Khánh Sơn
On June 3, 2012
6 views
  • Yahoo
  • Google
  • Live
  • Live
Viện bảo tàng tự nhiên của vương Quốc Champa tại Bình Định

Hiện có 14 công trình kiến trúc tập trung tại 8 địa danh như: Bánh Ít; Dương Long; Hưng Thạnh; Cánh Tiên; Phú Lốc; Phú Thiện; Bình Lâm và Hòn Chuông. Ngoài ra còn có 4 tòa thành cổ gồm Thị Nại, Đồ Bàn, Nhơn Thành, Uất Trì và hàng loạt các tác phẩm điêu khắc, những phế tích của tháp Champa như giếng cổ hình vuông; rắn Naga; trụ văn bia; tượng thần điểu Garuda; phù điêu Lăng Ông; tượng tu sĩ; khu mộ cổ,đều được phát hiện tại Bình Định. Trong tất cả các cổ vật phát hiện được, đáng chú ý là di vật tượng tu sĩ ở chùa Linh Sơn, thuộc thôn Hải Giang, xã Nhơn Hải, Tp. Quy Nhơn. Những cư dân ở đây trong lúc đang canh tác đã phát hiện bức tượng chôn sâu dưới lòng đất và đã đào lên đem hiến cho chùa. Dân địa phương gọi là chùa “Phật lồi”. Ở Quy Nhơn hiện vẫn còn dấu vết các lăng mộ cổ của người Champa tại xã đảo Nhơn Châu. Lịch sử Champa từ thời hoàng kim đến lúc suy vong đã trải dài trên 2000 năm đã lưu lại cho hậu thế hàng chục ngôi cổ tháp với những kiểu kiến trúc, chạm trỗ độc đáo, bí hiểm.Ở khu vực duyên hải miền Trg hiện có trên 19 khu tháp với hơn 40 ngôi thấp cổ lớn nhỏ.Huyền thoại về con tàu chở kho báu Champa??? Ch. Lemire đã mô tả các tháp cổ Champa được phân bố ở tỉnh Bình Định trong tác phẩm “Les Tours Kiames de la Province de Binh Dinh” (Sài Gòn 1980) như sau: “Trong các tháp có các tượng, rất có thể chúng bằng vàng hoặc bằng bạc, có mắt bằng ngọc và răng bằng kim cương. Chúng đã bị lấy mất ngay từ đầu. Những tượng bằng đá có thể bị lấy đi ngay sau đó. Người ta đã đào các bức tượng để bóc gỡ các tranh thánh đã được gắn vào đó. Các tháp Bạc (người Việt Nam quen gọi là tháp Bánh Ít) phô bày hàng loạt công trình đáng lưu ý, phần lớn các tượng đều bằng vàng hoặc bằng đá thếp vàng. Tượng cuối cùng che vòm đã được mang sang Pháp năm 1886. Gần 80 tấn đá chạm được dành cho Bảo tàng Lyon đã được tàu Mêkông chuyển về Pháp dưới sự coi sóc của Tiến sĩ Maurice. Tàu Mêkông bị đắm ở Hồng Hải và những người Somalis tưởng rằng đã tìm thấy kho báu nên đã đem vào bờ một số lớn những hòm nặng này, nhưng họ chỉ tìm thấy đá và đá…”Bức màn bí mật bao quanh số phận của con tàu Mêkông đã thách đố các nhà khoa học, giới săn lùng cổ vật và cả những kẻ hiếu kỳ hơn 100 năm. Trong số những người tìm cách sở hữu kho báu trên tàu Mêkông có giáo sư Robert Stenout (Pháp) và sau hơn 30 năm mày mò nghiên cứu ở hàng trăm thư viện, sở lưu trữ văn khố, các hải cảng, nhiều hãng tàu biển… Đến tháng 10.1995, R.Stenout đã khoanh vùng một cách chính xác vị trí mà tàu Mêkông bị đắm tại mũi Guadaqui ở biển Hồng Hải. Theo R.Stenout, Mêkông là một con tàu lớn được thiết kế với hai chức năng chở khách và chở hàng nhưng điều này không làm ảnh hưởng đến sự thanh nhã của nó. Những năm đầu thế kỷ, do còn hạn chế về kỹ thuật, hành trình Đông Dương-Pháp là một hành trình