Select
Tag Cloud

Anything in here will be replaced on browsers that support the canvas element

  • Yahoo
  • Google
  • Live
  • Live
Uncategorized
By: On January 16, 2014
Từ câu chuyện gia đình của tôi mà nghĩ đến những mẩu chuyện của bậc cha anh đã qua một thời và hôm nay bao chàng trai thanh niên đến tuổi trưởng thành phải gạ vợ lấy chồng đó là một bài toán khó . Xây dựng gia đình để duy trì bảo tồn nòi giống của dân tộc .HayChọn chồng lấy vợ yuôn đẹp giàu sang có danh vọng để thoát khỏi cảnh đói nghèo cơ hàn.Qua nhiều năm đã tìm hiểu từ Thành phố Sài Gòn cho tận miền quê tỉnh lẻ , những mẩu chuyện gia đình người thân của tôi , trong các vùng palei chăm đã có con số bao ngừời đã quay về lại cội nguồn mang tấm thân tàng cho nguoi than họ hàng sưởi ấm những ngày cuối đời cô đơn.Thân làm Osin Nô lệ tình dụcLàm thân đẻ mướn Nghĩ cho cùng đi không rồi cũng về không . Bao đấng mày râu hào hoa phong nhã tuấn kiệt bằng cấp chức tước vinh danh một thời Oanh Oanh liệt liệt hét ra lữa cả họ hàng phải ngậm ngùi thương tiếc .Các cô nàng chân ngắn chân dài eo thon da mịn mắt đỏ môi hồng . Đi về xứ lạ làm dâu nhà người trở thành tỷ phú triệu phú có mấy ai hay . Con cháu lớn lên quên cội quên nguồn không nhận ra mặt tổ tiên .Rồi sẽ đi về đâu hởi em khi trong lòng không còn chút nắng. Ôi cuộc đời của một nguời đàn ông đàn bà chăm như thế sao.Lỗi lầm . Lầm lỗi .
0 Rating 94 views 2 likes 0 Comments
Read more
Uncategorized
By: On January 16, 2014
Từ câu chuyện gia đình của tôi mà nghĩ đến những mẩu chuyện của bậc cha anh đã qua một thời và hôm nay bao chàng trai thanh niên đến tuổi trưởng thành phải gạ vợ lấy chồng đó là một bài toán khó . Xây dựng gia đình để duy trì bảo tồn nòi giống của dân tộc .HayChọn chồng lấy vợ yuôn đẹp giàu sang có danh vọng để thoát khỏi cảnh đói nghèo cơ hàn.Qua nhiều năm đã tìm hiểu từ Thành phố Sài Gòn cho tận miền quê tỉnh lẻ , những mẩu chuyện gia đình người thân của tôi , trong các vùng palei chăm đã có con số bao ngừời đã quay về lại cội nguồn mang tấm thân tàng cho nguoi than họ hàng sưởi ấm những ngày cuối đời cô đơn.Thân làm Osin Nô lệ tình dụcLàm thân đẻ mướn Nghĩ cho cùng đi không rồi cũng về không . Bao đấng mày râu hào hoa phong nhã tuấn kiệt bằng cấp chức tước vinh danh một thời Oanh Oanh liệt liệt hét ra lữa cả họ hàng phải ngậm ngùi thương tiếc .Các cô nàng chân ngắn chân dài eo thon da mịn mắt đỏ môi hồng . Đi về xứ lạ làm dâu nhà người trở thành tỷ phú triệu phú có mấy ai hay . Con cháu lớn lên quên cội quên nguồn không nhận ra mặt tổ tiên .Rồi sẽ đi về đâu hởi em khi trong lòng không còn chút nắng. Ôi cuộc đời của một nguời đàn ông đàn bà chăm như thế sao.Lỗi lầm . Lầm lỗi .
0 Rating 94 views 2 likes 0 Comments
Read more
Uncategorized
By: On January 16, 2014
Từ câu chuyện gia đình của tôi mà nghĩ đến những mẩu chuyện của bậc cha anh đã qua một thời và hôm nay bao chàng trai thanh niên đến tuổi trưởng thành phải gạ vợ lấy chồng đó là một bài toán khó . Xây dựng gia đình để duy trì bảo tồn nòi giống của dân tộc .HayChọn chồng lấy vợ yuôn đẹp giàu sang có danh vọng để thoát khỏi cảnh đói nghèo cơ hàn.Qua nhiều năm đã tìm hiểu từ Thành phố Sài Gòn cho tận miền quê tỉnh lẻ , những mẩu chuyện gia đình người thân của tôi , trong các vùng palei chăm đã có con số bao ngừời đã quay về lại cội nguồn mang tấm thân tàng cho nguoi than họ hàng sưởi ấm những ngày cuối đời cô đơn.Thân làm Osin Nô lệ tình dụcLàm thân đẻ mướn Nghĩ cho cùng đi không rồi cũng về không . Bao đấng mày râu hào hoa phong nhã tuấn kiệt bằng cấp chức tước vinh danh một thời Oanh Oanh liệt liệt hét ra lữa cả họ hàng phải ngậm ngùi thương tiếc .Các cô nàng chân ngắn chân dài eo thon da mịn mắt đỏ môi hồng . Đi về xứ lạ làm dâu nhà người trở thành tỷ phú triệu phú có mấy ai hay . Con cháu lớn lên quên cội quên nguồn không nhận ra mặt tổ tiên .Rồi sẽ đi về đâu hởi em khi trong lòng không còn chút nắng. Ôi cuộc đời của một nguời đàn ông đàn bà chăm như thế sao.Lỗi lầm . Lầm lỗi .
0 Rating 94 views 2 likes 0 Comments
Read more
Uncategorized
By: On January 16, 2014
Từ câu chuyện gia đình của tôi mà nghĩ đến những mẩu chuyện của bậc cha anh đã qua một thời và hôm nay bao chàng trai thanh niên đến tuổi trưởng thành phải gạ vợ lấy chồng đó là một bài toán khó . Xây dựng gia đình để duy trì bảo tồn nòi giống của dân tộc .HayChọn chồng lấy vợ yuôn đẹp giàu sang có danh vọng để thoát khỏi cảnh đói nghèo cơ hàn.Qua nhiều năm đã tìm hiểu từ Thành phố Sài Gòn cho tận miền quê tỉnh lẻ , những mẩu chuyện gia đình người thân của tôi , trong các vùng palei chăm đã có con số bao ngừời đã quay về lại cội nguồn mang tấm thân tàng cho nguoi than họ hàng sưởi ấm những ngày cuối đời cô đơn.Thân làm Osin Nô lệ tình dụcLàm thân đẻ mướn Nghĩ cho cùng đi không rồi cũng về không . Bao đấng mày râu hào hoa phong nhã tuấn kiệt bằng cấp chức tước vinh danh một thời Oanh Oanh liệt liệt hét ra lữa cả họ hàng phải ngậm ngùi thương tiếc .Các cô nàng chân ngắn chân dài eo thon da mịn mắt đỏ môi hồng . Đi về xứ lạ làm dâu nhà người trở thành tỷ phú triệu phú có mấy ai hay . Con cháu lớn lên quên cội quên nguồn không nhận ra mặt tổ tiên .Rồi sẽ đi về đâu hởi em khi trong lòng không còn chút nắng. Ôi cuộc đời của một nguời đàn ông đàn bà chăm như thế sao.Lỗi lầm . Lầm lỗi .
0 Rating 94 views 2 likes 0 Comments
Read more
Uncategorized
By: On January 16, 2014
Từ câu chuyện gia đình của tôi mà nghĩ đến những mẩu chuyện của bậc cha anh đã qua một thời và hôm nay bao chàng trai thanh niên đến tuổi trưởng thành phải gạ vợ lấy chồng đó là một bài toán khó . Xây dựng gia đình để duy trì bảo tồn nòi giống của dân tộc .HayChọn chồng lấy vợ yuôn đẹp giàu sang có danh vọng để thoát khỏi cảnh đói nghèo cơ hàn.Qua nhiều năm đã tìm hiểu từ Thành phố Sài Gòn cho tận miền quê tỉnh lẻ , những mẩu chuyện gia đình người thân của tôi , trong các vùng palei chăm đã có con số bao ngừời đã quay về lại cội nguồn mang tấm thân tàng cho nguoi than họ hàng sưởi ấm những ngày cuối đời cô đơn.Thân làm Osin Nô lệ tình dụcLàm thân đẻ mướn Nghĩ cho cùng đi không rồi cũng về không . Bao đấng mày râu hào hoa phong nhã tuấn kiệt bằng cấp chức tước vinh danh một thời Oanh Oanh liệt liệt hét ra lữa cả họ hàng phải ngậm ngùi thương tiếc .Các cô nàng chân ngắn chân dài eo thon da mịn mắt đỏ môi hồng . Đi về xứ lạ làm dâu nhà người trở thành tỷ phú triệu phú có mấy ai hay . Con cháu lớn lên quên cội quên nguồn không nhận ra mặt tổ tiên .Rồi sẽ đi về đâu hởi em khi trong lòng không còn chút nắng. Ôi cuộc đời của một nguời đàn ông đàn bà chăm như thế sao.Lỗi lầm . Lầm lỗi .
0 Rating 94 views 2 likes 0 Comments
Read more
Uncategorized
By: On January 16, 2014
Từ câu chuyện gia đình của tôi mà nghĩ đến những mẩu chuyện của bậc cha anh đã qua một thời và hôm nay bao chàng trai thanh niên đến tuổi trưởng thành phải gạ vợ lấy chồng đó là một bài toán khó . Xây dựng gia đình để duy trì bảo tồn nòi giống của dân tộc .HayChọn chồng lấy vợ yuôn đẹp giàu sang có danh vọng để thoát khỏi cảnh đói nghèo cơ hàn.Qua nhiều năm đã tìm hiểu từ Thành phố Sài Gòn cho tận miền quê tỉnh lẻ , những mẩu chuyện gia đình người thân của tôi , trong các vùng palei chăm đã có con số bao ngừời đã quay về lại cội nguồn mang tấm thân tàng cho nguoi than họ hàng sưởi ấm những ngày cuối đời cô đơn.Thân làm Osin Nô lệ tình dụcLàm thân đẻ mướn Nghĩ cho cùng đi không rồi cũng về không . Bao đấng mày râu hào hoa phong nhã tuấn kiệt bằng cấp chức tước vinh danh một thời Oanh Oanh liệt liệt hét ra lữa cả họ hàng phải ngậm ngùi thương tiếc .Các cô nàng chân ngắn chân dài eo thon da mịn mắt đỏ môi hồng . Đi về xứ lạ làm dâu nhà người trở thành tỷ phú triệu phú có mấy ai hay . Con cháu lớn lên quên cội quên nguồn không nhận ra mặt tổ tiên .Rồi sẽ đi về đâu hởi em khi trong lòng không còn chút nắng. Ôi cuộc đời của một nguời đàn ông đàn bà chăm như thế sao.Lỗi lầm . Lầm lỗi .
