Trong vài trăm năm trở lại đây người ta chỉ hiểu câu chuyện tình sử Vua Chế Mân và Công Chúa Huyền Trân qua thi ca còn truyền tụng đến ngày nay của một vài tác giả ngày xưa viết theo cảm tính tự tôn và phiến diện . Cũng theo lối mòn đó, ngày nay những tập san văn nghệ, báo chí cũng thường hay dựa vào câu thơ do bia miệng truyền lại để viết về tình sử Chế Mân và Huyền Trân không được chính xác đầy đủ bởi vì thiếu sự kiện bối cảnh lịch sử .
Như sử gia Trần Trọng Kim đã nói: Việt Nam đến thế kỷ thứ 13 mới có lịch sử; mà các sử gia là những người làm việc dưới quyền chỉ đạo của Vua chúa, cho nên sự kiện lịch sử chưa hẳn đã được ghi lại trung thực, mà thường hay bị chính trị bóp méo ngòi bút của sử gia.Cho nên theo thiển kiến của tác giả viết bài này, chúng ta cần phải suy luận và dùng quan điểm cá nhân để soi sáng lại phần sự kiện lịch sử nào đôi lúc xét thấy còn mập mờ .
Năm 1479, sử thần Ngô Sĩ Liên là người đầu tiên tuân lệnh Vua Lê Thánh Tông sử dụng truyền thuyết dân gian để biên soạn lịch sử: Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. Mà đã là truyền thuyết thì không thể hoàn toàn là sự thật vì truyền thuyết được nhân gian tưởng tượng thêu dệt bằng những chi tiết ly kỳ nên có phần mang tính hư cấu của nó . Do đó để tránh sự hiểu biết lệch lạc về cuộc hôn nhân giữa Huyền Trân Công Chúa và Vua Chế Mân, ít ra cũng nên hiểu biết sơ qua về bối cảnh lịch sử của thời Vua Trần Nhân Tông Đại Việt và Vua Chế Mân Chiêm Thành, vì từ bối cảnh lịch sử đó mới đưa đến cuộc tình lịch sử đầy vương giả nàỵ
Bối cảnh lịch sử thời Vua Trần Nhân Tông và Vua Chế Mân
Năm 1253, đế quốc Mông Cổ Hốt Tất Liệt xua quân xâm lăng Trung Hoa đời nha` Tống, dựng nên nhà Nguyên gọi là thời kỳ Nguyên Mông hay gọi tắt là nha` Nguyên bên Tàu .
Theo Việt Nam Sử Lược, sau khi tiêu diệt nhà Tống Trung Hoa, nhà Nguyên bắt đầu xâm lăng Đông Nam Á . Trong phạm vi bài này, chỉ xin nói đến giai đọan lịch sử đời Trần Nhân Tông và Chế Mân ở Đông Dương theo tiến trình lịch sử như sau:
1258-1288: Nhà Nguyên xâm lăng Đại Việt
Trong giai đọan 30 năm lịch sử này, nhà Nguyên 3 lần tiến quân sang xâm lăng Đại Việt nhưng đều thảm bại vì sự chống trả quyết liệt của Đại Việt . Tuy ngăn chận được ý đồ xâm lăng của quân Nguyên, nhưng Đại Việt vẫn thần phục nhà Nguyên dưới hình thức dâng cống phẩm hàng năm để tạo sự hiếu hoà giữa hai dân tộc và đây cũng là sách lược ngoại giao của Vua Trần Nhân Tông có tánh cách nhún nhường cả nể một chút để bảo tồn sự độc lập của một nước nhỏ bé bên cạnh nước phương bắc khổng lồ luôn có ý đồ thôn tính các nước liên bang. Do đó lúc nào Đại Việt cũng lo âu phập phồng đối với mộng xâm lăng bành trướng của đế quốc phưong bắc có thể xảy ra bất cứ lúc nào .
Nằm trong giai đoạn 30 năm lịch sử này của Đại Việt, vào năm 1284-1285 Vua Chế Mân Champa đã đem quân cứu viện cho Vua Trần Nhân Tông để đánh bại cuộc xâm lăng của quân Nguyên ở Nghệ An .
1282-1284: Dưới sự thống lãnh của Toa Đô, nhà Nguyên ào ạt xâm lăng Champa nhưng bị Vua Chế Mân giáng trả oanh liệt đánh bại quân Nguyên lui về cố quốc.
1292:Trên đường rút quân khỏi đảo Sumatra của nước Java (Nam Dương), quân Nguyên đổ bộ lên bơ` biển Champa lại bị Vua Chế Mân đánh bạt ra biển Nam Hải để lại cả trăm chiến thuyền tan nát và hàng vạn xác chết nằm ngổn ngang bên bờ cát trắng của miền biển Champa .
Kể từ 1253 khi Hốt Tất Liệt tiêu diệt được nhà Tống và lập nên nhà Nguyên cho đến khi Hốt Tất Liệt qua đời vào năm 1294, đây là giai đoạn lịch sử làm cho Đại Việt thời Trần Nhân Tông và Champa thời Vua Chế Mân vô cùng khốn khổ với mộng xâm lăng của quân Nguyên, và hai nhà Vua của hai quốc gia Việt – Chiêm dựa lưng vào nhau để chống quân Nguyên, đó cũng là lý do Trần Nhân Tông và Chế Mân rất có hảo cảm với nhau .
Vài đặc điểm của Vua Trần Nhân Tông và Vua Chế Mân
Vua Trần Nhân Tông
Một vị Vua anh hùng ái quốc (đánh đuổi quân Nguyên) và nhân hậu (Toa Đô nhà Nguyên tử trận lúc tấn công Đại Việt tại mặt trận Tây Kết, Vua Trần Nhân Tông đã cởi áo long bào đắp cho Toa Đô và cho mai táng theo đúng nghi lễ trang trọng).
Là một vị Vua đạo đức không tham quyền cố vị (nhường ngôi cho con là Trần Anh Tông để làm Thái Thượng Hoàng, khoác áo cà sa nghiên cứu kinh Phật, tu hành trên núi Yên Tử).
Trần Nhân Tông làm Vua 13 năm, Thái Thượng Hoàng 14 năm, tất cả là 27 năm và băng hà lúc 51 tuổi .
Vua Chế Mân
Một vị Vua anh hùng ái quốc (đánh đuổi quân Nguyên) và đạo nghĩa (tha tội chết cho một viên chỉ huy quân binh Champa toan toa rập với địch quân (quân Nguyên) nhưng tước hết binh quyền đuổi về quê làm ruộng và còn là một vị Vua nhân hậu (xem xét giấy tờ tùy thân những binh sĩ quân Nguyên đã tử trận trên bờ biển Champa rồi cho hỏa táng riêng biệt từng người, bỏ tro cốt vào hủ sành riêng mỗi người và dán tên họ lên, đồng thời cấp cho một chiếc thuyền, tha tội chết cho 10 tên giặc Nguyên bị bắt sống mang theo tro cốt đuổi về Tàu
Vua Chế Mân làm Vua được 26 năm và băng hà lúc 50 tuổi .
Đại Việt dưới thời Trần Nhân Tông
Guồng máy chính trị quân sự được kiện toàn vững chắc nhờ Vua Trần Nhân Tông và các quan trong triều có nhiều tài đức. Tinh thần dân tộc đoàn
Năm 1479, sử thần Ngô Sĩ Liên là người đầu tiên tuân lệnh Vua Lê Thánh Tông sử dụng truyền thuyết dân gian để biên soạn lịch sử: Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. Mà đã là truyền thuyết thì không thể hoàn toàn là sự thật vì truyền thuyết được nhân gian tưởng tượng thêu dệt bằng những chi tiết ly kỳ nên có phần mang tính hư cấu của nó . Do đó để tránh sự hiểu biết lệch lạc về cuộc hôn nhân giữa Huyền Trân Công Chúa và Vua Chế Mân, ít ra cũng nên hiểu biết sơ qua về bối cảnh lịch sử của thời Vua Trần Nhân Tông Đại Việt và Vua Chế Mân Chiêm Thành, vì từ bối cảnh lịch sử đó mới đưa đến cuộc tình lịch sử đầy vương giả nàỵ
Bối cảnh lịch sử thời Vua Trần Nhân Tông và Vua Chế Mân
Năm 1253, đế quốc Mông Cổ Hốt Tất Liệt xua quân xâm lăng Trung Hoa đời nha` Tống, dựng nên nhà Nguyên gọi là thời kỳ Nguyên Mông hay gọi tắt là nha` Nguyên bên Tàu .
Theo Việt Nam Sử Lược, sau khi tiêu diệt nhà Tống Trung Hoa, nhà Nguyên bắt đầu xâm lăng Đông Nam Á . Trong phạm vi bài này, chỉ xin nói đến giai đọan lịch sử đời Trần Nhân Tông và Chế Mân ở Đông Dương theo tiến trình lịch sử như sau:
1258-1288: Nhà Nguyên xâm lăng Đại Việt
Trong giai đọan 30 năm lịch sử này, nhà Nguyên 3 lần tiến quân sang xâm lăng Đại Việt nhưng đều thảm bại vì sự chống trả quyết liệt của Đại Việt . Tuy ngăn chận được ý đồ xâm lăng của quân Nguyên, nhưng Đại Việt vẫn thần phục nhà Nguyên dưới hình thức dâng cống phẩm hàng năm để tạo sự hiếu hoà giữa hai dân tộc và đây cũng là sách lược ngoại giao của Vua Trần Nhân Tông có tánh cách nhún nhường cả nể một chút để bảo tồn sự độc lập của một nước nhỏ bé bên cạnh nước phương bắc khổng lồ luôn có ý đồ thôn tính các nước liên bang. Do đó lúc nào Đại Việt cũng lo âu phập phồng đối với mộng xâm lăng bành trướng của đế quốc phưong bắc có thể xảy ra bất cứ lúc nào .
