôi tháp trên nay đều thành phế tích, thậm chí tháp A5 hay D6 đã bị xóa sổ gần như hoàn toàn. Kì Phương băn khăn không biết Paul muốn gửi gắm điều gì trong mớ hỗn độn kia. Việc của ông ta là khai quật báu vật. Nếu biết không sống nổi thì phải chỉ ra vị trí cho người khác làm. Nhưng thay vì ghi rõ địa điểm thì ông ta để lại một mớ chữ hỗn độn kia. Hay là ông ta sợ kẻ xấu lấy được tờ giấy rồi đào trộm mất? Kì Phương nhìn lại mớ kí tự và anh nhận ra rằng đây có dáng dấp của một mật thư cổ điển. Thế nhưng mật mã thế này thì quá ư đơn giản. Cách mã hóa bằng các chữ cái latinh có từ thời La Mã cổ đại và được sử dụng trong nhiều thế kỉ nay đã lạc hậu và có thể bị hóa giải bởi bất cứ ai trong vòng vài phút. Tuy vậy Kì Phương vẫn bắt tay vào thử. Cách giải mật thư kiểu này phải có bản khóa của chính người mã hóa để lại, nhưng có thể Paul không có cách nào chuyển bản khoá cho anh nên đành phải mò. Rất may là chỉ 8 kí tự thì không đến nỗi khó. Nhìn bảng kí tự vừa có chữ cái La tinh vừa có chữ số thì ý nghĩ đầu tiên của anh là phải chuyển toàn bộ sang chữ latinh. A5D6 C1D7 Thay các số thứ tự 1, 2, 3... tương ứng với bảng chữ cái A, B, C...Lúc đó 5 là E, còn 7 là F Đoạn kí tự trở thành:  AEDF                                    CADG Nhìn mãi Kì Phương vẫn không thấy có nghĩa gì cả. Nếu đảo lộn bốn chữ AEDF rồi sắp xếp lại theo một trật tự khác thì tạo ra môt từ đáng chú ý là ‘’DEAF ‘’Từ này có nghĩa là ‘’điếc’’. Còn CADG thì sắp trật tự nào cũng vô nghĩa. Bài toán chưa dừng ở đây. Ví như 1 không ứng với A thì có thể là ứng với B. Còn 2 ứng với C. Phương pháp này trong thuật mật mã gọi là ‘’phép thế Caesar’’. Đây là phương pháp do vị Hoàng đế Lã Mã  Caesar sử dụng khi gửi các bức thư mật ra chiến trường bằng cách thay các chữ cái trong thư bằng các chữ khác cách đó 3 chữ trong bảng chữ cái. Trong trường hợp này, Kì Phương biết có thể phải tịnh tiến thêm hai hoặc vài chữ cái nữa nhưng phương pháp thủ công này sẽ ngốn nhiều thời gian và tạo ra vô số nghiệm. Anh nhận ra cách này không mấy triển vọng bởi Paul rất kém tiếng Anh còn anh thì kém lại tiếng Pháp. Vì vậy khả năng ông ta dùng một trong hai ngôn ngữ này để mã hóa là không cao. Anh tạm gác cách này để chuyển sang cách ngược lại. Đó là biến các chữ cái thành số thứ tự. Thử thay A, B, C thành 1, 2, 3. Dòng kí tự ‘’A5D6’’ lập tức trở thành: ‘’1546’’ Chữ số này chẳng có gì đặc biệt, liên quan đến Chămpa hay kho báu thì lại càng không. Định gạt đi nhưng anh bỗng nhận thấy hơi quen quen. Cách đây đã lâu, trong một lần đo đạc và khảo sát một móng tháp anh đã xác định ra tâm của điện thờ. Hiện nay dữ liệu của Trung tâm trùng tu do anh phụ trách đang bổ sung và hoàn thiện một loạt bản đồ di tích số hóa. Từ địa hình và di tích kiến trúc đều được định vị trên máy tính chính xác đến từng centimests. Theo thường lệ, khi phát hiện ra dấu kiến trúc, anh đều cập nhật ngay lên bản đồ điện tử này. Khi áp lưới tọa độ vào di tích này liền hiện lên con số vĩ độ Bắc 15’46’’00’’’. Chính xác! anh nhớ như in số này vì nó chẵn và trùng với biển số chiếc xe máy của cậu em. Vậy là đã rõ, Paul đã dùng ngay vĩ độ này để đánh dấu vị trí của báu vật. Còn kinh độ thì... Kì Phương nhanh chóng giải dòng tiếp theo trong tâm trạng hồi hộp nhưng số kinh độ đầu tiên đã làm anh thất vọng. C1D7 chuyển thành ‘’3147’’ trong khi kinh độ của Mỹ Sơn du di quanh số 108’50’’. Vậy đây không thể là kinh độ. Anh chưa biết làm gì tiếp theo thì nghe thấy tiếng động cơ gầm rú, tiếng còi rít kèm ánh đèn pha chói sáng thi nhau xé tan hoang cánh rừng. Kì Phương đút tờ giấy vào túi, xốc lại quần áo và phủi qua đầu tóc trước khi nhìn thấy một tốp cảnh sát xuất hiện. Họ nhảy xuống từ hai chiếc xe cam nhông màu trắng rồi chia ra vài nhóm nhỏ nhanh chóng tỏa khắp khu đền. Một người phát hiện ra anh rồi thêm hai ba người nữa vội vàng đi tới. Người đi đầu trạc hơn bốn mươi, dáng đậm, đầu tóc chải vội và đeo kính đen. Anh ta từ tốn hỏi: - Anh là ai? - Tôi tên Kì Phương, thi công trùng tu tại đây, đêm qua... Chưa nghe hết, ông ta đi tiếp đến miệng hố rồi rút cặp kính râm ra nhìn xuống. Hàng rào người mặc quân phục mau chóng vây quanh, vài tiếng xì xào vang lên. Sau đó có hai người tụt xuống hố với túi dụng cụ nghiệp vụ. Chừng dăm phút sau họ nhấc nạn nhân lên mặt đất. Qua kẽ hở của hàng người, Kì Phương liếc mắt tranh thủ nhìn người xấu số lần nữa và anh sửng sốt khi nhìn thấy thân hình Paul trần trụi chỉ độc một mảnh quần lót trên người. Họ đặt ông lên một tấm dù màu đen tương phản với nước da nhăn nheo trắng bệch nên thi thể trông càng thảm hại. Kì Phương định dấn lên một bước để xem cho rõ thì một bàn tay túm gáy anh lôi nhẹ ra. Một cặp kính đen áp vào mặt anh. - Anh đã làm gì ở đây? - Tôi...tôi đi tìm ông ta và thấy ông ta nằm dưới hố. - Vậy anh đã thấy những gì? - Tôi chỉ mới đến đây trước các ông vài chục phút thôi, khi đó ông ta đã tắt thở, nằm dưới hố như các anh đã thấy. Viên cảnh sát bấm đèn pin rê từ đầu xuống chân anh như thể kiểm chứng lời khai vừa rồi có đáng tin hay không rồi đột nhiên ông ta dừng lại ở mũi giày. - Tại sao lại có máu? Kì Phương cảm thấy nhớp nháp toàn thân. Không riêng gì mũi giày mà trên người anh chỗ nào cũng lấm láp hệt vừa trải qua một cuộc ẩu đả. - Tại sao lại có máu ở chân?- ông ta nhắc lại.        - Trước khi tôi ngã xuống đây, tôi đã lại gần yoni đằng kia, máu ở đó đã.... - Yoni? Yoni là cái quái gì? – ông ta ngắt lời, tai vênh lên. Kì Phương thoáng ngạc nhiên, anh nhìn xuyên mặt kính đen nhưng không thể biết ông ta có đùa hay không. Qua chất giọng bắc bộ anh đoán viên cảnh sát này vừa chuyển công tác đến đây chưa lâu. Cũng không lấy gì làm lạ, hai phần ba du khách lần dầu đến đây đều có chung câu hỏi na ná như vậy. Kì Phương cố nhìn kĩ hình thù như một con gấu lừng lững đang ngự trước mặt nhưng chẳng thấy gì ngoài tấm biển hiệu‘’Lê Đại Hắc’’ sáng loáng trước ngực. Tuy trời tối mịt nhưng ông ta vẫn đeo cặp kính râm che gần nửa khuôn mặt và đang chăm chú chờ câu trả lời. Kì Phương nói: - Yoni là vật thờ cúng mô phỏng cơ quan sinh dục nữ. Theo quan niệm của Bà la môn giáo, Yony là biểu tượng cho âm tính trong vũ trụ. - Chẳng lẽ trong vũ trụ này chỉ mỗi âm tính? - Viên cảnh sát tỏ vẻ không hài lòng.