0 Rating 94 views 2 likes 0 Comments
Read more
Uncategorized
By: On January 16, 2014
Từ câu chuyện gia đình của tôi mà nghĩ đến những mẩu chuyện của bậc cha anh đã qua một thời và hôm nay bao chàng trai thanh niên đến tuổi trưởng thành phải gạ vợ lấy chồng đó là một bài toán khó . Xây dựng gia đình để duy trì bảo tồn nòi giống của dân tộc .HayChọn chồng lấy vợ yuôn đẹp giàu sang có danh vọng để thoát khỏi cảnh đói nghèo cơ hàn.Qua nhiều năm đã tìm hiểu từ Thành phố Sài Gòn cho tận miền quê tỉnh lẻ , những mẩu chuyện gia đình người thân của tôi , trong các vùng palei chăm đã có con số bao ngừời đã quay về lại cội nguồn mang tấm thân tàng cho nguoi than họ hàng sưởi ấm những ngày cuối đời cô đơn.Thân làm Osin Nô lệ tình dụcLàm thân đẻ mướn Nghĩ cho cùng đi không rồi cũng về không . Bao đấng mày râu hào hoa phong nhã tuấn kiệt bằng cấp chức tước vinh danh một thời Oanh Oanh liệt liệt hét ra lữa cả họ hàng phải ngậm ngùi thương tiếc .Các cô nàng chân ngắn chân dài eo thon da mịn mắt đỏ môi hồng . Đi về xứ lạ làm dâu nhà người trở thành tỷ phú triệu phú có mấy ai hay . Con cháu lớn lên quên cội quên nguồn không nhận ra mặt tổ tiên .Rồi sẽ đi về đâu hởi em khi trong lòng không còn chút nắng. Ôi cuộc đời của một nguời đàn ông đàn bà chăm như thế sao.Lỗi lầm . Lầm lỗi .
0 Rating 94 views 2 likes 0 Comments
Read more
By: On January 10, 2014
Thời kỳ xác định bản thể Vương quốc Chiêm Thành (Champa) cổ cho đến nay vẫn còn là một bí ẩn đối vớingười Việt Nam. Vương quốc này ở đâu, xuất hiện từ thời nào, phát triển ra sao vàtại sao biến mất ? Không sử sách Việt Nam nào nhắc đến. Đọc lại sử xưa, nhữngnhân vật lịch sử Chiêm Thành, với những tên phiên âm Hán hóa, thường đượcnhắc tới một cách mơ hồ, đôi khi với những lời lẽ xúc phạm, từ đó sinh ra hiểulầm rồi hiểu sai dẫn đến tâm lý phân biệt đối xử hay khinh thường, không thôngcảm lẫn nhau. Đây là thiếu sót lớn trong quan hệ giữa người Việt và người Việt với nhau. Tìnhtrạng này cần sớm chấm dứt vì cộng đồng người Chăm ngày nay là thành tố bấtkhả phân của dân tộc Việt Nam. Quá khứ của người Chăm cũng là quá khứ chungcủa người Việt Nam. Tìm hiểu lịch sử vương quốc Chiêm Thành xưa, chính vì thế,không những là một bắt buộc lịch sử mà còn là một biểu lộ tình cảm để hàn gắnnhững tai họa mà cộng đồng người Việt Nam nói chung đã gây ra cho những dântộc anh em trước khi cùng nhau bắt tay xây dựng lại một đất nước chung. Quan niệm về đất đai, lãnh thổ và tổ chức chính trị Trước khi đi sâu vào phần tìm hiểu lịch sử vương quốc Chiêm Thành xưa,tưởng cũng nên duyệt lại một số quan niệm về đất đai và lãnh thổ của người Kinhvà người Chăm. Có nắm vững yếu tố này, chúng ta sẽ dễ dàng theo dõi nhữngchuyển biến lịch sử tiếp theo và kết quả tất yếu của nó. Khuyết điểm của nhữngnhà viết sử hay nghiên cứu dân tộc học là thường dựa trên những quan điểm vănhóa và tình cảm của mình để phê phán các dân tộc khác, hiểu lầm và ngộ nhận làkhông tránh khỏi. Đất đai và lãnh thổ tuy là những giá trị cụ thể nhưng quan điểm của người Kinhvà người Chăm rất khác nhau. Đối với người Kinh, đất đai và lãnh thổ vừa là mộtgiá trị vật chất vừa là một biểu tượng tình cảm, trong khi đối với người Chăm đólà một giá trị tâm linh và là một biểu tượng thần quyền. Qua những đợt di dân liên tục từ hơn một ngàn năm qua, lãnh thổ của ngườiKinh không ngừng mở rộng theo thời gian và cộng đồng người Kinh ngày nay đãcó mặt tại khắp nơi trên thế giới. Người Kinh tuy rất quí đất đai nhưng đó chỉ làmột tài sản cần phải bảo vệ, một kỷ niệm cần phải giữ gìn. Rất ít ai chịu giammình nơi chôn nhau cắt rốn nếu điều kiện sinh sống nơi đó khó khăn. Nơi nào cóthể an cư lạc nghiệp được, nơi đó trở thành quê hương, nơi nào sinh sống khókhăn thì bỏ đi tìm nơi khác. Và khi ra đi, người Kinh mang theo cả bàn thờ tổ tiên,gia phả và tín ngưỡng đi theo, do đó không có vấn đề mất gốc hay mất cội nguồn. Suy cho cùng, người Kinh vừa là một dân tộc du mục vừa là một dân tộc phù sa,bởi vì, một mặt, lịch sử dân tộc Kinh là một lịch sử di dân thường trực và cuộc didân này đến nay chưa chấm dứt, mặt khác, người Kinh chỉ gắn bó với những vùngđất thấp, đất đồng bằng cạnh những dòng sông hay trục lộ giao thông, ít ai chịugắn bó đời mình với rừng núi hay biển cả bao la. Trên phạm vi lớn hơn là lãnh thổ. Lãnh thổ bao gồm cả đất đai, bầu trời và vùngnước, có lằn ranh nhất định và thuộc chủ quyền một quốc gia. Đối với người Kinh,lãnh thổ là một phạm trù ảo, không cụ thể, cha chung không ai tiếc. Lãnh thổ rộnghẹp ra sao là vấn đề trách nhiệm của những người lãnh đạo quốc gia, không ảnhhưởng gì đến đời sống thường ngày của người dân. Người Chăm thì ngược lại, đất đai là một vật thể thiêng liêng không thể sangnhượng và chối bỏ. Từ ngàn xưa cha ông đã ở đây thì con cháu đời sau phải ở đó,không ai tự quyền rời bỏ quê cha đất tổ định cư nơi khác. Rời bỏ quê cha đất tổ làtừ bỏ dòng tộc, từ bỏ thần linh. Chính vì thế, trong suốt dòng lịch sử đương đầuvới người Kinh, cộng đồng người Chăm chấp nhận mọi hy sinh và gian khổ để giữđất và bám đất, cho dù quê hương không còn hay bị tước mất. Tất cả những lễ lạctrong triều chính và ngoài dân gian đều nhằm vinh danh các vị thần cai quản đấtđai, vì đất là nguồn sống và cũng là nơi ngự trị của các vị thần bảo vệ đất, che chởgia đình và đồng tộc. Nếu vì một lý do nào đó ngoài ý muốn một người Chăm phảirời bỏ quê hương đi nơi khác lập nghiệp, sinh hoạt tâm linh của người đó luôn gắnliền với nơi sinh quán cũ, vì không ai được quyền mang bàn thờ tổ tiên và thầnlinh đi theo, con người lệ thuộc thần linh chứ không ngược lại. Hơn nữa nếu phảily hương, người đó cũng không thể đi ra ngoài lãnh thổ đã được thần linh che chỡ,nghĩa là chỉ giới hạn trong vùng đất của đồng tộc mà thôi. Đó là lý do giải thích tạisao tại người Chăm không di cư ra khỏi địa bàn cư trú của họ và tại nhiều nơi,nhất là ở Bình Thuận, người Chăm định cư tại một làng cách xa nơi sinh quán cũcả trăm cây số nhưng vẫn muốn lệ thuộc về hành chánh và nghi lễ tại làng cũ. ĐạoHồi khi du nhập vào đây cũng phải thích nghi với tâm lý tôn thờ thần linh củangười Chăm để được chấp nhận và đã biến cải thành đạo Bani. Tất cả chỉ vì ngườiphụ trách lễ nghi và sổ bạ hành chánh địa phương là các thầy Paseh, Tapah (nếu làgiáo dân đạo Bà La Môn) và các thầy Char, Po Adhya, Po Bac (nếu là giáo dânđạo Bani). Đây là một khó khăn về quản trị hành chánh mà các chính quyền ngườiKinh không hiểu nổi và muốn xóa bỏ, nhiều tranh chấp đáng tiếc đã xảy ra. Nhiều người sẽ hỏi dân số vương quốc Chiêm Thành xưa bây giờ ở đâu ?Không lẽ đã bị tiêu diệt hết sao ? Con số 100.000 người Chăm tại Bình Thuận vàChâu Đốc có phản ánh đúng sự thật không ? Câu trả lời là không và dân chúng gốc Chăm vẫn còn nguyên vẹn. Người Chămđồng bằng không đi đâu cả, họ đã ở lại trên lãnh thổ cũ tại miền Trung và với thờigian đã trở thành công dân Việt Nam một cách trọn vẹn. Có thể nói không mộtngười Việt Nam nào sinh sống từ lâu đời tại miền Trung nào mà không mang ítnhiều dòng máu Champa trong người. Điều này cũng rất dễ khám phá, ít nhất là vềhình dáng : da ngăm đen, vai ngang, mặt vuông, tóc dợn sóng, vòm mắt sâu, mắtbầu dục hai mí, mũi cao, môi dầy, miệng kín. Cũng không phải vô tình mà cáchphát âm của người miền Trung khác hẳn phần còn lại của đất nước, với nhiều âmsắc thấp của người Champa. Đó là chưa kể những danh từ có nguồn gốc Champa.Cũng không phải tình cờ mà các điệu múa hát của người Chăm trở thành nhữngđiệu múa hát trong cung đình và ngoài dân gian thời Nguyễn. Nêu ra một vàitrường hợp cụ thể trên chỉ để chứng minh một điều : dân cư vương quốc Champacũ đã hội nhập hoàn toàn vào xã hội Việt Nam. Nhắc lại quá khứ của người Chămcũng là nhắc lại quá khứ của cộng đồng người Việt tại miền Trung nói chung. Về chính trị, vương quốc Champa được tổ chức theo định chế liên bang. Trướckhi bị xóa tên, vương quốc Chiêm Thành là một kết hợp của nhiều tiểu vươngquốc, từ đèo Ngang (Quảng Bình) đến mũi Kê Gà (Bình Thuận). Mỗi tiểu vươngcai trị một lãnh thổ riêng, với một dân số nhất định, sinh hoạt độc lập với các tiểuvương khác và không can thiệp vào nội bộ của nhau. Một cách không chính xác,vương quốc Chiêm Thành cũ (Campapura) có ít nhất năm tiểu vương quốc :Indrapura (Bình Trị Thiên), Amaravati (Quảng Nam), Vijaya (Nghĩa Bình),Kauthara (Phú Khánh) và Panduranga (Bình Thuận). Có thể thêm tiểu vương quốcAryaru (Phú Yên) là sáu, nhưng sự hiện diện của tiểu vương quốc này trong lịchsử Chiêm Thành không rõ ràng. Trong mỗi tiểu vương quốc cũng có sự phân chia quyền hành giữa các lãnhchúa địa phương. Chính sách địa phương tản quyền này đã được triều đình ViệtNam công nhận năm 1471, khi thành Đồ Bàn, kinh đô vương quốc Chiêm Thành,vừa bị đánh chiếm : đất Quảng Nam được chia thành nhiều lãnh địa khác nhau vàgiao cho những lãnh chúa Champa địa phương cai quản. Vương quyền trung ươngChiêm Thành chỉ giữ vai trò thần quyền, gìn giữ sự thống nhất và sự vẹn toàn lãnhthổ mà thôi, những sinh hoạt khác đều do các tiểu vương quốc địa phương đảmnhiệm. Khi có nhu cầu hay gặp nguy biến, triều đình trung ương nhân danh thầnlinh bảo vệ vương quốc kêu gọi các tiểu vương địa phương đóng góp nhân tài, vậtlực xây dựng đền đài, chuẩn bị chinh chiến hay triều cống các thế lực lớn mạnhhơn. Vị thần bao vệ vương quốc Chiêm Thành được biết đến nhiều nhất là nữ thầnYan Po Nagar (Bà Mẹ Đất Nước hay Thiên Y Thánh Mẫu), đền thờ đặt tại XómBóng, Nha Trang. Về biên giới, lằn ranh phân chia giữa các tiểu vương quốc và vương quốcChiêm Thành cũ với các thế lực chính trị đương thời là một biên giới thần quyền,không ai được quyền vượt qua và cũng không ai có quyền xâm phạm. Vương triềuChiêm Thành không có tham vọng đất đai, họ chỉ tập trung phát triển và bảo vệnhững đất đai thuộc quyền sở hữu mà thôi. Những chuyển biến lịch sử sau đâychứng minh điều đó. Source: jashaklikei.wordpress.com
0 Rating 418 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On January 10, 2014
Thời kỳ xác định bản thể Vương quốc Chiêm Thành (Champa) cổ cho đến nay vẫn còn là một bí ẩn đối vớingười Việt Nam. Vương quốc này ở đâu, xuất hiện từ thời nào, phát triển ra sao vàtại sao biến mất ? Không sử sách Việt Nam nào nhắc đến. Đọc lại sử xưa, nhữngnhân vật lịch sử Chiêm Thành, với những tên phiên âm Hán hóa, thường đượcnhắc tới một cách mơ hồ, đôi khi với những lời lẽ xúc phạm, từ đó sinh ra hiểulầm rồi hiểu sai dẫn đến tâm lý phân biệt đối xử hay khinh thường, không thôngcảm lẫn nhau. Đây là thiếu sót lớn trong quan hệ giữa người Việt và người Việt với nhau. Tìnhtrạng này cần sớm chấm dứt vì cộng đồng người Chăm ngày nay là thành tố bấtkhả phân của dân tộc Việt Nam. Quá khứ của người Chăm cũng là quá khứ chungcủa người Việt Nam. Tìm hiểu lịch sử vương quốc Chiêm Thành xưa, chính vì thế,không những là một bắt buộc lịch sử mà còn là một biểu lộ tình cảm để hàn gắnnhững tai họa mà cộng đồng người Việt Nam nói chung đã gây ra cho những dântộc anh em trước khi cùng nhau bắt tay xây dựng lại một đất nước chung. Quan niệm về đất đai, lãnh thổ và tổ chức chính trị Trước khi đi sâu vào phần tìm hiểu lịch sử vương quốc Chiêm Thành xưa,tưởng cũng nên duyệt lại một số quan niệm về đất đai và lãnh thổ của người Kinhvà người Chăm. Có nắm vững yếu tố này, chúng ta sẽ dễ dàng theo dõi nhữngchuyển biến lịch sử tiếp theo và kết quả tất yếu của nó. Khuyết điểm của nhữngnhà viết sử hay nghiên cứu dân tộc học là thường dựa trên những quan điểm vănhóa và tình cảm của mình để phê phán các dân tộc khác, hiểu lầm và ngộ nhận làkhông tránh khỏi. Đất đai và lãnh thổ tuy là những giá trị cụ thể nhưng quan điểm của người Kinhvà người Chăm rất khác nhau. Đối với người Kinh, đất đai và lãnh thổ vừa là mộtgiá trị vật chất vừa là một biểu tượng tình cảm, trong khi đối với người Chăm đólà một giá trị tâm linh và là một biểu tượng thần quyền. Qua những đợt di dân liên tục từ hơn một ngàn năm qua, lãnh thổ của ngườiKinh không ngừng mở rộng theo thời gian và cộng đồng người Kinh ngày nay đãcó mặt tại khắp nơi trên thế giới. Người Kinh tuy rất quí đất đai nhưng đó chỉ làmột tài sản cần phải bảo vệ, một kỷ niệm cần phải giữ gìn. Rất ít ai chịu giammình nơi chôn nhau cắt rốn nếu điều kiện sinh sống nơi đó khó khăn. Nơi nào cóthể an cư lạc nghiệp được, nơi đó trở thành quê hương, nơi nào sinh sống khókhăn thì bỏ đi tìm nơi khác. Và khi ra đi, người Kinh mang theo cả bàn thờ tổ tiên,gia phả và tín ngưỡng đi theo, do đó không có vấn đề mất gốc hay mất cội nguồn. Suy cho cùng, người Kinh vừa là một dân tộc du mục vừa là một dân tộc phù sa,bởi vì, một mặt, lịch sử dân tộc Kinh là một lịch sử di dân thường trực và cuộc didân này đến nay chưa chấm dứt, mặt khác, người Kinh chỉ gắn bó với những vùngđất thấp, đất đồng bằng cạnh những dòng sông hay trục lộ giao thông, ít ai chịugắn bó đời mình với rừng núi hay biển cả bao la. Trên phạm vi lớn hơn là lãnh thổ. Lãnh thổ bao gồm cả đất đai, bầu trời và vùngnước, có lằn ranh nhất định và thuộc chủ quyền một quốc gia. Đối với người Kinh,lãnh thổ là một phạm trù ảo, không cụ thể, cha chung không ai tiếc. Lãnh thổ rộnghẹp ra sao là vấn đề trách nhiệm của những người lãnh đạo quốc gia, không ảnhhưởng gì đến đời sống thường ngày của người dân. Người Chăm thì ngược lại, đất đai là một vật thể thiêng liêng không thể sangnhượng và chối bỏ. Từ ngàn xưa cha ông đã ở đây thì con cháu đời sau phải ở đó,không ai tự quyền rời bỏ quê cha đất tổ định cư nơi khác. Rời bỏ quê cha đất tổ làtừ bỏ dòng tộc, từ bỏ thần linh. Chính vì thế, trong suốt dòng lịch sử đương đầuvới người Kinh, cộng đồng người Chăm chấp nhận mọi hy sinh và gian khổ để giữđất và bám đất, cho dù quê hương không còn hay bị tước mất. Tất cả những lễ lạctrong triều chính và ngoài dân gian đều nhằm vinh danh các vị thần cai quản đấtđai, vì đất là nguồn sống và cũng là nơi ngự trị của các vị thần bảo vệ đất, che chởgia đình và đồng tộc. Nếu vì một lý do nào đó ngoài ý muốn một người Chăm phảirời bỏ quê hương đi nơi khác lập nghiệp, sinh hoạt tâm linh của người đó luôn gắnliền với nơi sinh quán cũ, vì không ai được quyền mang bàn thờ tổ tiên và thầnlinh đi theo, con người lệ thuộc thần linh chứ không ngược lại. Hơn nữa nếu phảily hương, người đó cũng không thể đi ra ngoài lãnh thổ đã được thần linh che chỡ,nghĩa là chỉ giới hạn trong vùng đất của đồng tộc mà thôi. Đó là lý do giải thích tạisao tại người Chăm không di cư ra khỏi địa bàn cư trú của họ và tại nhiều nơi,nhất là ở Bình Thuận, người Chăm định cư tại một làng cách xa nơi sinh quán cũcả trăm cây số nhưng vẫn muốn lệ thuộc về hành chánh và nghi lễ tại làng cũ. ĐạoHồi khi du nhập vào đây cũng phải thích nghi với tâm lý tôn thờ thần linh củangười Chăm để được chấp nhận và đã biến cải thành đạo Bani. Tất cả chỉ vì ngườiphụ trách lễ nghi và sổ bạ hành chánh địa phương là các thầy Paseh, Tapah (nếu làgiáo dân đạo Bà La Môn) và các thầy Char, Po Adhya, Po Bac (nếu là giáo dânđạo Bani). Đây là một khó khăn về quản trị hành chánh mà các chính quyền ngườiKinh không hiểu nổi và muốn xóa bỏ, nhiều tranh chấp đáng tiếc đã xảy ra. Nhiều người sẽ hỏi dân số vương quốc Chiêm Thành xưa bây giờ ở đâu ?Không lẽ đã bị tiêu diệt hết sao ? Con số 100.000 người Chăm tại Bình Thuận vàChâu Đốc có phản ánh đúng sự thật không ? Câu trả lời là không và dân chúng gốc Chăm vẫn còn nguyên vẹn. Người Chămđồng bằng không đi đâu cả, họ đã ở lại trên lãnh thổ cũ tại miền Trung và với thờigian đã trở thành công dân Việt Nam một cách trọn vẹn. Có thể nói không mộtngười Việt Nam nào sinh sống từ lâu đời tại miền Trung nào mà không mang ítnhiều dòng máu Champa trong người. Điều này cũng rất dễ khám phá, ít nhất là vềhình dáng : da ngăm đen, vai ngang, mặt vuông, tóc dợn sóng, vòm mắt sâu, mắtbầu dục hai mí, mũi cao, môi dầy, miệng kín. Cũng không phải vô tình mà cáchphát âm của người miền Trung khác hẳn phần còn lại của đất nước, với nhiều âmsắc thấp của người Champa. Đó là chưa kể những danh từ có nguồn gốc Champa.Cũng không phải tình cờ mà các điệu múa hát của người Chăm trở thành nhữngđiệu múa hát trong cung đình và ngoài dân gian thời Nguyễn. Nêu ra một vàitrường hợp cụ thể trên chỉ để chứng minh một điều : dân cư vương quốc Champacũ đã hội nhập hoàn toàn vào xã hội Việt Nam. Nhắc lại quá khứ của người Chămcũng là nhắc lại quá khứ của cộng đồng người Việt tại miền Trung nói chung. Về chính trị, vương quốc Champa được tổ chức theo định chế liên bang. Trướckhi bị xóa tên, vương quốc Chiêm Thành là một kết hợp của nhiều tiểu vươngquốc, từ đèo Ngang (Quảng