dài, mất nhiều ngày, nên Mêkông được xây dựng, bài trí hoàn hảo, sang trọng và nguy nga như một cung điện di động trên mặt biển. Chuyến tàu viễn dương định mệnh của tàu Mêkông vào năm 1906 chở theo 180 sĩ quan thủy thủ, 66 hành khách cùng với rất nhiều tấn cổ vật bằng và và một khoang bí mật chứa đầy hàng mà theo khảo sát ban đầu của đội thợ lặn thuộc tàu Scorpio do thuyền trưởng Campell chỉ huy (tàu Scorpio là con tàu mà Stenout sử dụng trong cuộc khai quật của mình) thì hàng trăm nghìn thoi vàng có trong khoang hàng bí mật này như huyền thoại về Mêkông đã lan truyền là có thật.Tuy nhiên, chỉ vài ngày sau khi định vị được tàu Mêkông và kho báu bí mật thì nước có chủ quyền trên vùng lãnh hải mà tàu Mêkông bị đắm đã xảy ra một cuộc nội chiến khốc liệt, việc thu hồi kho báu trên tàu Mêkông đành dừng lại…kho báu mà tàu Mêkông có n/v đưa về Pháp chủ yếu được thu gom trên khu vực Vijaya từ Q.Nam đến B.Thuận và chắc chắn đây chưa phải là kho báu duy nhất của Champa.Tháp Champa được trang trí bằng vàng ròng:Theo một truyền thuyết thì trên chóp đỉnh của Tháp Đôi, cụm tháp gồm hai chiếc nằm ở TP. Quy nhơn có 2 quả cầu lớn làm bằng vàng ròng. Cả hai khối vàng này đã bị các thủy thủ người da trắng của một chiếc tàu châu Âu đến cướp đoạt và mang xuống tàu sau một cuộc tấn công chớp nhoáng. Người Champa cổ không quá đề cao giá trị của vàng và sử dụng chúng với khối lượng lớn một cách khá phổ biến trong các công trình kiến trúc đền tháp của mình. Có thể lý giải rằng đó là do dân tộc này được tạo hóa ưu đãi quyền sở hữu nhiều mỏ vàng có trữ lượng phong phú. Vàng được đem đi đúc tượng thần để thờ, đúc phù điêu và dát lên các tượng thờ để trang trí… Truyền thuyết cũng cho biết rằng người Champa sau khi dựng tượng vàng ở các đền tháp thường quét lên thân tượng một lớp sơn đặc chế. Kho báu Champa được nhắc đến từ khá lâu bởi các nhà khoa học Pháp. Kho báu cuối cùng, nơi lưu giữ những gì còn lại của Vương triều Champa đã được đề cập trong tác phẩm Un Royaume Disparu – Les Chams et Leur Art-1923 (Pháp). Sự giàu có đầy bí ẩn của Vương quốc Champa có thể đúng như các công trình nghiên cứu khoa học đã công bố. Nhưng ngay cả khi sự thật không phải là như thế thì với việc thừa hưởng 14 quần thể tháp Champa cổ còn lại đến nay, có thể khẳng định rằng – Bình Định đang sở hữu một phần kho báu của nhân loại. Ngàn năm còn một chút này…Ở Tp. Quy Nhơn có 2 ngọn tháp đứng kề nhau, dân gian gọi là Tháp Đôi. Các tư liệu xưa còn ghi chép Tháp Đôi là tháp Hưng Thạnh. Vào ngày 10.7.1980, Tháp Đôi được nhà nước xếp hạng vào danh mục những di tích lịch sử-văn hóa quốc gia. Tháp Đôi được tiến hành trùng tu đầu tiên ở Bình Định và được các nhà nghiên cứu xếp vào loại di sản độc đáo của nghệ thuật kiến trúc Champa. So với các ngọn tháp khác trong tỉnh, trong vùng Tháp Đôi không hề giống bất kỳ một ngôi tháp cổ nào hiện có. Thế nhưng các nhà khoa học đến nay vẫn chưa tìm ra lý do khác thường nầy.