- Dương tính ở đâu? - À không, vũ trụ này được cấu thành bởi hai lực lương âm và dương trái ngược nhau nhưng cân bằng và luôn song hành với nhau. Lúc nãy tôi nói chưa hết, bên trên mỗi yoni luôn tồn một linga. Nói đến đây Chắc ông biết linga là gì rồi chứ, linh thực khí đàn ông... Một sĩ quan bước tới làm ông ta phải miễn cưỡng quay sang. - Gì thế? - Báo cáo sếp! đã xác định được danh tính nạn nhân, Qua khám nghiệm sơ bộ thì ông ta chết khoảng 2-3 giờ sáng bởi một vết thương nhỏ trên cổ gây mất máu. Không thấy máu trên hiện trường vì vậy đây có thể là hiện trường giả...Ngoài ra có rất nhiều dấu chân cày nát xung quanh và dưới đáy hố. Nghe đến từ ‘’cày nát’’ Kì Phương lại chột dạ. Anh định nói lên rằng có rất nhiều máu đã đổ phía ngoài kia nhưng đã thấy rất nhiều lính tráng đã vây quanh đó tự khi nào. - Đưa nạn nhân về trung tâm pháp y tỉnh. – Ông ta xua tay như muốn đuổi đám cấp dưới cùng cái xác to kềnh thiếu thẩm mỹ ra khỏi mắt kính thời trang của mình. Xem ra phạm trù âm dương đối với ông ta thú vị hơn nhiều. Ông ta ẩy cặp kính rồi nói tiếp: - Linh thực khí? tiếp đi! - Vâng, bộ ngẫu tượng linga- yoni thể hiện một triết lí về vũ trụ và tâm linh. Nếu ông muốn tìm hiểu về nó tôi rất sẵn lòng. - Được, theo tôi ra ngoài kia! Họ ra khỏi lùm cây, bầu trời màu xám tro le lói vài tia nắng nhạt xuyên qua đám mây mù nặng trĩu. Những ngọn tháp Chàm nhấp nhô như đang vươn mình khỏi khóm cây xanh để tận hưởng nguồn sinh khí ban mai tinh khiết nhất. Xa xa là dãy núi trùng điệp bao quanh như những bức tường thành thiên nhiên được thượng đế dựng lên để che chở cho nơi trú ngụ của thần linh. Không giống như các đền đài lăng tẩm nổi tiếng trên thế giới luôn ngự trị trên quảng trường rộng lớn hay sa mạc bao la để tăng tính uy nghi thì tháp Chàm lại duyên dáng e ấp trong những đồi cây khóm lá. Nếu bức màn thiên nhiên xung quanh bị tàn phá, tháp sẽ trở nên trần trụi và cô độc. Kazik - người kiến trúc sư tài ba nhiều năm gắn bó với Mỹ Sơn đã thốt lên “người Chămpa cổ đã gửi tâm linh vào đất đá; và đã biết dựa vào thiên nhiên để làm nên một Mỹ Sơn tráng lệ -  thâm nghiêm - hùng vĩ. Đây là một bảo tàng kiến trúc điêu khắc nghệ thuật vô giá của nhân loại mà sẽ còn lâu chúng ta mới hiểu hết” Trong khi anh đang day dứt với vô vàn di tích và thiên nhiên ở đây đang dần bị mất thiêng thì đi trước anh là hiện thân của chủ nghĩa vô thần. Viên cảnh sát như một con bò mộng lùi lũi dẫm đạp lên những chùm hoa dại đang khoe sắc để tiến về nơi có máu đổ. - Tu bổ mà sao không ủi sạch cỏ cây ở đây đi? - ông ta cất giọng ồm ồm. Kì Phương không biết nói gì. Ông ta nói đúng một nửa. Tuy cây rừng là lớp áo choàng xinh xắn nhưng vẫn có nhiều loại cây luôn ăn bám như tầm gửi. Những chùm rễ vươn dài như những xúc tu bạch tuộc đang ngày đêm gặm nhấm, sờ soạng và rỉa rói vào từng thớ thịt khúc xương để hút cạn sinh lực của những thân hình già cỗi xiêu vẹo và đổ nát. Sự xấm lấn bền bỉ thầm lặng này đang từng ngày từng giờ xóa sổ những dấu tích ít ỏi cuối cùng của một nền văn minh tột bậc Đông nam Á một thời mà một người làm nghệ thuật như anh không khỏi xót xa. - Thưa ông, lối này! – Kì Phương gọi như thét khi thấy viên cảnh sát đặt gầm dày lên lên một tấm bia để đi tắt. Quá muộn, trang sách bằng đá lật nghiêng rơi xuống vỡ làm đôi. Ông ta quay lại chép miệng vẻ tiếc nuối rồi lách qua khe cửa để vào ngôi tháp. Hai viên sĩ quan bên trong vội vã trồi trở ra nhường chỗ cho vị sếp to lớn của mình. Rất sợ đổ vỡ, Kì Phương nhoài người lao theo nhưng chiếc máy ủi kia đã bị chặn lại bởi chiếc bệ thờ. Ông ta khự lại chiếu đèn lên xem rồi chết lặng đi vài giây. Lùi lại một bước, ông đưa tay gẩy kính khỏi mắt rồi trân trân nhìn hiện vật trước mắt như nhìn một quái vật chưa thấy lần nào trong đời. - Đây là ...Yoni:?  Mật mã Chămpa - Chương 1- p1  Mật mã Chămpa - Chương 1- p2  Mật mã Champa - Chương 2 - p1  Mật mã Champa - Chương 2 p-2  Mật mã Champa - Chương 3 -p1  Mật mã Champa - Chương 3 - p2 Mật mã Champa - Chương 4 - p1
0 Rating 721 views 7 likes 0 Comments
Read more
By: On November 27, 2013
Chương 3 - p1   Không hiểu vô tình hay hữu ý mà cổ nhân đã đặt ba trung tâm Tôn giáo- Chính trị - Kinh tế của vương quốc Chămpa cổ nằm trên một đường thẳng tắp có tâm điểm là kinh đô Sư Tử (Simhapura). Hơn một thiên niên kỉ trôi qua, ngoại trừ biểu tượng chính trị đã lụi tàn nhưng kì lạ thay, trung tâm Tôn giáo Mỹ Sơn và thành phố cảng Hội An vẫn trường tồn đầy sức sống mãnh liệt như thủa xưa. Đón những tia nắng đầu tiên của ngày hôm nay là một nhóm người trong căn nhà cổ kính ven sông Thu Bồn. Đó là ba người đàn ông lớn tuổi và một nữ phóng viên trẻ Mộc Trân. Trước mặt cô là chiếc máy ghi âm đang ở chế độ tắt, một cây viết và một quyển sổ đang mở rộng chưa có dòng chữ nào. Nét mặt của họ đăm chiêu ngó ra mặt sông phẳng phiu như lụa trải ngoài khung cửa mờ sương. Người lớn tuổi nhất là giáo sư Huỳnh Lẫm- một nhà khảo cổ và nghiên cứu văn hóa Chăm có tên tuổi nhất nước hiện nay. Ông bấm máy di động rồi áp lên tai lần này là lần thứ năm. Rỗi cũng như mấy lần trước, ông thả xuống bàn với cái lắc đầu nặng trĩu: - Đến giờ này vẫn chưa liên lạc được, tôi e rằng lão đã xảy ra trục trặc gì đó. - Xin thầy đừng sốt ruột ạ - Một người tóc xoăn lên tiếng - Người Pháp có thói quen dậy muộn, ta đợi lát nữa xem. Người đàn ông khác đeo cravat đỏ có phần sốt sắng hơn: - Có lẽ chúng ta nên bắt taxi lên khách sạn xem sao, ông ta phải biết rằng khán giả cả nước và nhất là người Chăm trên toàn thế giới đang nằm phục bên tivi từ đêm qua. Mộc Trâm với đôi mắt thâm quầng do mất ngủ bỗng ánh lên, cô đặt li cà phê xuống bàn, cô phụ họa theo: - Cánh phóng viên chúng em có người cả tuần này ăn chực nằm chờ ở Mỹ Sơn, lề mề nhất như em thì tối qua đã hạ trại rồi. Người đeo cravat đỏ lộ dần là một quan chức nặng kí, ông vung tay: - Không gì tệ bằngđể mất lòng tin trong nhân dân, ông ta mà bỏ trốn như hồi trước, tôi sẽ lôi cổ ông ta ra tòa. Nghe đến từ ‘’bỏ trốn’’, người tóc xoăn không thể không xen vào: - Chú Dũng cứ bình tĩnh, dù bê tha đến mấy thì người Pháp cũng không thất hứa đâu. Giáo sư Huỳnh lẫm không hé môi, ông đưa cặp mắt sâu hoắm nhìn ra mặt sông như tìm kiếm một câu trả lời về buổi lỡ hẹn không đáng có này. Tuy không bổ nhát cuốc lịch sử xuống Mỹ Sơn sáng nay, nhưng là trưởng đoàn nên ông như đang ngồi trên đống lửa. Ông tin tưởng vào vị đồng nghiệp đến từ viện Viễn đông bác cổ như tin chính bản thân mình, nhưng để xảy ra sự cố ngay từ phút đầu trong sự kiện trọng đại này lại là một điềm không lành. Dù gì đi chăng nữa, Paul vẫn được nhìn nhận như một người đầu tiên hồi sinh cho Mỹ Sơn sau hai cuộc chiến tranh tàn phá. Hơn một thế kỉ nay các nhà khảo cổ Pháp luôn phô cái bóng to kềnh của họ che lấp những nhà khoa học da vàng mũi tẹt như ông. Từ khi nhà thám hiểm L. Paris tìm ra Mỹ Sơn đến nay đã có không ít nhà khoa học Tây phương để lại