Nằm trong giai đoạn 30 năm lịch sử này của Đại Việt, vào năm 1284-1285 Vua Chế Mân Champa đã đem quân cứu viện cho Vua Trần Nhân Tông để đánh bại cuộc xâm lăng của quân Nguyên ở Nghệ An .
1282-1284: Dưới sự thống lãnh của Toa Đô, nhà Nguyên ào ạt xâm lăng Champa nhưng bị Vua Chế Mân giáng trả oanh liệt đánh bại quân Nguyên lui về cố quốc.
1292:Trên đường rút quân khỏi đảo Sumatra của nước Java (Nam Dương), quân Nguyên đổ bộ lên bơ` biển Champa lại bị Vua Chế Mân đánh bạt ra biển Nam Hải để lại cả trăm chiến thuyền tan nát và hàng vạn xác chết nằm ngổn ngang bên bờ cát trắng của miền biển Champa .
Kể từ 1253 khi Hốt Tất Liệt tiêu diệt được nhà Tống và lập nên nhà Nguyên cho đến khi Hốt Tất Liệt qua đời vào năm 1294, đây là giai đoạn lịch sử làm cho Đại Việt thời Trần Nhân Tông và Champa thời Vua Chế Mân vô cùng khốn khổ với mộng xâm lăng của quân Nguyên, và hai nhà Vua của hai quốc gia Việt – Chiêm dựa lưng vào nhau để chống quân Nguyên, đó cũng là lý do Trần Nhân Tông và Chế Mân rất có hảo cảm với nhau .
Vài đặc điểm của Vua Trần Nhân Tông và Vua Chế Mân
Vua Trần Nhân Tông
Một vị Vua anh hùng ái quốc (đánh đuổi quân Nguyên) và nhân hậu (Toa Đô nhà Nguyên tử trận lúc tấn công Đại Việt tại mặt trận Tây Kết, Vua Trần Nhân Tông đã cởi áo long bào đắp cho Toa Đô và cho mai táng theo đúng nghi lễ trang trọng).
Là một vị Vua đạo đức không tham quyền cố vị (nhường ngôi cho con là Trần Anh Tông để làm Thái Thượng Hoàng, khoác áo cà sa nghiên cứu kinh Phật, tu hành trên núi Yên Tử).
Trần Nhân Tông làm Vua 13 năm, Thái Thượng Hoàng 14 năm, tất cả là 27 năm và băng hà lúc 51 tuổi .
Vua Chế Mân
Một vị Vua anh hùng ái quốc (đánh đuổi quân Nguyên) và đạo nghĩa (tha tội chết cho một viên chỉ huy quân binh Champa toan toa rập với địch quân (quân Nguyên) nhưng tước hết binh quyền đuổi về quê làm ruộng và còn là một vị Vua nhân hậu (xem xét giấy tờ tùy thân những binh sĩ quân Nguyên đã tử trận trên bờ biển Champa rồi cho hỏa táng riêng biệt từng người, bỏ tro cốt vào hủ sành riêng mỗi người và dán tên họ lên, đồng thời cấp cho một chiếc thuyền, tha tội chết cho 10 tên giặc Nguyên bị bắt sống mang theo tro cốt đuổi về Tàu
Vua Chế Mân làm Vua được 26 năm và băng hà lúc 50 tuổi .
Đại Việt dưới thời Trần Nhân Tông
Guồng máy chính trị quân sự được kiện toàn vững chắc nhờ Vua Trần Nhân Tông và các quan trong triều có nhiều tài đức. Tinh thần dân tộc đoàn
kết, kinh tế phồn thịnh, dân sinh ấm no hạnh phúc, có một nền văn hóa dân tộc nhân bản. Nhờ sức mạnh này Vua quan nhà Trần đã nhiều lần đập tan được mộng xâm lăng của Bắc phương.
Champa dưới thời Chế Mân
Hùng cường về quân sự, văn hóa nghệ thuật phát triển sáng ngời. Nền hành chánh chánh trị tổ chức vững vàng, nền kinh tế phồn thịnh và có một nền ngoại thương ngành hàng hải phát triển mạnh từ khi Vua Chế Mân kết hôn với Công Chúa Tapasi của Java (Nam Dương ngày nay).
Theo lời kể của cụ Bố Thuận, một học giả Champa và là một chuyên viên nghiên cứu về Champa của trường Viễn Đông Bác Cổ Hà Nội trong thời kỳ Pháp thuộc
Thái Thượng Hoàng Trần Nhân Tông và cuộc viễn du Chiêm Thành:
Vua Chế Mân là một anh hùng hào kiệt, quyết liệt với địch quân xâm lược nhưng lại là một vị Vua hiếu hòa . Tháng 3 năm 1301, Vua Chế Mân đã cử sứ thần hướng dẫn ngoại giao đoàn sang Đại Việt cùng với nhiều tặng phẩm quí giá: ngọc ngà châu báu, sừng voi, tê giác, lụa là vàng bạc với ước muốn đặt nền tảng bang giao với Đại Việt trong tình hữu nghị lâu dài để cùng tồn tại trước móng vuốt xâm lược của đế quốc Trung Hoa .
Khi đoàn sứ thần ngoại giao của Champa đến Đại Việt, lúc ấy Vua Trần Nhân Tông đã là Thái Thượng Hoàng mặc áo cà sa tu hành tại một ngôi chùa trên núi Yên Tử, nhường ngôi lại cho con là Trần Anh Tông. Đây là giai đoạn cực thịnh của Phật giáo trên đất Việt. Thái Thượng Hoàng Trần Nhân Tông là người nhân từ sùng kính đạo Phật, say sưa nghiên cứu kinh kệ Phật pháp và yêu thích cảnh gió núi mây ngàn, thích ngao du sơn thủy đó đây và vẫn cố vấn cho Vua Trần Anh Tông trong vấn đề điều hành việc dân việc nước.
Nhân phái đoàn ngoại giao Champa được Vua Chế Mân cử đến thăm viếng ngoại giao với Đại Việt và mong muốn kết tình hữu nghị; Thái Thượng Hoàng Trần Nhân Tông nhớ lại người xưa tức Vua Chế Mân của Chiêm Thành cách đây bảy năm đã cùng dựa lưng nhau chống trả quân Nguyên tại Nghệ An; nên để đáp lại tấm thịnh tình của Vua Chế Mân, Ngài quyết định theo chân ngoại giao đoàn Chiêm Thành về thăm Chiêm quốc và Vua Chế Mân, cùng ngao du sơn thủy nghiên cứu Phật pháp bên Chiêm Thành.
Trong bộ áo cà sa, Thái Thượng Hoàng Trần Nhân Tông và đoàn tùy tùng cùng với sứ đoàn Champa sau thời gian cả tháng trường nay đã đến kinh thành Champa . Được tin quân báo, Vua Chế Mân hân hoan ra đón tận cổng thành Đồ Bàn để mừng đón Thái Thượng Hoàng Trần Nhân Tông Đại Việt. Một cuộc tiếp đón vô cùng long trọng dành cho một vị quốc khách. Hai nhà Vua Việt – Chiêm có nhiều điểm tương đồng hợp ý như đã nêu ở phần bối cảnh lịch sử : cùng có một quá khứ oai hùng đầy máu xương khi chống phá quân Nguyên cũng với một tâm nguyện kết tình hữu nghị để cùng tồn tại trước tham vọng điên cuồng tàn bạo của quân Nguyên; cùng đạo đức nhân hậu, anh hùng và ái quốc giống nhau, tâm đầu ý hợp đã kéo dài cuộc thăm viếng của Thái Thượng Hoàng đến chín tháng trời, được Vua Chế Mân hướng dẫn đi thăm viếng nhiều nơi danh lam thắng cảnh cũng như những địa điểm đặc biệt liên quan đến văn hóa, tôn giáo của nước Chiêm Thành như Ngũ Hành Sơn, Thánh địa Mỹ Sơn, trung tâm Phật giáo vĩ đại ở Đồng Dương..v..v.. hều hết đều nằm trong lãnh địa Amaravati cũ tức từ Quảng Trị Thừa Thiên đến Quảng Nam Đà Nẵng ngày nay . Mỗi nơi đi qua Ngài đều lưu lại một thời gian. Lần lượt, Thái Thượng Hoàng được Vua Chế Mân hướng dẫn đi thăm viếng hầu hết các đền tháp thuộc lãnh địa Vijaya, Kâuthara và Panduranga, tới đâu cũng được các lãnh chúa mỗi vùng tiếp đón long trọng .
Đặc biệt là Tu Viện Đồng Dương là một kinh đô có một nền kiến trúc vĩ đại, một thành phố tráng lệ bậc nhất vào thời đại này tại Đông Dương, thời Vua Indravarman đệ nhị . Ngài là một vị Vua sùng bái đạo Phật; vào năm 875 Công Nguyên đã xây một Phật Viện vĩ đại lấy tên là Laksmindra-Lokesvara. Đây là một trung tâm Phật giáo Champa lớn nhất, có vô số kinh điển Phật học trong lịch sử đất nước và có một nhà sư Aán Độ nổi tiếng uyên thâm về Phật học trụ trì tại trung tâm Phật giáo này . Thái Thượng Hoàng trong bộ áo cà sa của Đại Việt đã dành hai phần ba thời gian thăm viếng Chiêm Thành để nghiên cứu Phật Pháp tại tu viện Đồng Dương .