Tháp Đôi xây dựng vào khoảng cuối thế XII.Cùng với di tích Tháp Đôi, chúng ta ngược lên vùng “Tây Sơn hạ đạo”, để chiêm ngưỡng cụm tháp Dương Long.
Ngày xưa người Pháp gọi đây là “Tháp Ngà”, dân địa phương thì gọi là tháp An Chánh. Tháp Dương Long có 3 tòa tháp cổ với chiều cao từ 29 đến 36 mét. Các hệ thống cửa giả phần lớn đã bị sụp đổ, hư hỏng. Tuy vậy nhìn vào các tác phẩm điêu khắc còn sót lại giúp ta liên tưởng đến những nghệ nhân Champa đã từng dày công sáng tạo một nền văn hóa độc đáo. Nhiều nhà nghiên cứu hiện nay đã xác định niên đại của tháp vào khoảng nửa sau thế kỷ 12. Đây là cụm di tích thứ 2 được Bộ văn hóa xếp hạng cùng lúc với Tháp Đôi Quy Nhơn. Sau hai cụm Tháp Đôi và tháp Dương Long, là tháp “Cánh Tiên” và tháp “Bánh Ít”. Tháp Cánh Tiên được người Champa xây dựng ngay ở trung tâm thành Đồ Bàn, nay thuộc địa phận xã Nhơn Hậu, h.An Nhơn, tỉnh Bình Định
.
Được biết vào tháng 11.2004 vừa qua, tháp Cánh Tiên đang được Chính phủ CHLB Đức tài trợ 100.000 Euro để trùng tu, khôi phục. Theo tài liệu của người Pháp thì tháp Cánh Tiên còn được gọi là “Tháp Đồng”, nhưng vì sao có tên gọi nầy thì vẫn chưa xác định được nguồn gốc. Tháp cao khoảng 20 mét, trông xa giống như đôi cánh của nàng tiên trong chuyện cổ tích đang bay lên trời xanh. Khác với các tháp Champa khác, tháp Cánh Tiên được xây dựng một phần bằng chất liệu đá sa thạch, xung quanh có nhiều phù điêu chạm khắc tạo cho ngôi cổ tháp một dáng vẻ độc đáo.Khác với “Cánh Tiên”, cụm tháp“Bánh Ít” có đến 4 tòa tháp lớn nhỏ khác nhau. Gọi là tháp

Bánh Ít bởi vì khi đứng xa trông cụm tháp giống như những chiếc bánh ít lá gai-một sản vật thường thấy trong các dịp cúng lễ, giỗ chạp ở miền Trung. Người Pháp gọi đây là “Tháp Bạc”. Tất cả đều nằm trên một đỉnh đồi thuộc địa phận xã Phước Hiệp, huyện Tuy Phước, cách TP. Quy Nhơn khoảng 20 km. Bốn ngôi cổ tháp đều có các tượng thờ, hình vũ nữ đang múa, hình voi, hình các vị thần linh. Kiểu trang trí làm cho ta có cảm giác như đang lạc vào thế giới thần bí của người Champa cổ xưa. Cũng tại Bình Định còn có tháp Bình Lâm nằm ở xã Phước Hòa (Tuy Phước).