dấu ấn trong lịch sử hiện đại Việt Nam. Và ngày mai, lại một người Pháp nữa. - Không biết linh vật Champa là thứ gì mà ông Paul kín như bưng vậy, chẳng lẽ các bác không ai biết gì hay sao? – Cô phóng viên ngước nhìn lần lượt ba tinh hoa nước nhà như như thể đang khiêu khích. Người tóc xoăn lập tức quay sang trừng mắt nhìn cô ta qua cặp kính dày cộp, giọng đục ngầu. - Cô muốn chúng tôi ngồi tù chắc! Đã nói là tuyệt mật, cô nên tìm Paul mà hỏi. Chúng tôi không có quyền tiết lộ bí mật quốc gia. Giáo sư Huỳnh lẫm nhấp một li cà phê cố che một cái nhếch mép. Bởi, ông biết rằng sau cái cặp kính trí thức kia cũng chả biết gì. Ngay cả ông đây, từng là viện trưởng Viện khảo cổ, nhà nghiên cứu Chămpa có số có hạng mà cũng chẳng rõ Paul sẽ diễn trò gì trên khoảnh đất đã nén chặt dấu chân ông. Nhìn những khuôn mặt khó đăm đăm, cô phóng viên biết mình đã hỏi không đúng lúc, không đúng người và không đúng chỗ. Gấp cuốn sổ trống trơn trên bàn, cô đưa ánh đầy cam chịu nhìn chan chứa ra phía con sông. Ngay lúc đó, chất giọng trầm trầm nghe còn u ất hơn lên tiếng. - Chị Mộc Trân cứ bình tĩnh.- Gs Huỳnh Lẫm nói. - Cô mới đợi có một đêm, còn tôi, nói cô đừng cười, tôi đợi ngót một đời người rồi. Người đeo kính cười khổ rồi phụ hoa theo. - Cô Trân chắc không lạ gì với thầy Lẫm đây, nếu nói về thâm niên nghề nghiệp còn hơn cả tuổi đời của tôi, vậy mà tôi năm nay đã ngót 50. Cái tuổi săp về vườn nhưng nhìn lại mình vẫn chưa làm nên trò trống gì so với ông Paul. Thực lòng mà nói, chúng tôi rất ghen tị với ông ta - Người đeo kính lén nhìn thầy của mình rồi lại tiếp. – Nhưng nghĩ lại phải công nhận ông ta là người dám xả thân. Xứ này có ai dám sống chung với rừng hoang và rắn rết để làm khoa học như ông ta đâu. Giáo sư Phương đồng tình, ông nói thêm. - Đợt này ông ta thề sẽ mang cho chúng ta một báu vật quý báu hơn tất cả các báu vật trong viện bảo tàng Chăm cộng lại. - Ông ta điên chắc!- Người thắt cravat vốn kiệm lời nhất, nãy giờ ông chỉ nghe và ngẫm, nhưng lần này ông cũng không kìm nổi - Có cái gì đó rất kì quặc, tôi cảm thấy chúng ta hình như đang... bị lừa. Giáo sư Huỳnh Lẫm vung tay như chặn những chiếc lưỡi quá khích đang nhằm vào người bạn của mình. - Nói bậy, các vị suy xét cho thật kĩ, trước khi sang đây ông ta lập hồ sơ chứng cứ rất cặn kẽ cho cơ quan chủ thể của mình và cả Ủy ban di sản Unesco. Với uy tín của cá nhân và cả viện Viễn đông bắc cổ, mọi khâu thủ tục đã khơi thông với tốc độ ngoài mong đợi. Đây là sự kiện lớn do một nhân vật uy tín khởi xướng. Cả nhóm không nói thêm, lúc đó chếc di động lại reo vang. Không phải là Paul gọi đến xin lỗi như ông tưởng, đó là một học trò của ông. - Ai đấy, .... Paul bị giết sao?.. nói to lên....Trời, không thể! Chiếc điện thoại nhỏ bé ruốt cuộc đã đánh khụy vị giáo sư. Sau tiếng gào khô khốc, ông lẩy bẩy ôm lấy đầu. Mộc Trân nhổm người dậy, mắt dáo lên hỏi dồn: - Có giết người hả bác, ở đâu? Sau cơn choáng nhẹ, Giáo sư thở sâu rồi ngả lên thành nghế, mắt mở to lơ lác nhìn lên trần nhà. - Thầy... thầy có làm sao không thầy... - ba người đồng thanh hỏi. - Paul..đã bị giết rồi! - Vị giáo sư già nói hắt ra đầy khó nhọc. -Ở đâu bác? chúng ta sẽ đến đó ngay bây giờ. – Mộc Trân nhanh tay lùa mớ đồ nghề vào bao. -Thánh địa Mỹ Sơn! - ông chỉ tay ra chiếc xe ngoài phố - Bấm máy cho cảnh sát đến đó luôn một thể. Mấy phút sau, hai chiếc xe con nhằm hướng tây lao đi. * Mặc dù Kì Phương đã lường trước một kết cục tồi tệ từ khi nhìn thấy máu, nhưng anh không ngờ cái chết của Paul lại thê thảm đến như vậy. Anh vội vã rút máy ra gọi điện báo cho trưởng doàn khảo cổ Gs Huỳnh Lẫm. Phía đằng xa, Thi Nga vẫn miệt mài tìm kiếm mà quên mất bạn đồng hành phía sau. Không có anh bên cạnh, sự can đảm của cô đã rơi mất một nửa. Sự sợ hãi bất giác lan tỏa trên những bước chân run rẩy của cô. Ánh đèn trong tay cô chiếu loang loáng tứ phía và tim cô giật thót mỗi khi thấy những pho tượng không đầu của thần sinva và những đứa con mình người đầu thú của ngài ẩn hiện trong bóng tối. -Kì Phương, anh ở đâu?- Cô khẽ gọi. Phủi mặt mũi rồi ngồi dậy, Kì Phương định leo lên miệng hố thì bỗng nghe thấy tiếng cô văng nẳng phía xa. Anh hét với lên. - Cẩn thận kẻo ngã đấy. Nhận ra giọng anh, cô òa lên vui sướng: - Đừng đùa tôi nữa, Anh trốn ở đâu? - Đừng chạy, đứng tại chỗ, tôi sẽ đến. - Anh làm sao thế?- Nhận ra âm thanh khản đặc của anh thoát lên từ lòng đất, cô ta cuống cuồng chạy về phía anh. Trong lòng hố sâu và hẹp, Kì Phương nghe rõ tiếng bước chân rung chuyển mặt đất. Ánh đèn loang loáng ngày một sáng hơn. Cô ta sẽ nhìn thất tất cả. Kì Phương bỗng dưng thấy hoang mang như chính mình vừa gây một tội ác ghê gớm, và không hiểu sao anh thấy sợ hãi, không phải sợ xác chết sau lưng mà sợ con người sống trước mặt. Trong tích tắc anh chưa giải nghĩa chính xác mình sợ cái gì nhưng anh ước cô ta biến mất khỏi đây. Cô ấy không đủ can đảm để nhìn cha mình lúc này. Kì Phương đã nhận ra mình sợ cái gì. Phải rồi, lòng trắc ẩn! Anh sợ sẽ phải chứng kiến trái tim non nớt kia tan nát. Cô đang chạy thình thịch trước khi quỵ ngã. Mỗi bước chân cô là một nắm đấm dội thẳng vào lồng ngực anh. Rồi bằng một động tác bản năng, anh ngã ngửa như một khúc cây bị đốn. - Dừng lại ngay! – Kì Phương hét lên khi nhìn thấy một mũi giày thòi trên mép hố, một tràng đất đá dội xuống mù mịt kèm một chùm sáng chiếu vào mắt. - Trời ơi, – cô thét lên - anh có làm sao không? Rõ ràng là cô chưa thấy cái mà anh đang che lấp. Vừa nói, cô vừa khom người túm chặt lấy miệng váy, một tay bám vào cỏ dại rồi duỗi đôi chân dọc theo mép hố. Bàn tay còn lại thõng sâu xuống nhưng vẫn thiếu vài tấc nữa để chạm vào điểm cao nhất của người anh. Kì Phương lập tức co rúm người lại một cách vụng về vô tình để cái xác to tướng dưới vai anh lộ ra. - Đưa tay đây tôi sẽ kéo anh lên! - Tôi đang choáng - Kì Phương luống cuống chỉnh lại thế nằm - Hãy để tôi nằm đây chốc lát. Thấy anh lúng ta lúng túng và có ý không muốn lên. Cô cau mày khó hiểu. - Tại sao anh kì quặc thế, đưa tay đây tôi kéo lên! - Không!- Kì Phương dứt khoát.