Trong thời gian lưu lại 9 tháng ở Champa, Thái Thượng Hoàng Trần Nhân Tông cùng Vua Chế Mân tham dự những lễ hội lớn của dân tộc Champa . Ngài đã mục kích tận mắt và rất thiện cảm với dân tộc Champa trông có vẻ bình dị và hiền lương này . Ngài cũng được thưởng ngoạn những điệu múa hát theo điệu Tây Thiên Trúc (của Aán Độ) qua nghệ thuật trình diễn của các cô Chiêm nữ trong xiêm y lụa là vừa nhẹ nhàng vừa thanh thoát và những điệu múa trong cung đình Champa ảnh hưởng vũ điệu của nữ thần nghệ thuật Sravastri và thiên thần vũ nữ Apsara ..v..v.. Ngài cũng tìm hiểu những phong tục tập quán của dân tộc Champa thật thích thú .
Bao nhiêu dáng vẻ thâm nghiêm kỳ vĩ của nền kiến trúc đền tháp, tu viện, bảo tháp, Phật đường, với vô số kinh điển .v..v… với những đường nét điêu khắc chạm trổ thật tinh vi sắc sảo đã nói lên một nền hoa phong tuyệt mỹ của các điêu khắc gia Champa. Nền kiến trúc này đã tô điểm cho giang sơn gấm vóc Champa thêm phần xinh đẹp và đã nói lên sự lớn mạnh và văn minh của một dân tộc. Một đất nước xinh đẹp, mưa thuận gió hòa, đất đai phì nhiêu được xây dựng và gìn giữ bởi một dân tộc lương thiện an hoà, bởi một quân đội gồm kỵ binh, tượng binh, bộ binh và hải quân; nền kinh tế nông nghiệp phồn thịnh, một nền văn hóa nhân bản đầy bản sắc dân tộc Champa và được cai trị bởi một vị Vua Chế Mân anh hùng ái quốc, nhân hậu lịch duyệt …; chừng ấy dữ kiện đã mang đến cho Thái Thượng Hoàng Trần Nhân Tông một cảm xúc đặc biệt, một tình cảm nồng nàn mà Ngài tưởng chừng như bị cuốn hút bởi Vua quan, lương dân và đất nước Champa đã dành cho Ngài trong cuộc viễn du kỳ thú này.
Một sáng cuối thu năm 1301, tại thành Vijaya (Đồ Bàn) mây giăng bàng bạc, không gian và thời gian như chùng lại, muốn níu gót viễn du của Thái Thượng Hoàng trong bộ áo cà sa chuẩn bị quay về Đại Việt sau 9 tháng viễn du thăm viếng Champa.
Trước mặt bá quan văn võ trong triều đình Champa, Thái Thượng Hoàng Trần Nhân Tông với khuôn mặt khôi ngô phúc hậu và cũng đầy nét uy vũ, Ngài đã long trọng tuyên bố ước gả Huyền Trân Công Chúa cho Vua Chế Mân . Đây là lời minh thị của một Thái Thượng Hoàng đầy quyền uy với triều thần Trần Anh Tông và là nhà sư uyên bác, đức hạnh và trung tín của Trúc Lâm Thiền Sư Yên Tử sơn.
Sự ước gả này để thực hiện một sách lược hoà thân của hai vị lãnh đạo quốc gia hiếu hoà Việt – Chiêm để rồi Công Chúa Huyền Trân sẽ là Hoàng Hậu Champa, Vua Chế Mân sẽ là Phò Mã Đại Việt. Hai nước láng giềng sẽ có mối liên hệ tình thân gia đình (con của Huyền Trân sẽ là cháu ngoại của Thái Thượng Hoàng Trần Nhân Tông) và còn đoàn kết liên minh với nhau cùng tồn tại và cùng đối phó với mộng xâm lược có thể xảy ra bất cứ lúc nào của đế quốc bắc phương tràn xuống các nước phía nam, đó là ý nghĩa của sách lược hòa thân của Thái Thượng Hoàng Trần Nhân Tông và Vua Chế Mân.
Sách lược hòa thân (từ ngữ Hòa Thân theo giáo sư Huỳnh Văn Lang) này đã bị triều thần Trần Anh Tông biến thành một sự đổi chát đưa đến tráo trở và thất tín sẽ đề cập chi tiết ở phần sau .
VUA CHẾ MÂN CẦU HÔN
Tháng 02/1302 Vua Chế Mân cử sứ thần Chế Bồ Đài hướng dẫn một phái đoàn hơn một trăm người đem vàng bạc châu báu, trầm hương, ngọc ngà v.v… sang Đại Việt để xin cầu hôn với Công Chúa Huyền Trân theo lời ước gả của Vua cha Trần Nhân Tông; nhưng triều thần Trần Anh Tông có người thuận có người không. Họ muốn biến đổi cuộc hôn nhân như một sách lược Hoà Thân của Thái Thượng Hoàng Trần Nhân Tông thành một chủ trương mậu dịch, ngoài lễ vật nêu trên, triều thần Trần Anh Tông còn buộc Vua Chế Mân phải nạp thêm đất đai gọi là “lễ Nạp Trưng” theo phong tục Việt Nam và Trung Hoa Trần Nhân Tông với uy quyền của một Thái Thượng Hoàng, Ngài không bao giờ đặt ra vấn đề đổi chát hay mậu dịch, mà vai trò Huyền Trân là một sứ giả hoà bình, dùng hôn nhân để thực hiện sách lược Hoà Thân giữa hai gia đình và hai nước láng giềng vẫn thường hay lục đục trước đây, để cùng nhau liên minh trong tình gia đình, trong tình thân giữa hai nước thực sự đoàn kết với nhau để chống lại hiểm họa xâm lăng từ đế quốc bắc phương tràn xuống lúc nào không hay; hơn nữa Thái Thượng Hoàng Trần Nhân Tông, Ngài còn là một nhà sư Trúc Lâm của Yên Tử Sơn, ảnh hưởng sâu sắc triết lý nhà Phật, nên việc đòi đất đai của dân tộc khác là sai với tôn chỉ từ bi vô lượng vô biên, công bằng bác ái, phóng khoáng của đạo Phật và sẽ có nhân quả không tốt đẹp về sau .
Trước sức ép của triều thần Trần Anh Tông, Vua Chế Mân đành phải lấy hai châu ở biên thùy để làm “lễ nạp trưng” thoả mãn một số quần thần Trần Anh Tông đòi hỏi hầu xúc tiến cuộc hôn nhân thực hiện sách lược Hoà Thân Việt – Chiêm.
Việc hiến cống hai châu Ô Lý để làm quà sánh lễ cưới Công Chúa Huyền Trân đã bị triều thần Champa phản kháng dữ dội và thần dân Champa ở hai châu Ô và Lý cũng như cả nước Champa đều phẩn nộ trước quyết định sai trái của Vua Chế Mân; nhưng thời đó Vua là Thiên Tử nắm hết giang sơn và thiên hạ, nên dân tộc Champa đành chịu vậy trong ngấn lệ xót xa .
Ngày nay hậu duệ của Champa cho rằng việc dâng đất để làm sính lễ cưới Huyền Trân là một sự sai lầm của Vua Chế Mân vì đó là vùng chiến lược quân sự địa đầu rất quan trọng. Từ châu Ô châu Lý nhìn xuống thấy cả đồng bằng hẹp nhưng phì nhiêu và cả chiều dài của bờ biển (miền Trung ngày nay) với bãi cát trắng phau trông giống người phụ nữ nằm để lộ cặp đùi nõn nà khiến cho anh dâm đãng Hốt Tất Liệt thèm thuồng nhỏ nước miếng muốn chiếm đoạt .
Sau khi Vua Chế Mân đồng ý nạp hai châu Ô và Lý, Vua Trần Anh Tông và quần thần xem như một món lợi to lớn nên đã hân hoan gả Huyền Trân cho Vua Chế Mân vào tháng 06/1306 năm Bính Ngọ
Champa dưới thời Chế Mân
Hùng cường về quân sự, văn hóa nghệ thuật phát triển sáng ngời. Nền hành chánh chánh trị tổ chức vững vàng, nền kinh tế phồn thịnh và có một nền ngoại thương ngành hàng hải phát triển mạnh từ khi Vua Chế Mân kết hôn với Công Chúa Tapasi của Java (Nam Dương ngày nay).
Theo lời kể của cụ Bố Thuận, một học giả Champa và là một chuyên viên nghiên cứu về Champa của trường Viễn Đông Bác Cổ Hà Nội trong thời kỳ Pháp thuộc
Thái Thượng Hoàng Trần Nhân Tông và cuộc viễn du Chiêm Thành:
Vua Chế Mân là một anh hùng hào kiệt, quyết liệt với địch quân xâm lược nhưng lại là một vị Vua hiếu hòa . Tháng 3 năm 1301, Vua Chế Mân đã cử sứ thần hướng dẫn ngoại giao đoàn sang Đại Việt cùng với nhiều tặng phẩm quí giá: ngọc ngà châu báu, sừng voi, tê giác, lụa là vàng bạc với ước muốn đặt nền tảng bang giao với Đại Việt trong tình hữu nghị lâu dài để cùng tồn tại trước móng vuốt xâm lược của đế quốc Trung Hoa .