Người dân ở đây kể lại rằng: thôn Bình Lâm là nơi có những cư dân người Việt lần đầu tiên đến đây khai phá mở mang vùng đất phì nhiêu này. Trong hệ thống tháp Champa Bình Định, thì tháp Bình Lâm là nhóm tháp cổ có niên đại sớm nhất.Một cụm di tích khác có tên là tháp Thủ Thiện, còn gọi là “Tháp Đồng” hiện đang tồn tại ở xã Bình

Nghi (Tây Sơn) nằm bên Quốc lộ 19. Năm 1995 ngọn tháp nói trên được xếp hạng di tích Nhà nước. Tuy vậy, cũng giống như các cụm di tích tháp Champa khác ở Bình Định, ngọn tháp Thủ Thiện hiện đang bị đổ nát nghiêm trọng. Nhiều di tích, cấu trúc của ngọn tháp đã bị thời gian và con người phá hủy. Di tích cuối cùng được xếp hạng cùng lúc với tháp Thủ Thiện là tháp Phú Lốc
.
Người Pháp đặt tên là “Tháp Vàng”. “Phú Lốc” nằm giáp giới giữa 2 huyện An Nhơn và Tuy Phước. Tháp nằm trên đỉnh một quả đồi cao 76 mét so với mực nước biển. Ngọn tháp đã bị đổ nát khá nhiều, tuy vậy nhìn một cách tổng quát vẫn thấy được dáng vẻ bề thế, uy nghi của một công trình kiến trúc cổ. Ngoài 7 cụm tháp ở Bình Định đã được Nhà nước xếp hạng, hiện nay vẫn còn một số di tích tháp cổ khác chỉ còn chân đế, hoặc đã bị sụp đổ do người dân đào bới tìm vàng, trong đó có tháp “Hòn Chuông” ở huyện Phù Cát. Ngôi tháp này cùng nhiều tháp Champa khác đang chờ Nhà nước trùng tu.Có thể nói rằng, 8 cụm tháp với tổng số 14 tòa tháp cổ còn lại trên đất Bình Định được xem như một loại tài sản vô giá mà lịch sử đã ban tặng cho miền Trung nước ta.
Trên vùng biển Nhơn Hải thuộc TP Quy Nhơn, Bình Định ngày nay hiện vẫn còn một bờ thành chìm dưới lòng biển. Bờ thành nối hai bờ vách núi, chính giữa có chừa khoảng trống cho thuyền vào ra. Bờ thành này chỉ nhìn thấy khi thủy triều xuống, còn khá nguyên vẹn và chắc chắn. Bề mặt bờ thành phẳng, chưa xác định được độ cao. Về vật liệu, bờ thành không xây bằng đá hoặc gạch truyền thống mà là bằng hồ vữa. Điều chưa lý giải được là làm thế nào trong môi trường nước biển, mà người Champa lại xây dựng được một bờ thành như vậy. Thật là một kỳ tích!Thi Nại (hay Thị Nại) trên vùng biển Quy Nhơn (Bình Định) xuất hiện từ thế kỷ 10 đến thế kỷ 15, cách nay gần 1.000 năm dưới Vương triều Vijaya. Tại đây, người Champa đã hình thành nên một thương cảng khá sầm uất. Một tòa thành trong lịch sử có vai trò to lớn trong việc giao thương giữa Champa với bên ngoài. Thi Nại vừa là quân cảng (phòng thủ về quân sự), vừa là thương cảng (trao đổi thương mại).Thương cảng Thi Nại có một vị trí xứng đáng dưới Vương triều Vijaya, chính vì vậy người xưa đã cho xây dựng thương cảng khá quy mô, tàu buôn các nước trong khu vực đã đến cảng này để trao đổi buôn bán với Champa, và hàng hóa Champa cũng từ cảng này xuất đi trao đổi với các nước trong khu vực.Tư liệu về những con tàu đắm tìm thấy tại các vùng biển Pandanan, Bornéo ở Philippines đã chứng minh điều đó. Đã trên 1.000 năm, dấu vết về thương cảng cổ được ghi chép trong lịch sử vẫn chưa tìm thấy.Gần thành thị nại này, còn lại một bia đá. Giống như bia Thanh Sơn (Hoài Châu, Hoài Nhơn) được người Pháp kiểm kê năm 1932, bia Hải Giang cũng được khắc trên một tảng đá tự nhiên nằm sát bờ biển, chân sườn núi đâm ngang ra biển giữa thôn Hải Giang và thôn Hải Nam, xã Nhơn Hải thuộc bán đảo Phương Mai, TP Quy Nhơn.