- Cô ra khỏi đây ngay đi. Kì Phương thể hiện một thái độ mà cô vừa tức cười vừa nổi cáu, chẳng khác một đứa trẻ đang ăn vạ. Rồi như chợt nhớ ra điều gì, cô kiểm tra lại tư thế của mình rồi ngượng nghịu thu hai cặp đùi lên trước khi chuyển sang thế khác mà cô cho là kín đáo hơn. Đặt chiếc đèn bên mép hố, cô nằm sấp trên mặt đất rồi thõng toàn bộ thân trên và đôi tay xuống hố. Với thế mới này Kì Phương chỉ còn nước nhắp tịt mắt. Đôi bàn tay vớt liên hồi trong không khí và cô suýt nữa tóm trúng cái thắt lưng đang phập phồng của anh. - Đồ hâm, - cô quát - Chìa cái tay anh ra đây mau! Bất chấp vòng tay nhiệt huyết đang dang ra, Kì Phương vẫn nhất quyết cự tuyệt. Anh biết rằng chỉ cần cựa quậy, cái vật dưới lưng anh sẽ làm cô ta ngã lộn cổ xuống đây. Anh không thể tàn nhẫn như vậy được. Cách hành xử kì quặc của Kì Phương lại càng làm cô ta sinh nghi. Cô không vồ vập như trước mà tập trung soi đèn từ mặt đến bàn chân anh hòng tìm ra lí do. Thấy tình hình đã đến lúc nguy ngập, Kì Phương buộc phải tìm cách tống cổ cô ta. - Tắt đèn đi. – anh quát. Ánh đèn vụt tắt nhưng khối thịt lù lù vẫn y nguyên có thể nhào xuống bất cứ lúc nào. Anh dằn từng chữ: - Để tôi nằm nghỉ giây lát, cô hãy ra khỏi đây ngay. - Không được, đưa tay đây! – Cô ta bất thần phóng tay xuống cố vồ một cú quyết định để kết thúc cái trò đùa quái gở này. Đất đá được dịp tuôn mù mịt lấp đầy mặt anh nhưng Kì Phương vẫn lấy làm mừng vì nó lấp luôn cả khuôn mặt lạnh ngắt sau gáy anh. - Cô hãy quay lại khách sạn đi, - Anh gào lên - biết đâu ba cô đã quay lại tìm cô. Kì Phương không hiểu sao lại vuột một câu như vậy, nhưng câu này liền tỏ ra hiệu quả tức thì. Thi Nga thu bàn tay chưng hửng trở về rồi ngồi thượt trên mép hố, nhưng vẫn bướng bỉnh không chịu bỏ đi. - Cô lái được xe chứ? - Để làm gì? - Cô hãy nhanh nhanh quay lại khách sạn ngay, nếu không tìm thấy cô, ba cô sẽ rất lo lắng có thể lên sân bay tìm cô đấy. - Nếu ông ấy đã rời khỏi đây, tôi nghĩ sẽ phải sang Pnompenh tìm ba tôi mất? Anh đi với tôi chứ? - Pnompenh? – Kì Phương tưởng cô nói nhầm - Cô nói nghiêm túc đấy chứ? - Tôi không đùa vào lúc này! Kì Phương cho rằng cô nàng láu lỉnh đang bịa chuyện để dụ anh đứng lên nhưng anh không dễ dãi mắc mưu đến vậy. - Vậy ông hẹn cô sang pnompenh để làm gì nào? - Thám hiểm một kho báu bí ẩn chưa ai biết tới. Anh chưa nghe ba em nói bao giờ sao? Nghe đến đây Kì Phương chỉ muốn ngồi bật dậy để hỏi cho ra nhẽ, nhưng vừa dựng gáy lên anh đã phải giả vờ mệt mỏi hạ xuống. Không biết từ phía sau Paul có xác nhận điều con mình vừa nói hay nhưng quả thật mấy hôm nay anh đã nghe phong phanh về chuyện đó. Kì Phương đã định hỏi trực tiếp Paul nhưng ông vẫn chưa dành cho anh một chút thời gian nhưng dù bất luận đúng hay sai thì giờ đã đến lúc đẩy cô ra khỏi đây. - Vậy cô nên nhanh nhanh quay về Rex đi, nếu không ba cô sẽ đi Pnompenh mất. - Anh hứa là không làm sao cả chứ? - Khổ quá, đừng lo cho tôi, - Anh van nài - tôi sẽ tự lên và quay về khách sạn tìm cô! - Tốt lắm, tôi sẽ đi ngay. Kì Phương rút chùm chài khóa rồi ném lên miệng hố. Chỉ trong vài giây tiếng sột soạt của đôi giày 9 li đã mất hút. Áp lực tưởng như đã vơi đi nhưng một nỗi ân hận lập tức ập đến giày xéo lấy anh. Mình quá ác với cô ta. Nhưng ngược lại, nếu để cô chứng kiến cảnh này còn tàn nhẫn hơn nhiều. Anh thầm nghĩ sẽ gặp lại cô tại Rex rồi nói hết sự thật này, lúc đó dù có ngất xỉu cũng đã có giường ấm nệm êm. Anh cũng có thể ở đó an ủi vỗ về hàng giờ dù sao cũng dễ chịu hơn là để cô chuầy chòa nơi bùn lầy bẩn thỉu này. Kì Phương nặng nề ngồi dậy dũ bớt bùn đất rồi tìm cách leo lên miệng hố cao lút đầu người. Xung quanh chìm đắm vào bóng đêm mịt mùng.                                   Mật mã Chămpa - Chương 1- p1  Mật mã Chămpa - Chương 1- p2  Mật mã Champa - Chương 2 - p1  Mật mã Champa - Chương 2 p-2  Mật mã Champa - Chương 3 -p1  Mật mã Champa - Chương 3 - p2 Mật mã Champa - Chương 4 - p1  
0 Rating 673 views 6 likes 0 Comments
Read more
By: On November 25, 2013
Thực ra chỉ liếc dòng kí tự trên Kì Phương đã biết ngay Paul muốn nói gì, và nó cũng chẳng có gì là bí mật cả. Các kí hiệu A1, A2,... B1, B2... do nhà nhà khảo cổ kiêm kiến trúc sư người Pháp Henri Parmentier phân loại và đặt tên cho các đền tháp khi ông nghiên cứu thánh địa Mỹ Sơn từ những năm đầu thế kỉ XX. Vì tính khoa học và đảm bảo sự nhất quán trong nghiên cứu nên các kí hiệu đó vẫn được tiếp tục sử dụng đến nay. Nó cũng phổ biến trong các bản đồ và tập san du lịch đến nỗi nhiều du khách cũng thuộc vanh vách. Kì Phương hiểu được ý Paul rằng ông ta đang có mặt tại một trong bốn ngôi tháp đó. Paul là người rất ưa dùng các kí hiệu khoa học vào đời thường. Có giai thoại kể rằng, khi công tác ở Mỹ sơn, ông không có nhà cửa, không phương tiện đi lại nên Paul đã căng lều ngay bên cạnh tháp cho tiện làm việc. Lúc in card để liên lạc, trên phần ‘’địa chỉ cơ quan’’ ông chỉ ghi độc một chữ ‘’A2’’ Đường sá về khuya vắng tanh vắng ngắt, sau một tiếng lao nhanh trên những con đường rừng quanh co họ đã đến gần khu di tích. Chiếc Ford tiếp tục phá tan giấc ngủ của rừng núi để tiến về thung lũng thiêng. -Tôi thật lấy làm lạ, - Kì Phươngcất giọng trách móc – đêm hôm thế này cha cô đến Mỹ Sơn mà không nói cho tôi một câu, dù sao đây cũng là thổ địa của tôi. Thi Nganãy giờ chết lặng vì lo lắng cho ba cô vừa sợ làm anh phân tán nên không dám hé môi. Khi anh nói, cô mới chịu lên tiếng. - Từ lúc thấy anh một mình ở sân bay tôi đã ...hơi ớn. - Bỗng cô bật ra một ý nghĩ làm Kì Phương lạnh người – Hay là ba tôi bị ai bắt cóc vào đây? Hôm nay Kì Phương đã chứng kiến tận mắt Paul được nhiều người săn đón không khác gì minh tinh màn bạc. Nhưng kẻ hâm mộ ông đến đến mức bắt cóc thần tượng lôi vào rừng đêm hôm thế này thi anh không dám tin. - Chắc không ai bắt cóc ông cả. Ba em còn viết thư, mà gã đeo nơ nói ông đi một mình mà – Kì Phương trấn an.- Mà biết đâu ông vào đây ngồi thiền thì sao. Sau bao nhiêu năm sống chốn đô thành, giờ đây nếu được lựa chọn giữa khách sạn năm sao và thảm cỏ trong rừng, tôi tin ông sẽ chọn thiên nhiên. Tuy lí do này không thực tế nhưng Thi Nga vin vào đây để tự trấn an mình. Từ thủa tấm bé, cô biết ba mình đã coi đây là quê hương thứ hai. Mỹ Sơn còn là nơi bắt nguồn tình yêu và hồi sinh cuộc đời của ba lẫn mẹ của cô. Nhưng đời cho ông cái gì thì cũng lấy đi cái đó, Mỹ Sơn lại là nơi chứng kiến cuộc chia lìa đầy tang thương và nước mắt của họ. Thi Nga hỏi: - Hình như ba em sáng nay đã thăm Mỹ Sơn rồi cơ mà? - Đúng, nhưng chắc là ba cô bỏ quên cái gì đó nên quay lại, chẳng phải tính ba cô dạo này lãng trí mà. Chiếc xe giảm tốc khi đường hẹp lại. Khi không thể chạy tiếp qua một con dốc cao, Kì Phương bảo cô xuống. - Cô leo núi được chứ? – Anh chỉ đôi giày cao gót. - Được, anh đi trước đi! Đáp xong cô chợt rùng mình khi nghĩ phải đi vào một khu rừng vắng với một người đàn ông mà cô chưa hiểu biết. Cô đã quên mất rằng thủa tấm bé trên chính con đường mòn này anh đã dẫn cô đi hái trái me dại mỗi khi chiều về. Cô dũng cảm tiến bước với ý nghĩ rằng