Khi đoàn sứ thần ngoại giao của Champa đến Đại Việt, lúc ấy Vua Trần Nhân Tông đã là Thái Thượng Hoàng mặc áo cà sa tu hành tại một ngôi chùa trên núi Yên Tử, nhường ngôi lại cho con là Trần Anh Tông. Đây là giai đoạn cực thịnh của Phật giáo trên đất Việt. Thái Thượng Hoàng Trần Nhân Tông là người nhân từ sùng kính đạo Phật, say sưa nghiên cứu kinh kệ Phật pháp và yêu thích cảnh gió núi mây ngàn, thích ngao du sơn thủy đó đây và vẫn cố vấn cho Vua Trần Anh Tông trong vấn đề điều hành việc dân việc nước.
Nhân phái đoàn ngoại giao Champa được Vua Chế Mân cử đến thăm viếng ngoại giao với Đại Việt và mong muốn kết tình hữu nghị; Thái Thượng Hoàng Trần Nhân Tông nhớ lại người xưa tức Vua Chế Mân của Chiêm Thành cách đây bảy năm đã cùng dựa lưng nhau chống trả quân Nguyên tại Nghệ An; nên để đáp lại tấm thịnh tình của Vua Chế Mân, Ngài quyết định theo chân ngoại giao đoàn Chiêm Thành về thăm Chiêm quốc và Vua Chế Mân, cùng ngao du sơn thủy nghiên cứu Phật pháp bên Chiêm Thành.
Trong bộ áo cà sa, Thái Thượng Hoàng Trần Nhân Tông và đoàn tùy tùng cùng với sứ đoàn Champa sau thời gian cả tháng trường nay đã đến kinh thành Champa . Được tin quân báo, Vua Chế Mân hân hoan ra đón tận cổng thành Đồ Bàn để mừng đón Thái Thượng Hoàng Trần Nhân Tông Đại Việt. Một cuộc tiếp đón vô cùng long trọng dành cho một vị quốc khách. Hai nhà Vua Việt – Chiêm có nhiều điểm tương đồng hợp ý như đã nêu ở phần bối cảnh lịch sử : cùng có một quá khứ oai hùng đầy máu xương khi chống phá quân Nguyên cũng với một tâm nguyện kết tình hữu nghị để cùng tồn tại trước tham vọng điên cuồng tàn bạo của quân Nguyên; cùng đạo đức nhân hậu, anh hùng và ái quốc giống nhau, tâm đầu ý hợp đã kéo dài cuộc thăm viếng của Thái Thượng Hoàng đến chín tháng trời, được Vua Chế Mân hướng dẫn đi thăm viếng nhiều nơi danh lam thắng cảnh cũng như những địa điểm đặc biệt liên quan đến văn hóa, tôn giáo của nước Chiêm Thành như Ngũ Hành Sơn, Thánh địa Mỹ Sơn, trung tâm Phật giáo vĩ đại ở Đồng Dương..v..v.. hều hết đều nằm trong lãnh địa Amaravati cũ tức từ Quảng Trị Thừa Thiên đến Quảng Nam Đà Nẵng ngày nay . Mỗi nơi đi qua Ngài đều lưu lại một thời gian. Lần lượt, Thái Thượng Hoàng được Vua Chế Mân hướng dẫn đi thăm viếng hầu hết các đền tháp thuộc lãnh địa Vijaya, Kâuthara và Panduranga, tới đâu cũng được các lãnh chúa mỗi vùng tiếp đón long trọng .
Đặc biệt là Tu Viện Đồng Dương là một kinh đô có một nền kiến trúc vĩ đại, một thành phố tráng lệ bậc nhất vào thời đại này tại Đông Dương, thời Vua Indravarman đệ nhị . Ngài là một vị Vua sùng bái đạo Phật; vào năm 875 Công Nguyên đã xây một Phật Viện vĩ đại lấy tên là Laksmindra-Lokesvara. Đây là một trung tâm Phật giáo Champa lớn nhất, có vô số kinh điển Phật học trong lịch sử đất nước và có một nhà sư Aán Độ nổi tiếng uyên thâm về Phật học trụ trì tại trung tâm Phật giáo này . Thái Thượng Hoàng trong bộ áo cà sa của Đại Việt đã dành hai phần ba thời gian thăm viếng Chiêm Thành để nghiên cứu Phật Pháp tại tu viện Đồng Dương .
Trong thời gian lưu lại 9 tháng ở Champa, Thái Thượng Hoàng Trần Nhân Tông cùng Vua Chế Mân tham dự những lễ hội lớn của dân tộc Champa . Ngài đã mục kích tận mắt và rất thiện cảm với dân tộc Champa trông có vẻ bình dị và hiền lương này . Ngài cũng được thưởng ngoạn những điệu múa hát theo điệu Tây Thiên Trúc (của Aán Độ) qua nghệ thuật trình diễn của các cô Chiêm nữ trong xiêm y lụa là vừa nhẹ nhàng vừa thanh thoát và những điệu múa trong cung đình Champa ảnh hưởng vũ điệu của nữ thần nghệ thuật Sravastri và thiên thần vũ nữ Apsara ..v..v.. Ngài cũng tìm hiểu những phong tục tập quán của dân tộc Champa thật thích thú .
Bao nhiêu dáng vẻ thâm nghiêm kỳ vĩ của nền kiến trúc đền tháp, tu viện, bảo tháp, Phật đường, với vô số kinh điển .v..v… với những đường nét điêu khắc chạm trổ thật tinh vi sắc sảo đã nói lên một nền hoa phong tuyệt mỹ của các điêu khắc gia Champa. Nền kiến trúc này đã tô điểm cho giang sơn gấm vóc Champa thêm phần xinh đẹp và đã nói lên sự lớn mạnh và văn minh của một dân tộc. Một đất nước xinh đẹp, mưa thuận gió hòa, đất đai phì nhiêu được xây dựng và gìn giữ bởi một dân tộc lương thiện an hoà, bởi một quân đội gồm kỵ binh, tượng binh, bộ binh và hải quân; nền kinh tế nông nghiệp phồn thịnh, một nền văn hóa nhân bản đầy bản sắc dân tộc Champa và được cai trị bởi một vị Vua Chế Mân anh hùng ái quốc, nhân hậu lịch duyệt …; chừng ấy dữ kiện đã mang đến cho Thái Thượng Hoàng Trần Nhân Tông một cảm xúc đặc biệt, một tình cảm nồng nàn mà Ngài tưởng chừng như bị cuốn hút bởi Vua quan, lương dân và đất nước Champa đã dành cho Ngài trong cuộc viễn du kỳ thú này.
Một sáng cuối thu năm 1301, tại thành Vijaya (Đồ Bàn) mây giăng bàng bạc, không gian và thời gian như chùng lại, muốn níu gót viễn du của Thái Thượng Hoàng trong bộ áo cà sa chuẩn bị quay về Đại Việt sau 9 tháng viễn du thăm viếng Champa.
Trước mặt bá quan văn võ trong triều đình Champa, Thái Thượng Hoàng Trần Nhân Tông với khuôn mặt khôi ngô phúc hậu và cũng đầy nét uy vũ, Ngài đã long trọng tuyên bố ước gả Huyền Trân Công Chúa cho Vua Chế Mân . Đây là lời minh thị của một Thái Thượng Hoàng đầy quyền uy với triều thần Trần Anh Tông và là nhà sư uyên bác, đức hạnh và trung tín của Trúc Lâm Thiền Sư Yên Tử sơn.
Sự ước gả này để thực hiện một sách lược hoà thân của hai vị lãnh đạo quốc gia hiếu hoà Việt – Chiêm để rồi Công Chúa Huyền Trân sẽ là Hoàng Hậu Champa, Vua Chế Mân sẽ là Phò Mã Đại Việt. Hai nước láng giềng sẽ có mối liên hệ tình thân gia đình (con của Huyền Trân sẽ là cháu ngoại của Thái Thượng Hoàng Trần Nhân Tông) và còn đoàn kết liên minh với nhau cùng tồn tại và cùng đối phó với mộng xâm lược có thể xảy ra bất cứ lúc nào của đế quốc bắc phương tràn xuống các nước phía nam, đó là ý nghĩa của sách lược hòa thân của Thái Thượng Hoàng Trần Nhân Tông và Vua Chế Mân.
Sách lược hòa thân (từ ngữ Hòa Thân theo giáo sư Huỳnh Văn Lang) này đã bị triều thần Trần Anh Tông biến thành một sự đổi chát đưa đến tráo trở và thất tín sẽ đề cập chi tiết ở phần sau .
VUA CHẾ MÂN CẦU HÔN
Tháng 02/1302 Vua Chế Mân cử sứ thần Chế Bồ Đài hướng dẫn một phái đoàn hơn một trăm người đem vàng bạc châu báu, trầm hương, ngọc ngà v.v… sang Đại Việt để xin cầu hôn với Công Chúa Huyền Trân theo lời ước gả của Vua cha Trần Nhân Tông; nhưng triều thần Trần Anh Tông có người thuận có người không. Họ muốn biến đổi cuộc hôn nhân như một sách lược Hoà Thân của Thái Thượng Hoàng Trần Nhân Tông thành một chủ trương mậu dịch, ngoài lễ vật nêu trên, triều thần Trần Anh Tông còn buộc Vua Chế Mân phải nạp thêm đất đai gọi là “lễ Nạp Trưng” theo phong tục Việt Nam và Trung Hoa Trần Nhân Tông với uy quyền của một Thái Thượng Hoàng, Ngài không bao giờ đặt ra vấn đề đổi chát hay mậu dịch, mà vai trò Huyền Trân là một sứ giả hoà bình, dùng hôn nhân để thực hiện sách lược Hoà Thân giữa hai gia đình và hai nước láng giềng vẫn thường hay lục đục trước đây, để cùng nhau liên minh trong tình gia đình, trong tình thân giữa hai nước thực sự đoàn kết với nhau để chống lại hiểm họa xâm lăng từ đế quốc bắc phương tràn xuống lúc nào không hay; hơn nữa Thái Thượng Hoàng Trần Nhân Tông, Ngài còn là một nhà sư Trúc Lâm của Yên Tử Sơn, ảnh hưởng sâu sắc triết lý nhà Phật, nên việc đòi đất đai của dân tộc khác là sai với tôn chỉ từ bi vô lượng vô biên, công bằng bác ái, phóng khoáng của đạo Phật và sẽ có nhân quả không tốt đẹp về sau .