Bình) đến mũi Kê Gà (Bình Thuận). Mỗi tiểu vươngcai trị một lãnh thổ riêng, với một dân số nhất định, sinh hoạt độc lập với các tiểuvương khác và không can thiệp vào nội bộ của nhau. Một cách không chính xác,vương quốc Chiêm Thành cũ (Campapura) có ít nhất năm tiểu vương quốc :Indrapura (Bình Trị Thiên), Amaravati (Quảng Nam), Vijaya (Nghĩa Bình),Kauthara (Phú Khánh) và Panduranga (Bình Thuận). Có thể thêm tiểu vương quốcAryaru (Phú Yên) là sáu, nhưng sự hiện diện của tiểu vương quốc này trong lịchsử Chiêm Thành không rõ ràng. Trong mỗi tiểu vương quốc cũng có sự phân chia quyền hành giữa các lãnhchúa địa phương. Chính sách địa phương tản quyền này đã được triều đình ViệtNam công nhận năm 1471, khi thành Đồ Bàn, kinh đô vương quốc Chiêm Thành,vừa bị đánh chiếm : đất Quảng Nam được chia thành nhiều lãnh địa khác nhau vàgiao cho những lãnh chúa Champa địa phương cai quản. Vương quyền trung ươngChiêm Thành chỉ giữ vai trò thần quyền, gìn giữ sự thống nhất và sự vẹn toàn lãnhthổ mà thôi, những sinh hoạt khác đều do các tiểu vương quốc địa phương đảmnhiệm. Khi có nhu cầu hay gặp nguy biến, triều đình trung ương nhân danh thầnlinh bảo vệ vương quốc kêu gọi các tiểu vương địa phương đóng góp nhân tài, vậtlực xây dựng đền đài, chuẩn bị chinh chiến hay triều cống các thế lực lớn mạnhhơn. Vị thần bao vệ vương quốc Chiêm Thành được biết đến nhiều nhất là nữ thầnYan Po Nagar (Bà Mẹ Đất Nước hay Thiên Y Thánh Mẫu), đền thờ đặt tại XómBóng, Nha Trang. Về biên giới, lằn ranh phân chia giữa các tiểu vương quốc và vương quốcChiêm Thành cũ với các thế lực chính trị đương thời là một biên giới thần quyền,không ai được quyền vượt qua và cũng không ai có quyền xâm phạm. Vương triềuChiêm Thành không có tham vọng đất đai, họ chỉ tập trung phát triển và bảo vệnhững đất đai thuộc quyền sở hữu mà thôi. Những chuyển biến lịch sử sau đâychứng minh điều đó. Source: jashaklikei.wordpress.com
0 Rating 418 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On January 10, 2014
Thời kỳ xác định bản thể Vương quốc Chiêm Thành (Champa) cổ cho đến nay vẫn còn là một bí ẩn đối vớingười Việt Nam. Vương quốc này ở đâu, xuất hiện từ thời nào, phát triển ra sao vàtại sao biến mất ? Không sử sách Việt Nam nào nhắc đến. Đọc lại sử xưa, nhữngnhân vật lịch sử Chiêm Thành, với những tên phiên âm Hán hóa, thường đượcnhắc tới một cách mơ hồ, đôi khi với những lời lẽ xúc phạm, từ đó sinh ra hiểulầm rồi hiểu sai dẫn đến tâm lý phân biệt đối xử hay khinh thường, không thôngcảm lẫn nhau. Đây là thiếu sót lớn trong quan hệ giữa người Việt và người Việt với nhau. Tìnhtrạng này cần sớm chấm dứt vì cộng đồng người Chăm ngày nay là thành tố bấtkhả phân của dân tộc Việt Nam. Quá khứ của người Chăm cũng là quá khứ chungcủa người Việt Nam. Tìm hiểu lịch sử vương quốc Chiêm Thành xưa, chính vì thế,không những là một bắt buộc lịch sử mà còn là một biểu lộ tình cảm để hàn gắnnhững tai họa mà cộng đồng người Việt Nam nói chung đã gây ra cho những dântộc anh em trước khi cùng nhau bắt tay xây dựng lại một đất nước chung. Quan niệm về đất đai, lãnh thổ và tổ chức chính trị Trước khi đi sâu vào phần tìm hiểu lịch sử vương quốc Chiêm Thành xưa,tưởng cũng nên duyệt lại một số quan niệm về đất đai và lãnh thổ của người Kinhvà người Chăm. Có nắm vững yếu tố này, chúng ta sẽ dễ dàng theo dõi nhữngchuyển biến lịch sử tiếp theo và kết quả tất yếu của nó. Khuyết điểm của nhữngnhà viết sử hay nghiên cứu dân tộc học là thường dựa trên những quan điểm vănhóa và tình cảm của mình để phê phán các dân tộc khác, hiểu lầm và ngộ nhận làkhông tránh khỏi. Đất đai và lãnh thổ tuy là những giá trị cụ thể nhưng quan điểm của người Kinhvà người Chăm rất khác nhau. Đối với người Kinh, đất đai và lãnh thổ vừa là mộtgiá trị vật chất vừa là một biểu tượng tình cảm, trong khi đối với người Chăm đólà một giá trị tâm linh và là một biểu tượng thần quyền. Qua những đợt di dân liên tục từ hơn một ngàn năm qua, lãnh thổ của ngườiKinh không ngừng mở rộng theo thời gian và cộng đồng người Kinh ngày nay đãcó mặt tại khắp nơi trên thế giới. Người Kinh tuy rất quí đất đai nhưng đó chỉ làmột tài sản cần phải bảo vệ, một kỷ niệm cần phải giữ gìn. Rất ít ai chịu giammình nơi chôn nhau cắt rốn nếu điều kiện sinh sống nơi đó khó khăn. Nơi nào cóthể an cư lạc nghiệp được, nơi đó trở thành quê hương, nơi nào sinh sống khókhăn thì bỏ đi tìm nơi khác. Và khi ra đi, người Kinh mang theo cả bàn thờ tổ tiên,gia phả và tín ngưỡng đi theo, do đó không có vấn đề mất gốc hay mất cội nguồn. Suy cho cùng, người Kinh vừa là một dân tộc du mục vừa là một dân tộc phù sa,bởi vì, một mặt, lịch sử dân tộc Kinh là một lịch sử di dân thường trực và cuộc didân này đến nay chưa chấm dứt, mặt khác, người Kinh chỉ gắn bó với những vùngđất thấp, đất đồng bằng cạnh những dòng sông hay trục lộ giao thông, ít ai chịugắn bó đời mình với rừng núi hay biển cả bao la. Trên phạm vi lớn hơn là lãnh thổ. Lãnh thổ bao gồm cả đất đai, bầu trời và vùngnước, có lằn ranh nhất định và thuộc chủ quyền một quốc gia. Đối với người Kinh,lãnh thổ là một phạm trù ảo, không cụ thể, cha chung không ai tiếc. Lãnh thổ rộnghẹp ra sao là vấn đề trách nhiệm của những người lãnh đạo quốc gia, không ảnhhưởng gì đến đời sống thường ngày của người dân. Người Chăm thì ngược lại, đất đai là một vật thể thiêng liêng không thể sangnhượng và chối bỏ. Từ ngàn xưa cha ông đã ở đây thì con cháu đời sau phải ở đó,không ai tự quyền rời bỏ quê cha đất tổ định cư nơi khác. Rời bỏ quê cha đất tổ làtừ bỏ dòng tộc, từ bỏ thần linh. Chính vì thế, trong suốt dòng lịch sử đương đầuvới người Kinh, cộng đồng người Chăm chấp nhận mọi hy sinh và gian khổ để giữđất và bám đất, cho dù quê hương không còn hay bị tước mất. Tất cả những lễ lạctrong triều chính và ngoài dân gian đều nhằm vinh danh các vị thần cai quản đấtđai, vì đất là nguồn sống và cũng là nơi ngự trị của các vị thần bảo vệ đất, che chởgia đình và đồng tộc. Nếu vì một lý do nào đó ngoài ý muốn một người Chăm phảirời bỏ quê hương đi nơi khác lập nghiệp, sinh hoạt tâm linh của người đó luôn gắnliền với nơi sinh quán cũ, vì không ai được quyền mang bàn thờ tổ tiên và thầnlinh đi theo, con người lệ thuộc thần linh chứ không ngược lại. Hơn nữa nếu phảily hương, người đó cũng không thể đi ra ngoài lãnh thổ đã được thần linh che chỡ,nghĩa là chỉ giới hạn trong vùng đất của đồng tộc mà thôi. Đó là lý do giải thích tạisao tại người Chăm không di cư ra khỏi địa bàn cư trú của họ và tại nhiều nơi,nhất là ở Bình Thuận, người Chăm định cư tại một làng cách xa nơi sinh quán cũcả trăm cây số nhưng vẫn muốn lệ thuộc về hành chánh và nghi lễ tại làng cũ. ĐạoHồi khi du nhập vào đây cũng phải thích nghi với tâm lý tôn thờ thần linh củangười Chăm để được chấp nhận và đã biến cải thành đạo Bani. Tất cả chỉ vì ngườiphụ trách lễ nghi và sổ bạ hành chánh địa phương là các thầy Paseh, Tapah (nếu làgiáo dân đạo Bà La Môn) và các thầy Char, Po Adhya, Po Bac (nếu là giáo dânđạo Bani). Đây là một khó khăn về quản trị hành chánh mà các chính quyền ngườiKinh không hiểu nổi và muốn xóa bỏ, nhiều tranh chấp đáng tiếc đã xảy ra. Nhiều người sẽ hỏi dân số vương quốc Chiêm Thành xưa bây giờ ở đâu ?Không lẽ đã bị tiêu diệt hết sao ? Con số 100.000 người Chăm tại Bình Thuận vàChâu Đốc có phản ánh đúng sự thật không ? Câu trả lời là không và dân chúng gốc Chăm vẫn còn nguyên vẹn. Người Chămđồng bằng không đi đâu cả, họ đã ở lại trên lãnh thổ cũ tại miền Trung và với thờigian đã trở thành công dân Việt Nam một cách trọn vẹn. Có thể nói không mộtngười Việt Nam nào sinh sống từ lâu đời tại miền Trung nào mà không mang ítnhiều dòng máu Champa trong người. Điều này cũng rất dễ khám phá, ít nhất là vềhình dáng : da ngăm đen, vai ngang, mặt vuông, tóc dợn sóng, vòm mắt sâu, mắtbầu dục hai mí, mũi cao, môi dầy, miệng kín. Cũng không phải vô tình mà cáchphát âm của người miền Trung khác hẳn phần còn lại của đất nước, với nhiều âmsắc thấp của người Champa. Đó là chưa kể những danh từ có nguồn gốc Champa.Cũng không phải tình cờ mà các điệu múa hát của người Chăm trở thành nhữngđiệu múa hát trong cung đình và ngoài dân gian thời Nguyễn. Nêu ra một vàitrường hợp cụ thể trên chỉ để chứng minh một điều : dân cư vương quốc Champacũ đã hội nhập