cha cô đã chọn mặt gửi vàng, nên chắc anh ta không dám đi quá giới hạn tại một nơi linh thiên như thế này. - Tuy khó đi nhưng đường rất ngắn, - Anh nói- qua con dốc nhỏ này nữa là tới. Sau một hồi lâu luồn trong rặng cây chằng chịt tối om, một quang cảnh thần tiên bừng sáng dưới ánh trằng rằm hiện ra. - Nhìn kìa! – Kì Phương thốt lên. Hàng hà sa số những giọt sương li ti đang phủ trắng trên những ngọn tháp nâu mờ ảo. Khu đền run rẩy hiện lên đầy huyền diệu. Mặc dù đã ngắm khu tháp tới ngàn lần nhưng Kì Phương không khỏi thẫn thờ trước cảnh trăng đêm nay. - Tuyệt...! Thi Nga cũng thốt lên - không lẽ ba tôi một mình đến đây ngắm tháp sao? Kì Phương tỏ ra am hiểu Paul như hiểu về ba ruột của mình: - Ba em vẫn lãng mạn như hồi nào, dân kiến trúc mà. Sống lâu năm ở đây, ông ấy biết lúc nào là đẹp nhất. Có điều là cảnh đẹp thế này mà cha em ngắm một mình thì...hơi phí. Kì Phương cầm nhẹ tay cô rồi bước lên những bậc thềm rêu phong tiến về chân tháp gần nhất nhưng cô không sao nhấc chân nổi. Cô nao lòng ngước nhìn những ngọn tháp tuyệt mỹ của tổ tiên để lại nay chỉ còn là những hình hài cụt đầu đổ nát nằm giữa rừng hoang rồi một cảm giác nhói lên trong tim làm cô muốn khụy xuống. Nhũng thây ma tróc lở. Cô xót xa nhìn quanh những gì mà không hề giống như người ta bấy lâu nay ca tụng mà thay vào đó là quang cảnh quạnh hiu hoang tàn. Đúng như một nhà thơ Chăm đã viết mà ba cô thường ngâm nga mỗi khi chiều về: ‘’...Tháp hoang, như thình lình mọc lên từ đất... Lông lá... âm u... dọa nạt ... tháp hoang Nổi cộm giữa chiều trời ma quái Ung nhọt trên làn da mềm mại Thảm rừng già xanh...’’ Cô gắng kìm khỏi òa khóc. Mỹ Sơn đây ư. Thánh địa đây ư. Ai đã tàn phá Mỹ Sơn? Ai đã đánh cắp linh hồn của tôi? Vậy là sau hơn mươi năm chờ đợi dài đằng đẵng, cuối cùng cô đã được đặt chân trở lại xứ sở linh thiêng, nơi cốt nhục ngàn đời không thể nào quên. Lúc này cô chỉ muốn ôm lấy ba mình mà cùng khóc thương về người phụ nữ thiêng liêng nhất của đời họ. Mẹ ơi. Trong thoáng chốc, một linh cảm lạ lùng làm cô sực tỉnh. - Hãy tìm ba em ngay! Kì Phương soi đèn lên bảng sơ đồ bằng tôn mặc dù anh đã thuộc như lòng bàn tay. - Cô thấy các khu A, D, F chưa? - Anh lại chỉ về phía ngọn tháp gần nhất bên phải - trước mặt ta là khu B, C và D, nếu không tìm thấy ta qua suối để đến khu F và A. Ba cô chắc đang ở một trong bốn khu tháp kia. Tuy trong tờ giấy không có tháp C1 nhưng anh vẫn chắc ăn chui vào lia đèn một vòng rồi quay trở ra lắc đầu. - Không có, sang khu B ngay. Anh đảo một vòng cũng không phát hiện điều gì bèn chỉ tay về phía khu D nằm rải rác ngay phía sau. Khu này gồm nhiều phế tích rời rạc nên anh chỉ đứng ngoài chiếu đèn là có thể quan sát được cả cụm đó. Vẫn không thấy có người, anh định qua cầu nhưng khi soi đèn xuống dưới đất, anh nhận ra những dấu chân nhàu trên vạt cỏ đẫm sương. - Xem này.- anh khẽ gọi. Hai người lần theo dấu vết cho đến khi nó mất hẳn trên mấy bậc tam cấp cũ nát. Trước mặt họ là một ngôi tháp hiếm hoi trong khu B còn khá nguyên vẹn. Kì Phương nhìn lên ngôi tháp lù lù trước mắt như một quái thú khổng lồ đáng ngoác miệng trong bóng tối. Anh vỗ nhẹ vai Thi Nga nói khẽ: - Cô đứng đây, một mình tôi vào là đủ. – nói xong anh bước qua khe cửa hẹp sâu hun hút, mùi ẩm mốc trộn lẫn mùi tanh lợm xộc vào mũi. Trong lòng tháp lạnh đến rợn người, choán gần hết không gian chật hẹp là một bệ thờ chỉ còn mỗi yoni cao ngang thắt lưng. Nhưng cái thứ đang nằm trên đó mới làm anh giật mình lùi lại.Tay run run soi đèn lên bệ thờ và anh không tin nổi thứ chất lỏng đang đọng lại trên đó. Máu? Kì Phương lạnh buốt xương sống khi nghĩ một chuyện khủng khiếp vừa diễn ra nơi đây. Tiếng giày lộc cộc ập đến phía sau. - Gì thế anh? - Có lẽ do ...nước mưa! – anh lúng túng đáp. - Tháp này có nóc mà! – Cô sấn sát bệ đá rồi thốt lên. - không lẽ đây là ...máu? Thi Nga rút trong túi ra một mẩu giấy rồi chấm vào thứ chất lỏng đó lên xem. Nó có màu đỏ tươi. – Máu thật sao?... – Cô uôm người về phái trước và chỉ cách bệ đá vài centimets. - Máu thật, không lẽ...? – Giọng cô òa lên đầy sợ hãi. - Đứng lùi ra. – Kì Phương chộp lấy vai cô ghìm lại, tưởng chừng như nếu anh nắm hụt, cô nàng sẽ đổ nhào lên linh vật. - Máu? ba tôi bị làm sao rồi...ba ơi, ba ở đâu? – Không hẳn là khóc, cô òa lên. Kì Phương biết không sớm thì muộn cô cũng thốt ra điều hãi hùng đó. Điều mà anh đã nghĩ tới nhưng không dám nói trước. Có một mạng sống tươi rói nào đó vừa được hiến dâng cho thần linh. Một bữa tiệc sặc mùi tà giáo ghê tởm nào đó vừa diễn ra ngay trước mắt và ngay trên chiếc mâm đá có tên yoni kia. Mùi tanh nồng đang xông tỏa ngập ngụa gan ruột làm cô chạy vội ra ngoài tránh nôn tháo ra một cách bất nhã không thể tha thứ chốn linh nghiêm. Lau miệng xong, cô lấm lét bước vào. Không xông xáo như lúc nãy, trông mặt cô tái mét và bơ phờ như vừa trút hết sinh lực ra khỏi cơ thể. Kì Phương biết mọi thứ vẫn chưa bắt đầu. Điều khủng khiếp nhất vẫn đang chờ cô phía trước. Kì Phương tuy bình tĩnh hơn nhưng cũng không thể giấu sự bối rối. Anh không muốn tin đó là máu, nhưng mùi tanh, và màu đỏ tươi đã là câu trả lời. Vết máu trên các dụng cụ thờ cúng không phải là hiếm. Từ thời cổ đại, máu đã chảy thành suối trên các đài thờ Thần Mặt trời của người Maya, người Da đỏ và nhiều bộ tộc Châu phi gần đây vẫn còn giết gái trinh và trẻ em để lấy máu tưới lên các biểu tượng tôn giáo. Mà chẳng cần viện dẫn đâu xa, ngay trên thánh địa Mỹ Sơn này có nhiều tài liệu chép lại những nghi lễ hiến sinh cho thần Siva. Trên các bia kí có nói đến lễ hiến tế bằng máu ngựa trắng, dê trắng, trâu trắng bị cắt cổ để cúng thần trên các chùa tháp. Trên nhiều tấm bia kí còn kể công triều đình đã hiến đàn ông, đàn bà và cả tù binh và cho các vị thần. Kì Phương cố xua đuổi những ý nghĩ rợn người vừa ùa đến, và vẫn để trấn an Thi Nga là chính, anh nói: - Chắc không phải máu, mà nếu máu thì... chưa hẳn là ... máu người. Kì Phương đứng lên và thấy nhột lạnh ngón chân, anh nhìn xuống mũi giày vải và nhận ra vài giọt máu rỉ từ yoni đã thấm đẫm một vệt lớn. Rút bàn chân lại, máu đã đọng thành vũng dưới nền gạch cũ. Kì Phương thầm nghĩ, một người già yếu như Paul có sống nổi sau khi mất nhiều máu thế này không. Bỗng nhiên Thi Nga lảo đảo đổ rồi sụp xuống trước bệ đá như thể đó chính là ba cô đang trong cơn hấp hối. - Ba ơi!... Khoa học chưa thể chứng minh được hiện tượng thần giao cách cảm, nhưng họ không thể phủ nhận có một sợi dây thông tin sinh học kì diệu giữa con người cùng huyết thống. Kì Phươngloay hoay cố gắng tìm mọi cách để Thi