Trước sức ép của triều thần Trần Anh Tông, Vua Chế Mân đành phải lấy hai châu ở biên thùy để làm “lễ nạp trưng” thoả mãn một số quần thần Trần Anh Tông đòi hỏi hầu xúc tiến cuộc hôn nhân thực hiện sách lược Hoà Thân Việt – Chiêm.
Việc hiến cống hai châu Ô Lý để làm quà sánh lễ cưới Công Chúa Huyền Trân đã bị triều thần Champa phản kháng dữ dội và thần dân Champa ở hai châu Ô và Lý cũng như cả nước Champa đều phẩn nộ trước quyết định sai trái của Vua Chế Mân; nhưng thời đó Vua là Thiên Tử nắm hết giang sơn và thiên hạ, nên dân tộc Champa đành chịu vậy trong ngấn lệ xót xa .
Ngày nay hậu duệ của Champa cho rằng việc dâng đất để làm sính lễ cưới Huyền Trân là một sự sai lầm của Vua Chế Mân vì đó là vùng chiến lược quân sự địa đầu rất quan trọng. Từ châu Ô châu Lý nhìn xuống thấy cả đồng bằng hẹp nhưng phì nhiêu và cả chiều dài của bờ biển (miền Trung ngày nay) với bãi cát trắng phau trông giống người phụ nữ nằm để lộ cặp đùi nõn nà khiến cho anh dâm đãng Hốt Tất Liệt thèm thuồng nhỏ nước miếng muốn chiếm đoạt .
Sau khi Vua Chế Mân đồng ý nạp hai châu Ô và Lý, Vua Trần Anh Tông và quần thần xem như một món lợi to lớn nên đã hân hoan gả Huyền Trân cho Vua Chế Mân vào tháng 06/1306 năm Bính Ngọ
CÔNG CHÚA HUYỀN TRÂN TRÊN ĐƯỜNG VỀ CHIÊM QUỐC
Tháng 06 năm Bính Ngọ (1306), Vua Trần Anh Tông cử Trạng Nguyên Mạc Đĩnh Chi, Ngự Sử Đoàn Nhữ Hải và Thượng Tướng Trần Khắc Chung cầm đầu phái đoàn Đại Việt gồm nhiều quan quân hộ tống để đưa tiễn cô dâu Huyền Trân về Chiêm Thành.
Từ thủ đô Thăng Long của Đại Việt ra đến bến sông Hồng Hà, quần chúng đứng đầy dọc hai bên thành lộ với cờ xí và biểu ngữ chúc mừng chúc tụng lên đường bình an dành cho công chúa thân yêu của Đại Việt xuôi về Nam để kết duyên cùng Vua Chiêm Thành để thực hiện lời giao ước của Vua cha là Thái Thượng Hoàng Trần Nhân Tông (quân vô hý ngôn).
Một công chúa tuổi vừa độ đôi mươi xinh đẹp, con nhà Vua chúa, học thức và đạo hạnh lại phải xa lìa tổ ấm gia đình tại cung đình, xa lìa quê hương yêu dấu, ngàn dặm ra đi, lênh đênh nghìn trùng sóng vỗ để làm dâu xứ lạ, lòng dạ nào lại không bịn rịn lúc ra đi .
Ngày xưa bên Trung Hoa, thời Hán Nguyên Đế có Vương Chiêu Quân có vẻ đẹp phi phàm trầm ngư (chìm đáy nước cá lờ đờ lặn) vương giả sang trọng. Trong ngày từ biệt Vua Hán Nguyên Đế ra đi làm Hoàng Hậu một xứ xa lạ ở nước Hung Nô, có thi nhân thời đó ở Trung Hoa làm thơ cảm thán:
Cô ơi cô đẹp nhất đời
Mà sao mệnh bạc thọ trời cũng thua
Một đi từ biệt cung Vua
Có về đâu nữa đất Hồ ngàn năm!
(Huyện Nẻ Nguyễn Thiện Kế)
Đối với Huyền Trân cũng vậy, tâm trạng nàng vô cùng ngổn ngang, vừa gạt lệ giã từ Phụ Hoàng và Mẫu Hậu, người thân, giã từ quê hương mẫu quốc đồng bào ruột thịt, vừa nao nao bồn chồn hướng về một khung trời hạnh phúc xa xôi mờ mịt chưa biết ra sao ? Những thế hệ về sau, có vài thi nhân đã cảm thông với nỗi niềm của kiếp hoa trôi dạt nên có những câu tự sự Nam Bình được dân Thuận Hóa hát theo điệu Chiêm Thành:
Nước non ngàn dặm ra đi
Mối tình chi
Mượn màu son phấn
Đền nợ Ô Ly
Đắng cay vì đương độ xuân thì …
(tác giả vô danh
Sau hồi trống giục, nàng phải bước chân xuống thuyền hoa với đoàn tùy tùng hộ tống của Đại Việt và sự hướng dẫn thủy lộ của đoàn Sứ Bộ Chiêm Thành; trong cờ xí phất phới tiễn đưa cũng có sự sụt sùi giữa kẻ đi người ở … Đoàn thuyền hoa rời bến sông Hồng để ra cửa biển xuôi về Nam.
Gió đông nam thổi nhẹ nhưng hoa sóng đại dương vẫn nở rì rào như tâm sự người đi xa, mặt biển trong xanh dưới bầu trời sáng chói của muà xuân ban ngày, và khi hoàng hôn bao trùm, cả mặt biển trở thành đen nghịt, chỉ có hàng vạn vì sao trên bầu trời lấp lánh như những hạt kim cương tô lên một bức họa ánh sáng thâm trầm. Lòng cô gái xuân thì trên đường vu qui rộn rã không biết bao nhiêu tâm sự …
Lời Phụ Hoàng, người cha già kính yêu đã căn dặn trước khi về Chiêm Quốc: những tháng ngày trước đây Phụ Hoàng đã viễn du xứ Chiêm Thành, đất nước họ đẹp đẽ, một dân tộc hiền lương có nền văn hóa riêng biệt rực rỡ . Chế Mân là một vị Vua biết yêu thương nòi giống, một anh hùng hào kiệt, lịch duyệt và nhân hậu, không phải là một hôn quân bạo chúa . Con hãy làm tròn bổn phận một sứ giả hoà bình, đem lại tình thân thiện giữa hai dân tộc Việt – Chiêm. Đối với Chế Mân sau này sẽ là phu quân của con, con phải biết đạo tam tòng tứ đức, phu xướng phụ tùy của người phụ nữ Á đông và phải xứng đáng là một “mẫu nghi thiên hạ” . Nghĩ đến lời Phụ Hoàng còn văng vẳng bên tai, lòng nàng se lại và ấm áp hơn rồi chìm dần trong giấc ngủ mơ hoa, bồng bềnh trên sóng nước đại dương trôi dần về Chiêm Quốc.
Trong khi đó ở Chiêm Quốc, Vua Chế Mân cử quan Ngự Sử Chế Bồ Đài cầm đầu một số quần thần, binh lính và toán Ngự Lâm Quân theo hộ giá nhà Vua để đón rước cô dâu Huyền Trân cùng phái đoàn Đại Việt tại hải cảng Pat-Thinưng (Thị Nại Bình Định ngày nay)
Sau những ngày lênh đênh trên biển cả mênh mông, đoàn thuyền hoa đưa tiễn Công Chúa Huyền Trân của Đại Việt đã vào đến lãnh hải Vijaya (Bình Định) và hướng dần vào cặp bến cảng Pat-Thinưng do sự hướng dẫn của đoàn Sứ Bộ Chiêm Thành.
Công Chúa Huyền Trân lòng dạ bồn chồn muốn sớm trông thấy mặt Vua Chế Mân, nhưng hơi lo âu vì nếu phu quân Chế Mân quá dị dạng như anh chàng Trương Chi thì làm sao đây hỡi Phụ Hoàng của con! Liệu con có làm nổi những lời khuyên của Phụ Hoàng kính yêu hay không ?
Đoàn thuyền hoa Đại Việt vừa cặp sát vào cầu bến cảng Pat-Thinưng thì đoàn quân binh, quần thần, toán ngự lâm quân, các nữ tỳ .v..v… cùng Vua Chế Mân đã có mặt ở bến cảng trước rồi .