hoàn toàn vào xã hội Việt Nam. Nhắc lại quá khứ của người Chămcũng là nhắc lại quá khứ của cộng đồng người Việt tại miền Trung nói chung. Về chính trị, vương quốc Champa được tổ chức theo định chế liên bang. Trướckhi bị xóa tên, vương quốc Chiêm Thành là một kết hợp của nhiều tiểu vươngquốc, từ đèo Ngang (Quảng Bình) đến mũi Kê Gà (Bình Thuận). Mỗi tiểu vươngcai trị một lãnh thổ riêng, với một dân số nhất định, sinh hoạt độc lập với các tiểuvương khác và không can thiệp vào nội bộ của nhau. Một cách không chính xác,vương quốc Chiêm Thành cũ (Campapura) có ít nhất năm tiểu vương quốc :Indrapura (Bình Trị Thiên), Amaravati (Quảng Nam), Vijaya (Nghĩa Bình),Kauthara (Phú Khánh) và Panduranga (Bình Thuận). Có thể thêm tiểu vương quốcAryaru (Phú Yên) là sáu, nhưng sự hiện diện của tiểu vương quốc này trong lịchsử Chiêm Thành không rõ ràng. Trong mỗi tiểu vương quốc cũng có sự phân chia quyền hành giữa các lãnhchúa địa phương. Chính sách địa phương tản quyền này đã được triều đình ViệtNam công nhận năm 1471, khi thành Đồ Bàn, kinh đô vương quốc Chiêm Thành,vừa bị đánh chiếm : đất Quảng Nam được chia thành nhiều lãnh địa khác nhau vàgiao cho những lãnh chúa Champa địa phương cai quản. Vương quyền trung ươngChiêm Thành chỉ giữ vai trò thần quyền, gìn giữ sự thống nhất và sự vẹn toàn lãnhthổ mà thôi, những sinh hoạt khác đều do các tiểu vương quốc địa phương đảmnhiệm. Khi có nhu cầu hay gặp nguy biến, triều đình trung ương nhân danh thầnlinh bảo vệ vương quốc kêu gọi các tiểu vương địa phương đóng góp nhân tài, vậtlực xây dựng đền đài, chuẩn bị chinh chiến hay triều cống các thế lực lớn mạnhhơn. Vị thần bao vệ vương quốc Chiêm Thành được biết đến nhiều nhất là nữ thầnYan Po Nagar (Bà Mẹ Đất Nước hay Thiên Y Thánh Mẫu), đền thờ đặt tại XómBóng, Nha Trang. Về biên giới, lằn ranh phân chia giữa các tiểu vương quốc và vương quốcChiêm Thành cũ với các thế lực chính trị đương thời là một biên giới thần quyền,không ai được quyền vượt qua và cũng không ai có quyền xâm phạm. Vương triềuChiêm Thành không có tham vọng đất đai, họ chỉ tập trung phát triển và bảo vệnhững đất đai thuộc quyền sở hữu mà thôi. Những chuyển biến lịch sử sau đâychứng minh điều đó. Source: jashaklikei.wordpress.com
0 Rating 418 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On January 10, 2014
Thời kỳ xác định bản thể Vương quốc Chiêm Thành (Champa) cổ cho đến nay vẫn còn là một bí ẩn đối vớingười Việt Nam. Vương quốc này ở đâu, xuất hiện từ thời nào, phát triển ra sao vàtại sao biến mất ? Không sử sách Việt Nam nào nhắc đến. Đọc lại sử xưa, nhữngnhân vật lịch sử Chiêm Thành, với những tên phiên âm Hán hóa, thường đượcnhắc tới một cách mơ hồ, đôi khi với những lời lẽ xúc phạm, từ đó sinh ra hiểulầm rồi hiểu sai dẫn đến tâm lý phân biệt đối xử hay khinh thường, không thôngcảm lẫn nhau. Đây là thiếu sót lớn trong quan hệ giữa người Việt và người Việt với nhau. Tìnhtrạng này cần sớm chấm dứt vì cộng đồng người Chăm ngày nay là thành tố bấtkhả phân của dân tộc Việt Nam. Quá khứ của người Chăm cũng là quá khứ chungcủa người Việt Nam. Tìm hiểu lịch sử vương quốc Chiêm Thành xưa, chính vì thế,không những là một bắt buộc lịch sử mà còn là một biểu lộ tình cảm để hàn gắnnhững tai họa mà cộng đồng người Việt Nam nói chung đã gây ra cho những dântộc anh em trước khi cùng nhau bắt tay xây dựng lại một đất nước chung. Quan niệm về đất đai, lãnh thổ và tổ chức chính trị Trước khi đi sâu vào phần tìm hiểu lịch sử vương quốc Chiêm Thành xưa,tưởng cũng nên duyệt lại một số quan niệm về đất đai và lãnh thổ của người Kinhvà người Chăm. Có nắm vững yếu tố này, chúng ta sẽ dễ dàng theo dõi nhữngchuyển biến lịch sử tiếp theo và kết quả tất yếu của nó. Khuyết điểm của nhữngnhà viết sử hay nghiên cứu dân tộc học là thường dựa trên những quan điểm vănhóa và tình cảm của mình để phê phán các dân tộc khác, hiểu lầm và ngộ nhận làkhông tránh khỏi. Đất đai và lãnh thổ tuy là những giá trị cụ thể nhưng quan điểm của người Kinhvà người Chăm rất khác nhau. Đối với người Kinh, đất đai và lãnh thổ vừa là mộtgiá trị vật chất vừa là một biểu tượng tình cảm, trong khi đối với người Chăm đólà một giá trị tâm linh và là một biểu tượng thần quyền. Qua những đợt di dân liên tục từ hơn một ngàn năm qua, lãnh thổ của ngườiKinh không ngừng mở rộng theo thời gian và cộng đồng người Kinh ngày nay đãcó mặt tại khắp nơi trên thế giới. Người Kinh tuy rất quí đất đai nhưng đó chỉ làmột tài sản cần phải bảo vệ, một kỷ niệm cần phải giữ gìn. Rất ít ai chịu giammình nơi chôn nhau cắt rốn nếu điều kiện sinh sống nơi đó khó khăn. Nơi nào cóthể an cư lạc nghiệp được, nơi đó trở thành quê hương, nơi nào sinh sống khókhăn thì bỏ đi tìm nơi khác. Và khi ra đi, người Kinh mang theo cả bàn thờ tổ tiên,gia phả và tín ngưỡng đi theo, do đó không có vấn đề mất gốc hay mất cội nguồn. Suy cho cùng, người Kinh vừa là một dân tộc du mục vừa là một dân tộc phù sa,bởi vì, một mặt, lịch sử dân tộc Kinh là một lịch sử di dân thường trực và cuộc didân này đến nay chưa chấm dứt, mặt khác, người Kinh chỉ gắn bó với những vùngđất thấp, đất đồng bằng cạnh những dòng sông hay trục lộ giao thông, ít ai chịugắn bó đời mình với rừng núi hay biển cả bao la. Trên phạm vi lớn hơn là lãnh thổ. Lãnh thổ bao gồm cả đất đai, bầu trời và vùngnước, có lằn ranh nhất định và thuộc chủ quyền một quốc gia. Đối với người Kinh,lãnh thổ là một phạm trù ảo, không cụ thể, cha chung không ai tiếc. Lãnh thổ rộnghẹp ra sao là vấn đề trách nhiệm của những người lãnh đạo quốc gia, không ảnhhưởng gì đến đời sống thường ngày của người dân. Người Chăm thì ngược lại, đất đai là một vật thể thiêng liêng không thể sangnhượng và chối bỏ. Từ ngàn xưa cha ông đã ở đây thì con cháu đời sau phải ở đó,không ai tự quyền rời bỏ quê cha đất tổ định cư nơi khác. Rời bỏ quê cha đất tổ làtừ bỏ dòng tộc, từ bỏ thần linh. Chính vì thế, trong suốt dòng lịch sử đương đầuvới người Kinh, cộng đồng người Chăm chấp nhận mọi hy sinh và gian khổ để giữđất và bám đất, cho dù quê hương không còn hay bị tước mất. Tất cả những lễ lạctrong triều chính và ngoài dân gian đều nhằm vinh danh các vị thần cai quản đấtđai, vì đất là nguồn sống và cũng là nơi ngự trị của các vị thần bảo vệ đất, che chởgia đình và đồng tộc. Nếu vì một lý do nào đó ngoài ý muốn một người Chăm phảirời bỏ quê hương đi nơi khác lập nghiệp, sinh hoạt tâm linh của người đó luôn gắnliền với nơi sinh quán cũ, vì không ai được quyền mang bàn thờ tổ tiên và thầnlinh đi theo, con người lệ thuộc thần linh chứ không ngược lại. Hơn nữa nếu phảily hương, người đó cũng không thể đi ra ngoài lãnh thổ đã được thần linh che chỡ,nghĩa là chỉ giới hạn trong vùng đất của đồng tộc mà thôi. Đó là lý do giải thích tạisao tại người Chăm không di cư ra khỏi địa bàn cư trú của họ và tại nhiều nơi,nhất là ở Bình Thuận, người Chăm định cư tại một làng cách xa nơi sinh quán cũcả trăm cây số nhưng vẫn muốn lệ thuộc về hành chánh và nghi lễ tại làng cũ. ĐạoHồi khi du nhập vào đây cũng phải thích nghi với tâm lý tôn thờ thần linh củangười Chăm để được chấp nhận và đã biến cải thành đạo Bani. Tất cả chỉ vì ngườiphụ trách lễ nghi và sổ bạ hành chánh địa phương là các thầy Paseh, Tapah (nếu làgiáo dân đạo Bà La Môn) và các thầy Char, Po Adhya, Po Bac (nếu là giáo dânđạo Bani). Đây là một khó khăn về quản trị hành chánh mà các chính quyền ngườiKinh không hiểu nổi và muốn xóa bỏ, nhiều tranh chấp đáng tiếc đã xảy ra. Nhiều người sẽ hỏi dân số vương quốc Chiêm Thành xưa bây giờ ở đâu ?Không lẽ đã bị tiêu diệt hết sao ? Con số 100.000 người Chăm tại Bình Thuận vàChâu Đốc có phản ánh đúng sự thật không ? Câu trả lời là không và dân chúng gốc Chăm vẫn còn nguyên vẹn. Người Chămđồng bằng không đi đâu cả, họ đã ở lại trên lãnh thổ cũ tại miền Trung và với thờigian đã trở thành công dân Việt Nam một cách trọn vẹn. Có thể nói không mộtngười Việt Nam nào sinh sống từ lâu đời tại miền Trung nào mà không mang ítnhiều dòng máu Champa trong người. Điều này cũng rất dễ khám phá, ít nhất là vềhình dáng : da ngăm đen, vai ngang, mặt vuông, tóc dợn sóng, vòm mắt sâu, mắtbầu dục hai mí, mũi cao, môi dầy, miệng kín. Cũng không phải vô tình mà cáchphát âm của người miền Trung khác hẳn phần còn lại của đất nước, với nhiều