Ngakhông suy sụp lúc này nhưng vô ích. Anh dìu cô ra ngoài rồi nói. - Cô đừng hoảng, chưa có cơ sở nào chỉ ra ba cô đã chết đâu. Kì Phương lại rút bút tích của Paul ra như một bảo bối, mặc dù anh biết nó đã hết thiêng. - Chúng ta phải sang bên khu A, biết đâu ông đang ở bên đó thì sao? – Kì Phương không tin lắm điều mình vừa nói, vấn đề là anh muốn kéo Thi Nga ra khỏi đây và nuôi dưỡng thêm niềm hi vọng đang thoi thóp của cô. Sự gợi mở làm cô gái kịp trấn tĩnh giây lát, niềm lạc quan như được đánh thức. Cô giằng lấy đèn pin trong tay Kì Phương và gạt nước mắt. - Cha tôi bỏ khách sạn rất đột ngột, nhất định ông không thể một mình đến đây đâu. - Cứ bình tĩnh! mội việc sẽ tốt đẹp thôi. Kì Phương không nghĩ là cô ta đã thay đổi suy nghĩ nhanh như vậy. Trong vài giây từ chỗ tin cha mình đã chết bỗng quay ngoắt tin cha cô đang sống. Bây giờ anh mới nhận ra niềm tin tích cực có sức mạnh như thế nào. Kì Phương thở phào vì đã thắp lên chút niềm tin nhỏ nhoi trong cô, tuy anh biết rằng nó có thể vụt tắt ngay bất cứ lúc nào. Kì Phương biết đang có nguy hiểm rình rập họ nhưng anh không muốn chạy khỏi sự thật là một ai đó có thể đang hấp hối quanh đây. Anh chỉ tay về phái bên kia con suối nói: - Chạy nhanh xem. Lần này không để anh dẫn lối, cô băng qua cây cầu nhỏ bắc qua con suối đang chảy ào ào. Mặt đất trơn và đôi giày cao gót đã buộc cô đôi ba lần phải vồ ếch, nhưng điều đó chỉ làm bước chân cô ngày một vững hơn. Qua suối có một ngã ba nhỏ trên triền dốc, cô dừng lại chờ anh. Kì Phương nói: - Bây giờ chia ra để tìm cho nhanh, cô đi về bên phải bên có khu F đang bảo tồn, - anh quay đầu chỉ ngược lại  còn tôi sẽ chạy phía bên A phải xem sao. Cô dám đi một mình không? - Tôi dám! Kì Phương đi về phái phải được chục mét thì đứng lại nghe ngóng. Hình như có tiếng động di chuyển về phía chân núi. Mắt anh không rời mục tiêu, chân rảo nhanh đuổi theo. Phía trước mặt anh lồ lộ dưới ánh trăng những hố đào và những đống gạch đá lởm chởm mà các chuyên gia Ý vừa quy tập chiều nay. Mặc dầu tối trời nhưng do quen thuộc địa hình nên anh đã chạy một quãng khá xa. Đang căng mắt nhìn lên, bỗng nhiên đất dưới bàn chân trơn nhẫy như được dội mỡ. Như một cái bẫy đặt trên đường, Kì Phương chỉ kịp kêu ‘’ối’’ lên một tiếng rồi té nhào xuống một hố sâu. Toàn thân đập mạnh xuống đáy hố. Chưa kịp định thần thì anh đã sởn da gà khi sờ trúng một dị vật cộm lên dưới mặt. Anh trương mắt ra nhìn. Dưới ánh trăng yếu ớt chiếu qua vòm lá, anh nhận ra dưới mặt mình là tột đỉnh của một bi kịch. Điều kiêng kị nhất cuối cùng vẫn đến. Khuôn mặt trắng bệch của Paul lộ ra dưới lớp đất.  Mật mã Chămpa - Chương 1- p1  Mật mã Chămpa - Chương 1- p2  Mật mã Champa - Chương 2 - p1  Mật mã Champa - Chương 2 p-2  Mật mã Champa - Chương 3 -p1  Mật mã Champa - Chương 3 - p2 Mật mã Champa - Chương 4 - p1
0 Rating 593 views 7 likes 0 Comments
Read more
By: On November 22, 2013
Ch??ng 2 – p1 12 n?m sau. ?à N?ng, 22 gi? 17 phút ngày 19 tháng 8. Ng??i ?àn ông Pháp g?y gò ?ang s?a so?n ??ng tài li?u trong c?n phòng c?a m?t khách s?n bên b? bi?n ?à n?ng. Su?t m??i hai n?m s?ng ?n gi?t sau bi?n c? kinh hoàng, n?i ân h?n và s? hãi ?ã v?t ki?t m?t nhà kh?o c? tài ba ?ang ?à sung mãn tr? nên ti?u t?y h?n so v?i cái t?i 67 c?a mình. Ni?m an ?i l?n nh?t gi? ông l?i trên cõi tr?n là l?n ??a con gái ??c nh?t v?i ng??i v? b?t h?nh mà ông ?ã vô tình ??y vào ch? ch?t. V?t th??ng nào r?i c?ng ph?i lành da. Ngày ông ph?c h?n và làm theo ??c nguy?n c?a v? lúc lâm chung ?ã ??n. M?i khâu chu?n b? cho ngày tr?ng ??i s? di?n ra vào hôm sau ?ã hoàn t?t, ông lôi cu?n nh?t kí ??t lên bàn ??nh chép n?t vài dòng. D? cu?n s? dày c?p luôn bên c?nh ông su?t m?y m??i n?m nay, trên khuôn m?t phong s??ng h?c hác c?a nhà kh?o c? Vi?n Vi?n ?ông B?c C? l?ng danh thoáng hi?n m?t n?i bu?n. Cu?n s? ch? còn ?úng m?t trang. B?t giác ông linh c?m có chuy?n gì ?ó khác l?, nh?ng trang gi?y nâu chi chít nh?ng phát hi?n, nh?ng s? ki?n ?áng nh? và c? nh?ng ngày ?au ??n cùng c?c trong ??i. Nó là ng??i b?n duy nh?t luôn ? bên ông. Càng ngh? ông l?i phát hi?n nó gi?ng mình ??n kì l?. C?ng thô m?c, nhàu nh? và cô ??c nh?ng ??y ?p tri th?c và ??y r?y kh?ng ho?ng còn nóng r?c ??n t?n hôm nay. Ông ch?t nh?n ra nó chính là b?n sao chu?n xác nh?t v? ??i mình nh?ng ông không mong gi?ng nó n?a. B?i, nó ch? còn ?úng m?t trang. M?t n?i ám ?nh ch?t chóc b?ng d?ng s?ng l?i. L?i nguy?n ??c ??a ?ã c??p ?i ng??i v? h?t lòng yêu th??ng. Hôm nay nó nh? ?ang hi?n v? ?? mang ?i n?t b? con ông sao? C? xua ?u?i cái c?m giác b?t an c?a m?t k? có tu?i ??c thân, Paul Morier b?t ??u c?m bút r?i ch?t chiu trang gi?y còn l?i. Ông có thói quen ghi l?i nh?ng di?n bi?n chính trong ngày, sau ?ó g?ch ??u dòng các vi?c quan tr?ng cho ngày mai. Hôm nay là m?t ngày b?n r?n nên nh?ng dòng ch? c?ng dài h?n. Nh?ng ngày mai m?i th?c s? quan tr?ng nh?t. Theo l?ch ?ã s?p x?p, ?úng 7 gi? sáng mai ông s? ??n ??u phái ?oàn kh?o c? vào thánh ??a M? S?n ?? khai qu?t m?t th?n b?o h? c?a V??ng qu?c Champa c? x?a. Tr? ông ra, không m?t ai bi?t báu v?t này là gì và chôn v? trí nào cho ??n phút chót. B?t ch?p s? háo h?c và nôn nóng dâng cao trong gi?i kh?o c? nh? m?t n?i súpde ?ang ?un sôi, ông v?n gi? phong thái l?nh lùng th??ng th?y. Ông bi?t ch? vài gi? n?a thôi h? s? v? òa. Giây phút l?ch s? c?a ngành kh?o c? Vi?t Nam nói chung và Ch?mpa h?c nói riêng s? b??c qua m?t trang m?i. Paul ??ng d?y r?i t? t? m? toang c?a s?. M?t làn gió bi?n ?ông mát r??i lùa vào tràn ng?p c?n phòng nh?. Hít th? m?t h?i tràn ??y l?ng ng?c, ông ??ng l?ng h?i lâu. H??ng ?ông, theo quan ni?m c?a ng??i Ch?m là h??ng c?a th?n linh và c?i ngu?n c?a s? s?ng. Là m?t k? ?ã dành h?t tâm l?c cho ??t thánh M? S?n, cùng v?i trái tim thành tâm c?a mình ông có quy?n tin r?ng ? ch?n linh thiêng các ??ng siêu nhiên ?ang nhìn th?u và s? phù h? cho ông trong s? m?nh cu?i ??i này. Ta ch? c?n s?ng thêm hai ngày n?a. ?úng v?y, ch? c?n 48 ti?ng n?a, món n? l?ch s? dài ??ng ??ng h?n m?t ngàn n?m mà nhân lo?i ?ang vay c?a ng??i Ch?m s? ???c ông thanh toán r?t ráo. Sòng ph?ng tr??c khi ch?t. Ti?ng chuông ?i?n tho?i bàn reo vang, Paul nh?c máy, gi?ng nói quen thu?c ?p ??n vào cái gi? c?m làm ông kinh ng?c. - Anh nói gì? ... Sao h?? – Paul th?t lên l?c c? gi?ng - Ch?c ch?n không?... ???c r?i, tôi s? m? máy ra ngay bây gi?. ??t tai nghe xu?ng r?i kh?i ??ng nhanh chi?c Ipad, Paul m? h?p th? ?i?n t? c?a mình. T?m ?nh trong b?c th? hi?n lên ??y s? kinh s? c?a ông lên ??n ??nh ?i?m. Chính nó ?ây r?i. Không th? nh?m l?n ???c. S? bí m?t tuy?t ??i mà ông ?