Hòn đá chữ hang Bà Dăng.

Bán đảo Phương Mai là một hệ thống núi đá trùng điệp, phía Đông và Nam là biển, phía tây tiếp giáp đầm Thị Nại, phía Bắc nối liền với huyện Phù Cát bởi dãy cồn cát kéo dài 5km. Nơi đây, từng chứng kiến nhiều biến cố lịch sử qua các thời đại từ Champa đến Đại Việt. Thời Lý (1010-1225) có sự kiện Uy Minh Vương - Lý Nhật Quang đem quân vào giúp vua Chiêm dẹp loạn đóng quân ở Tam Tòa, chân núi phía Tây - Nam bán đảo Phương Mai. Để tưởng nhớ công lao Uy Minh Vương, vua Chiêm đã cho xây dựng đền Tam Tòa để thờ ông. Khi vua Lê Thánh Tông đem quân vào đánh Chiêm, đến đây cầu đảo đã phong cho Uy Minh Vương – Lý Nhật Quang là “Tam Tòa Sơn Thần”, các triều đại sau đều có sắc phong tặng. Hiện nay dấu tích vẫn còn.
Trong nhiều năm gần qua, trên khu vực Hải Giang đã phát hiện một số di tích văn hóa Champa. Đáng chú ý là tượng “Phật Lồi” (tượng Bồ Tát) được nhân dân phát hiện chôn dưới chân đồi, đưa lên lập chùa thờ tự. Ngoài ra, còn một số di tích văn hóa Champa khác như Gò Luôn, Ụ Đầm Bé, gò Giếng Hời… tìm thấy rất nhiều gạch đá và bình hũ sành.
Bia Hải Giang là một khối đá lớn nhô ra biển, cao khoảng 5m, dài hơn 10m, tạo một hang đá nhỏ, tục danh là hang Bà Dăng. Theo các cụ già nơi đây cho biết: Dân làng phát hiện xác Bà Dăng nằm chết ở hang đá này, nên lấy tên bà đặt cho tên hang đá. Và gọi bia là “Hòn Đá Chữ” hang Bà Dăng. Nội dung bia được khắc trên đỉnh của vách đá, chiều dài khoảng 5m và chia làm hai phần riêng biệt, bởi mặt vách đá hai bên lệch nhau 50cm. Một bên có chiều rộng 60cm, khắc 3 hàng chữ; một bên rộng 80cm khắc 4 hàng chữ, cao 10cm, nét chữ khắc vuông. Nhận định ban đầu: Bia Hải Giang khắc kiểu chữ Champa cổ thuộc giai đoạn muộn cùng thời với hai bia khắc trên đá tự nhiên khác là bia Cà Xơm (huyện Vĩnh Thạnh) và bia Thanh Sơn (huyện Hoài Nhơn), khoảng thế kỷ XIII - XIV.
Bia nằm sát bờ biển, mùa mưa bão sóng vỗ mặt bia nên chữ không còn sắc nét. Gần đây, có một số người đến khu vực “Hòn Đá Chữ” hang Bà Dăng đào xới tìm vàng và dùng hồ xi măng bôi lên mặt bia làm cho nét chữ càng mờ. Sau khi phát hiện, tấm bia này đang được cán bộ ngành bảo tồn bảo tàng bình định tiếp tục nghiên cứu. Những bí ẩn về tháp Champa mặc dù đã được tìm hiểu nghiên cứu từ cả chục năm nay, tuy vậy cũng chỉ là những nghiên cứu bên ngoài. Chúng ta tin rằng còn khá nhiều điều kỳ lạ, nhiều huyền thoại lý thú cần làm sáng tỏ
Thanh Trà
Dimension: 275 x 183
File Size: 17.31 Kb
Be the first person to like this.