âmsắc thấp của người Champa. Đó là chưa kể những danh từ có nguồn gốc Champa.Cũng không phải tình cờ mà các điệu múa hát của người Chăm trở thành nhữngđiệu múa hát trong cung đình và ngoài dân gian thời Nguyễn. Nêu ra một vàitrường hợp cụ thể trên chỉ để chứng minh một điều : dân cư vương quốc Champacũ đã hội nhập hoàn toàn vào xã hội Việt Nam. Nhắc lại quá khứ của người Chămcũng là nhắc lại quá khứ của cộng đồng người Việt tại miền Trung nói chung. Về chính trị, vương quốc Champa được tổ chức theo định chế liên bang. Trướckhi bị xóa tên, vương quốc Chiêm Thành là một kết hợp của nhiều tiểu vươngquốc, từ đèo Ngang (Quảng Bình) đến mũi Kê Gà (Bình Thuận). Mỗi tiểu vươngcai trị một lãnh thổ riêng, với một dân số nhất định, sinh hoạt độc lập với các tiểuvương khác và không can thiệp vào nội bộ của nhau. Một cách không chính xác,vương quốc Chiêm Thành cũ (Campapura) có ít nhất năm tiểu vương quốc :Indrapura (Bình Trị Thiên), Amaravati (Quảng Nam), Vijaya (Nghĩa Bình),Kauthara (Phú Khánh) và Panduranga (Bình Thuận). Có thể thêm tiểu vương quốcAryaru (Phú Yên) là sáu, nhưng sự hiện diện của tiểu vương quốc này trong lịchsử Chiêm Thành không rõ ràng. Trong mỗi tiểu vương quốc cũng có sự phân chia quyền hành giữa các lãnhchúa địa phương. Chính sách địa phương tản quyền này đã được triều đình ViệtNam công nhận năm 1471, khi thành Đồ Bàn, kinh đô vương quốc Chiêm Thành,vừa bị đánh chiếm : đất Quảng Nam được chia thành nhiều lãnh địa khác nhau vàgiao cho những lãnh chúa Champa địa phương cai quản. Vương quyền trung ươngChiêm Thành chỉ giữ vai trò thần quyền, gìn giữ sự thống nhất và sự vẹn toàn lãnhthổ mà thôi, những sinh hoạt khác đều do các tiểu vương quốc địa phương đảmnhiệm. Khi có nhu cầu hay gặp nguy biến, triều đình trung ương nhân danh thầnlinh bảo vệ vương quốc kêu gọi các tiểu vương địa phương đóng góp nhân tài, vậtlực xây dựng đền đài, chuẩn bị chinh chiến hay triều cống các thế lực lớn mạnhhơn. Vị thần bao vệ vương quốc Chiêm Thành được biết đến nhiều nhất là nữ thầnYan Po Nagar (Bà Mẹ Đất Nước hay Thiên Y Thánh Mẫu), đền thờ đặt tại XómBóng, Nha Trang. Về biên giới, lằn ranh phân chia giữa các tiểu vương quốc và vương quốcChiêm Thành cũ với các thế lực chính trị đương thời là một biên giới thần quyền,không ai được quyền vượt qua và cũng không ai có quyền xâm phạm. Vương triềuChiêm Thành không có tham vọng đất đai, họ chỉ tập trung phát triển và bảo vệnhững đất đai thuộc quyền sở hữu mà thôi. Những chuyển biến lịch sử sau đâychứng minh điều đó. Source: jashaklikei.wordpress.com
0 Rating 418 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On January 8, 2014
Từ đỉnh núi MAHA giáp ranh giữa xã nhơn thành và phù cát( bình định), nhìn xuống về hướng tây, ta như thấy ẩn hiện đâu đó thành cổ đồ bàn trong nắng hoàng hôn.Dòng sông kôn lưỡng lề uống quanh những cánh đồng lúa xanh rờn.Phía bắc thành đồ bàn là tháp Phú lốc, phía tây thành là tháp cánh tiên và phía nam xa xa là tháp bánh ít.(Phía tây thành có lăng Võ Tánh và Ngô Tùng châu.) Gần chân thành này có 2 con voi đá và 2 con sư tử đá đang trầm mặc với thời gian.Đây, điện các huy hoàng trong ánh nắngNhững đền đài tuyệt mỹ dưới trời xanh Đây, chiến thuyền nằm mơ trên sông lặng Bầy voi thiêng trầm mặc dạo bên thành Gốm Champa,mà đỉnh cao là gốm Bình Định thế kỷ X- XV, ngay từ dáng vẻ độc đáo, sắc men thâm trầm của nó đã chứa đựng ẩn ngữ của tâm hồn, là một lời mời gọi, hướng vọng đến những kẻ tha nhân cất bước, sống trọn một hành trình,hướng vọng của những linh hồn đồng điệu.Vậy mà phần hồn rất đỗi thân thương ấy, từ lâu nay, đã chẳng được các bậc thức giả chú ý. Cứ nghĩ đến nền nghệ thuật Champa, người ta nghĩ ngay đến những đền tháp (kalan) nguy nga, huyền diệu còn sót lại đó đây hay chỉ là phế tích chìm sâu trong lòng đất từ Ngũ Quảng đến Bình Thuận, đến những đường nét chạm khắc “ thần thái nguyên sơ lung linh từng khuôn mặt, lửa bật ra từ những khối săn dòn” (Trần Kỳ Phương). Gốm Champa, mộc mạc mà thô phác, suốt mấy thế kỷ, lặng lẽ và im lìm trong lòng đất hay lưu lạc đến những xứ miền xa xôi nào đó, trong tấm lòng trân trọng mà vẫn còn là bí mật, kể từ nguồn gốc, đối với các sưu tập gia thế giới. Có một phần linh hồn Chàm ẩn khuất trong từng dáng gốm, màu men, nét vẽ, có một phần của đất và nước “ xứ trầm hương” hóa thân thành những tác phẩm nghệ thuật, mang tải linh hồn của một dân tộc.Nếu có nhắc đến gốm Champa, người ta lại chỉ nghĩ đến truyền thống nung ngoài trời với lò di động hay kiểu nung chấy củi ở ngoài trời, những sản phẩm thô không men thời tiền Vijaya hay tận bây giờ còn thấy ở Bàu Trúc (Bình Thuận), để rồi từ đó, có người đâm ra nghi ngờ chủ nhân Champa của những lò gốm ở Bình Định thế kỷ X- XV.Gốm Champa giai đoạn Bình Định thế kỷ X- XV, sẽ còn là bí mật nếu không có những hoạt động tích cực, những ghi nhận đầu tiên của các nhà khảo cổ học miền Nam lúc đó (nhóm Nguyễn Bá Lăng, Nghiêm Thẩm... thuộc Viện Khảo cổ học Sài Gòn) vào đầu thập kỷ 70 và tiếng nói khẳng định nguồn gốc Chăm của nó trong luận văn “ Giám định niên đại gốm Đông Nam Á (The ceramics of South- East Asia- their dating and indentification) mười năm sau đó của Roxana Brown. Nhưng những phát hiện đó cũng nhanh chóng đi vào quên lãng. Phải đến thập kỷ 90, với những cuộc khai quật khảo cổ học tiến hành ở Bình Định các nhà khảo cổ học trong nước và sau đó, với sự hợp tác của các đồng nghiệp Nhật Bản, đã tiến hành đào thám sát rồi khai quật khu Gò Sành, phát hiện thấy lò gốm ở đây thì vấn đề nguồn gốc và chủ nhân Chăm của chúng mới được khẳng định chắc chắn. Từ đây, những ẩn ngữ của gốm - một trạng thái của linh hồn Chàm mới cất tiếng:Đây, những tháp gầy mòn vì mong đợi Những đền xưa đổ nát dưới thời gianNhững sông vắng lê mình trong bóng tốiNhững tượng Chàm lở lói rỉ rên thanĐây những cảnh ngàn sâu cây lả ngọn Muôn ma Hời sờ soạng dắt nhau điNhững rừng thẳm bóng chiều lan hỗn độnLừng lửng đưa nơi rộn rã tiếng từ quy Đây chiến địa đôi bên giao trận Muôn cộ hồn tử sĩ thét gầm vangMáu Chàm cuộn tháng ngày niềm uất hậnXương Chàm tuôn rào rạo nỗi căm hờn Gốm Champa giai đoạn này phát triển cực thịnh, song trùng với bước thiên di lớn của dân tộc Champa, cất bước từ đô thành Trà Kiệu, theo tiếng gọi “ hướng vào Nam”, đóng đô mới trên mảnh đất Bình Định “ không đồng khô cỏ cháy, năm dòng sông chảy, sáu dãy non cao, biển Đông sóng vỗ rạt rào” (ca dao), mở ra một giai đoạn cực thịnh, thấm đẫm vinh quang và nước mắt của cả một dân tộc. Một trăm năm chinh chiến với Khmer để giành độc lập dân tộc, cuộc kháng chiến hợp lực với Đại Việt để chống quân xâm lược Nguyên Mông, và sự bành trướng của đại việt... Từ những thế kỷ đau thương, từ cuộc sống thấm đẫm vinh quang và tủi nhục, thăng hoa lên thành nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc phong cách Bình Định (tháp Mẫm). Để rồi đến cuối thời kỳ Vijaya, khi đã giành được độc lập dân tộc, khi vương quốc Champa đã dần dần thịnh trị và phát triển toàn diện về mọi mặt, các mối quan hệ bang giao trong và ngoài khu vực đã mở ra, trên cơ sở sự cần cù và khéo léo của bàn tay người thợ Chăm, gốm Champa đột biến, đạt được thành tựu quan trọng, từ ứng dụng vươn lên thành nghệ thuật.Một giai đoạn cực thịnh của gốm Champa, vào nửa sau thời kỳ Vijaya, mới được khám phá. Dẫu cho đến nay, đã và đang có những ý kiến nghi ngờ về chủ nhân Champa của những lò gốm này, sự nghi ngờ chỉ căn cứ đơn thuần vào một số nét khác biệt có tính tìm tòi so với bản sắc văn hóa gốm sứ của người Champa. Những sản phẩm có xương gốm đục xám với màu men đơn sắc hay đa săc ấy, một mặt cho ta thấy, đã kế thừa truyền thống gốm Sa Huỳnh vào khoảng thế kỷ V trước công nguyên, đã được phủ một lớp men chì nhẹ lửa tuy chưa bóng, cũng như gốm Champa giai đoạn trước mà các cuộc khai quật, chẳng hạn ở Trà Kiệu, đã tìm ra đặc trưng của nó... Sự kế thừa đó, thể hiện qua một số điểm về kỷ thuật, tạo dáng và trang trí cũng như loại hình đặc trưng Champa. Mặt khác có sự phát triển vượt bậc về kỹ thuật là kết quả của những ảnh hưởng từ các trung tâm gốm khác (mà các sản phẩm của chúng đã được tìm thấy ở nhiều địa điểm khảo cổ trên đất Chăm xưa) cũng như sự sáng tạo về nghệ thuật của chính các thế hệ nghệ nhân Champa xưa.Con sông Kôn uốn quanh