Khi một Hòa Thượng trong phái đoàn Đại Việt cùng các vị quần thần như Trạng Nguyên Mạc Đĩnh Chi, Thượng Tướng Trần Khắc Chung, Ngự Sử Đoàn Nhữ Hải bước lên bờ cảng thì quần thần và Ngự Sử Chế Bồ Đài Chiêm Thành đã đón chào thân mật, trong khi đó Vua Chế Mân từ trên kiệu vàng rực rỡ bước ra, con người cao lớn, nước da sáng, mũi cao, tóc hơi gợn sóng phía trước, đôi mắt sáng ngời thoáng nét đa tình và dáng vẻ hào hoa phong nhã nhưng không kém phần uy dũng của một quân vương, ngang hông mang một thanh kiếm báu với vỏ kiếm bằng vàng, chuôi kiếm bằng ngà voi khảm ngọc . Đầu đội chiếc mũ bằng vàng cao hình trụ, trên đỉnh nhọn của mũ có gắn một viên ngọc tỏa ra ánh sáng với nhiều màu sắc khác nhau trông vừa đẹp mắt vừa uy nghi. Mình mặc áo lụa thượng hạng màu trắng, đường viền cổ áo, hai tay áo và song song với hai hàng nút đều bằng kim tuyến bằng vàng lấp lánh, và một đai vàng dát mỏng thắt ngang lưng, khoác ngoài một chiếc áo lông bào . Chân mang hia màu đen có thêu hình con chim Garuda màu đỏ …
Huyền Trân Công Chúa từ trong kiệu hoa, sau khi cô tỳ nữ nhẹ vén màng che trước kiệu hoa, nàng nhìn ra ngoài thấy Quốc Vương Chế Mân, đôi má nàng ửng hồng lên, ý nghĩ về Chiêm Quốc bây giờ không những để làm sứ giả hòa bình mà còn đến Chiêm Thành với lòng dạ băng trinh của một cô thanh nữ xuân thì vu qui về nhà chồng; nàng thầm cảm ơn Phụ Hoàng đã khéo chọn cho nàng một đấng phu quân xứng đáng để sửa túi nâng khăn. Huyền Trân nhẹ nhàng bước ra khỏi kiệu hoa, e ấp thẹn thùng, khép nép; nàng chắp hai tay trước ngực cuối mình quì phục xuống chào, Vua Chế Mân lật đật đến sát bên nàng đưa hai tay nhẹ nhàng đỡ nàng đứng dậy. Như hai luồng điện âm dương giao cảm; đôi bàn tay nhỏ bé thon thả xinh đẹp của nàng nhẹ nhàng như cánh bướm đậu trên nụ hoa thật ấm áp trong đôi lòng bàn tay của Quân Vương. Bằng một giọng êm đềm dịu vợi, Công Chúa Huyền Trân tâu: Xin đa tạ Thánh Thượng đã nhọc công đón tiếp bằng tiếng Champa (Triều đình Trần Anh Tông mời một người Chăm sống ở Đại Việt dạy tiếng Chăm cũng như phong tục và văn hóa Champa trước khi nàng lên đường về Chiêm Quốc). Vua Chế Mân đăm đăm nhìn nàng trong sự ngạc nhiên, không ngờ nàng ăn mặc y phục trang sức theo mỹ thuật Champa, lại nói được cả ngôn ngữ Champa. Rồi nhà Vua nở nụ cười và ân cần hỏi nàng có khỏe không, ta rất lo âu sóng nước trùng dương làm nàng mệt mỏi, ta xin lỗi nàng. Công Chúa Huyền Trân duyên dáng chắp tay cuối đầu khẽ tâu: nhờ hồng ân của Thánh Thượng, thần thiếp và tất cả mọi người trong đoàn thuyền hoa đều khỏe mạnh, chỉ có chút say sóng.Vua Chế Mân nhẹ nhàng dìu Huyền Trân lên kiệu vàng rực rỡ, những chiếc kiệu nhỏ hơn để dọc một hàng sau dành cho các đại diện triều thần Trần Anh Tông và các quần thần Champa; những thành phần nhỏ hơn đi ngựa lững thững theo sau, cùng với toán ngự lâm quân, binh lính hướng về thành Vijaya (thành Đồ Bàn). Con đường từ hải cảng Pat-Thinưng đến cửa thành Đồ Bàn dài khoảng 8 km. Hai bên đường là hai hàng dương liễu óng ả mượt mà xanh thẩm như đón chào cô dâu từ Đại Việt đến .
Đoàn rước dâu rời khỏi bến cảng Pat-Thinưng chẳng bao lâu, chỉ còn một dặm nữa đến thành Đồ Bàn. Hai bên đường tới đây không còn cây dương, chỉ có trồng hoa Vong, hoa Phượng, hoa Quỳ dọc hai bên đường trông rất được mắt. Quần chúng Champa đứng đón hai bên đường với áo quần đẹp đẽ, cờ xí phất phới, biểu ngữ giăng đầy, chiêng trống hòa lẫn với lời hô chào vang dậy chào đón cô dâu Đại Việt.
Thành Đồ Bàn rộng mênh mông, thành quách tráng lệ vây quanh. Bên ngoài thành Đồ Bàn, phía Tây của thành:
- Nơi ngựa hí chuông rền vang trong gió
(Chế Lan Viên)
Phía Nam thành:
Đây chiến thuyền nằm mơ trên sông lặng
Bầy voi thiêng trầm mặc dạo quanh thành
(Chế Lan Viên)
Khi Quốc Vương Chế Mân và hai phái đoàn đưa rước Công Chúa Huyền Trân vào trong khuôn viên cung đình, trước mắt Huyền Trân:
Đây điện các huy hoàng trong ánh nắng
Những đền đài tuyệt mỹ dưới trời xanh
(Chế Lan Viên)
Huyền Trân như lạc vào cõi mộng, khi đăm chiêu suy nghĩ, khi ngẩn ngơ nhìn những lâu đài điện các, gác tía cung son, tháp nước, miếu đường, đại sảnh nguy nga .v..v… không biết bao nhiêu khu được xây dựng theo hàng lối ngay thẳng nếp na, với những công trình kiến trúc vĩ đại tráng lệ, thâm nghiêm hòa hợp bởi hai nền văn minh kiến trúc của Chiêm Thành và Aán Độ, tất cả đều xây dựng bằng gạch, được sơn phết đẹp mắt . Cả khu triều đình rộng lớn đồ sộ ấy đều được lát gạch Bát Tràng, trông nổi bật rực rỡ . Cũng trong khuôn viên triều đình, ngoài lầu son gác tía, còn có những hương liệu kỳ nam, trầm hương, những loài hoa quí như hoa lan, hoa Champa; chim ưng, chim yến, bạch tượng.v..v… cung tần, mỹ nữ, hoa gấm lụa là v.v.. đã nói lên một sức sống đầy thi vị trong một thế giới cung đình riêng biệt, thế thì tại sao có người dị nghị cho Chiêm Thành là man di ? Thật không trung thực chút nào, chỉ do đố kỵ tự tôn mà ra . Thảo nào Phụ Hoàng không ngớt lời khen ngợi đất nước Chiêm Thành. Đang khi với ý nghĩ miên man, Quốc Vương Chế Mân khẽ bảo với Huyền Trân: nàng và các nữ tỳ sẽ được các cung nữ Chiêm Thành đưa vào hậu cung nghỉ ngơi chờ ngày mai thiết triều để chính thức sắc phong Hoàng Hậu cho Công Chúa theo lời ta đã hứa với Thái Thượng Hoàng của Đại Việt tức thân phụ của nàng trước đây .
Tháng 06 năm Bính Ngọ (1306), Vua Trần Anh Tông cử Trạng Nguyên Mạc Đĩnh Chi, Ngự Sử Đoàn Nhữ Hải và Thượng Tướng Trần Khắc Chung cầm đầu phái đoàn Đại Việt gồm nhiều quan quân hộ tống để đưa tiễn cô dâu Huyền Trân về Chiêm Thành.
Từ thủ đô Thăng Long của Đại Việt ra đến bến sông Hồng Hà, quần chúng đứng đầy dọc hai bên thành lộ với cờ xí và biểu ngữ chúc mừng chúc tụng lên đường bình an dành cho công chúa thân yêu của Đại Việt xuôi về Nam để kết duyên cùng Vua Chiêm Thành để thực hiện lời giao ước của Vua cha là Thái Thượng Hoàng Trần Nhân Tông (quân vô hý ngôn).
Một công chúa tuổi vừa độ đôi mươi xinh đẹp, con nhà Vua chúa, học thức và đạo hạnh lại phải xa lìa tổ ấm gia đình tại cung đình, xa lìa quê hương yêu dấu, ngàn dặm ra đi, lênh đênh nghìn trùng sóng vỗ để làm dâu xứ lạ, lòng dạ nào lại không bịn rịn lúc ra đi .
Ngày xưa bên Trung Hoa, thời Hán Nguyên Đế có Vương Chiêu Quân có vẻ đẹp phi phàm trầm ngư (chìm đáy nước cá lờ đờ lặn) vương giả sang trọng. Trong ngày từ biệt Vua Hán Nguyên Đế ra đi làm Hoàng Hậu một xứ xa lạ ở nước Hung Nô, có thi nhân thời đó ở Trung Hoa làm thơ cảm thán:
Cô ơi cô đẹp nhất đời
Mà sao mệnh bạc thọ trời cũng thua
Một đi từ biệt cung Vua
Có về đâu nữa đất Hồ ngàn năm!
(Huyện Nẻ Nguyễn Thiện Kế)
Đối với Huyền Trân cũng vậy, tâm trạng nàng vô cùng ngổn ngang, vừa gạt lệ giã từ Phụ Hoàng và Mẫu Hậu, người thân, giã từ quê hương mẫu quốc đồng bào ruột thịt, vừa nao nao bồn chồn hướng về một khung trời hạnh phúc xa xôi mờ mịt chưa biết ra sao ? Những thế hệ về sau, có vài thi nhân đã cảm thông với nỗi niềm của kiếp hoa trôi dạt nên có những câu tự sự Nam Bình được dân Thuận Hóa hát theo điệu Chiêm Thành:
Nước non ngàn dặm ra đi
Mối tình chi
Mượn màu son phấn
Đền nợ Ô Ly
Đắng cay vì đương độ xuân thì …
(tác giả vô danh
Sau hồi trống giục, nàng phải bước chân xuống thuyền hoa với đoàn tùy tùng hộ tống của Đại Việt và sự hướng dẫn thủy lộ của đoàn Sứ Bộ Chiêm Thành; trong cờ xí phất phới tiễn đưa cũng có sự sụt sùi giữa kẻ đi người ở … Đoàn thuyền hoa rời bến sông Hồng để ra cửa biển xuôi về Nam.