ã gi? m??i hai n?m nay ?ã h?t. Linh v?t v?a b? ai ?ó ?ào lên. Ai ?ã c??p c?a ông? Tr?i ??t nh? quanh cu?ng tr??c m?t. Nh?ng m?t b?o v?t ch?a ph?i là t?t c?, v?n ?? là nó gi?ng nh? cái ch?t an toàn c?a m?t trái phá ?ã b? rút. Paul rùng mình ngh? ??n m?t ??i h?a kh?ng khi?p s? giáng xu?ng t?c thì. M? hôi l?nh t? nhiên túa ra ??y trán. Trong giây phút hoang mang t?t ??, ông không còn nhi?u s? l?a ch?n. Ông c?m th?y mình ph?i làm m?t vi?c gì ?ó ngay t?c thì, ph?i g?i ngay cho ai ?ó tr? giúp. ?i?n báo cho ban di tích M? S?n hay cho c?nh sát? Báo cho ??ng nghi?p tr??c hay t? mình ??n ?ó tr??c? Paul cu?ng cu?ng l?c tìm các s? ?i?n tho?i nh?ng tai quái là ông không có di ??ng còn cu?n danh b? thì ?ã quên ? nhà. Mà dù có g?i cho ai thì ông c?ng không th? không ??n ?ó. Trong lúc cu?n lo?n, nh?ng linh c?m quái g? c?ng thi nhau ?p ??n. Ph?i trao bí m?t cho ai ?ó phòng khi m?t ?i không tr? l?i. Trao kho báu cho ai m?i là v?n ??. Paul b?ng nhiên nh? t?i m?t ng??i Pháp r?t n?i ti?ng th? k? 18 – tên h?i t?c khét ti?ng Labis. Tr??c khi b? treo c? y ?ã ném t?m da dê v? ??y hình thù kì d? xu?ng pháp tr??ng và nói l?n ‘’ Kho báu c?a ta s? thu?c v? ai có th? hi?u ???c nó’’. Khi ngh? ??n k? ??ng h??ng này, Paul b?ng th?y mình th? dãn khác l?. Ông m?m c??i. Cho dù linh v?t b? m?t th?t ?i ch?ng n?a nh?ng kho báu Champa kh?ng l? v?n ?ang tuy?t m?t trong tay ông. Th? nh?ng n?u ?êm nay ông b? gi?t? Làm sao ?? nó không b? th?t truy?n ?ây? Ph?i r?i, m?t mã! Rút t? gi?y và cây bút. Paul vi?t ?úng 8 kí t? r?i l?p t?c b? ?i.  *                        Chi?c Ford Ranger c? k? phanh két trong bãi gara v?ng v? v? khuya. M?t thanh niên tr? v?i vã b??c ra r?i r?o b??c v? s?nh chính. Kì Ph??ng có m?t t?i sân bay ?à N?ng trong m?t tâm tr?ng b?i h?i hi?m có ? m?t ki?n trúc s? quen s?ng tr?m l?ng. V?i anh, ch?a bao gi? th?i gian l?i t?n công d?n d?p nh? hôm nay. Anh ?ã lái xe xuyên r?ng trong ?êm ?? ?i ?ón m?t nhân v?t thú v? mà h?n ch?c n?m nay ch?a g?p l?i, ?ó là Thi Nga. Nàng là ti?u th? danh giá và xinh ??p c?a Paul- ng??i th?y c?a anh. ?n t??ng v? cô bé mang hai dòng máu ??c bi?t này trong anh không nhi?u ngoài thân hình nh?ng nhiu v?i s? thích b?i l?i trên con su?i quanh co ch?y qua vùng ??t thánh h?n m??i n?m tr??c.  M?t tháng th?c t?p nhoáng trôi ?i, gã sinh viên Kì Ph??ng tr? v? Hà N?i và sau ?ó không lâu anh bi?t tin c? gia ?ình ông không còn ? M? S?n n?a. H?n m??i n?m trôi qua không m?t tin t?c gì v? h? cho ??n hôm qua, ông b?t ng? xu?t hi?n tr? l?i trong m?t cu?c kh?o c? ??c bi?t s? di?n ra ngày mai. Quá xúc ??ng vì ông còn nh? c?u h?c trò v?n không có gì n?i b?t n?m x?a, Kì Ph??ng không bi?t nói gì h?n. Không ch? nh? ??n anh, ông còn ng? ý nh? anh qua sân bay ?ón con gái c?ng bay t? Pari tr? l?i. Th?t không có gì quý h?n ???c g?p l?i nh?ng ng??i ?ã t?ng coi anh nh? thành viên trong gia ?ình. B?ng ?i?n t? thông báo chuy?n bay t? Paris quá c?nh Sài Gòn và ?ã h? cánh xu?ng ?à N?ng an toàn. Kì Ph??ng ??a tay nhìn ??ng h?. 11’30 gi? t?i. Kì Ph??ng lách qua ?ám ?ông ngoi lên, m?t nhìn dòng ng??i ?ang ùn ùn ?? ra v?i tâm tr?ng không th? h?i h?p h?n. Ánh m?t anh không sót m?t ai, nh?ng cô tr? ??p ph?i nhìn k? h?n b?i anh tin ch?c ch?n r?ng nàng ph?i th?. M?t thi?u n? ?ôi m??i mang hai dòng máu Pháp - Ch?m ch?c ph?i có cái gì ?ó r?t l?. Nàng s? di?nváy ??mhay là khép mình trong b? áo dài Ch?m truyên th?ng ?ây? Dòng khách nhanh chóng trôi qua nh?ng không ai kh?p v?i trí t??ng t??ng c?a anh. C?ng ch?ng m?t ai g?i tên anh n?t. ?úng khi ?ó, có bàn tay v? nh? lên vai. - Anh là Kì Ph??ng? - Anh quay gi?t l?i, sát sau là m?t cô gái r?t tr? v?n váy ?en, ?i giày cao gót. - Vâng... cô ?ây là... - Tôi là Thi Nga! - Tôi là Kì Ph??ng, - anh ?áp l?i- Tôi lên ?? ?ón cô ?ây. Kì Ph??ng g?n nh? không th? r?i ánh m?t kh?i cô ta ???c n?a, nh?ng nét thân thu?c ?n sâu trong kí ?c c?a anh t?i t?p ùa v?. - Anh ?úng là ki?n trúc s? Kì Ph??ng không?- Khác h?n anh, ?ôi m?t ?en d?ng d?ng c?a cô ?ã nói lên r?ng, cô ta ?ã quên t?t c?. - ?úng r?i, n?u c?n cô có th? xem ch?ng minh th? tr??c khi ra xe cùng tôi. - Kh?i c?n, coi nh? ?i xe ôm! Kì Ph??ng không bi?t cô ta nói th?t hay ?ùa, anh ?oán cô vui quá mà l? l?i thôi. - Hình nh? cô ?ã quên tôi? – anh h?i và h?i h?p ??i câu tr? l?i. V?n n? n? c??i xã giao, cô ?áp: - Th?c ra h?i ?y tôi còn nh? quá. - Ch? trách tr? con hay quên,– Anh nhìn ngang vào má cô và c? g?ng ??a ra m?t nh?n xét tinh t?. – còn cô, trông khuôn m?t cô không khác tr??c là m?y ?âu. - V?y mà lúc nãy anh không nh?n ra tôi, - cô ?áp r?t nhanh - mà thôi, tôi bi?t ?àn ông các anh th??ng ng?m nhìn ph? n? nh?ng n?i ... không h?n là khuôn m?t. Kì Ph??ng h?i ng??ng, lí do anh b? sót cô chính là khuôn m?t không h? trang ?i?m và b? tóc ?en m?c m?c, ?ã th? cô ta l?i ch?n cách ?n m?c t?i màu tr? ?ôi giày ?? d??i chân. - Không nh? m?t tôi, sao cô l?i v? vai và g?i ?úng tên tôi? - Vì tôi bi?t tr??c anh ?i ?ón, khách ra h?t ch? còn anh ??ng ?ó nên tôi ?oán v?y. Kì Ph??ng g?t ??u m?m c??i. Hai ng??i không nói gì cho ??n khi chi?c xe ford c?a anh n?ng nh?c l?n bánh h??ng v? thành ph?. - Bây gi? chúng ta v? khách s?n ch?? – cô gái ??t nhiên h?i t? hàng gh? sau. - Sao cô bi?t? - Thì ba tôi ?ang ? ?ó mà, ?úng không? - ?, hôm nay ông ?y nh?c cô su?t ngày ??y. ?ã khuya nh?ng có l? ông ?y ?ang ch? cô v? ?n t?i ??y. Kì Ph??ng b?a nh? th? ch? th?c ra anh th?a hi?u tính lãng trí c?a ba cô ch?ng ai bì n?i. Cuôc ??i nhà kh?o c? này g?n li?n v?i sách v? và g?ch ?á. Ông có th? ??c vanh vách t?ng niên ??i c?a t?t c? hi?n v?t trong b?o tàng Ch?m nh?ng l?i quên t?t ngày sinh nh?t c?a v? con. Sáng nay ông ta b?n ?ánh v?t v?i kh?i bia kí t?i M? S?n r?i hàng tá chuyên gia quen l?n không quen ùa vào hóng chuy?n. Thú th?c, ng??i ch? ??i cô nh?t chính là anh. Chi?u nay, t? khi bi?t tin cô v?, anh luôn ngh? v? cô v?i b?o k? ni?m ng?t nào xa x?a, nh?ng cái anh tò mò nh?t là cô xinh ??n m?c nào. Anh ?ã quên ?n và b?t ch?p m? công vi?c bù ??u ?? ?i ?ón cô. Gi? nhìn th?y dung nhan này anh vui s??ng vì ?ã không bõ công t??ng t??ng.  Tuy nhiên khi ??i m?t v?i s? l?nh nh?t kia, anh không kh?i bu?n lòng. - Th?c ra anh ?? ba em ? l?i khách s?n m?t mình là h?i ?u. – cô l?i nói. Kì Ph??ng ch?ng h?ng. Anh ch?a ng??ng: - Ba cô b?o th?... Mà tôi không hi?u vì sao hai ng??i không ch? nhau ?? ?i cùng chuy?n bay? - Vâng, l? ra tôi ?ã bay cùng chuy?n ba tôi hôm qua, nh?ng do ph?i thi n?t m?t môn quan tr?ng nên ph?i ?i sau m?t ngày m?c dù bi?t r?ng ?? ông ta ?i m?t mình là không nên. - Trông ba cô qu?c th??c l?m, tôi ngh? không có v?n ?? gì v? s?c kh?e ?