đồng bằng Bình Định như chiếc cầu nối liền các trung tâm sản xuất gốm: Trường Cửu (Nhân Hòa- An Nhơn), Lệ Nghi (Nhân Mỹ- An Nhơn), Gò Sành (Nhân Hòa- An Nhơn), Cây Ké và Gò Hời (Tây Vinh- Tây Sơn) với vùng nguyên liệu và tiêu thụ thông qua thương cảng Thị Nại, vươn dài trong và ngoài phạm vi “ xứ Trầm Hương”. Một trong những nét độc đáo của gốm Chăm là dù đã dùng đất sét trắng (kaolin) có sẵn trong khu vực làm nguyên liệu, nhưng dường như quá e ngại với sắc trắng không màu vô bản sắc và vô tình ấy, người thợ Chăm đã pha thêm đất sét đỏ, bã thực vật và cát với tỉ lệ thích hợp vừa tạo độ sâu cho sắc gốm, vừa tăng độ bền cho sản phẩm. Những sản phẩm gốm ấy, được nghệ nhân Chăm tạo tác qua bàn tay sử dụng thành thạo bàn xoay, làm cho gốm có độ mịn cao, độ dày của xương gốm đều, dáng rất cân xứng, sự hòa điệu của sắc men thâm trầm, dáng gốm thô mộc mà thanh nhã đã tạo dáng vẻ kỳ diệu. Cộng thêm vào đó là men, những sắc men đa dạng với nhiều sắc độ: men xanh nhạt, xanh xám, xanh xám đậm, xanh phớt xám, vàng nhạt, vàng nâu, vàng chanh, nâu sẫm, nâu nhạt, đen xám, đen sẫm, đen nhạt, trắng ngà, trắng đục, trắng sữa. Men được phủ lên, đơn sắc hay đa sắc, đâu chỉ ở các sản phẩm gốm dân dụng mà cả ở một số vật liêu kiến trúc bằng gốm sứ. Trên cơ sở sự đa dạng về loại hình và kích cỡ, bàn tay tài hoa của người thợ Chăm thao tác với bình, lọ, chậu, ấm, nồi, chén, bát, đĩa, cốc... những tác phẩm mỹ thuật như tượng, phù điêu trang trí và cả ở vật liệu xây dựng. Họ vẽ chìm lên xương gốm rồi phủ men lên đó. Những nét vẽ mảnh mai, phóng khoáng, dù là vạch vào thân gốm hay múa bút trên men, một lớp men dày, đều và màu không ổn định đã tạo ra một dáng vẻ độc đáo riêng. Các dạng đề tài trang trí khá đơn giản gồm hoa văn sóng nước, hoa lá, cánh sen, hoa cúc, hoa dây, một số hình ảnh rồng, chim, thú, mặt kala, maraka, tạo cho gốm một phong cách Chăm đậm đà. Riêng tai Gò Sành, kiểu hoa văn in khuôn, trên nền men đơn sắc với hai màu chủ đạo là xanh ngọc ngả xám và vàng cháy phổ biến hơn, không có gì độc đáo hơn sự pha màu tự nhiên của sắc men và xương gốm, của tạo dáng và trang trí. Tất cả, tạo thành dáng vẻ, vừa lạ lẫm, vừa gần gũi,thô mộc mà ấm áp, chứa đầy bí ẩn tự một cõi linhchỉ có thể cảm nhận và khám phá.Gốm, đó là nghệ thuật chơi với lửa. Lửa thăng hoa đất thành linh hồn. Những lò nung gốm Champa độc đáo đã được khám phá, cho thấy có khác biệt với lò rồng (phía Bắc). Điều dễ thấy là lò hình ống được xây dựng rất lớn cho phép nung được nhiều sản phẩm. Tường lò dày, có tác dụng giữ nhiệt cao, làm bằng nguyên liệu tại chỗ. Các hệ thống cửa đốt, cửa tiếp lửa, hệ thống thóa khí và thông gió đã được hoàn chỉnh. Những yếu tố có tính kỹ thuật này cho phép tạo ra những sản phẩm gốm đạt chất lượng cao, độ cứng tốt. Tại lò Cây Mận đã phát hiện một kiểu đốt lửa độc đáo: lửa đốt từ bầu lò, dẫn qua ống, phả lên trần lò, có khả năng giữ nhiệt đều, ít gây bụi bám cho sản phẩm. Kĩ thuật vốn vô hồn, nhưng ở đây, kĩ thuật đã thăng hoa cho nghệ thuật. Qua lửa ẩn hiện cả một thế giới hồn của đất và nước champa.Đặt gốm Chăm-pa ở Bình Định thế kỷ XIV- XV vào lịch sử chung của truyền thống gốm Chăm-pa cho thấy đây là thời kỳ phát triển rực rỡ nhất và được công nhận về giá trị không thua kém các trung tâm khác đương thời. Dấu tích gốm Bình Định tìm thấy ở malaysia ,philippin ,indosia Trung Cận Đông... đã chứng minh cho sự công nhận ấy. Việc khẳng định chủ nhân Chăm cho các trung tâm sản xuất gốm này là có cơ sở, căn cứ vào sự khu biệt giữa lò ở đây và lò phía Bắc, kiểu dáng, men và kĩ thuật trang trí mang rõ đặc trưng Chăm, trong đó có một số sản phẩm thuần Chăm. Tuy nhiên, khi mà vào thế kỷ X- XV, với sự giao lưu mạnh mẽ về kinh tế và văn hóa trong và ngoài khu vực, chắc chắn gốm Champa có chịu ảnh hưởng của các trung tâm khác như gốm Sungkalok (Sukhothai- Thái Lan), đặc biệt là ảnh hưởng của kĩ thuật gốm men nâu phía Bắc Việt Nam. Sự hỗ tương văn hóa bao giờ cũng tạo ra những điều kỳ diệu.Nhìn những sản phẩm gốm thô phác, giản dị như chính hơi thở của trời và biển, ta chìm đi trong vẻ đẹp nguyên sơ của đất và lửa, của sự kết hợp tính vật chất và trừu tượng, của những nét chạm khắc ẩn chứa sức sống di truyền của cả một dân tộc. Đó là vẻ đẹp độc đáo, khác với cái cầu kỳ, sang trọng của gốm sứ Tàu, khu biệt với vẻ giản dị, chắc khoẻ, phóng khoáng, đầy chất dân dã của gốm Việt. Những sản phẩm có xương gốm nặng đục, dày ẩn qua một màu men tiến dần đến đơn sắc, u trầm như một điệu Nam ai hơi oán, mang trong nó màu của cỏ cây, của đất và nước, của những con người Chăm-pa trầm nhã mà cuồng say ẩn chứa. Cái đẹp khỏe khoắn, cuồng say ấy, họ đã phổ vào trong điêu khắc, trong những vũ điệu Chàm mang “ tiết tấu biển cả” (chữ của GS Cao Xuân Phổ), một trong ba yếu tố chính hợp thành truyền thống Đông Sơn. Đặc biệt đến thời kỳ Vijaya, những ngọn tháp Chăm ngự trên đỉnh đồi, thu mình trong ngôn ngữ của hình khối, vươn mình lên thành những mũi giáo, những nét vươn cao của các tầng diềm mái, như chính là sự khẳng định bản lĩnh của dân tộc mình. Còn nét trầm nhã- u buồn của linh hồn Chàm, họ đã biểu hiện qua gốm mà mỗi sản phẩm là một thế giới bí mật của những giấc mơ về cái đẹp mà chỉ những ai biết lắng lòng mình lại trước thường tại của cuộc đời, để cả đời mình hòa điệu mới có căn duyên để lắng nghe ẩn ngữ của gốm, tiếng nói của một mảnh linh hồn Chàm. Không chỉ là tiếng vọng của quá khứ mà chính là hiện tồn trong thực tại, bởi gốm Champa đã đi trọn một hành trình từ đất qua lửa, được thổi tâm hồn bằng bàn tay của người nghệ nhân Chàm vô danh. Gốm cất bước vào đời như một tiếng nói vượt thắng qua không gian và thời gian, qua những biên giới hữu hạn của cuộc đời. Gốm Champa đẹp, cái đẹp nguyên sơ và giản dị như đất, như chính những linh hồn Chàm thâm trầm mà dâng trào một sức sống mãnh liệt qua nắng và gió để dựng xây một trong những nền văn minh rực rỡ nhất Đông Nam Á.Từ gốm và qua gốm cho thấy ở giai đoạn Vijaya, người Chăm đã tiếp cận đến đỉnh cao trong sáng tạo nghệ thuật, trình độ thưởng thức và sáng tạo những giá trị văn hóa. Bởi vậy, bên cạnh vẻ đẹp rực rỡ của phong cách Tháp Mẫm với ngôn ngữ hình khối chắc khỏe trong kiến trúc, vẻ chững chạc, gân guốc trong điêu khắc đạt đến đỉnh cao vào nửa đầu giai đoạn Vijaya, thì gốm và những trung tâm sản xuất gốm ở Bình Định thế kỷ X- XV, đỉnh cao của nghệ thuật gốm Champa cũng phải được xem như một thành tựu của nghệ thuật Chăm, hợp thành phong cách Bình Định độc đáo của thời kỳ nghệ thuật đẳng trung (art secondaire) trong nền nghệ thuật Chàm, đáng lưu tâm, sưu tập, bảo tồn và nghiên cứu. Giá trị của chúng cùng với những đền tháp “ lở lói với thời gian” sừng sững trong ánh chiều tà Bình Định, là một phần cuộc sống của dân tộc Chăm còn hiển hiện và nó “ sẽ mãi mãi là một trong những cái cao quí nhất mà nhân loại đã tưởng tượng ra để được tha thứ cho cái tội đã lỡ sinh trên kiếp trần này”.Hiện có 14 công trình kiến trúc tập trung tại 8 địa danh như: Bánh Ít; Dương Long; Hưng Thạnh; Cánh Tiên; Phú Lốc; Phú Thiện; Bình Lâm và Hòn Chuông. Ngoài ra còn có 4 tòa thành cổ gồm Thị Nại, Đồ Bàn, Nhơn Thành, Uất Trì và hàng loạt các tác phẩm điêu khắc, những phế tích của tháp Champa như giếng cổ hình vuông; rắn Naga; trụ văn bia; tượng thần điểu Garuda; phù điêu Lăng Ông; tượng tu sĩ; khu mộ cổ,đều được phát hiện tại Bình Định. Trong tất cả các cổ vật phát hiện được, đáng chú ý là di vật tượng tu sĩ ở chùa Linh Sơn, thuộc thôn Hải Giang, xã Nhơn Hải, Tp. Quy Nhơn. Những cư dân ở đây trong lúc đang canh tác đã phát hiện bức tượng chôn sâu dưới lòng đất và đã đào lên đem hiến cho chùa. Dân địa phương gọi là chùa “Phật lồi”. Ở Quy Nhơn hiện vẫn còn dấu vết các lăng mộ cổ của người Champa tại xã đảo Nhơn Châu. Lịch sử Champa từ thời hoàng kim đến lúc suy vong đã trải dài trên 2000 năm đã lưu lại cho hậu thế hàng chục ngôi cổ tháp với những kiểu kiến trúc, chạm trỗ độc đáo, bí hiểm.