Gió đông nam thổi nhẹ nhưng hoa sóng đại dương vẫn nở rì rào như tâm sự người đi xa, mặt biển trong xanh dưới bầu trời sáng chói của muà xuân ban ngày, và khi hoàng hôn bao trùm, cả mặt biển trở thành đen nghịt, chỉ có hàng vạn vì sao trên bầu trời lấp lánh như những hạt kim cương tô lên một bức họa ánh sáng thâm trầm. Lòng cô gái xuân thì trên đường vu qui rộn rã không biết bao nhiêu tâm sự …
Lời Phụ Hoàng, người cha già kính yêu đã căn dặn trước khi về Chiêm Quốc: những tháng ngày trước đây Phụ Hoàng đã viễn du xứ Chiêm Thành, đất nước họ đẹp đẽ, một dân tộc hiền lương có nền văn hóa riêng biệt rực rỡ . Chế Mân là một vị Vua biết yêu thương nòi giống, một anh hùng hào kiệt, lịch duyệt và nhân hậu, không phải là một hôn quân bạo chúa . Con hãy làm tròn bổn phận một sứ giả hoà bình, đem lại tình thân thiện giữa hai dân tộc Việt – Chiêm. Đối với Chế Mân sau này sẽ là phu quân của con, con phải biết đạo tam tòng tứ đức, phu xướng phụ tùy của người phụ nữ Á đông và phải xứng đáng là một “mẫu nghi thiên hạ” . Nghĩ đến lời Phụ Hoàng còn văng vẳng bên tai, lòng nàng se lại và ấm áp hơn rồi chìm dần trong giấc ngủ mơ hoa, bồng bềnh trên sóng nước đại dương trôi dần về Chiêm Quốc.
Trong khi đó ở Chiêm Quốc, Vua Chế Mân cử quan Ngự Sử Chế Bồ Đài cầm đầu một số quần thần, binh lính và toán Ngự Lâm Quân theo hộ giá nhà Vua để đón rước cô dâu Huyền Trân cùng phái đoàn Đại Việt tại hải cảng Pat-Thinưng (Thị Nại Bình Định ngày nay)
Sau những ngày lênh đênh trên biển cả mênh mông, đoàn thuyền hoa đưa tiễn Công Chúa Huyền Trân của Đại Việt đã vào đến lãnh hải Vijaya (Bình Định) và hướng dần vào cặp bến cảng Pat-Thinưng do sự hướng dẫn của đoàn Sứ Bộ Chiêm Thành.
Công Chúa Huyền Trân lòng dạ bồn chồn muốn sớm trông thấy mặt Vua Chế Mân, nhưng hơi lo âu vì nếu phu quân Chế Mân quá dị dạng như anh chàng Trương Chi thì làm sao đây hỡi Phụ Hoàng của con! Liệu con có làm nổi những lời khuyên của Phụ Hoàng kính yêu hay không ?
Đoàn thuyền hoa Đại Việt vừa cặp sát vào cầu bến cảng Pat-Thinưng thì đoàn quân binh, quần thần, toán ngự lâm quân, các nữ tỳ .v..v… cùng Vua Chế Mân đã có mặt ở bến cảng trước rồi .
Khi một Hòa Thượng trong phái đoàn Đại Việt cùng các vị quần thần như Trạng Nguyên Mạc Đĩnh Chi, Thượng Tướng Trần Khắc Chung, Ngự Sử Đoàn Nhữ Hải bước lên bờ cảng thì quần thần và Ngự Sử Chế Bồ Đài Chiêm Thành đã đón chào thân mật, trong khi đó Vua Chế Mân từ trên kiệu vàng rực rỡ bước ra, con người cao lớn, nước da sáng, mũi cao, tóc hơi gợn sóng phía trước, đôi mắt sáng ngời thoáng nét đa tình và dáng vẻ hào hoa phong nhã nhưng không kém phần uy dũng của một quân vương, ngang hông mang một thanh kiếm báu với vỏ kiếm bằng vàng, chuôi kiếm bằng ngà voi khảm ngọc . Đầu đội chiếc mũ bằng vàng cao hình trụ, trên đỉnh nhọn của mũ có gắn một viên ngọc tỏa ra ánh sáng với nhiều màu sắc khác nhau trông vừa đẹp mắt vừa uy nghi. Mình mặc áo lụa thượng hạng màu trắng, đường viền cổ áo, hai tay áo và song song với hai hàng nút đều bằng kim tuyến bằng vàng lấp lánh, và một đai vàng dát mỏng thắt ngang lưng, khoác ngoài một chiếc áo lông bào . Chân mang hia màu đen có thêu hình con chim Garuda màu đỏ …
Huyền Trân Công Chúa từ trong kiệu hoa, sau khi cô tỳ nữ nhẹ vén màng che trước kiệu hoa, nàng nhìn ra ngoài thấy Quốc Vương Chế Mân, đôi má nàng ửng hồng lên, ý nghĩ về Chiêm Quốc bây giờ không những để làm sứ giả hòa bình mà còn đến Chiêm Thành với lòng dạ băng trinh của một cô thanh nữ xuân thì vu qui về nhà chồng; nàng thầm cảm ơn Phụ Hoàng đã khéo chọn cho nàng một đấng phu quân xứng đáng để sửa túi nâng khăn. Huyền Trân nhẹ nhàng bước ra khỏi kiệu hoa, e ấp thẹn thùng, khép nép; nàng chắp hai tay trước ngực cuối mình quì phục xuống chào, Vua Chế Mân lật đật đến sát bên nàng đưa hai tay nhẹ nhàng đỡ nàng đứng dậy. Như hai luồng điện âm dương giao cảm; đôi bàn tay nhỏ bé thon thả xinh đẹp của nàng nhẹ nhàng như cánh bướm đậu trên nụ hoa thật ấm áp trong đôi lòng bàn tay của Quân Vương. Bằng một giọng êm đềm dịu vợi, Công Chúa Huyền Trân tâu: Xin đa tạ Thánh Thượng đã nhọc công đón tiếp bằng tiếng Champa (Triều đình Trần Anh Tông mời một người Chăm sống ở Đại Việt dạy tiếng Chăm cũng như phong tục và văn hóa Champa trước khi nàng lên đường về Chiêm Quốc). Vua Chế Mân đăm đăm nhìn nàng trong sự ngạc nhiên, không ngờ nàng ăn mặc y phục trang sức theo mỹ thuật Champa, lại nói được cả ngôn ngữ Champa. Rồi nhà Vua nở nụ cười và ân cần hỏi nàng có khỏe không, ta rất lo âu sóng nước trùng dương làm nàng mệt mỏi, ta xin lỗi nàng. Công Chúa Huyền Trân duyên dáng chắp tay cuối đầu khẽ tâu: nhờ hồng ân của Thánh Thượng, thần thiếp và tất cả mọi người trong đoàn thuyền hoa đều khỏe mạnh, chỉ có chút say sóng.Vua Chế Mân nhẹ nhàng dìu Huyền Trân lên kiệu vàng rực rỡ, những chiếc kiệu nhỏ hơn để dọc một hàng sau dành cho các đại diện triều thần Trần Anh Tông và các quần thần Champa; những thành phần nhỏ hơn đi ngựa lững thững theo sau, cùng với toán ngự lâm quân, binh lính hướng về thành Vijaya (thành Đồ Bàn). Con đường từ hải cảng Pat-Thinưng đến cửa thành Đồ Bàn dài khoảng 8 km. Hai bên đường là hai hàng dương liễu óng ả mượt mà xanh thẩm như đón chào cô dâu từ Đại Việt đến .
Đoàn rước dâu rời khỏi bến cảng Pat-Thinưng chẳng bao lâu, chỉ còn một dặm nữa đến thành Đồ Bàn. Hai bên đường tới đây không còn cây dương, chỉ có trồng hoa Vong, hoa Phượng, hoa Quỳ dọc hai bên đường trông rất được mắt. Quần chúng Champa đứng đón hai bên đường với áo quần đẹp đẽ, cờ xí phất phới, biểu ngữ giăng đầy, chiêng trống hòa lẫn với lời hô chào vang dậy chào đón cô dâu Đại Việt.