âu. - Anh ch?a hi?u h?t ?âu, ?êm nay r?t quan tr?ng v?i ông ?y, tôi r?t lo vì các r?i ro khác. ?úng là Kì Ph??ng không hi?u nhi?u v? Paul ngoài nh?ng giai tho?i ch?ng t? ?ây là m?t ng??i Pháp có nhi?u duyên n? nh?t v?i x? s? này. Nh?ng ?i?u mà b?t c? ai c?ng bi?t là ngày mai ?ích thân Paul s? khai qu?t m?t báu v?t c?a v??ng tri?u Champa. Tin này l?p t?c thu hút các nhà kh?o c? kh?p th? gi?i, ??i v?i các nhà nghiên c?u v?n hóa Ch?m thì ?ây là m?t ti?ng sét vang d?i báo hi?u c?n dông hi?m hoi sau nhi?u n?m khô c?n h?n hán. Không gi?ng nh? các cu?c khai qu?t thông th??ng v?n th?m l?ng di?n ra ? ?âu ?ó hàng ngày, ?i?u b?t th??ng là Paul d??ng nh? bi?t tr??c c? v?t là cái gì và ?ang n?m ? ?âu d??i lòng ??t. H?t nh? hàng ngàn n?m tr??c t? tiên c?a ông ta chôn xu?ng và truy?n l?i b?n ?? cho chính ông ta v?y. S? kì bí c?a báu v?t và thói úp m? c?a Paul v?a gây thêm tò mò v?a sinh l?m k? hi?m ghét. Ông ??c quy?n báu v?t l?n thông tin. Nói d?i, ng? nh? ?êm nay ông có m?nh h? gì thì t?t c? c?ng ?i theo ông n?t. - Cô yên tâm, - Anh c?t cao gi?ng. - không ??y n?m phút n?a tôi s? bàn giao cô cho ông ta, hai cha con tha h? mà hàn huyên nhá! Rex Hotel tráng l? t?a l?c trên bãi bi?n l? d?n tr??c ánh ?èn pha. Kì Ph??ng cua xe vào trong sân r?i b??c xu?ng d?n cô vào trong s?nh. Gã nhân viên có chi?c n? trên c? áo mau mi?ng chào anh nh?ng c?p m?t c?a h?n ta l?i h??ng v? cô gái ??ng phía sau. - Anh ch? c?n thuê phòng? - Phi?n anh g?i lên phòng 307, báo cho ông Paul Morier có ng??i ??n g?p. – Kì Ph??ng nói. Gã nh??ng mày ra chi?u suy ngh?. - Vâng, anh ch? lát. – y c?m máy ?n s? r?i áp lên tai khá lâu, m?t li?c thêm cô gái m?y ch?p mà h?n cho là ?n d?t m?y ? ng??i m?u quen m?t th??ng lui t?i ?ây cùng các ??i gia. - Ch?ng ai nghe máy c?. – y l?c l?c cái ??u húi cua r?i nói. - có l? ông ta ?ang t?m? - Ông ta có ra ngoài không? – Kì Ph??ng h?i. - C?ng có th?. - Gã ??o ánh m?t l? ?ãng m?t cung tròn r?i nhìn Thi Nga g?i ý.- Cô là ng??i nhà c?a ông Paul à? Khách kh?a ra vào quá ?ông, tôi không ?? ý l?m. N?u c?n ngh? ng?i, hai ng??i c? ??t thêm phòng? - Chúng tôi không có nhu c?u lên phòng. – Thi Nga c?t ngang l?i anh ta. - Không thuê phòng?- Anh chàng l? tân ch? tay v? phía gh? sôfa - v?y thì xin m?i anh ch?! - Vâng, chúng tôi s? ??i! – cô ?áp.  Thi Nga bi?t nh??c ?i?m c?a ba cô là hay quên. N?u ông ta ra ngoài ?i d?o m?t mình, cô ch? hi v?ng r?ng ?êm nay ông nh? ???ng v?. Cô không th? liên l?c cho ông vì ông không dùng ?i?n tho?i di ??ng nh?ng cô cho r?ng nh? v?y t?t h?n, b?i h? c? mua t?ng ông hôm nay thì l?i m?t vào hôm sau. Ng?i trong s?nh có t??ng kính nhìn ra bãi bi?n, Thi Nga xua tan s? lo âu c?a mình b?ng cách th? h?n theo nh?ng ?ám mây l?n v?i ngoài bi?n xa. Trong khi cô ng?m bi?n thì Kì Ph??ng ng?m cô. Da tr?ng, tóc dài, m?i thanh, môi h?ng... không trang ?i?m. Không gi?ng ánh m?t xanh l?o c?a cha, cô gi? s?c m?t ?en th?m th?m c?a m? cô trên g??ng m?t ??y quý phái. T?o hóa ?ã mang cho cô s? tuy?t m? gi?a s? thanh tao c?a ng??i ph??ng tây và s? ??m th?m dung d? c?a ph? n? An nam. Ánh tr?ng vàng chi?u chênh ch?ch làm khuôn m?t cô sáng lên ??y huy?n ?o. Cô cách anh m?t t?m tay mà ng? nh? m?t thiên th?n ?ang bay xa v?n d?m. Máu ngh? s? b?t ch?t n?i lên, anh kh? g?i tên cô. - Tuy?t quá...Thi Nga cói th? cho tôi...kí h?a ???c không? Cô gái quay l?i v?i n? c??i hi?m hoi. Tuy nhiên dù cô có ??ng ý hay không thì cu?n s? và chi?c bút ?ã n?m g?n trên tay anh. T?ng v? hàng tr?m khuôn m?t danh ti?ng và nhi?u ng??i m?u kho? thân nh?ng ch?a bao gi? anh l?i run tay nh? v?y. V? kí h?a ch? c?n ch?p l?y th?n s?c c?a nhân v?t và ghi l?i b?ng vài nét bút. Tuy thô s? nh?ng ng??i h?a s? ph?i tài hoa m?i mong th?i ???c vào b?c tranh c? tâm h?n l?n tính cách. V?a ???c vài nét thì gi?ng the thé c?a gã nhân viên làm anh c?t h?ng. - Cô Thi Nga có ?ây không? - Tôi ?ây- Thi Nga quyên m?t ?ang làm m?u v?t, cô ??ng v?t lên r?i ?i v? phía qu?y.- Gì v?y anh? Chàng l? tân ?ã s?n n? c??i duyên t? ??ng xa kèm v?i m?t lá th? trên tay. ?i?u b? h?t nh? s?p ban cho cô m?t ni?m vui l?n. - Có m?t lá th? c?a ông Paul g?i l?i ?ây ??y. - Th? ba tôi? sao lúc nãy anh không nói ngay. - Xin l?i, tôi... quên! Thi Nga tin r?ng gã này có v?n ??. Không ??i anh ta nói h?t câu, cô ??a tay ?ón l?y nh?ng b? anh chàng ‘’có v?n ??’’ này v?i r?t tay l?i. L?n này y m?nh d?n nhìn th?ng. - Khoan ?ã, l?y gì ch?ng minh cô là... ng??i nhà c?a Paul? Cô ?ành l?y t?m h? chi?u màu h?t d? ??a cho anh ta. Chàng nhân viên nhìn xu?ng r?i l?i nhìn lên m?t cô ??i chi?u. Không th? tìm ra lí do níu gi? cô ta lâu h?n, anh ta trao tr? h? chi?u l?n b?c th?. Nói là b?c th? ch? th?c ra là t? gi?y tr?ng kh? A4 g?p l?i làm t?. Hi v?ng ba cô nh?n l?i ?i?u gì tr??c khi ?i ?âu ?ó, cô v?i vã m? ra. Khi trang gi?y dang r?ng tr??c m?t, cô không th? ng?c nhiên h?n khi th?y m?y kí t? l? ho?c:                   A5D3                   C1D7 Cô quay l?i h?i ngay ng??i thanh niên. - Li?u anh có ?ùa tôi không? ?úng là ông Paul Morier ? phòng 307 vi?t và b?c th? này? - ? hay, cô ngh? tôi v? ra ?? trêu cô ch?c. - Xin l?i, ?úng là ông tây cao cao g?y g?y, râu tóc b?c ph? bi?t ti?ng Vi?t ?úng không. - S?ng m?i cao và ?ôi môi màu d?a h?u nh? cô n?a ??y! – anh ta b? sung. - Phi?n anh cho tôi h?i thêm, ông ??a cho anh lúc nào, ông ?y ?i cùng ai, và có d?n gì thêm n?a không? Chàng l? tân c?m th?y vinh h?nh ng?n nào khi ?ôi m?t ??p nh? m?ng kia ?ang nhìn xo?n l?y mình, cho dù ?ó là cái nhìn ri?t ráo ??n ?iên d?i. Anh ??c gì ???c chia ra n?m câu h?i và m?i câu tr? l?i t??ng ?ng anh s? thêm th?t cho thêm ph?n lì kì h?i h?p ?? ??ng ng?m ng??i ??p ??n h?t cái bu?i tr?c ?êm bu?n t? này. Nh?ng nhìn khuôn m?t có ph?n tím tái và m?t anh chàng m?t h?m h?m ?i theo bu?c anh ph?i rút ng?n s? bông ?ùa c?a mình. - Ông ta vi?t lúc ra khách s?n cách ?ây ch?ng hai ti?ng. Vi?t xong ông ??a cho tôi và v?i vã b? ?i, hình nh? ?i m?t mình... - Anh có nh? ông ?i ???ng nào không?   Anh chàng l?i t? ra ?ang ??ng não nh?ng Kì Ph??ng kéo nh? tay cô. M?t anh nãy gi? không r?i t? gi?y trên tay cô. - Tôi bi?t ?ây là ?âu - Kì Ph??ng nói - Ta ?i thôi! Thoáng chút ng?c nhiên nh?ng không h?i thêm, cô b??c theo anh. Chi?c Ford Ranger nh? m?t m?i tên vùn v?t lao trong ?êm tr?c ch? M? S?n.                                  M?t mã Ch?mpa - Ch??ng 1- p1  M?t mã Ch?mpa - Ch??ng 1- p2  M?t mã Champa - Ch??ng 2 - p1  M?t mã Champa - Ch??ng 2 p-2  M?t mã Champa - Ch??ng 3 -p1  M?t mã Champa - Ch??ng 3 - p2 M?t mã Champa - Ch??ng 4 - p1
0 Rating 781 views 9 likes 0 Comments
Read more