Ở khu vực duyên hải miền Trg hiện có trên 19 khu tháp với hơn 40 ngôi thấp cổ lớn nhỏ.Huyền thoại về con tàu chở kho báu Champa??? Ch. Lemire đã mô tả các tháp cổ Champa được phân bố ở tỉnh Bình Định trong tác phẩm “Les Tours Kiames de la Province de Binh Dinh” (Sài Gòn 1980) như sau: “Trong các tháp có các tượng, rất có thể chúng bằng vàng hoặc bằng bạc, có mắt bằng ngọc và răng bằng kim cương. Chúng đã bị lấy mất ngay từ đầu. Những tượng bằng đá có thể bị lấy đi ngay sau đó. Người ta đã đào các bức tượng để bóc gỡ các tranh thánh đã được gắn vào đó. Các tháp Bạc (người Việt Nam quen gọi là tháp Bánh Ít) phô bày hàng loạt công trình đáng lưu ý, phần lớn các tượng đều bằng vàng hoặc bằng đá thếp vàng. Tượng cuối cùng che vòm đã được mang sang Pháp năm 1886. Gần 80 tấn đá chạm được dành cho Bảo tàng Lyon đã được tàu Mêkông chuyển về Pháp dưới sự coi sóc của Tiến sĩ Maurice. Tàu Mêkông bị đắm ở Hồng Hải và những người Somalis tưởng rằng đã tìm thấy kho báu nên đã đem vào bờ một số lớn những hòm nặng này, nhưng họ chỉ tìm thấy đá và đá…”Bức màn bí mật bao quanh số phận của con tàu Mêkông đã thách đố các nhà khoa học, giới săn lùng cổ vật và cả những kẻ hiếu kỳ hơn 100 năm. Trong số những người tìm cách sở hữu kho báu trên tàu Mêkông có giáo sư Robert Stenout (Pháp) và sau hơn 30 năm mày mò nghiên cứu ở hàng trăm thư viện, sở lưu trữ văn khố, các hải cảng, nhiều hãng tàu biển… Đến tháng 10.1995, R.Stenout đã khoanh vùng một cách chính xác vị trí mà tàu Mêkông bị đắm tại mũi Guadaqui ở biển Hồng Hải. Theo R.Stenout, Mêkông là một con tàu lớn được thiết kế với hai chức năng chở khách và chở hàng nhưng điều này không làm ảnh hưởng đến sự thanh nhã của nó. Những năm đầu thế kỷ, do còn hạn chế về kỹ thuật, hành trình Đông Dương-Pháp là một hành trình dài, mất nhiều ngày, nên Mêkông được xây dựng, bài trí hoàn hảo, sang trọng và nguy nga như một cung điện di động trên mặt biển. Chuyến tàu viễn dương định mệnh của tàu Mêkông vào năm 1906 chở theo 180 sĩ quan thủy thủ, 66 hành khách cùng với rất nhiều tấn cổ vật bằng và và một khoang bí mật chứa đầy hàng mà theo khảo sát ban đầu của đội thợ lặn thuộc tàu Scorpio do thuyền trưởng Campell chỉ huy (tàu Scorpio là con tàu mà Stenout sử dụng trong cuộc khai quật của mình) thì hàng trăm nghìn thoi vàng có trong khoang hàng bí mật này như huyền thoại về Mêkông đã lan truyền là có thật.Tuy nhiên, chỉ vài ngày sau khi định vị được tàu Mêkông và kho báu bí mật thì nước có chủ quyền trên vùng lãnh hải mà tàu Mêkông bị đắm đã xảy ra một cuộc nội chiến khốc liệt, việc thu hồi kho báu trên tàu Mêkông đành dừng lại…kho báu mà tàu Mêkông có n/vđưa về Pháp chủ yếu được thu gom trên khu vực Vijaya từ Q.Nam đến B.Thuận và chắc chắn đây chưa phải là kho báu duy nhất của Champa.Theo một truyền thuyết thì trên chóp đỉnh của Tháp Đôi, cụm tháp gồm hai chiếc nằm ở TP. Quy nhơn có 2 quả cầu lớn làm bằng vàng ròng. Cả hai khối vàng này đã bị các thủy thủ người da trắng của một chiếc tàu châu Âu đến cướp đoạt và mang xuống tàu sau một cuộc tấn công chớp nhoáng. Người Champa cổ không quá đề cao giá trị của vàng và sử dụng chúng với khối lượng lớn một cách khá phổ biến trong các công trình kiến trúc đền tháp của mình. Có thể lý giải rằng đó là do dân tộc này được tạo hóa ưu đãi quyền sở hữu nhiều mỏ vàng có trữ lượng phong phú. Vàng được đem đi đúc tượng thần để thờ, đúc phù điêu và dát lên các tượng thờ để trang trí… Truyền thuyết cũng cho biết rằng người Champa sau khi dựng tượng vàng ở các đền tháp thường quét lên thân tượng một lớp sơn đặc chế. Kho báu Champa được nhắc đến từ khá lâu bởi các nhà khoa học Pháp. Kho báu cuối cùng, nơi lưu giữ những gì còn lại của Vương triều Champa đã được đề cập trong tác phẩm Un Royaume Disparu – Les Chams et Leur Art-1923 (Pháp). Sự giàu có đầy bí ẩn của Vương quốc Champa có thể đúng như các công trình nghiên cứu khoa học đã công bố. Nhưng ngay cả khi sự thật không phải là như thế thì với việc thừa hưởng 14 quần thể tháp Champa cổ còn lại đến nay, có thể khẳng định rằng – Bình Định đang sở hữu một phần kho báu của nhân loại. Ngàn năm còn một chút này…Ở Tp. Quy Nhơn có 2 ngọn tháp đứng kề nhau, dân gian gọi là Tháp Đôi. Các tư liệu xưa còn ghi chép Tháp Đôi là tháp Hưng Thạnh. Vào ngày 10.7.1980, Tháp Đôi được nhà nước xếp hạng vào danh mục những di tích lịch sử-văn hóa quốc gia. Tháp Đôi được tiến hành trùng tu đầu tiên ở Bình Định và được các nhà nghiên cứu xếp vào loại di sản độc đáo của nghệ thuật kiến trúc Champa. So với các ngọn tháp khác trong tỉnh, trong vùng Tháp Đôi không hề giống bất kỳ một ngôi tháp cổ nào hiện có. Thế nhưng các nhà khoa học đến nay vẫn chưa tìm ra lý do khác thường nầy. Tháp Đôi xây dựng vào khoảng cuối thế XII.Cùng với di tích Tháp Đôi, chúng ta ngược lên vùng “Tây Sơn hạ đạo”, để chiêm ngưỡng cụm tháp Dương Long.Ngày xưa người Pháp gọi đây là “Tháp Ngà”, dân địa phương thì gọi là tháp An Chánh. Tháp Dương Long có 3 tòa tháp cổ với chiều cao từ 29 đến 36 mét. Các hệ thống cửa giả phần lớn đã bị sụp đổ, hư hỏng. Tuy vậy nhìn vào các tác phẩm điêu khắc còn sót lại giúp ta liên tưởng đến những nghệ nhân Champa đã từng dày công sáng tạo một nền văn hóa độc đáo. Nhiều nhà nghiên cứu hiện nay đã xác định niên đại của tháp vào khoảng nửa sau thế kỷ 12. Đây là cụm di tích thứ 2 được Bộ văn hóa xếp hạng cùng lúc với Tháp Đôi Quy Nhơn. Sau hai cụm Tháp Đôi và tháp Dương Long, là tháp “Cánh Tiên” và tháp “Bánh Ít”. Tháp Cánh Tiên được người Champa xây dựng ngay ở trung tâm thành Đồ Bàn, nay thuộc địa phận xã Nhơn Hậu, h.An Nhơn, tỉnh Bình Định.Được biết vào tháng 11.2004 vừa qua, tháp Cánh Tiên đang được Chính phủ CHLB Đức tài trợ 100.000 Euro để trùng tu, khôi phục. Theo tài liệu của người Pháp thì tháp Cánh Tiên còn được gọi là “Tháp Đồng”, nhưng vì sao có tên gọi nầy thì vẫn chưa xác định được nguồn gốc. Tháp cao khoảng 20 mét, trông xa giống như đôi cánh của nàng tiên trong chuyện cổ tích đang bay lên trời xanh. Khác với các tháp Champa khác, tháp Cánh Tiên được xây dựng một phần bằng chất liệu đá sa thạch, xung quanh có nhiều phù điêu chạm khắc tạo cho ngôi cổ tháp một dáng vẻ độc đáo.Khác với “Cánh Tiên”, cụm tháp“Bánh Ít” có đến 4 tòa tháp lớn nhỏ khác nhau. Gọi là tháp Bánh Ít bởi vì khi đứng xa trông cụm tháp giống như những chiếc bánh ít lá gai-một sản vật thường thấy trong các dịp cúng lễ, giỗ chạp ở miền Trung. Người Pháp gọi đây là “Tháp Bạc”. Tất cả đều nằm trên một đỉnh đồi thuộc địa phận xã Phước Hiệp, huyện Tuy Phước, cách TP. Quy Nhơn khoảng 20 km. Bốn ngôi cổ tháp đều có các tượng thờ, hình vũ nữ đang múa, hình voi, hình các vị thần linh. Kiểu trang trí làm cho ta có cảm giác như đang lạc vào thế giới thần bí của người Champa cổ xưa. Cũng tại Bình Định còn có tháp Bình Lâm nằm ở xã Phước Hòa (Tuy Phước) Người dân ở đây kể lại rằng: thôn Bình Lâm là nơi có những cư dân người Việt lần đầu tiên đến đây khai phá mở mang vùng đất phì nhiêu này. Trong hệ thống tháp Champa Bình Định, thì tháp Bình Lâm là nhóm tháp cổ có niên đại sớm nhất.Một cụm di tích khác có tên là tháp Thủ Thiện, còn gọi là “Tháp Đồng” hiện đang tồn tại ở xã Bình Nghi (Tây Sơn) nằm bên Quốc lộ 19. Năm 1995 ngọn tháp nói trên được xếp hạng di tích Nhà nước. Tuy vậy, cũng giống như các cụm di tích tháp Champa khác ở Bình Định, ngọn tháp Thủ Thiện hiện đang bị đổ nát nghiêm trọng. Nhiều di tích, cấu trúc của ngọn tháp đã bị thời gian và con người phá hủy. Di tích cuối cùng được xếp hạng cùng lúc với tháp Thủ Thiện là tháp Phú Lốc .Người Pháp đặt tên là “Tháp Vàng”. “Phú Lốc” nằm giáp giới giữa 2 huyện An Nhơn và Tuy Phước. Tháp nằm trên đỉnh một quả đồi cao 76 mét so với mực nước biển. Ngọn tháp đã bị đổ nát khá nhiều, tuy vậy nhìn một cách tổng quát vẫn thấy được dáng vẻ bề thế, uy nghi của một công trình kiến trúc cổ. Ngoài 7 cụm tháp ở Bình Định đã được Nhà nước xếp hạng, hiện nay vẫn còn một số di tích tháp cổ khác chỉ còn chân đế, hoặc đã bị sụp đổ do người dân đào bới tìm vàng, trong đó có tháp “Hòn Chuông” ở huyện Phù Cát. Ngôi tháp này cùng nhiều tháp Champa khác đang chờ Nhà nước trùng tu.Có thể nói rằng, 8 cụm tháp với tổng số 14 tòa tháp cổ còn lại trên đất Bình Định được xem như một loại tài sản vô giá mà lịch sử đã ban tặng cho miền Trung nước ta. Những bí ẩn về tháp Champa mặc dù đã được tìm hiểu nghiên cứu từ cả chục năm nay, tuy vậy cũng chỉ là những nghiên cứu bên ngoài. Chúng ta tin rằng còn khá nhiều điều kỳ lạ, nhiều huyền thoại lý thú cần làm sáng tỏ.Thanh Trà
0 Rating 607 views 3 likes 0 Comments
Read more