Thành Đồ Bàn rộng mênh mông, thành quách tráng lệ vây quanh. Bên ngoài thành Đồ Bàn, phía Tây của thành:
- Nơi ngựa hí chuông rền vang trong gió
(Chế Lan Viên)
Phía Nam thành:
Đây chiến thuyền nằm mơ trên sông lặng
Bầy voi thiêng trầm mặc dạo quanh thành
(Chế Lan Viên)
Khi Quốc Vương Chế Mân và hai phái đoàn đưa rước Công Chúa Huyền Trân vào trong khuôn viên cung đình, trước mắt Huyền Trân:
Đây điện các huy hoàng trong ánh nắng
Những đền đài tuyệt mỹ dưới trời xanh
(Chế Lan Viên)
Huyền Trân như lạc vào cõi mộng, khi đăm chiêu suy nghĩ, khi ngẩn ngơ nhìn những lâu đài điện các, gác tía cung son, tháp nước, miếu đường, đại sảnh nguy nga .v..v… không biết bao nhiêu khu được xây dựng theo hàng lối ngay thẳng nếp na, với những công trình kiến trúc vĩ đại tráng lệ, thâm nghiêm hòa hợp bởi hai nền văn minh kiến trúc của Chiêm Thành và Aán Độ, tất cả đều xây dựng bằng gạch, được sơn phết đẹp mắt . Cả khu triều đình rộng lớn đồ sộ ấy đều được lát gạch Bát Tràng, trông nổi bật rực rỡ . Cũng trong khuôn viên triều đình, ngoài lầu son gác tía, còn có những hương liệu kỳ nam, trầm hương, những loài hoa quí như hoa lan, hoa Champa; chim ưng, chim yến, bạch tượng.v..v… cung tần, mỹ nữ, hoa gấm lụa là v.v.. đã nói lên một sức sống đầy thi vị trong một thế giới cung đình riêng biệt, thế thì tại sao có người dị nghị cho Chiêm Thành là man di ? Thật không trung thực chút nào, chỉ do đố kỵ tự tôn mà ra . Thảo nào Phụ Hoàng không ngớt lời khen ngợi đất nước Chiêm Thành. Đang khi với ý nghĩ miên man, Quốc Vương Chế Mân khẽ bảo với Huyền Trân: nàng và các nữ tỳ sẽ được các cung nữ Chiêm Thành đưa vào hậu cung nghỉ ngơi chờ ngày mai thiết triều để chính thức sắc phong Hoàng Hậu cho Công Chúa theo lời ta đã hứa với Thái Thượng Hoàng của Đại Việt tức thân phụ của nàng trước đây .
LỄ PHONG TƯỚC HUYỀN TRÂN CÔNG CHÚA - HOÀNG HẬU PARMECVARI CỦA CHIÊM THÀNH
Lễ phong tước Hoàng Hậu cho Công Chúa Huyền Trân được tổ chức trọng thể . Tất cả các vị lãnh chúa từ các lãnh địa Amaravati, Vijaya, Kâuthara, và Panduranga đều có
mặt từ hôm trước như đã dự định. Các bậc tăng lữ, các quần thần văn võ đều tề tựu đông đủ . Các quan Phủ quan Huyện và các đoàn thể quần chúng quanh vùng thành Đồ Bàn đều có mặt trong triều đình để làm cho lễ phong tước được long trọng .
Công Chúa Huyền Trân được các tỳ nữ Chiêm Thành và viên quan đặc trách lễ tấn phong hướng dẫn Công Chúa vào đại sảnh sau khi phái đoàn Đại Việt đã đến trước và ngồi vào vị trí ấn định sẵn .
Vua Chế Mân từ trong nội cung bước ra với dáng vẻ uy nghi, đường bệ pha lẫn với phong cách hào hoa phong nhã của một Quốc Vương văn võ song toàn. Tất cả mọi người trong đại sảnh thiết triều đều quì phục xuống nghênh chào bệ hạ . Vua Chế Mân vội vã bước đến hai tay nhẹ nhàng đỡ lấy Công Chúa Huyền Trân đứng dậy và dìu nàng ngồi vào chiếc bành kỷ dát vàng bọc quanh viền bên cạnh chiếc ngai vàng khảm ngọc dành cho Hoàng đế . Ngài truyền cho mọi người bình thân. Sau đó Quốc Vương Chế Mân long trọng tuyên bố : “Trong không gian đại sảnh của cung đình Champa, hôm nay, tại thời khắc vàng son của lịch sử này, Công Chúa Huyền Trân chính thức là phu nhân của Trẫm, ta phong tước Hoàng Hậu cho nàng với tước hiệu là Hoàng Hậu Paramecvari của Champa . Hoàng Hậu Paramecvari là mẫu nghi thiên hạ và cũng là nàng dâu của dân tộc và đất nước Champa . Những tràng pháo tay tung hô vang dội cả cung đình . Quốc Vương Chế Mân chỉ thị cho viện Hàn Lâm phụng chỉ viết tờ Chiếu để nhà Vua ban hành bố cáo cho thần dân toàn quốc Champa để tri tường .
Sau đó đại diện triều đình Đại Việt lên chúc mừng Hoàng đế Chế Mân và Hoàng Hậu Paramecvari được an khang trường thọ để chăn giữ muôn dân Champa và đem lại sự hòa thân đoàn kết giữa hai dân tộc Việt – Chiêm, cùng kiến tạo hòa bình, cùng tồn tại trước mọi mưu đồ xâm lăng từ nước khổng lồ phương bắc .
Đến khi hoàng hôn vừa bao phủ vạn vật, không gian và vũ trụ chìm trong ánh sáng của trăng sao huyền hoặc; nơi cung đình Champa hoa đăng nở rộ sáng trưng khắp nội thành Vijaya . Vua Chế Mân và Hoàng Hậu Paramecvari đôi trai tài gái sắc hàng đầu của dân tộc Champa đã mở dạ tiệc linh đình để mừng Tân lang và Tân giai nhân và mừng tước vị Tân Hoàng Hậu Paramecvari của Champa. Với Công Chúa Huyền Trân, trước khi từ giã quê hương Đại Việt lên đường về Chiêm Quốc đã được triều đình Đại Việt chuẩn bị hành trang chu đáo cho nàng về việc hội nhập văn hóa Champa; từ ngôn ngữ, ăn mặc phục sức, văn hóa nghệ thuật. Do đó nàng phục sức theo cung cách Chiêm Thành, sử dụng ngôn ngữ Chiêm Thành và đã biết rành rẽ những vũ khúc cung đình nơi điện ngọc cung vàng của triều đình Champa .
Đ
Lễ phong tước Hoàng Hậu cho Công Chúa Huyền Trân được tổ chức trọng thể . Tất cả các vị lãnh chúa từ các lãnh địa Amaravati, Vijaya, Kâuthara, và Panduranga đều có
mặt từ hôm trước như đã dự định. Các bậc tăng lữ, các quần thần văn võ đều tề tựu đông đủ . Các quan Phủ quan Huyện và các đoàn thể quần chúng quanh vùng thành Đồ Bàn đều có mặt trong triều đình để làm cho lễ phong tước được long trọng .
Công Chúa Huyền Trân được các tỳ nữ Chiêm Thành và viên quan đặc trách lễ tấn phong hướng dẫn Công Chúa vào đại sảnh sau khi phái đoàn Đại Việt đã đến trước và ngồi vào vị trí ấn định sẵn .
Vua Chế Mân từ trong nội cung bước ra với dáng vẻ uy nghi, đường bệ pha lẫn với phong cách hào hoa phong nhã của một Quốc Vương văn võ song toàn. Tất cả mọi người trong đại sảnh thiết triều đều quì phục xuống nghênh chào bệ hạ . Vua Chế Mân vội vã bước đến hai tay nhẹ nhàng đỡ lấy Công Chúa Huyền Trân đứng dậy và dìu nàng ngồi vào chiếc bành kỷ dát vàng bọc quanh viền bên cạnh chiếc ngai vàng khảm ngọc dành cho Hoàng đế . Ngài truyền cho mọi người bình thân. Sau đó Quốc Vương Chế Mân long trọng tuyên bố : “Trong không gian đại sảnh của cung đình Champa, hôm nay, tại thời khắc vàng son của lịch sử này, Công Chúa Huyền Trân chính thức là phu nhân của Trẫm, ta phong tước Hoàng Hậu cho nàng với tước hiệu là Hoàng Hậu Paramecvari của Champa . Hoàng Hậu Paramecvari là mẫu nghi thiên hạ và cũng là nàng dâu của dân tộc và đất nước Champa . Những tràng pháo tay tung hô vang dội cả cung đình . Quốc Vương Chế Mân chỉ thị cho viện Hàn Lâm phụng chỉ viết tờ Chiếu để nhà Vua ban hành bố cáo cho thần dân toàn quốc Champa để tri tường .
Sau đó đại diện triều đình Đại Việt lên chúc mừng Hoàng đế Chế Mân và Hoàng Hậu Paramecvari được an khang trường thọ để chăn giữ muôn dân Champa và đem lại sự hòa thân đoàn kết giữa hai dân tộc Việt – Chiêm, cùng kiến tạo hòa bình, cùng tồn tại trước mọi mưu đồ xâm lăng từ nước khổng lồ phương bắc .
Đến khi hoàng hôn vừa bao phủ vạn vật, không gian và vũ trụ chìm trong ánh sáng của trăng sao huyền hoặc; nơi cung đình Champa hoa đăng nở rộ sáng trưng khắp nội thành Vijaya . Vua Chế Mân và Hoàng Hậu Paramecvari đôi trai tài gái sắc hàng đầu của dân tộc Champa đã mở dạ tiệc linh đình để mừng Tân lang và Tân giai nhân và mừng tước vị Tân Hoàng Hậu Paramecvari của Champa. Với Công Chúa Huyền Trân, trước khi từ giã quê hương Đại Việt lên đường về Chiêm Quốc đã được triều đình Đại Việt chuẩn bị hành trang chu đáo cho nàng về việc hội nhập văn hóa Champa; từ ngôn ngữ, ăn mặc phục sức, văn hóa nghệ thuật. Do đó nàng phục sức theo cung cách Chiêm Thành, sử dụng ngôn ngữ Chiêm Thành và đã biết rành rẽ những vũ khúc cung đình nơi điện ngọc cung vàng của triều đình Champa .
Đ
Posted in: Lịch sử Champa